Hoa sữa
Tuổi 15 em lớn từng ngày
Một buổi sáng em bỗng thành thiếu nữ
Hôm ấy mùa thu anh vẫn nhớ
Hoa sữa thơm ngây ngất ven hồ
Tình yêu đầu mang hương sắc mùa thu
Mùi hoa sữa tan trong áo em và mái tóc
Tình yêu đầu tưởng không gì chia cắt
Vậy mà tan trong sương khói mong manh
Tại vầng trăng? Tại anh? Hay tại em?
Tại đông sang không còn hương hoa sữa?
Tại siêu hình? Tại gi?... Không biết nữa...
Tại con bướm vàng có cánh nó bay....
Đau khổ thay nhưng cũnh éo le thay
Nhưng không phải thời Romeo và Ruliet
Nên chẳng đứa nào dám chết
Đành lòng thôi...mỗi đứa một phương...
Chỉ mùa thu còn trọn vẹn yêu thương
Hương hoa sữa cứ trở về mỗi độ
Hương của tình yêu đầu nhắc nhủ
Có hai người... xưa đã... yêu nhau...
Mùa hoa sữa 2009
Tìm kiếm Blog này
Thứ Sáu, 15 tháng 10, 2010
Chiều Hồ Dzếnh
Chiều
Hồ Dzếnh
Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong mây.
Chim rừng quên cất cánh
Gió say tình ngây ngây
Có phải sầu vạn cổ
Chất trong hồn chiều nay?
Tôi là người lữ khách
Màu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ hồn mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây...
_____________________________
Hồ Dzếnh
Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong mây.
Chim rừng quên cất cánh
Gió say tình ngây ngây
Có phải sầu vạn cổ
Chất trong hồn chiều nay?
Tôi là người lữ khách
Màu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ hồn mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây...
_____________________________
Không phải tơ trời, không phải sương mai ĐỖ TRUNG QUÂN
Không phải tơ trời, không phải sương mai
Mong manh nhất không phải là tơ trời
Không phải nụ hồng
Không phải sương mai
Không phải là cơn mơ vừa chập chờn đã thức
Anh đã biết một điều mong manh nhất
Là tình yêu
Là tình yêu đấy em!
Tình yêu,
Vừa buổi sáng nắng lên,
Đã u ám cơn mưa chiều dữ dội
Ta vừa chạy tìm nhau...
Em vừa ập vào anh...
... Như cơn giông ập tới
Đã như sóng xô bờ, sóng lại ngược ra khơi.
Không phải đâu em - không phải tơ trời
Không phải mây hoàng hôn
Chợt hồng ... chợt tím ...
Ta cầm tình yêu như đứa trẻ cầm chiếc cốc pha lê
Khẽ vụng dại là... thế thôi ... tan biến
Anh cầu mong - không phải bây giờ
Mà khi tóc đã hoa râm
Khi mái đầu đã bạc
Khi ta đã đi qua những giông - bão - biển - bờ
Còn thấy tựa bên vai mình
Một tình yêu không thất lạc ...
ĐỖ TRUNG QUÂN
Mong manh nhất không phải là tơ trời
Không phải nụ hồng
Không phải sương mai
Không phải là cơn mơ vừa chập chờn đã thức
Anh đã biết một điều mong manh nhất
Là tình yêu
Là tình yêu đấy em!
Tình yêu,
Vừa buổi sáng nắng lên,
Đã u ám cơn mưa chiều dữ dội
Ta vừa chạy tìm nhau...
Em vừa ập vào anh...
... Như cơn giông ập tới
Đã như sóng xô bờ, sóng lại ngược ra khơi.
Không phải đâu em - không phải tơ trời
Không phải mây hoàng hôn
Chợt hồng ... chợt tím ...
Ta cầm tình yêu như đứa trẻ cầm chiếc cốc pha lê
Khẽ vụng dại là... thế thôi ... tan biến
Anh cầu mong - không phải bây giờ
Mà khi tóc đã hoa râm
Khi mái đầu đã bạc
Khi ta đã đi qua những giông - bão - biển - bờ
Còn thấy tựa bên vai mình
Một tình yêu không thất lạc ...
ĐỖ TRUNG QUÂN
Thơ Tình Yêu (p3)
NÓI CÙNG ANH-Xuân Quỳnh
Em vẫn biết đấy là điều đã cũ
Chuyện tình yêu, quan trọng gì đâu
Sự gắn bó giữa hai người xa lạ
Nỗi vui buồn đêm chia sẻ cùng nhau.
Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn
Hôm nay yêu, mai có thể xa rồi
Niềm đau đớn tưởng như vô tận
Bỗng có ngày thay thế một niềm vui
Điều hôm nay ta nói, ngày mai
Người khác lại nói lời yêu thuở trước
Đời sống chẳng vô cùng, em biết
Và câu thơ đâu còn mãi ngày sau
Chẳng có gì quan trọng lắm đâu
Như không khí, như màu xanh lá cỏ
Nhiều đến mức tưởng như chẳng có
Trước cuộc đời rộng lớn mênh mang
Nhưng lúc này anh ở bên em
Niềm vui sướng trong ta là có thật
Như chiếc áo trên tường, như trang sách
Như chùm hoa mở cánh trước hiên nhà
Em hiểu rằng mỗi lúc đi xa
Tình anh đối với em là xứ sở
Là bóng rợp trên con đường nắng lửa
Trái cây thơm trên miền đất khô cằn
Đó tình yêu em muốn nói cùng anh
Nguồn gốc của muôn ngàn khát vọng
Lòng tốt để duy trì sự sống
Cho con người thực sự người hơn.
_____________________________
NHỚ ANH
Anh đã đi rồi mùa hạ héo trên cây
Rắc sắc nhớ cuối mùa còn sót lại
Nắng úa xiên ngang qua một thời bé dại
Vạt áo nào che kín được tình chung .
Còn chút gì để nói nữa không
Cái nông nổi của một thời khờ khạo
Cùng nhau đi trong một đêm giông bão
Thôi ngủ đi nào đêm nhé thôi ngủ đi .
_____________________________
TÌM TRONG PHỐ CŨ
Lại về Hà Nội nhé anh
Phố xưa em vẫn để dành lối đi
Trách nhau lẫn nữa làm chi
Hoa tầm xuân có còn gì nữa đâu
Hạ Hồi đã hết hàng dâu
Quang Trung hương sữa mái đầu ngả sương
Cách nhau chỉ một đoạn đường
Ai hay xa cách đôi phương thế này.
_____________________________
TÂM CẢM
Em không đến lúc anh đang quá vui
Bởi giây phút ấy anh là người hào phóng
Anh có thể cho em niềm hạnh phúc
Để rồi làm đau nhói trái tim em
Lúc anh buồn em chũng chẳng đến đâu
Bởi em biết anh chỉ nhìn em im lặng
Và có thể khi con tim hoang vắng
Anh sẽ gục ngã vì em
Lúc cô đơn anh hãy tự đứng lên
Em chẳng đến khi anh đang thất vọng
Để bưóc chân em không lạc vào ảo mộng
Giữa một trời hạnh phúc là anh
Cái hạnh phúc em biết rất mong manh
Có thể có rồi mất trong phút chốc
Anh và em vẫn là hai khoảng trời xa lắc
Thì đến làm gì,em sẽ để anh yên
Nhưng có một ngày em sẽ đến anh ơi
Ngày chẳng có nắng mưa dù dòng đời thay đổi
Em hoá mình vào câu thơ tầm gửi
Trắng tay rồi em sẽ đến cùng anh .
HỜ HỮNG.
Hai đứa gặp nhau mặt làm ngơ
Không thương không nhớ,chẳng mong chờ
Trời ơi khi đóng vai hờ hững
Tan nát lòng anh - em biết không.
Thứ bảy lòng tôi chợt thấy buồn
Trái tim vò xé nỗi cô đơn
Em đang vui sướng nơi nào nhỉ
Có biết nơi đây - một kẻ buồn....
Ai mua tôi bán mảnh tim rơi
Tim ấy đau thương, rạn nứt rồi
Chính cái bàn tay hiền dịu ấy
Lạnh lùng vò xé trái tim tôi...!
_____________________________
NH _ EM.
Anh hãy là ngọn gió
Để em là mây trôi
Anh hãy là ngọn gió
Mang em theo suốt đời.
Anh cứ là đồng xanh
Cho em thân cỏ dại
Cho đời còn tươi mãi
Đông đừng màu tím tái.
Anh muốn làm biển khơi?
Không! Em không làm sóng!
Sóng dữ dằn sôi động
Em anh vốn dịu dàng.
Dòng sông nhỏ mơ màng
Là linh hồn em đó
Anh là đôi bờ nhỏ
Chở che em tháng ngày.
Dù anh có là ai...
Em là ai, chăng nữa
Em và anh, hai nữa...
Tìm kiếm nhau suốt đời!
ĐÊM.
Đêm, nghe gì không đêm?
Em, nghe gì không em?
Không gian chìm mênh mang.
Trong êm đềm mơ hoang.
Đêm đi từ nơi nao?
Anh đến từ phương nào?
Đêm nay chừng dài lắm.
Bao giờ mình gặp nhau?
Ngoài kia ngôi sao đêm
Cứ nhấp nháy liên hồi
Ngoài kia trăng êm trôi
Chưa bao giờ ngơi nghỉ.
Từ bao đời rồi nhỉ
Đêm cùng ngày trôi mau
Từ bao ngày rồi nhỉ
Thời gian chẳng bạc đầu.
Đêm nghe gì không đêm
Em chập chờn vào mộng
Biển đêm vừa dậy sóng
Xô dạt bước chân ngày.
_____________________________
KHOẢNG CÁCH
Chưa bao giờ em thấy hết yêu anh
Dù 1 phút, 1 giây, hay chỉ dù khoảnh khoắc
Dù ngày vẫn qua và chúng mình im lặng
Bỗng vô tình trở thành sự thách thức trong nhau
Chỉ là niềm kiêu hãnh rất không đâu
Mà em không nhận về phía mình có lỗi
Em cũng như anh chúng ta cùng chờ đợi
Một sự mở lời từ phía trái tim kia
Rồi mọi chuyện bỗng hoá xa xưa
Em không tin trái tim mình có lỗi
Tất cả chỉ từ một lần giận dỗi
Mà chúng mình vĩnh viễn mất nhau
Nếu có một lần chạm phải nỗi đâu
Xin anh đừng nhận về phía mình là ngưới có lỗi
Bởi trong chúng ta ai là nguời nặng lỗi
Chỉ có khoảng cách vô hình ......
làm nhân chứng cho 2 niềm kiêu hãnh cô đơn
_____________________________
Cát bụi
Có sống qua một kiếp trần ai
Mới thấm được nỗi mệt nhoài cát bụi
Có sống hết kiếp nhân gian tàn lụi
Mới hiểu vì sao rừng núi cúi gục đầu
Có ngồi đò ngắm đáy sông sâu
Mới hiểu nỗi đau Trương Chi ngày ấy
Có nghe tiếng bốn dây sầu rui rẩy
Mới thương thân Kiều một kiếp long đong
Có ngắm lệ tuôn từ đá chảy ròng
Mới thương vọng phu chờ chồng da diết
Có ngắm giếng sâu giữa loa thành bất diệt
Mới hiểu tình yêu lầm lỡ Mỵ Châu
Có nhìn luỹ tre, ngắm những hàng cau
Mới yêu quê hương thanh bình yên ả
Có sống với mái tranh nghèo rơm rạ
Mới thương người dân lam lũ khổ nghèo
Có viết một thời chuyện ấy - tình yêu
Mới lắng đọng biết bao điều đáng nói
Có sống giữa bao trái ngang, lừa dối
Mới thấm cho mình mật đắng trong đời
Có theo thuyền rong ruổi xa khơi
Mới hiểu tình yêu muôn đời của biển
Có mải ngắm cánh chim trời bay liệng
Mới mơ tung hoành một kiếp vẫy vùng
Có ngắm lá vàng rơi giữa không trung
Mới thấy xót xa kiếp người ngắn ngủi
Một phút vu vơ biến thành đá cuội
Trăm năm chết rồi sỏi đá lặng câm
Sưu tầm
_____________________________
Em vẫn biết đấy là điều đã cũ
Chuyện tình yêu, quan trọng gì đâu
Sự gắn bó giữa hai người xa lạ
Nỗi vui buồn đêm chia sẻ cùng nhau.
Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn
Hôm nay yêu, mai có thể xa rồi
Niềm đau đớn tưởng như vô tận
Bỗng có ngày thay thế một niềm vui
Điều hôm nay ta nói, ngày mai
Người khác lại nói lời yêu thuở trước
Đời sống chẳng vô cùng, em biết
Và câu thơ đâu còn mãi ngày sau
Chẳng có gì quan trọng lắm đâu
Như không khí, như màu xanh lá cỏ
Nhiều đến mức tưởng như chẳng có
Trước cuộc đời rộng lớn mênh mang
Nhưng lúc này anh ở bên em
Niềm vui sướng trong ta là có thật
Như chiếc áo trên tường, như trang sách
Như chùm hoa mở cánh trước hiên nhà
Em hiểu rằng mỗi lúc đi xa
Tình anh đối với em là xứ sở
Là bóng rợp trên con đường nắng lửa
Trái cây thơm trên miền đất khô cằn
Đó tình yêu em muốn nói cùng anh
Nguồn gốc của muôn ngàn khát vọng
Lòng tốt để duy trì sự sống
Cho con người thực sự người hơn.
_____________________________
NHỚ ANH
Anh đã đi rồi mùa hạ héo trên cây
Rắc sắc nhớ cuối mùa còn sót lại
Nắng úa xiên ngang qua một thời bé dại
Vạt áo nào che kín được tình chung .
Còn chút gì để nói nữa không
Cái nông nổi của một thời khờ khạo
Cùng nhau đi trong một đêm giông bão
Thôi ngủ đi nào đêm nhé thôi ngủ đi .
_____________________________
TÌM TRONG PHỐ CŨ
Lại về Hà Nội nhé anh
Phố xưa em vẫn để dành lối đi
Trách nhau lẫn nữa làm chi
Hoa tầm xuân có còn gì nữa đâu
Hạ Hồi đã hết hàng dâu
Quang Trung hương sữa mái đầu ngả sương
Cách nhau chỉ một đoạn đường
Ai hay xa cách đôi phương thế này.
_____________________________
TÂM CẢM
Em không đến lúc anh đang quá vui
Bởi giây phút ấy anh là người hào phóng
Anh có thể cho em niềm hạnh phúc
Để rồi làm đau nhói trái tim em
Lúc anh buồn em chũng chẳng đến đâu
Bởi em biết anh chỉ nhìn em im lặng
Và có thể khi con tim hoang vắng
Anh sẽ gục ngã vì em
Lúc cô đơn anh hãy tự đứng lên
Em chẳng đến khi anh đang thất vọng
Để bưóc chân em không lạc vào ảo mộng
Giữa một trời hạnh phúc là anh
Cái hạnh phúc em biết rất mong manh
Có thể có rồi mất trong phút chốc
Anh và em vẫn là hai khoảng trời xa lắc
Thì đến làm gì,em sẽ để anh yên
Nhưng có một ngày em sẽ đến anh ơi
Ngày chẳng có nắng mưa dù dòng đời thay đổi
Em hoá mình vào câu thơ tầm gửi
Trắng tay rồi em sẽ đến cùng anh .
HỜ HỮNG.
Hai đứa gặp nhau mặt làm ngơ
Không thương không nhớ,chẳng mong chờ
Trời ơi khi đóng vai hờ hững
Tan nát lòng anh - em biết không.
Thứ bảy lòng tôi chợt thấy buồn
Trái tim vò xé nỗi cô đơn
Em đang vui sướng nơi nào nhỉ
Có biết nơi đây - một kẻ buồn....
Ai mua tôi bán mảnh tim rơi
Tim ấy đau thương, rạn nứt rồi
Chính cái bàn tay hiền dịu ấy
Lạnh lùng vò xé trái tim tôi...!
_____________________________
NH _ EM.
Anh hãy là ngọn gió
Để em là mây trôi
Anh hãy là ngọn gió
Mang em theo suốt đời.
Anh cứ là đồng xanh
Cho em thân cỏ dại
Cho đời còn tươi mãi
Đông đừng màu tím tái.
Anh muốn làm biển khơi?
Không! Em không làm sóng!
Sóng dữ dằn sôi động
Em anh vốn dịu dàng.
Dòng sông nhỏ mơ màng
Là linh hồn em đó
Anh là đôi bờ nhỏ
Chở che em tháng ngày.
Dù anh có là ai...
Em là ai, chăng nữa
Em và anh, hai nữa...
Tìm kiếm nhau suốt đời!
ĐÊM.
Đêm, nghe gì không đêm?
Em, nghe gì không em?
Không gian chìm mênh mang.
Trong êm đềm mơ hoang.
Đêm đi từ nơi nao?
Anh đến từ phương nào?
Đêm nay chừng dài lắm.
Bao giờ mình gặp nhau?
Ngoài kia ngôi sao đêm
Cứ nhấp nháy liên hồi
Ngoài kia trăng êm trôi
Chưa bao giờ ngơi nghỉ.
Từ bao đời rồi nhỉ
Đêm cùng ngày trôi mau
Từ bao ngày rồi nhỉ
Thời gian chẳng bạc đầu.
Đêm nghe gì không đêm
Em chập chờn vào mộng
Biển đêm vừa dậy sóng
Xô dạt bước chân ngày.
_____________________________
KHOẢNG CÁCH
Chưa bao giờ em thấy hết yêu anh
Dù 1 phút, 1 giây, hay chỉ dù khoảnh khoắc
Dù ngày vẫn qua và chúng mình im lặng
Bỗng vô tình trở thành sự thách thức trong nhau
Chỉ là niềm kiêu hãnh rất không đâu
Mà em không nhận về phía mình có lỗi
Em cũng như anh chúng ta cùng chờ đợi
Một sự mở lời từ phía trái tim kia
Rồi mọi chuyện bỗng hoá xa xưa
Em không tin trái tim mình có lỗi
Tất cả chỉ từ một lần giận dỗi
Mà chúng mình vĩnh viễn mất nhau
Nếu có một lần chạm phải nỗi đâu
Xin anh đừng nhận về phía mình là ngưới có lỗi
Bởi trong chúng ta ai là nguời nặng lỗi
Chỉ có khoảng cách vô hình ......
làm nhân chứng cho 2 niềm kiêu hãnh cô đơn
_____________________________
Cát bụi
Có sống qua một kiếp trần ai
Mới thấm được nỗi mệt nhoài cát bụi
Có sống hết kiếp nhân gian tàn lụi
Mới hiểu vì sao rừng núi cúi gục đầu
Có ngồi đò ngắm đáy sông sâu
Mới hiểu nỗi đau Trương Chi ngày ấy
Có nghe tiếng bốn dây sầu rui rẩy
Mới thương thân Kiều một kiếp long đong
Có ngắm lệ tuôn từ đá chảy ròng
Mới thương vọng phu chờ chồng da diết
Có ngắm giếng sâu giữa loa thành bất diệt
Mới hiểu tình yêu lầm lỡ Mỵ Châu
Có nhìn luỹ tre, ngắm những hàng cau
Mới yêu quê hương thanh bình yên ả
Có sống với mái tranh nghèo rơm rạ
Mới thương người dân lam lũ khổ nghèo
Có viết một thời chuyện ấy - tình yêu
Mới lắng đọng biết bao điều đáng nói
Có sống giữa bao trái ngang, lừa dối
Mới thấm cho mình mật đắng trong đời
Có theo thuyền rong ruổi xa khơi
Mới hiểu tình yêu muôn đời của biển
Có mải ngắm cánh chim trời bay liệng
Mới mơ tung hoành một kiếp vẫy vùng
Có ngắm lá vàng rơi giữa không trung
Mới thấy xót xa kiếp người ngắn ngủi
Một phút vu vơ biến thành đá cuội
Trăm năm chết rồi sỏi đá lặng câm
Sưu tầm
_____________________________
Thơ Tình Yêu (p2)
THUYỀN VÀ BIỂN
Xuân Quỳnh
"Em sẽ kể anh nghe
Chuyện con thuyền và biển
"Từ ngày nào chẳng biết
Thuyền nghe lời biển khơi
Cánh hải âu, sóng biếc
Đưa thuyền đi muôn nơi
Lòng thuyền nhiều khát vọng
Và tình biển bao la
Thuyền đi hoài không mỏi
Biển vẫn xa... vẫn xa
Những đêm trăng hiền từ
Biển như cô gái nhỏ
Thầm thì gửi tâm tư
Quanh mạn thuyền sóng vỗ
Cũng có khi vô cớ
Biển ào ạt xô thuyền
(Vì tình yêu muôn thuở
Có bao giờ đứng yên?)
Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu, về đâu
Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau - rạn vỡ
Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió"
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố "
_____________________________
CHO MỘT NGƯỜI......
Em có khóc đâu anh ?...
Đó là nụ cười tan ra đấy chứ ,
Một nụ cười quắt quay nỗi nhớ ,
Một nụ cười dai dẳng niềm đau
Đừng trách em khi mình chẳng đến được với nhau ...
Tình yêu có thật nhưng mong manh quá
Giữa cuộc đời ngổn ngang giông tố ,
Trái tim em không đủ sức đối đầu ...
Rồi thời gian sẽ qua đi rất nhanh ,
Anh sẽ có những mối tình nồng nàn khác
Chỉ có em khi thu về man mác
Phút cô đơn em lặng lẽ mỉm cười ...!!!
_____________________________
TẶNG EM
Em đừng khóc khi chúng ta chia tay
Như tim anh cũng vờ mình băng giá
Như cơn gió qua vu vơ vội vã
Lay chút tình xao xác lá vàng em.
Những cơn gió sẽ tan vào bóng đêm
Cho sương trắng giăng ngang trời quá khứ
Nói chi em lời cầu xin tha thứ
Gió lặng rồi ngơ ngác ánh trăng tan.
Anh sẽ đi cho kỷ niệm lụi tàn
Cho tình cũ sẽ ngàn năm bia đá.
Nói với em một lời ta từ giã
Quay mặt rồi để mãi mãi xa nhau.
Anh bước đi không nhìn lại phía sau
Sẽ chẳng thấy lệ em trên gò má
Anh chỉ thấy mảnh hồn anh trắng xoá
Gió qua đời tình cũng lãng đãng bay.
_____________________________
HÀ NÔI_PHỐ
Phan Vũ
Chương một
1.
Em ơi! Hà Nội - phố!
Ta còn em mùi hoàng lan
Còn em hoa sữa .
Tiếng giày gọi đường khuya
Thang gác cọt kẹt thời gian
Thân gỗ ...
Ta còn em màu xanh thật đêm
Ngôi sao lẻ
Xào xạc chùm cây gió
Chiếc lá lạc vào căn xép nhỏ
Lá thư quên địa chỉ.
Quay về ...
2.
Ta còn em một gốc cây
Một cột đèn
Ai đó chờ ai ?
Tóc cắt ngang
Xõa xõa bờ vai ...
Ta còn em ngã ba nào ?
Chiếc khăn quàng tím đỏ,
Khuôn mặt chưa quen
Bỗng xôn xao nỗi khổ!
Góc phố ấy mở đầu
Trang tình sử! ...
3.
Ta còn em con đường vắng
Rì rào cơn lốc nhỏ
Gót chân ai qua mùa lá đổ ?
Nhà thờ Cửa Bắc,
Chiều tan lễ,
Chuông nguyện còn mãi ngân nga ...
Chương hai
6.
Ta còn em khúc tự tình ca
Đôi chim khuyên gọi nhau
Trong bụi cỏ
Đôi guốc bỏ quên bên ghế đá,
Tiếng ve ra rả mùa hè ...
Còn em đường cũ Cổ Ngư
La đà,
Cành phượng vĩ.
Hoàng hôn xa đến tự bao giờ,
Nắng chiều phai trên sóng Tây Hồ.
Những bước chân tìm nhau
Rất vội,
Tiếng thì thầm sớm hôm buổi tối,
Cuộc tình hờ
Bỗng chốc
Nghiêm trang ...
Chương ba
9.
Ta còn em đường lượn mái cong
Ngôi chùa cũ,
Tháng năm buồn lệch xô ngói âm dương
Ai đó ngồi bên gốc đại,
Chợt quên ai kia
Đứng đợi bên đường.
Chương bốn
10.
Em ơi! Hà Nội - phố!
Ta còn em đám mây in bóng rồng bay
Cổng đền Quan Thánh
Cờ đuôi nheo ngũ sắc
Còn em dãy bia đá
Nhân hình hội tụ
Rêu phong gìn giữ nét tài hoa ...
***
Ta còn em tiếng trống tan trường
Áo thanh thiên điệp màu liễu rủ.
Đôi guốc cao mài mòn đại lộ,
Một ngả nào lưu dấu gót tài hoa .
Còn em mãi mãi dáng kiêu sa
Lặng lẽ theo em về phố ...
11.
Ta còn em những ánh sao sa,
Tia hồi quang
Chớp chớp trên đường
Toa xe điện cuối ngày,
Áo bành tô cũ nát ...
Lanh canh! Lanh canh!
Tiếng hàng ngày hay hồi âm
Thuở chiềng khua ? ...
Ta còn em ngọn đèn khuya
Vùng sáng nhỏ
Bà quán mải mê câu chuyện
Nàng Kiều
Rượu làng Vân lung linh men ngọt
Mắt cô nàng lúng liếng, đong đưa
Những chàng trai say suốt mùa ...
Chương năm
13.
Ta còn em cánh cửa sắt
Lâu ngày không mở.
Nhà ai ?
Qua đó.
Bâng khuâng nhớ tuổi học trò
Còn em giàn thiên lý chết khô,
Cỏ mọc hoang trong vườn nắng,
Còn em tiếng ghi-ta
Bập bùng
Tự sự
Châm lửa điếu thuốc cuối cùng
Xập xòa
Kỷ niệm.
Đêm Kinh Kỳ thuở ấy,
Xanh lơ ...
17.
Ta còn em chiếc lá bàng đầu tiên
Nhuộm đỏ
Cô gái gặp nắng hanh.
Chợt hồng đôi má
Cơn mưa nào đi nhanh qua phố
Một chút xanh hơn
Trời Hà nội hôm qua ...
Ta còn em cô hàng hoa
Gánh mùa thu
Qua cổng chợ
Những chùm hoa tím
Ngát
Mùa thu ...
Chương sáu
18.
Em ơi! Hà Nội - phố!
Ta còn em một màu xanh thời gian
Chợt nhòe,
Chợt hiện
Chợt lung linh ngọn nến,
Chợt mong manh
Một dáng
Một hình
20.
Ta còn em một phút mê cuồng
Người nghệ sĩ lang thang hè phố
Bơ vơ
Không nhớ nổi con đường.
Ngay trước cổng nhà mẹ cha
Còn em một bóng chiều sa
Những câu thơ, những bức tranh
Đời đời
Lỡ dở ...
Chương bảy
21.
Em ơi! Hà Nội - phố!
Ta còn em những giọt sương
Nhòa nhòa bóng điện
Mặt nước Hồ Gươm
Một đêm trở lạnh.
Cánh nhạn chao nghiêng
Chiều cuối,
Giã từ...
23.
Em ơi! Hà Nội - phố!
Ta còn em cánh tay trần
Mở cửa
Mùa Xuân trong khung:
Giò phong lan
Điệp vàng rực rỡ
Từng cây khô óng ả sợi tơ hồng
Đường phố dài
Chi chít chồi sinh
Màu ước vọng in hình
Xanh nõn lá ...
Ta còn em,
Hà Nội - phố, em ơi!
Ta còn em,
Em ơi! Hà Nội, phố ...
_____________________________
MÙA EM YÊU
Mùa đông trong em không có những nỗi buồn
Không gợi nhớ khoảng không gian trống vắng
Không cả những cô đơn, tĩnh lặng
Mùa em yêu.
Mùa đông trong em là gió thật nhiều
Gió lang thang qua những hàng cây ngơ ngác
Con phố dài rộng vòng tay đón nhận
Gió cho em cảm giác tự do
Mùa đông trong em là những mặt hồ
Mỗi sáng sớm sương mờ như cổ tích
Thoảng nét chữ cành cây gầy guộc
Mùa đông ơi, sao thật bình yên.
Vẫn dạo qua những đường phố thân quen
Nghe mùa sang đưa người ta gần nhau thế
Rồi trở về nhà và thấy mình may mắn
Những ấm áp yêu thương luôn đợi chờ.
Mùa vẫn đến rồi đi
Để lại trong lòng nỗi nhớ
Mùa em yêu!
_____________________________
Không còn nước mắt cho anh nữa đâu
Em đã khóc suốt thời trẻ dại
Nước mắt nhỏ xuống đời con gái
Từ khi mình mất nhau !!!
Chùm thơ ngày nào vỡ vụn từng câu
Anh góp nhặt tặng cho người yêu mới
Người con gái kia có bao giờ biết hỏi
Xưa là thơ cho mối tình đầu...
Ngày hôm qua chợt nhận ra nhau
Anh lạc giọng gọi tên em oà vỡ
Chút tình xưa anh lỡ tay hất đổ
Sao giờ mới biết đau.........
_____________________________
VIÊN XÚC XẮC MÙA THU
(Tác giả :Hoàng Nhuận Cầm )
Tình yêu đến trong đời không báo động
Trái tim anh chưa lỗi hẹn bao giờ
Viên xúc xắc mùa thu ru trong cỏ
Mắt anh nhìn sáu mặt bão mưa giăng
Anh đi qua những thành phố bọc vàng
Những thị trấn mẹ ôm con trên cỏ
Qua ánh nắng bảy màu, qua ngọn đèn hạt đỗ
Qua bao cuộc đời tan vỡ lại hồi sinh
Anh đi qua những đôi mắt lặng thinh
Những đôi mắt nhìn anh như họng súng
Anh đi qua tổ chim non mới dựng
Qua tro tàn thành quách mấy triệu năm
Anh đi qua tất cả mối tình câm
Mối tình nói, rồi mối tình bỏ dở
Đôi tay kẻ ăn xin, đôi môi hồng trẻ nhỏ
Đất nước đau buồn chưa hết, Mỵ Châu ơi!
Lông ngỗng bay như số phận giữa trời
Trọng Thuỷ đứng suốt đời không hết lạ
Vệt lông ngỗng con đường tình trắng xoá
Có ai hay thăm thẳm giếng không cùng
Nhưng chính anh không hay số phận lại điệp trùng
Khi mở mắt, Mỵ Châu em ngồi đó
Toa thứ ba ôm cặp ai nức nở
Suốt đời anh mang tội với con tàu
Sẽ tan đi những thành phố bảy màu
Đôi trái cấm trong vườn đời em, anh làm vỡ
Nhưng giọt mực thứ ba em ơi không thể lỡ
Xin trải lòng ta đón chốn xanh rơi
Giọt mực em thong thả đến trong đời
Không giấu được trong lòng tay nhỏ bé
Viên xúc xắc xoay tròn trong gió xé
Sáu mặt đời lắc cắc tiếng thơ anh.
_____________________________
MÙA HOA CẢI
Có một mùa hoa cải
Nở vàng bên bến sông
Em đang thì con gái
Đợi anh chưa lấy chồng.
Anh rụt rè không dám
Hái một bông cải ngồng
Sợ làm con bướm trắng
Giật mình bay sang sông.
Qua bao mùa hoa cải
Chỉ mình anh biết thôi
Mình anh không dám hái
Hoa cải bay về trời.
Bâng khuâng chiều làng bãi
Không còn hoa cải ngồng
Ai sui anh trở lại
Ngày em đi lấy chồng.
Anh lại gieo hạt cải
Lại âm thầm đợi mong
Có một người con gái
Đợi anh chưa lấy chồng.
_____________________________
HÀ NỘI
Một tình yêu giành cho Hà Nội
Hơn cả tình yêu ...sau này em sẽ tặng cho anh
Là những con đường ...đi mãi thành quen
Những chiều lang thang bỗng thấy mình quá nhỏ
Chầm chậm phóng xe,lắng nghe tiếng gió
Lá rơi nhanh tựa những tiếng thở dài
Những dòng người vẫn tất tả...ngược xuôi
Trống rỗng nhớ mong hoá thành đơn độc
Em biết rằng mình không bao giờ khóc
Mắt chỉ nhoà đi...những giọt lóng lánh...nước mưa
Hà Nội trong em...những phút giao mùa
Là nắng..là mưa...mang lòng về thanh thản
Những ngày thật buồn...quẩn quanh...Quán....
Chưa tìm nổi cho mình một khoảng trống riêng....
Một tình yêu cho những phố cổ rêu phong
Nhỏ nhỏ nghiêng nghiêng thành ra Hà Nội...phố
Em vẫn nghe những bài hát,những nỗi lòng...rất lạ
Là tình yêu của người Hà Nội....
...Đi xa...
...Tìm đến....
....Hay sẽ lại trở về...
Để nhức lòng...bài hát bỗng tái tê
Em vẫn tìm ai...một người Hà Nội
Một người chấp nhận tình yêu...khờ dại
Nơi ấy là Hà Nội
Người ấy là người Hà Nội...
Phải không anh?
Anh biết đấy...Hà Nội màu xanh
Xanh của trời mây,...những hàng cây....và gió
Những hồ nước...lao xao sóng vỗ
Bình lặng đến lạ kỳ
Là những nụ cười...Hà Nội thân yêu
Em gặp...và sẽ không bao giờ quên được
Anh đấy...em đây...và biết bao người khác
Một tình yêu chung...xa lạ bỗng hoá gần.
Có thể có...và cũng có thể không
Nhưng với em-Hà Nội vẫn sẽ là Hà Nội
Nơi mà dù một mình trong bóng tối
Em vẫn luôn tìm được một chỗ dựa...bình yên...
_____________________________
CỎ
Lúc nào em cũng ước mơ
Một ngày bình yên được nằm trên cỏ
Và hôm nay trong buổi chiều lặng gió
Được gối đầu lên cỏ, bên anh.
Nhìn mây trắng trôi trong giây phút bồng bềnh
Anh ngồi quạt cho em lim dim ngủ
Em nghe thấy bình yên về trú ngụ
Trên bàn tay anh vuốt lọn tóc mai
Đâu còn thấy tiếng thời gian thở dài
Bọn mình đang ở xa Hà Nội
Em nằm nghe gió sông Hồng thổi
Như trong bài ca mình đã hát cùng nhau
Em nằm đây và thấy mọi nõi đau
Từ cái thưở ngày xưa bỗng nhẹ nhàng tan biến
Mở mắt thấy nụ cười anh hiển hiện
Bỗng thấy quanh mình đầy cỏ, đầy hoa
Em biết rồi một ngày anh sẽ phải đi xa
Tới Berlin, Maxcơva...hay một nơi nào đó
Mong anh không bao giờ quên một nơi đầy cỏ
Có hai người lặng lẽ bên nhau.
_____________________________
ĐI HẾT MỘT MÙA THU
Lá rụng vàng nơi phố cũ ngày xưa,
Thu đọng lại nỗi buồn thời xa vắng
Anh ra đi không một lời từ biệt
Phố than buồn đơn lẻ một mình em .....
Biết đến bao giờ em mới gặp lại anh
Để được đi bên anh hồn nhiên như ngày ấy
Câu từ biệt ngàn đời không nói nổi
Xa anh rồi thương nhớ cứ đầy vơi...
Em quay về với con phố bình yên ,
Sống lặng lẽ tháng ngày không nguyện ước
Kỷ niệm xưa một đôi lần đánh thức
Những ngọt ngào âu yếm thủa yêu thương ......
_____________________________
MÙA XUÂN-Tagor
Đôi ta ở bên nhau
Khi mùa xuân gõ cửa
Hãy để cho tôi vào
Xuân mang cho lứa đôi
Tiếng thầm của niềm vui
Tiếng nhẹ nhàng rung khẽ
Của mầm non mới hé
Ta đang mãi trầm tư
Em bên xe quay sợi
Mùa xuân dần đi xa
Và đột nhiên biến vội
Cùng với những cánh hồng
Nở muộn trên cành hoa
Hỡi em yêu bây giờ
En không còn đây nữa
Mùa xuân lại gõ cửa
Hãy để cho tôi vào
Xuân chỉ còn mang đến
Tiếng lá khô xào xạc
Tiếng gù chim bồ câu
Ta ngồi bên cửa sổ
Và một bóng mơ hồ
Ngồi bên ta lặng lẽ
Buồn se những mộng mơ
Và mùa xuân không còn
Những nỗi đau thầm nữa
Để mang đến cho ta
Mùa xuân mà muôn nhà
Đón tưng bừng vào cửa
_____________________________
CHO ANH VÀ CHO EM
Không phải chuyện người con gái bỏ đi xa
Hay về một người nào đã chết
Không phải chuyện ngã lòng trước chông gai mỏi mệt
Hay một phút yếu lòng nói dối trước tình yêu
Em cứ nói đi, cứ nói biết bao nhiêu
Thì câu chuyện tình, chuyện đời vẫn thế
Anh vẫn là anh, vẫn tiếng cười ngạo nghễ
Em lại là em, anh lại trở về anh
Đừng nhắc lại lời xin lỗi chân thành
Mong manh lắm, nếu phải kìm nước mắt
Nếu đã một lần, em thấy lòng đau cắt
Thì đấy là anh, là phút cuối cùng
Hãy cứ nói đi chớ có ngại ngùng
Có gì đâu, còn gì đâu nữa chứ
Con Gấu Mèo vẫn nằm vô tư lự
Nó bảo rằng chuyện mình chẳng đáng đâu
Đừng bảo anh mình hôn nhau lần cuối thật sâu
Để sau này không có nhiều tiếc nuối
Thì em ơi những điều là sau cuối
Suốt cuộc đời chẳng quên nổi đâu em
Đừng bảo anh nếu nhớ hãy lấy ảnh ra xem
Con Gấu Mèo cũng bảo chuyện chúng mình không đáng
Đừng bảo anh thử đi về dĩ vãng
Chẳng còn gì níu nổi bước hai ta
Em hiểu lòng anh, anh hiểu hai ta
Sẽ chẳng còn gì cho nhau nữa cả
Những nụ cười, ánh mắt, hay bờ vai êm ả
Em hãy quên đi, em cố quên đi
Nếu có đứa hỏi chúng mày giờ gọi nhau là gì?
Anh sẽ gọi em là kỉ niệm
Để một ngày nếu có điều màu nhiệm
Kỉ niệm sẽ về đúng chỗ bên anh.
Không phải chuyện người con gái bỏ đi xa
Hay về một người nào đã chết
Không phải câu chuyện tình yêu đã hết
Chỉ là một người đã chán rồi đi...
_____________________________
Xuân Quỳnh
"Em sẽ kể anh nghe
Chuyện con thuyền và biển
"Từ ngày nào chẳng biết
Thuyền nghe lời biển khơi
Cánh hải âu, sóng biếc
Đưa thuyền đi muôn nơi
Lòng thuyền nhiều khát vọng
Và tình biển bao la
Thuyền đi hoài không mỏi
Biển vẫn xa... vẫn xa
Những đêm trăng hiền từ
Biển như cô gái nhỏ
Thầm thì gửi tâm tư
Quanh mạn thuyền sóng vỗ
Cũng có khi vô cớ
Biển ào ạt xô thuyền
(Vì tình yêu muôn thuở
Có bao giờ đứng yên?)
Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu, về đâu
Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau - rạn vỡ
Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió"
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố "
_____________________________
CHO MỘT NGƯỜI......
Em có khóc đâu anh ?...
Đó là nụ cười tan ra đấy chứ ,
Một nụ cười quắt quay nỗi nhớ ,
Một nụ cười dai dẳng niềm đau
Đừng trách em khi mình chẳng đến được với nhau ...
Tình yêu có thật nhưng mong manh quá
Giữa cuộc đời ngổn ngang giông tố ,
Trái tim em không đủ sức đối đầu ...
Rồi thời gian sẽ qua đi rất nhanh ,
Anh sẽ có những mối tình nồng nàn khác
Chỉ có em khi thu về man mác
Phút cô đơn em lặng lẽ mỉm cười ...!!!
_____________________________
TẶNG EM
Em đừng khóc khi chúng ta chia tay
Như tim anh cũng vờ mình băng giá
Như cơn gió qua vu vơ vội vã
Lay chút tình xao xác lá vàng em.
Những cơn gió sẽ tan vào bóng đêm
Cho sương trắng giăng ngang trời quá khứ
Nói chi em lời cầu xin tha thứ
Gió lặng rồi ngơ ngác ánh trăng tan.
Anh sẽ đi cho kỷ niệm lụi tàn
Cho tình cũ sẽ ngàn năm bia đá.
Nói với em một lời ta từ giã
Quay mặt rồi để mãi mãi xa nhau.
Anh bước đi không nhìn lại phía sau
Sẽ chẳng thấy lệ em trên gò má
Anh chỉ thấy mảnh hồn anh trắng xoá
Gió qua đời tình cũng lãng đãng bay.
_____________________________
HÀ NÔI_PHỐ
Phan Vũ
Chương một
1.
Em ơi! Hà Nội - phố!
Ta còn em mùi hoàng lan
Còn em hoa sữa .
Tiếng giày gọi đường khuya
Thang gác cọt kẹt thời gian
Thân gỗ ...
Ta còn em màu xanh thật đêm
Ngôi sao lẻ
Xào xạc chùm cây gió
Chiếc lá lạc vào căn xép nhỏ
Lá thư quên địa chỉ.
Quay về ...
2.
Ta còn em một gốc cây
Một cột đèn
Ai đó chờ ai ?
Tóc cắt ngang
Xõa xõa bờ vai ...
Ta còn em ngã ba nào ?
Chiếc khăn quàng tím đỏ,
Khuôn mặt chưa quen
Bỗng xôn xao nỗi khổ!
Góc phố ấy mở đầu
Trang tình sử! ...
3.
Ta còn em con đường vắng
Rì rào cơn lốc nhỏ
Gót chân ai qua mùa lá đổ ?
Nhà thờ Cửa Bắc,
Chiều tan lễ,
Chuông nguyện còn mãi ngân nga ...
Chương hai
6.
Ta còn em khúc tự tình ca
Đôi chim khuyên gọi nhau
Trong bụi cỏ
Đôi guốc bỏ quên bên ghế đá,
Tiếng ve ra rả mùa hè ...
Còn em đường cũ Cổ Ngư
La đà,
Cành phượng vĩ.
Hoàng hôn xa đến tự bao giờ,
Nắng chiều phai trên sóng Tây Hồ.
Những bước chân tìm nhau
Rất vội,
Tiếng thì thầm sớm hôm buổi tối,
Cuộc tình hờ
Bỗng chốc
Nghiêm trang ...
Chương ba
9.
Ta còn em đường lượn mái cong
Ngôi chùa cũ,
Tháng năm buồn lệch xô ngói âm dương
Ai đó ngồi bên gốc đại,
Chợt quên ai kia
Đứng đợi bên đường.
Chương bốn
10.
Em ơi! Hà Nội - phố!
Ta còn em đám mây in bóng rồng bay
Cổng đền Quan Thánh
Cờ đuôi nheo ngũ sắc
Còn em dãy bia đá
Nhân hình hội tụ
Rêu phong gìn giữ nét tài hoa ...
***
Ta còn em tiếng trống tan trường
Áo thanh thiên điệp màu liễu rủ.
Đôi guốc cao mài mòn đại lộ,
Một ngả nào lưu dấu gót tài hoa .
Còn em mãi mãi dáng kiêu sa
Lặng lẽ theo em về phố ...
11.
Ta còn em những ánh sao sa,
Tia hồi quang
Chớp chớp trên đường
Toa xe điện cuối ngày,
Áo bành tô cũ nát ...
Lanh canh! Lanh canh!
Tiếng hàng ngày hay hồi âm
Thuở chiềng khua ? ...
Ta còn em ngọn đèn khuya
Vùng sáng nhỏ
Bà quán mải mê câu chuyện
Nàng Kiều
Rượu làng Vân lung linh men ngọt
Mắt cô nàng lúng liếng, đong đưa
Những chàng trai say suốt mùa ...
Chương năm
13.
Ta còn em cánh cửa sắt
Lâu ngày không mở.
Nhà ai ?
Qua đó.
Bâng khuâng nhớ tuổi học trò
Còn em giàn thiên lý chết khô,
Cỏ mọc hoang trong vườn nắng,
Còn em tiếng ghi-ta
Bập bùng
Tự sự
Châm lửa điếu thuốc cuối cùng
Xập xòa
Kỷ niệm.
Đêm Kinh Kỳ thuở ấy,
Xanh lơ ...
17.
Ta còn em chiếc lá bàng đầu tiên
Nhuộm đỏ
Cô gái gặp nắng hanh.
Chợt hồng đôi má
Cơn mưa nào đi nhanh qua phố
Một chút xanh hơn
Trời Hà nội hôm qua ...
Ta còn em cô hàng hoa
Gánh mùa thu
Qua cổng chợ
Những chùm hoa tím
Ngát
Mùa thu ...
Chương sáu
18.
Em ơi! Hà Nội - phố!
Ta còn em một màu xanh thời gian
Chợt nhòe,
Chợt hiện
Chợt lung linh ngọn nến,
Chợt mong manh
Một dáng
Một hình
20.
Ta còn em một phút mê cuồng
Người nghệ sĩ lang thang hè phố
Bơ vơ
Không nhớ nổi con đường.
Ngay trước cổng nhà mẹ cha
Còn em một bóng chiều sa
Những câu thơ, những bức tranh
Đời đời
Lỡ dở ...
Chương bảy
21.
Em ơi! Hà Nội - phố!
Ta còn em những giọt sương
Nhòa nhòa bóng điện
Mặt nước Hồ Gươm
Một đêm trở lạnh.
Cánh nhạn chao nghiêng
Chiều cuối,
Giã từ...
23.
Em ơi! Hà Nội - phố!
Ta còn em cánh tay trần
Mở cửa
Mùa Xuân trong khung:
Giò phong lan
Điệp vàng rực rỡ
Từng cây khô óng ả sợi tơ hồng
Đường phố dài
Chi chít chồi sinh
Màu ước vọng in hình
Xanh nõn lá ...
Ta còn em,
Hà Nội - phố, em ơi!
Ta còn em,
Em ơi! Hà Nội, phố ...
_____________________________
MÙA EM YÊU
Mùa đông trong em không có những nỗi buồn
Không gợi nhớ khoảng không gian trống vắng
Không cả những cô đơn, tĩnh lặng
Mùa em yêu.
Mùa đông trong em là gió thật nhiều
Gió lang thang qua những hàng cây ngơ ngác
Con phố dài rộng vòng tay đón nhận
Gió cho em cảm giác tự do
Mùa đông trong em là những mặt hồ
Mỗi sáng sớm sương mờ như cổ tích
Thoảng nét chữ cành cây gầy guộc
Mùa đông ơi, sao thật bình yên.
Vẫn dạo qua những đường phố thân quen
Nghe mùa sang đưa người ta gần nhau thế
Rồi trở về nhà và thấy mình may mắn
Những ấm áp yêu thương luôn đợi chờ.
Mùa vẫn đến rồi đi
Để lại trong lòng nỗi nhớ
Mùa em yêu!
_____________________________
Không còn nước mắt cho anh nữa đâu
Em đã khóc suốt thời trẻ dại
Nước mắt nhỏ xuống đời con gái
Từ khi mình mất nhau !!!
Chùm thơ ngày nào vỡ vụn từng câu
Anh góp nhặt tặng cho người yêu mới
Người con gái kia có bao giờ biết hỏi
Xưa là thơ cho mối tình đầu...
Ngày hôm qua chợt nhận ra nhau
Anh lạc giọng gọi tên em oà vỡ
Chút tình xưa anh lỡ tay hất đổ
Sao giờ mới biết đau.........
_____________________________
VIÊN XÚC XẮC MÙA THU
(Tác giả :Hoàng Nhuận Cầm )
Tình yêu đến trong đời không báo động
Trái tim anh chưa lỗi hẹn bao giờ
Viên xúc xắc mùa thu ru trong cỏ
Mắt anh nhìn sáu mặt bão mưa giăng
Anh đi qua những thành phố bọc vàng
Những thị trấn mẹ ôm con trên cỏ
Qua ánh nắng bảy màu, qua ngọn đèn hạt đỗ
Qua bao cuộc đời tan vỡ lại hồi sinh
Anh đi qua những đôi mắt lặng thinh
Những đôi mắt nhìn anh như họng súng
Anh đi qua tổ chim non mới dựng
Qua tro tàn thành quách mấy triệu năm
Anh đi qua tất cả mối tình câm
Mối tình nói, rồi mối tình bỏ dở
Đôi tay kẻ ăn xin, đôi môi hồng trẻ nhỏ
Đất nước đau buồn chưa hết, Mỵ Châu ơi!
Lông ngỗng bay như số phận giữa trời
Trọng Thuỷ đứng suốt đời không hết lạ
Vệt lông ngỗng con đường tình trắng xoá
Có ai hay thăm thẳm giếng không cùng
Nhưng chính anh không hay số phận lại điệp trùng
Khi mở mắt, Mỵ Châu em ngồi đó
Toa thứ ba ôm cặp ai nức nở
Suốt đời anh mang tội với con tàu
Sẽ tan đi những thành phố bảy màu
Đôi trái cấm trong vườn đời em, anh làm vỡ
Nhưng giọt mực thứ ba em ơi không thể lỡ
Xin trải lòng ta đón chốn xanh rơi
Giọt mực em thong thả đến trong đời
Không giấu được trong lòng tay nhỏ bé
Viên xúc xắc xoay tròn trong gió xé
Sáu mặt đời lắc cắc tiếng thơ anh.
_____________________________
MÙA HOA CẢI
Có một mùa hoa cải
Nở vàng bên bến sông
Em đang thì con gái
Đợi anh chưa lấy chồng.
Anh rụt rè không dám
Hái một bông cải ngồng
Sợ làm con bướm trắng
Giật mình bay sang sông.
Qua bao mùa hoa cải
Chỉ mình anh biết thôi
Mình anh không dám hái
Hoa cải bay về trời.
Bâng khuâng chiều làng bãi
Không còn hoa cải ngồng
Ai sui anh trở lại
Ngày em đi lấy chồng.
Anh lại gieo hạt cải
Lại âm thầm đợi mong
Có một người con gái
Đợi anh chưa lấy chồng.
_____________________________
HÀ NỘI
Một tình yêu giành cho Hà Nội
Hơn cả tình yêu ...sau này em sẽ tặng cho anh
Là những con đường ...đi mãi thành quen
Những chiều lang thang bỗng thấy mình quá nhỏ
Chầm chậm phóng xe,lắng nghe tiếng gió
Lá rơi nhanh tựa những tiếng thở dài
Những dòng người vẫn tất tả...ngược xuôi
Trống rỗng nhớ mong hoá thành đơn độc
Em biết rằng mình không bao giờ khóc
Mắt chỉ nhoà đi...những giọt lóng lánh...nước mưa
Hà Nội trong em...những phút giao mùa
Là nắng..là mưa...mang lòng về thanh thản
Những ngày thật buồn...quẩn quanh...Quán....
Chưa tìm nổi cho mình một khoảng trống riêng....
Một tình yêu cho những phố cổ rêu phong
Nhỏ nhỏ nghiêng nghiêng thành ra Hà Nội...phố
Em vẫn nghe những bài hát,những nỗi lòng...rất lạ
Là tình yêu của người Hà Nội....
...Đi xa...
...Tìm đến....
....Hay sẽ lại trở về...
Để nhức lòng...bài hát bỗng tái tê
Em vẫn tìm ai...một người Hà Nội
Một người chấp nhận tình yêu...khờ dại
Nơi ấy là Hà Nội
Người ấy là người Hà Nội...
Phải không anh?
Anh biết đấy...Hà Nội màu xanh
Xanh của trời mây,...những hàng cây....và gió
Những hồ nước...lao xao sóng vỗ
Bình lặng đến lạ kỳ
Là những nụ cười...Hà Nội thân yêu
Em gặp...và sẽ không bao giờ quên được
Anh đấy...em đây...và biết bao người khác
Một tình yêu chung...xa lạ bỗng hoá gần.
Có thể có...và cũng có thể không
Nhưng với em-Hà Nội vẫn sẽ là Hà Nội
Nơi mà dù một mình trong bóng tối
Em vẫn luôn tìm được một chỗ dựa...bình yên...
_____________________________
CỎ
Lúc nào em cũng ước mơ
Một ngày bình yên được nằm trên cỏ
Và hôm nay trong buổi chiều lặng gió
Được gối đầu lên cỏ, bên anh.
Nhìn mây trắng trôi trong giây phút bồng bềnh
Anh ngồi quạt cho em lim dim ngủ
Em nghe thấy bình yên về trú ngụ
Trên bàn tay anh vuốt lọn tóc mai
Đâu còn thấy tiếng thời gian thở dài
Bọn mình đang ở xa Hà Nội
Em nằm nghe gió sông Hồng thổi
Như trong bài ca mình đã hát cùng nhau
Em nằm đây và thấy mọi nõi đau
Từ cái thưở ngày xưa bỗng nhẹ nhàng tan biến
Mở mắt thấy nụ cười anh hiển hiện
Bỗng thấy quanh mình đầy cỏ, đầy hoa
Em biết rồi một ngày anh sẽ phải đi xa
Tới Berlin, Maxcơva...hay một nơi nào đó
Mong anh không bao giờ quên một nơi đầy cỏ
Có hai người lặng lẽ bên nhau.
_____________________________
ĐI HẾT MỘT MÙA THU
Lá rụng vàng nơi phố cũ ngày xưa,
Thu đọng lại nỗi buồn thời xa vắng
Anh ra đi không một lời từ biệt
Phố than buồn đơn lẻ một mình em .....
Biết đến bao giờ em mới gặp lại anh
Để được đi bên anh hồn nhiên như ngày ấy
Câu từ biệt ngàn đời không nói nổi
Xa anh rồi thương nhớ cứ đầy vơi...
Em quay về với con phố bình yên ,
Sống lặng lẽ tháng ngày không nguyện ước
Kỷ niệm xưa một đôi lần đánh thức
Những ngọt ngào âu yếm thủa yêu thương ......
_____________________________
MÙA XUÂN-Tagor
Đôi ta ở bên nhau
Khi mùa xuân gõ cửa
Hãy để cho tôi vào
Xuân mang cho lứa đôi
Tiếng thầm của niềm vui
Tiếng nhẹ nhàng rung khẽ
Của mầm non mới hé
Ta đang mãi trầm tư
Em bên xe quay sợi
Mùa xuân dần đi xa
Và đột nhiên biến vội
Cùng với những cánh hồng
Nở muộn trên cành hoa
Hỡi em yêu bây giờ
En không còn đây nữa
Mùa xuân lại gõ cửa
Hãy để cho tôi vào
Xuân chỉ còn mang đến
Tiếng lá khô xào xạc
Tiếng gù chim bồ câu
Ta ngồi bên cửa sổ
Và một bóng mơ hồ
Ngồi bên ta lặng lẽ
Buồn se những mộng mơ
Và mùa xuân không còn
Những nỗi đau thầm nữa
Để mang đến cho ta
Mùa xuân mà muôn nhà
Đón tưng bừng vào cửa
_____________________________
CHO ANH VÀ CHO EM
Không phải chuyện người con gái bỏ đi xa
Hay về một người nào đã chết
Không phải chuyện ngã lòng trước chông gai mỏi mệt
Hay một phút yếu lòng nói dối trước tình yêu
Em cứ nói đi, cứ nói biết bao nhiêu
Thì câu chuyện tình, chuyện đời vẫn thế
Anh vẫn là anh, vẫn tiếng cười ngạo nghễ
Em lại là em, anh lại trở về anh
Đừng nhắc lại lời xin lỗi chân thành
Mong manh lắm, nếu phải kìm nước mắt
Nếu đã một lần, em thấy lòng đau cắt
Thì đấy là anh, là phút cuối cùng
Hãy cứ nói đi chớ có ngại ngùng
Có gì đâu, còn gì đâu nữa chứ
Con Gấu Mèo vẫn nằm vô tư lự
Nó bảo rằng chuyện mình chẳng đáng đâu
Đừng bảo anh mình hôn nhau lần cuối thật sâu
Để sau này không có nhiều tiếc nuối
Thì em ơi những điều là sau cuối
Suốt cuộc đời chẳng quên nổi đâu em
Đừng bảo anh nếu nhớ hãy lấy ảnh ra xem
Con Gấu Mèo cũng bảo chuyện chúng mình không đáng
Đừng bảo anh thử đi về dĩ vãng
Chẳng còn gì níu nổi bước hai ta
Em hiểu lòng anh, anh hiểu hai ta
Sẽ chẳng còn gì cho nhau nữa cả
Những nụ cười, ánh mắt, hay bờ vai êm ả
Em hãy quên đi, em cố quên đi
Nếu có đứa hỏi chúng mày giờ gọi nhau là gì?
Anh sẽ gọi em là kỉ niệm
Để một ngày nếu có điều màu nhiệm
Kỉ niệm sẽ về đúng chỗ bên anh.
Không phải chuyện người con gái bỏ đi xa
Hay về một người nào đã chết
Không phải câu chuyện tình yêu đã hết
Chỉ là một người đã chán rồi đi...
_____________________________
Thơ Tình Yêu
LỜI CỦA MẮT
Phút biết anh là phút gặp mắt anh nhìn
Phút hiểu anh cũng là phút ấy
Vì giếng quá trong nên dễ nhìn thấy đáy
Vì mắt quá trong nên mắt nói rất nhiều.
Có lẽ mắt muôn đời vẫn nói hộ lời yêu
Em chẳng dám nhìn nhiều đôi mắt ấy
Đừng hỏi em không nhìn sao thấy
Cho em hỏi một lời:"sao anh cứ nhìn em?"
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
BÀI THƠ KHÔNG THỂ ĐẶT TÊN
Biết trái tim chẳng có tội gì đâu
Khi anh không thể yêu em hơn nữa
Biết chuyện chúng mình rồi sẽ thành tan vỡ
Vẫn bất ngờ,vẫn tiếc nuối,ngẩn ngơ...
Chẳng muốn tin đâu anh đã dối lừa
Tình yêu cả tin em trao anh nồng cháy
Chẳng muốn tiếc về thời nông nổi ấy
Em bồi hồi,em vội vã,em yêu...
Hãy tha thứ nghe anh có biết bao điều
Em không thể và chúng mình... không thể
Sao hôm _Sao mai cách xa đến thế
Câu thơ này có tới được cùng anh
Có ích gì đâu biển cứ mãi biếc xanh
Em mãi yêu anhmột tình yêu ...không thể
Nắng quái chiều đang tìm về chốn ngủ
Em bé nhỏ tội tình biết trú ngụ về đâu.LOVE U!
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
SẮC TÍM DẠI KHỜ
Anh có thể là chỗ dựa của em không?
Em yếu đuối nên cần che chở
Em hay vấp nên cần nâng đỡ
Em dại khờ nên chẳng biết lo toan
Em đem cả cuộc đời phó mặc cho anh
Dù may rủi thôi cũng đành cam chịu
Yêu thương ơi,chắc rồi anh sẽ biết
Khi yêu em anh sẽ khổ rất nhiều
Nếu có thể sương tan vào cỏ
Thì em tin cỏ sẽ rất xanh
Nếu có thể em tin vào anh
Thì em tin anh cũng xanh nhu cỏ.
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
GIỮA HAI CHIỀU QUÊN NHỚ
Chưa đủ nhớ để gọi là yêu
Chưa đủ quên để thành xa lạ
Anh ám ảnh em giữa hai chiều nghiệt ngã
Ngiêng bên này lại chống chếnh bên kia
Ngôi sao nào thổn thức giữa trời khuya
Dịu dàng quá lời thì thầm của gió
Ngủ ngoan thôi ngọn cỏ mềm bé nhỏ
Biết đâu chừng thiên sứ đứng vây quanh
Trái tim đa mang trở tình yêu chòng chành
Quên với nhớ lắc lư nhịp sóng
Anh là gì giữa bốn bề vang vọng
Em ngẹn lòng khi thốt gọi thành tên.
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
TRĂNG KHUYẾT
Anh ngỏ lời yêu em
Vào một đêm trăng khuyết
Bởi tình yêu tha thiết
Biết tròn trước đêm rằm
Em vui lúc trăng tròn
Chạnh lòng khi trăng khuyết
Anh ơi anh có biết
Trăng hay tình lứa đôi?
Sao anh vội ngỏ lời
Vào một đêm trăng khuyết
Để bây giờ thầm tiếc
Một vầng trăng chưa tròn!
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhang
HUYỀN THOẠI MỘT TÌNH YÊU
Giá như được một chén say mà ngủ suốt triệu năm
Lúc tỉnh dậy anh đã chia tay với người con gái ấy
Giá được anh hẹn hò dù phaỉ đợi lâu đến mấy
Em vẫn chờ như thể một tình yêu
Em vẫn chờ như hòn đá biết xanh rêu
Của bến sông xa mùa cạn nước
Cơn mưa khát trong nhau từ thủa trước
Sắc cầu vồng chấp chới phía xa xa.
Em vẫn chờ như lúa đợi sấm tháng ba
Như vạt cải đơm hoa đợi ngày chia cánh bướm
Như cô Tấm thương chồng từ kiếp trước
Lộn lại kiếp này để nhận ra nhau.
Em ở hiền em có ác chi đâu
Mà trời lai xui anh bắt đầu tình yêu với người con gái khác
Có phải rượu đâu mà phải đợi cho rượu nhạt
Có phải trầu đâu mà đợi trầu dập mới cay
Em vẫn chờ...vẫn đợi ...vẫn say...
Ngâu xa nhau ngâu có ngày gặp lại
Kim_Kiều lỡ duyên chẳng thể là mãi mãi
Em vẫn chờ...vẫn đợi
Dẫu chỉ là......Huyền thoại một tình yêu.....
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
NHỮNG PHÚT XAO LÒNG-Thuận Hữu
Có thể vợ mình xưa cũng có một người yêu
(Người ấy gọi vợ mình là người yêu cũ)
Cũng như mình thôi, mình ngày xưa cũng thế
Yêu một cô, giờ cô ấy đã có chồng.
Có thể vợ mình những phút mềm lòng
Nên giấu kín những suy tư không kể về giấc mộng
Người yêu cũ vợ mình có những điều mà chính mình không có được
Cô ấy không nói ra vì sợ mình buồn
Mình cũng có những phút giây cảm thấy xao lòng
Khi gặp người yêu xưa với những điều vợ mình không có được
Nghĩ về cái đã qua nhiều khi nuối tiếc
Mình cũng chẳng nói ra vì sợ vợ buồn
Sau những lần nghĩ đến đâu đâu mình thương vợ mình hơn
Và cảm thấy như mình có lỗi
Chắc vợ mình hiểu điều mình không nói
Cô ấy cũng thương yêu và chăm chút mình hơn
Mà có trách chi những phút xao lòng
Ai cũng có một thời để yêu và một thời để nhớ
Ai cũng có những phút giây ngoài chồng ngoài vợ
Đừng trách chi những phút xao lòng!
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
NGỌN NẾN
Đã bao lần tôi ngắm nhìn ngọn nến
Sáng bừng lên trong bóng tối đêm đen
Ngọn nến mảnh mai, thân nến yếu mềm
Vẫn thắp sáng tim mình thành ngọn lửa
Dẫu thời gian trôi, nến không là nó nữa
Sẽ ngắn dần và lệ úa quanh thân
Nến vẫn cháy lên, tự đốt chính thân mình
Cho ngọn lửa mà không hề nuối tiếc
Có phải chăng vì quá yêu, mãnh liệt
Hay ngây thơ, khờ dại cũng bởi yêu?
Dù biết đớn đau, sẽ phải khóc thật nhiều
Nến vẫn nguyện hết mình để tình yêu cháy sáng
Dẫu thắp chỉ một lần, một lần thôi rất ngắn
Hay sẽ cháy cả đời chỉ bởi một tình yêu
Hay dẫu có yêu, dẫu trải qua rất nhiều
Nhưng cuộc sống thiếu tình yêu - vô nghĩa ...
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
THƠ TẶNG MỘT NGƯỜI
Không hiểu sao mãi chẳng thể nào quên
Khoảng trời trong veo đôi mắt ấy
Phút đầu tiên anh nhìn em bối rối
Gọi thu về nhóm ngon lửa đầu tiên.
Tình yêu đầu tựa sắc cỏ dịu êm
Đôi mắt yêu thương đốt lòng em lửa cháy
Anh dịu dàng như mùa thu ấy
Và đáng yêu tựa đôi mắt haycười
Và bây giờ thì xa cách vô biên
Anh đã quên?Sẽ quên?Còn em thì vẫn nhớ
Khoảng trời năm xưa bình yên nho nhỏ
Rất dịu dàng trong đôi mắt nhìn em
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
HAI SẮC HOA TI-GÔN
Một mùa thu trước ,mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu thương
Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dãi đường xa vút bóng chiều phong
Và phương trời thẳm mờ sương cát
Tay vít cành hoa trắng chạnh lòng
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng hoa dáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi
Thuở đó nào tôi đã biết gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp :’Mùa hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy’.
Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời gian khổ chết yêu đương
Người xa xăm quá!-Tôi buồn lắm
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường
Từ đấy thu rồi thu lại thu
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy cho nên vẫn hững hờ
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn dấu trong tim bóng ‘một người’
Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Sắc hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm pha
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi
Đêm nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ
Chiều thu hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng
Người ấy sang sông đứng ngóng đò
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi người ấy có buồn không
Có thầm nghĩ đến loài... hoa vỡ
Tựa trái tim phai tựa máu hồng
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
NGƯỜI THỨ HAI
Mẹ đừng buồn khi anh ấy yêu con
Bởi trước con anh ấy là của mẹ
Anh ấy có thể yêu con_một thời trai trẻ
Nhưng suốt đời anh ấy yêu mẹ,mẹ ơi!
Mẹ đã sinh ra anh ấy ở trên đời
Hình bóng mẹ lắng vào tim anh ấy
Dẫu bây giờ con được yêu đến vậy
Con cũng chỉ là người đàn bà thứ hai.
Mẹ đừng buồn những hoàng hôn, những ban mai
Anh ấy có thể nhớ con hơn nhớ mẹ
Nhưng con cũng chỉ là cơn gió nhẹ
Mẹ luôn là bến bờ thương nhớ cả đời anh
Con chỉ là cơn mưa mỏng manh
Người đàn bà khác có thể thay thế con trong trái tim anh ấy
Nhưng có một tình yêu trọn đời âm ỉ cháy
Anh ấy chỉ dành riêng cho mẹ mà thôi
Anh ấy có thể sống với con suốt trọn cuộc đời
Cũng có thể chia tay ngay ngày mai,có thể!
Nhưng anh ấy suốt đời yêu mẹ
Dù thế nào con cũng chỉ thứ hai.
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
VẦNG TRĂNG KHUYẾT
Thôi anh ạ!Đừng đợi chờ nhau nữa
Chiếc hôn xưa nay đã vội thay màu
Em cứ tưởng mình em là duy nhất
Nên dại khờ lỡ đánh mất anh yêu
Chuyện hôm qua dễ có đến trăm điều
Em không biết bắt đầu từ đâu nữa
Như trăm sông luôn đổ về biển cả
Âm hưởng vui buồn xin trả lại cho anh
Em chợt hiểu rằng hạnh phúc mong manh
Như làn khói khó cầm nhưng dễ mất
Anh đã đến,vội đi,tình đã khuất
Vầng trăng cuộc đời khuất mãi không thôi.
Mọi con đường giờ mãi mãi chia đôi
Yêu thương lắm rồi cũng thành dâu bể
Em sẽ viết thành câu chuyện kể
Bởi kí ức một thời đâu dễ xoá trong nhau!
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
THƠ TÌNH NGÀY KHÔNG ANH
Nếu biết rằng sẽ chẳng gặp lại nhau
Em đã chẳng hẹn nhau đêm ấy nữa
Để quá khứ chỉ còn là thương nhớ
Và tương lai ít ra cũng ngọt ngào.
Nếu biết rằng sẽ chẳng gặp lại nhau
Em đã chẳng đổ cho anh bao tội lỗi
Em đứng lặng mắt nhìn ai không nói
Anh cũng vô tình có hiểu nổi em đâu
Nếu biết rằng sẽ chẳng gặp lại nhau
Em đã chẳng trách anh yêu người khác
Điều đơn giản bây giờ em mới biết
Thì anh xa,anh đã qua xa rồi
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
MỘT CHIỀU NGƯỢC GIÓ
Em ngược đường, ngược nắng để yêu anh
Ngược phố tan tầm, ngược chiều gió thổi
Ngược lòng mình tìm về nông nổi
Lãng du đi vô định cánh chim trời
Em ngược thời gian, em ngược không gian
Ngược đời thường bon chen tìm về mê đắm
Ngược trái tim tự bao giờ chai lặng
Em đánh thức nỗi buồn, em gợi khát khao xanh
Mang bao điều em muốn nói cùng anh
Chợt sững lại trước cây mùa trút lá
Trái đất sẽ thế nào khi mầu xanh không còn nữa
Và sẽ thế nào khi trong anh không em?
Em trở về im lặng của đêm
Chẳng còn nữa người đông và bụi đỏ
Phố bỗng buồn tênh, bờ vai hút gió
Riêng chiều này - em biết, một mình em...
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
THƠ TÌNH CUỐI MÙA THU
Cuối trời mây trắng bay
Lá vàng thưa thớt quá
Phải chăng lá về rừng
Mùa thu đi cùng lá
Mùa thu ra biển cả
Theo dòng nước mênh mang
Mùa thu và hoa cúc
Chỉ còn anh và em
Chỉ còn anh và em
Là của mùa thu cũ
Chợt làn gió heo may
Thổi về xao động cả:
Lối đi quen bỗng lạ
Cỏ lật theo chiều mây
Đêm về sương ướt má
Hơi lạnh qua bàn tay
Tình ta như hàng cây
Đã bao mùa gió bão
Tình ta như dòng sông
Đã yên ngày thác lũ.
Thời gian như là gió
Mùa đi cùng tháng năm
Tuổi theo mùa đi mãi
Chỉ còn anh và em
Chỉ còn anh và em
Cùng tình yêu ở lại...
Kìa bao người yêu mới
Đi qua cùng heo may.
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
Phút biết anh là phút gặp mắt anh nhìn
Phút hiểu anh cũng là phút ấy
Vì giếng quá trong nên dễ nhìn thấy đáy
Vì mắt quá trong nên mắt nói rất nhiều.
Có lẽ mắt muôn đời vẫn nói hộ lời yêu
Em chẳng dám nhìn nhiều đôi mắt ấy
Đừng hỏi em không nhìn sao thấy
Cho em hỏi một lời:"sao anh cứ nhìn em?"
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
BÀI THƠ KHÔNG THỂ ĐẶT TÊN
Biết trái tim chẳng có tội gì đâu
Khi anh không thể yêu em hơn nữa
Biết chuyện chúng mình rồi sẽ thành tan vỡ
Vẫn bất ngờ,vẫn tiếc nuối,ngẩn ngơ...
Chẳng muốn tin đâu anh đã dối lừa
Tình yêu cả tin em trao anh nồng cháy
Chẳng muốn tiếc về thời nông nổi ấy
Em bồi hồi,em vội vã,em yêu...
Hãy tha thứ nghe anh có biết bao điều
Em không thể và chúng mình... không thể
Sao hôm _Sao mai cách xa đến thế
Câu thơ này có tới được cùng anh
Có ích gì đâu biển cứ mãi biếc xanh
Em mãi yêu anhmột tình yêu ...không thể
Nắng quái chiều đang tìm về chốn ngủ
Em bé nhỏ tội tình biết trú ngụ về đâu.LOVE U!
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
SẮC TÍM DẠI KHỜ
Anh có thể là chỗ dựa của em không?
Em yếu đuối nên cần che chở
Em hay vấp nên cần nâng đỡ
Em dại khờ nên chẳng biết lo toan
Em đem cả cuộc đời phó mặc cho anh
Dù may rủi thôi cũng đành cam chịu
Yêu thương ơi,chắc rồi anh sẽ biết
Khi yêu em anh sẽ khổ rất nhiều
Nếu có thể sương tan vào cỏ
Thì em tin cỏ sẽ rất xanh
Nếu có thể em tin vào anh
Thì em tin anh cũng xanh nhu cỏ.
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
GIỮA HAI CHIỀU QUÊN NHỚ
Chưa đủ nhớ để gọi là yêu
Chưa đủ quên để thành xa lạ
Anh ám ảnh em giữa hai chiều nghiệt ngã
Ngiêng bên này lại chống chếnh bên kia
Ngôi sao nào thổn thức giữa trời khuya
Dịu dàng quá lời thì thầm của gió
Ngủ ngoan thôi ngọn cỏ mềm bé nhỏ
Biết đâu chừng thiên sứ đứng vây quanh
Trái tim đa mang trở tình yêu chòng chành
Quên với nhớ lắc lư nhịp sóng
Anh là gì giữa bốn bề vang vọng
Em ngẹn lòng khi thốt gọi thành tên.
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
TRĂNG KHUYẾT
Anh ngỏ lời yêu em
Vào một đêm trăng khuyết
Bởi tình yêu tha thiết
Biết tròn trước đêm rằm
Em vui lúc trăng tròn
Chạnh lòng khi trăng khuyết
Anh ơi anh có biết
Trăng hay tình lứa đôi?
Sao anh vội ngỏ lời
Vào một đêm trăng khuyết
Để bây giờ thầm tiếc
Một vầng trăng chưa tròn!
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhang
HUYỀN THOẠI MỘT TÌNH YÊU
Giá như được một chén say mà ngủ suốt triệu năm
Lúc tỉnh dậy anh đã chia tay với người con gái ấy
Giá được anh hẹn hò dù phaỉ đợi lâu đến mấy
Em vẫn chờ như thể một tình yêu
Em vẫn chờ như hòn đá biết xanh rêu
Của bến sông xa mùa cạn nước
Cơn mưa khát trong nhau từ thủa trước
Sắc cầu vồng chấp chới phía xa xa.
Em vẫn chờ như lúa đợi sấm tháng ba
Như vạt cải đơm hoa đợi ngày chia cánh bướm
Như cô Tấm thương chồng từ kiếp trước
Lộn lại kiếp này để nhận ra nhau.
Em ở hiền em có ác chi đâu
Mà trời lai xui anh bắt đầu tình yêu với người con gái khác
Có phải rượu đâu mà phải đợi cho rượu nhạt
Có phải trầu đâu mà đợi trầu dập mới cay
Em vẫn chờ...vẫn đợi ...vẫn say...
Ngâu xa nhau ngâu có ngày gặp lại
Kim_Kiều lỡ duyên chẳng thể là mãi mãi
Em vẫn chờ...vẫn đợi
Dẫu chỉ là......Huyền thoại một tình yêu.....
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
NHỮNG PHÚT XAO LÒNG-Thuận Hữu
Có thể vợ mình xưa cũng có một người yêu
(Người ấy gọi vợ mình là người yêu cũ)
Cũng như mình thôi, mình ngày xưa cũng thế
Yêu một cô, giờ cô ấy đã có chồng.
Có thể vợ mình những phút mềm lòng
Nên giấu kín những suy tư không kể về giấc mộng
Người yêu cũ vợ mình có những điều mà chính mình không có được
Cô ấy không nói ra vì sợ mình buồn
Mình cũng có những phút giây cảm thấy xao lòng
Khi gặp người yêu xưa với những điều vợ mình không có được
Nghĩ về cái đã qua nhiều khi nuối tiếc
Mình cũng chẳng nói ra vì sợ vợ buồn
Sau những lần nghĩ đến đâu đâu mình thương vợ mình hơn
Và cảm thấy như mình có lỗi
Chắc vợ mình hiểu điều mình không nói
Cô ấy cũng thương yêu và chăm chút mình hơn
Mà có trách chi những phút xao lòng
Ai cũng có một thời để yêu và một thời để nhớ
Ai cũng có những phút giây ngoài chồng ngoài vợ
Đừng trách chi những phút xao lòng!
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
NGỌN NẾN
Đã bao lần tôi ngắm nhìn ngọn nến
Sáng bừng lên trong bóng tối đêm đen
Ngọn nến mảnh mai, thân nến yếu mềm
Vẫn thắp sáng tim mình thành ngọn lửa
Dẫu thời gian trôi, nến không là nó nữa
Sẽ ngắn dần và lệ úa quanh thân
Nến vẫn cháy lên, tự đốt chính thân mình
Cho ngọn lửa mà không hề nuối tiếc
Có phải chăng vì quá yêu, mãnh liệt
Hay ngây thơ, khờ dại cũng bởi yêu?
Dù biết đớn đau, sẽ phải khóc thật nhiều
Nến vẫn nguyện hết mình để tình yêu cháy sáng
Dẫu thắp chỉ một lần, một lần thôi rất ngắn
Hay sẽ cháy cả đời chỉ bởi một tình yêu
Hay dẫu có yêu, dẫu trải qua rất nhiều
Nhưng cuộc sống thiếu tình yêu - vô nghĩa ...
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
THƠ TẶNG MỘT NGƯỜI
Không hiểu sao mãi chẳng thể nào quên
Khoảng trời trong veo đôi mắt ấy
Phút đầu tiên anh nhìn em bối rối
Gọi thu về nhóm ngon lửa đầu tiên.
Tình yêu đầu tựa sắc cỏ dịu êm
Đôi mắt yêu thương đốt lòng em lửa cháy
Anh dịu dàng như mùa thu ấy
Và đáng yêu tựa đôi mắt haycười
Và bây giờ thì xa cách vô biên
Anh đã quên?Sẽ quên?Còn em thì vẫn nhớ
Khoảng trời năm xưa bình yên nho nhỏ
Rất dịu dàng trong đôi mắt nhìn em
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
HAI SẮC HOA TI-GÔN
Một mùa thu trước ,mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu thương
Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dãi đường xa vút bóng chiều phong
Và phương trời thẳm mờ sương cát
Tay vít cành hoa trắng chạnh lòng
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng hoa dáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi
Thuở đó nào tôi đã biết gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp :’Mùa hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy’.
Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời gian khổ chết yêu đương
Người xa xăm quá!-Tôi buồn lắm
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường
Từ đấy thu rồi thu lại thu
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy cho nên vẫn hững hờ
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn dấu trong tim bóng ‘một người’
Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Sắc hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm pha
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi
Đêm nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ
Chiều thu hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng
Người ấy sang sông đứng ngóng đò
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi người ấy có buồn không
Có thầm nghĩ đến loài... hoa vỡ
Tựa trái tim phai tựa máu hồng
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
NGƯỜI THỨ HAI
Mẹ đừng buồn khi anh ấy yêu con
Bởi trước con anh ấy là của mẹ
Anh ấy có thể yêu con_một thời trai trẻ
Nhưng suốt đời anh ấy yêu mẹ,mẹ ơi!
Mẹ đã sinh ra anh ấy ở trên đời
Hình bóng mẹ lắng vào tim anh ấy
Dẫu bây giờ con được yêu đến vậy
Con cũng chỉ là người đàn bà thứ hai.
Mẹ đừng buồn những hoàng hôn, những ban mai
Anh ấy có thể nhớ con hơn nhớ mẹ
Nhưng con cũng chỉ là cơn gió nhẹ
Mẹ luôn là bến bờ thương nhớ cả đời anh
Con chỉ là cơn mưa mỏng manh
Người đàn bà khác có thể thay thế con trong trái tim anh ấy
Nhưng có một tình yêu trọn đời âm ỉ cháy
Anh ấy chỉ dành riêng cho mẹ mà thôi
Anh ấy có thể sống với con suốt trọn cuộc đời
Cũng có thể chia tay ngay ngày mai,có thể!
Nhưng anh ấy suốt đời yêu mẹ
Dù thế nào con cũng chỉ thứ hai.
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
VẦNG TRĂNG KHUYẾT
Thôi anh ạ!Đừng đợi chờ nhau nữa
Chiếc hôn xưa nay đã vội thay màu
Em cứ tưởng mình em là duy nhất
Nên dại khờ lỡ đánh mất anh yêu
Chuyện hôm qua dễ có đến trăm điều
Em không biết bắt đầu từ đâu nữa
Như trăm sông luôn đổ về biển cả
Âm hưởng vui buồn xin trả lại cho anh
Em chợt hiểu rằng hạnh phúc mong manh
Như làn khói khó cầm nhưng dễ mất
Anh đã đến,vội đi,tình đã khuất
Vầng trăng cuộc đời khuất mãi không thôi.
Mọi con đường giờ mãi mãi chia đôi
Yêu thương lắm rồi cũng thành dâu bể
Em sẽ viết thành câu chuyện kể
Bởi kí ức một thời đâu dễ xoá trong nhau!
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
THƠ TÌNH NGÀY KHÔNG ANH
Nếu biết rằng sẽ chẳng gặp lại nhau
Em đã chẳng hẹn nhau đêm ấy nữa
Để quá khứ chỉ còn là thương nhớ
Và tương lai ít ra cũng ngọt ngào.
Nếu biết rằng sẽ chẳng gặp lại nhau
Em đã chẳng đổ cho anh bao tội lỗi
Em đứng lặng mắt nhìn ai không nói
Anh cũng vô tình có hiểu nổi em đâu
Nếu biết rằng sẽ chẳng gặp lại nhau
Em đã chẳng trách anh yêu người khác
Điều đơn giản bây giờ em mới biết
Thì anh xa,anh đã qua xa rồi
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
MỘT CHIỀU NGƯỢC GIÓ
Em ngược đường, ngược nắng để yêu anh
Ngược phố tan tầm, ngược chiều gió thổi
Ngược lòng mình tìm về nông nổi
Lãng du đi vô định cánh chim trời
Em ngược thời gian, em ngược không gian
Ngược đời thường bon chen tìm về mê đắm
Ngược trái tim tự bao giờ chai lặng
Em đánh thức nỗi buồn, em gợi khát khao xanh
Mang bao điều em muốn nói cùng anh
Chợt sững lại trước cây mùa trút lá
Trái đất sẽ thế nào khi mầu xanh không còn nữa
Và sẽ thế nào khi trong anh không em?
Em trở về im lặng của đêm
Chẳng còn nữa người đông và bụi đỏ
Phố bỗng buồn tênh, bờ vai hút gió
Riêng chiều này - em biết, một mình em...
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
THƠ TÌNH CUỐI MÙA THU
Cuối trời mây trắng bay
Lá vàng thưa thớt quá
Phải chăng lá về rừng
Mùa thu đi cùng lá
Mùa thu ra biển cả
Theo dòng nước mênh mang
Mùa thu và hoa cúc
Chỉ còn anh và em
Chỉ còn anh và em
Là của mùa thu cũ
Chợt làn gió heo may
Thổi về xao động cả:
Lối đi quen bỗng lạ
Cỏ lật theo chiều mây
Đêm về sương ướt má
Hơi lạnh qua bàn tay
Tình ta như hàng cây
Đã bao mùa gió bão
Tình ta như dòng sông
Đã yên ngày thác lũ.
Thời gian như là gió
Mùa đi cùng tháng năm
Tuổi theo mùa đi mãi
Chỉ còn anh và em
Chỉ còn anh và em
Cùng tình yêu ở lại...
Kìa bao người yêu mới
Đi qua cùng heo may.
_____________________________
http://360.yahoo.com/tranhangmt
blog thơ tình nè:http://vn.myblog.yahoo.com/tranhangmt
Chiến tranh biên giới đã nổ ra vào ngày này 30 năm trước
Chiến tranh biên giới đã nổ ra vào ngày này 30 năm trước
demphnam viết ngày 17/02/2009 | Có 4 bình luận | 2531 lượt xem
Hôm nay, tròn 30 năm mở màn cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc!
Tôi không có kí ức gì trong ngày 17/2 cả ngoại trừ nỗi nhớ mang máng rằng đó là... sinh nhật của một người bạn thưở thiếu thời (!). Nhưng tôi biết rằng thế hệ những người như bố tôi, mẹ tôi thì chắc là không thể quên nổi. Đúng 30 năm trước, cuộc chiến tranh biên giới Việt Trung đã nổ ra trong vòng một tháng. Với một dân tộc mà 4000 năm lịch sử là 4000 năm "lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa" như dân tộc Việt mình thì có vẻ cuộc chiến tranh này diễn ra quá ngắn ngủi. Nhưng tôi biết rằng chỉ một tháng ngắn ngủi ấy thôi, rất nhiều máu đã đổ, rất nhiều nước mắt của những người mẹ, người vợ, người con... cũng đã cạn theo từng dòng, từng dòng trong tờ giấy có tên gọi là Báo Tử.
Ngày còn đi học, tôi nhớ loáng thoáng mình có được nghe cô giáo lịch sử nhắc đến (chỉ nhắc đến thôi chứ không được học sâu) về cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc. Trong khi đó, cuộc chiến tranh chống Mỹ, chống Pháp thì tất cả chúng tôi học đến từng trận đánh, đến từng con số thương vong. Tôi đã nghĩ ngây thơ rằng, có thể cuộc chiến này "không lớn", cuộc chiến này diễn ra quá nhanh nên chắc chiến công "không được hiển hách" như hai cuộc trường kì kháng chiến còn lại của dân tộc trong thế kỉ 20 nên chắc sách giáo khoa không nói đến nhiều. Sau này, có thời gian tìm hiểu lại, tôi mới hiểu mình ấu trĩ đến nhường nào.
Không có một chiến thắng nào nhất là trong chiến tranh mà không phải đổi bằng máu và nước mắt! Không có cuộc chiến nào "lớn" và "không lớn", "vinh quang" và ít "vinh quang" khi máu đã phải đổ xuống để bảo vệ nền độc lập của dân tộc này. Tôi nhớ đã có lần hỏi bố về cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc. Bố đã nói rành rọt: ngày 17/2, quân Tàu Khựa tràn qua biên giới, đánh phá những vùng đất địa đầu của Tổ quốc, bố tôi đã giận đến run người và nghĩ rằng, có thể mình sẽ lại cầm súng ra đi một lần nữa. Những "người anh em núi liền núi, sông liền sông chung một biển Đông thắm tình hữu nghị" đã đối xử với chúng ta như thế đó?
Thông qua những tác phẩm văn học, tôi còn biết được rằng ngay từ những năm đầu thập kỉ 70, TQ đã đuổi các lưu sinh viên của VN về nước và cáo buộc chúng ta bằng cái tên "Đít ngồi hai ghế". Mối quan hệ với "người láng giềng tử tế này" đã không còn thắm thiết như cái thời "Hồ Chí Minh - Mao Trạch Đông" ngay từ những năm cuối của thập kỉ 60 chứ chẳng phải đến những năm 70 của thế kỉ này. Người anh em hữu nghị này chưa bao giờ tử tế với chúng ta ngay cả khi cả hai đã xác định "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai". Trường Sa và Hoàng Sa chẳng phải là một minh chứng đó sao?
Một cuộc chiến tranh nổ ra, tại sao thế hệ trẻ như chúng tôi không được biết đến hoặc có biết đến cũng chỉ là thoáng qua qua những lời kể của người lớn? Máu đã đổ, nước mắt đã rơi và giọt máu nào cũng đáng quý như nhau tại sao những con người đã hi sinh cho cuộc kháng chiến chống quân Khựa bẩn giành lại từng dải đất thiêng liêng nơi địa đầu Tổ quốc lại không được công khai tôn vinh như trong những cuộc chiến khác?
Sẽ ra sao khi giới trẻ chúng tôi quên đi những nỗi đau của dân tộc, quên đi những gì "người bạn lớn Trung Hoa" đã gây ra cho dân tộc này và mụ mị với những món đồ nhái "y như thật" rẻ tiền và lấp lánh mà người Tàu đang tràn sang hàng ngày, hàng ngày trên những cửa khẩu biên giới? Nếu chúng tôi quên đi thì sau này, hỏi ai còn nhớ?
Huong bui thi's blog
demphnam viết ngày 17/02/2009
demphnam viết ngày 17/02/2009 | Có 4 bình luận | 2531 lượt xem
Hôm nay, tròn 30 năm mở màn cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc!
Tôi không có kí ức gì trong ngày 17/2 cả ngoại trừ nỗi nhớ mang máng rằng đó là... sinh nhật của một người bạn thưở thiếu thời (!). Nhưng tôi biết rằng thế hệ những người như bố tôi, mẹ tôi thì chắc là không thể quên nổi. Đúng 30 năm trước, cuộc chiến tranh biên giới Việt Trung đã nổ ra trong vòng một tháng. Với một dân tộc mà 4000 năm lịch sử là 4000 năm "lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa" như dân tộc Việt mình thì có vẻ cuộc chiến tranh này diễn ra quá ngắn ngủi. Nhưng tôi biết rằng chỉ một tháng ngắn ngủi ấy thôi, rất nhiều máu đã đổ, rất nhiều nước mắt của những người mẹ, người vợ, người con... cũng đã cạn theo từng dòng, từng dòng trong tờ giấy có tên gọi là Báo Tử.
Ngày còn đi học, tôi nhớ loáng thoáng mình có được nghe cô giáo lịch sử nhắc đến (chỉ nhắc đến thôi chứ không được học sâu) về cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc. Trong khi đó, cuộc chiến tranh chống Mỹ, chống Pháp thì tất cả chúng tôi học đến từng trận đánh, đến từng con số thương vong. Tôi đã nghĩ ngây thơ rằng, có thể cuộc chiến này "không lớn", cuộc chiến này diễn ra quá nhanh nên chắc chiến công "không được hiển hách" như hai cuộc trường kì kháng chiến còn lại của dân tộc trong thế kỉ 20 nên chắc sách giáo khoa không nói đến nhiều. Sau này, có thời gian tìm hiểu lại, tôi mới hiểu mình ấu trĩ đến nhường nào.
Không có một chiến thắng nào nhất là trong chiến tranh mà không phải đổi bằng máu và nước mắt! Không có cuộc chiến nào "lớn" và "không lớn", "vinh quang" và ít "vinh quang" khi máu đã phải đổ xuống để bảo vệ nền độc lập của dân tộc này. Tôi nhớ đã có lần hỏi bố về cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc. Bố đã nói rành rọt: ngày 17/2, quân Tàu Khựa tràn qua biên giới, đánh phá những vùng đất địa đầu của Tổ quốc, bố tôi đã giận đến run người và nghĩ rằng, có thể mình sẽ lại cầm súng ra đi một lần nữa. Những "người anh em núi liền núi, sông liền sông chung một biển Đông thắm tình hữu nghị" đã đối xử với chúng ta như thế đó?
Thông qua những tác phẩm văn học, tôi còn biết được rằng ngay từ những năm đầu thập kỉ 70, TQ đã đuổi các lưu sinh viên của VN về nước và cáo buộc chúng ta bằng cái tên "Đít ngồi hai ghế". Mối quan hệ với "người láng giềng tử tế này" đã không còn thắm thiết như cái thời "Hồ Chí Minh - Mao Trạch Đông" ngay từ những năm cuối của thập kỉ 60 chứ chẳng phải đến những năm 70 của thế kỉ này. Người anh em hữu nghị này chưa bao giờ tử tế với chúng ta ngay cả khi cả hai đã xác định "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai". Trường Sa và Hoàng Sa chẳng phải là một minh chứng đó sao?
Một cuộc chiến tranh nổ ra, tại sao thế hệ trẻ như chúng tôi không được biết đến hoặc có biết đến cũng chỉ là thoáng qua qua những lời kể của người lớn? Máu đã đổ, nước mắt đã rơi và giọt máu nào cũng đáng quý như nhau tại sao những con người đã hi sinh cho cuộc kháng chiến chống quân Khựa bẩn giành lại từng dải đất thiêng liêng nơi địa đầu Tổ quốc lại không được công khai tôn vinh như trong những cuộc chiến khác?
Sẽ ra sao khi giới trẻ chúng tôi quên đi những nỗi đau của dân tộc, quên đi những gì "người bạn lớn Trung Hoa" đã gây ra cho dân tộc này và mụ mị với những món đồ nhái "y như thật" rẻ tiền và lấp lánh mà người Tàu đang tràn sang hàng ngày, hàng ngày trên những cửa khẩu biên giới? Nếu chúng tôi quên đi thì sau này, hỏi ai còn nhớ?
Huong bui thi's blog
demphnam viết ngày 17/02/2009
30 năm chiến tranh biên giới Việt Trung 1979-2009
30 năm chiến tranh biên giới Việt Trung 1979-2009
17/02/2009 - 13:14 Bảo Vũ
Có lẽ phải sống trong những giờ phút đầu tiên khi chiến tranh Việt Trung bùng nổ mới cảm nhận được nỗi lo lắng, băn khoăn của nhiều người dân Việt Nam thời đó.
Bình chọn (0)
Ý kiến (0)
Chia sẻ
Bản in
Thắc mắc của giới trẻ về cuộc chiến
Cuộc chiến tranh biên giới Việt - Trung đã qua đi hơn 30 năm nhưng cho đến tận bây giờ vẫn còn có những câu hỏi không có trả lời. Thế hệ trẻ cả hai nước vẫn đang tự hỏi là tại sao cuộc chiến này không được truyền thông chính thống nhắc tới và những người lính đã hy sinh trong cuộc giao tranh ngắn ngủi này hiện đang ở đâu trong lòng dân tộc?
Ba mươi năm nhìn lại
Sau thời gian tranh cãi căng thẳng, và nhiều khi lên tới mức thóa mạ lẫn nhau trên các diễn đàn quốc tế và phương tiện truyền thông, cuối cùng chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc đã nổ ra cách nay 30 năm, vào ngày 17.2.1979. Trong ngày định mệnh đó, Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đồng loạt mở nhiều cuộc tấn công ở các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam. Sở dĩ gọi là “định mệnh” vì ngày 17.2.79 đánh dấu sự đổ vỡ toàn diện trong quan hệ giữa ba nước: nước Việt Nam thống nhất với tên mới là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và Campuchia Dân Chủ.
Trước đó, mối quan hệ, ít nhất cũng giữa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa với Trung Quốc, được xem là 'cực kỳ thắm thiết', 'môi hở răng lạnh', không chỉ vì vị trí địa lý 'núi liền núi, sông liền sông' mà còn vì thể chế chính trị cộng sản tương đồng.
Thế giới tỏ ra hoang mang khi tiếng súng từ các tỉnh biên giới phía Bắc vang vọng. Bài viết của Tiến sĩ Henri Kissinger, cựu Cố vấn Tổng thống Richard Nixon, trong thời kỳ đó đã mô tả sự sững sờ khi ông cho biết đại ý rằng vào thời điểm 1975 dù người có óc tưởng tượng phong phú đến đâu chăng nữa cũng không thể ngờ trong thời gian ngắn ngủi, chưa tới bốn năm, quan hệ giữa các nước cộng sản trong vùng Châu Á lại có thể xấu một cách nghiêm trọng đến thế. Một trong những nguyên nhân Bắc Kinh trưng dẫn trước dư luận thế giới cũng như biện luận trước công luận trong nước là họ phải mở cuộc tấn công nhằm ngăn chận “tham vọng điên cuồng” của “tiểu bá Việt Nam” khi Việt Nam mở cuộc tấn công Campuchia. Bắc Kinh cũng cho hay họ bị Việt Nam khiêu khích ở vùng biên giới chung giữa hai nước.
Trong khi đó lập luận chính của Hà Nội là sở dĩ Việt Nam buộc lòng phải đánh trả Trung Quốc trong cuộc “chiến tranh bảo vệ tổ quốc” là để ngăn chặn 'âm mưu thâm hiểm' bắt nguồn từ hàng nghìn năm trước và nay các nhà lãnh đạo Trung Quốc đương thời dưới quyền ông Đặng Tiểu Bình tiếp nối. Âm mưu đó là giấc mộng 'bá quyền nước lớn' của 'bọn bành trướng Bắc Kinh' lúc nào cũng muốn 'thôn tính' Việt Nam. Vẫn theo chính quyền Việt Nam, để thực hiện ý đồ này, Trung Quốc đã sử dụng “bè lũ Pol Pot Ieng Sary” gây cuộc chiến ở vùng Tây Nam Việt Nam đồng thời khiêu khích ở biên giới phía Bắc. Trước hai gọng kìm này, Việt Nam nói rằng họ buộc lòng phải đánh trả. Các tài liệu sau này cho thấy có vẻ như Việt Nam bị bất ngờ khi Trung Quốc mở cuộc tấn công: Vào đúng ngày đó Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Tổng Tham mưu Trưởng Văn Tiến Dũng đang có mặt tại Phnom Penh. Giới lãnh đạo Việt Nam dường như không ngờ rằng Trung Quốc lại có thể mạnh tay đến thế dù trước đó hai bên đều đã rất mạnh miệng.
Một trong những lý do có thể khiến Việt Nam cho rằng Trung Quốc sẽ không dám mở cuộc tấn công là vì trước đó hơn hai tháng, vào ngày 3.11.1978 Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đích thân tới Liên Xô để ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Xô. Bản hiệp ước nêu rõ: “Trong trường hợp một trong hai bên bị tiến công, hoặc bị đe dọa tiến công, thì hai bên ký hiệp ước sẽ lập tức trao đổi ý kiến với nhau nhằm loại trừ mối đe dọa đó, và áp dụng những biện pháp thích đáng và có hiệu lực để bảo đảm hòa bình và an ninh của hai nước”.
Sau ngày 17/2/1979, khi Việt Nam - “một trong hai bên” bị Trung Quốc mạnh tay thì “biện pháp thích đáng” mà Liên Xô, áp dụng là Mátscơva đã hết sức mạnh miệng, và chỉ có thế, để bảo vệ Hà Nội.
Việt-Miên-Thái
Ngay sau khi Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Xô được ký, vào ngày 7.1.1979 quân Việt Nam tiến vào thủ đô Phnom Penh để “giải phóng nhân dân Campuchia thoát khỏi bè lũ diệt chủng Pol Pot, Ieng Sary”. Trước ngày đó, toàn bộ quân Campuchia Dân Chủ, tức Khmer Đỏ, đã rút lui rất trật tự, bỏ lại Phnom Penh hoàn toàn trống vắng cho quân đội Nhân dân Việt Nam. Nhiều người đã mô tả: về phương diện quân sự thuần túy đây là cuộc lui quân “tuyệt vời”.
Sau khi Việt Nam 'chiếm' hoặc 'giải phóng' Campuchia, tùy quan điểm của người nhìn sự kiện, hai quốc gia lớn trong khu vực là Việt Nam và Thái Lan ở thế trực tiếp đối đầu với nhau mà không còn nước Campuchia đệm ở giữa.
Trong suốt chiều dài lịch sử, Việt Nam và Thái Lan luôn luôn muốn tranh dành ảnh hưởng tại Xứ Chùa Tháp và do vậy đều muốn trực tiếp can thiệp vào việc cai trị xứ này. Trước đây, nếu Việt Nam đã đưa được một Nặc Ông thân Việt nào đó lên ngôi báu thì Xiêm La (tên cũ của Thái Lan) cũng sẽ tìm cách đưa Nặc Ông khác, thân Xiêm La, lên thay thế. Vì thế không có gì là lạ sau ngày 7/1/1979 Thái Lan là một trong những nước mạnh mẽ nhất lên án Việt Nam 'xâm lăng' Campuchia.
Lòng dân tộc
Ngay sau ngày 17/2/1979, cảnh tượng từng đoàn xe thiết giáp và xe quân sự các loại chở đầy ắp bộ đội cắm đầy cành lá ngụy trang hối hả từ Campuchia qua các tỉnh miền Tây về ngang Thành phố Hồ Chí Minh hoặc tụ về một trong những địa điểm tập kết chính là ga xe lửa Sóng Thần, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 10 km để về Bắc, khiến nhiều người dân miền Nam nhớ về ngày 30/4/1975, ngày “hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn” như lời cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Có lẽ phải sống trong những giờ phút đầu tiên khi chiến tranh Việt Trung bùng nổ mới cảm nhận được nỗi lo lắng, băn khoăn của nhiều người dân Việt, trong đó có người dân miền Nam. Dù vậy, trước tin đất nước bị xâm lăng, rất nhiều người hăng hái muốn được góp tay bảo vệ đất nước. Lúc đó, tin tức chiến sự, thời sự trên các phương tiện truyền thông đại chúng, từ báo chí tới truyền hình, truyền thanh, nhất là tin từ các đài truyền thanh nước ngoài, được người dân chăm chú lắng nghe. Lòng yêu nước nồng nàn đã được khơi dậy nơi mỗi người dân Việt với niềm tin đất nước đánh thắng mọi kẻ thù hung hãn. Những tấm gương “anh hùng, dũng sĩ diệt bọn bành trướng Bắc Kinh và bè lũ diệt chủng Pol Pot” liên tục được phát trên các phương tiện truyền thông đại chúng trong nước.
Trong khi đó, ở Trung Quốc người dân cũng nức lòng tham gia tòng quân để "kìm hãm tham vọng của Việt Nam và cho chúng bài học hạn chế thích hợp", như lời lãnh tụ Đặng Tiểu Bình. Thế hệ trẻ ngày nay tại Trung Quốc cho hay họ được người lớn dạy rằng người Việt Nam là “bọn xấu và hết sức vô ơn, tàn nhẫn”. Trung Quốc kể ra rằng trong thời chiến tranh, họ đã “giúp đỡ vô điều kiện về người và của để miền Bắc giải phóng miền Nam Việt Nam”. “Số cố vấn, chuyên gia và kỹ thuật Trung Quốc sang giúp Việt Nam từ năm 1950 đến năm 1978 tổng số có đến 20.000 người” và “từ năm 1965 tới năm 1970” Trung Quốc đã “phái hơn ba mươi vạn bộ đội Trung Quốc sang giúp Việt Nam” (hồi ký Hoàng Văn Hoan).
Câu hỏi không lời đáp
Ba mươi năm đã trôi qua, lịch sử đã sang trang. Ngày nay, nhìn về quá khứ có lẽ nhiều người trẻ Việt Nam lẫn Trung Quốc vẫn đang tự hỏi: “Tại sao ngày đó chiến tranh lại nổ ra”. Một trong những điều mà có lẽ các bạn trẻ băn khoăn nhất là: “Tại sao sự kiện chiến tranh biên giới hoàn toàn không được truyền thông nhà nước nhắc tới. Những người từng tham gia và hy sinh trong cuộc chiến ngắn ngủi nhưng cực kỳ đẫm máu cách nay 30 năm hiện ở đâu trong lòng dân tộc”.
Đối với một số người, trên bàn cờ lịch sử hình như con Tốt đã sang sông.
17/02/2009 - 13:14 Bảo Vũ
Có lẽ phải sống trong những giờ phút đầu tiên khi chiến tranh Việt Trung bùng nổ mới cảm nhận được nỗi lo lắng, băn khoăn của nhiều người dân Việt Nam thời đó.
Bình chọn (0)
Ý kiến (0)
Chia sẻ
Bản in
Thắc mắc của giới trẻ về cuộc chiến
Cuộc chiến tranh biên giới Việt - Trung đã qua đi hơn 30 năm nhưng cho đến tận bây giờ vẫn còn có những câu hỏi không có trả lời. Thế hệ trẻ cả hai nước vẫn đang tự hỏi là tại sao cuộc chiến này không được truyền thông chính thống nhắc tới và những người lính đã hy sinh trong cuộc giao tranh ngắn ngủi này hiện đang ở đâu trong lòng dân tộc?
Ba mươi năm nhìn lại
Sau thời gian tranh cãi căng thẳng, và nhiều khi lên tới mức thóa mạ lẫn nhau trên các diễn đàn quốc tế và phương tiện truyền thông, cuối cùng chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc đã nổ ra cách nay 30 năm, vào ngày 17.2.1979. Trong ngày định mệnh đó, Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đồng loạt mở nhiều cuộc tấn công ở các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam. Sở dĩ gọi là “định mệnh” vì ngày 17.2.79 đánh dấu sự đổ vỡ toàn diện trong quan hệ giữa ba nước: nước Việt Nam thống nhất với tên mới là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và Campuchia Dân Chủ.
Trước đó, mối quan hệ, ít nhất cũng giữa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa với Trung Quốc, được xem là 'cực kỳ thắm thiết', 'môi hở răng lạnh', không chỉ vì vị trí địa lý 'núi liền núi, sông liền sông' mà còn vì thể chế chính trị cộng sản tương đồng.
Thế giới tỏ ra hoang mang khi tiếng súng từ các tỉnh biên giới phía Bắc vang vọng. Bài viết của Tiến sĩ Henri Kissinger, cựu Cố vấn Tổng thống Richard Nixon, trong thời kỳ đó đã mô tả sự sững sờ khi ông cho biết đại ý rằng vào thời điểm 1975 dù người có óc tưởng tượng phong phú đến đâu chăng nữa cũng không thể ngờ trong thời gian ngắn ngủi, chưa tới bốn năm, quan hệ giữa các nước cộng sản trong vùng Châu Á lại có thể xấu một cách nghiêm trọng đến thế. Một trong những nguyên nhân Bắc Kinh trưng dẫn trước dư luận thế giới cũng như biện luận trước công luận trong nước là họ phải mở cuộc tấn công nhằm ngăn chận “tham vọng điên cuồng” của “tiểu bá Việt Nam” khi Việt Nam mở cuộc tấn công Campuchia. Bắc Kinh cũng cho hay họ bị Việt Nam khiêu khích ở vùng biên giới chung giữa hai nước.
Trong khi đó lập luận chính của Hà Nội là sở dĩ Việt Nam buộc lòng phải đánh trả Trung Quốc trong cuộc “chiến tranh bảo vệ tổ quốc” là để ngăn chặn 'âm mưu thâm hiểm' bắt nguồn từ hàng nghìn năm trước và nay các nhà lãnh đạo Trung Quốc đương thời dưới quyền ông Đặng Tiểu Bình tiếp nối. Âm mưu đó là giấc mộng 'bá quyền nước lớn' của 'bọn bành trướng Bắc Kinh' lúc nào cũng muốn 'thôn tính' Việt Nam. Vẫn theo chính quyền Việt Nam, để thực hiện ý đồ này, Trung Quốc đã sử dụng “bè lũ Pol Pot Ieng Sary” gây cuộc chiến ở vùng Tây Nam Việt Nam đồng thời khiêu khích ở biên giới phía Bắc. Trước hai gọng kìm này, Việt Nam nói rằng họ buộc lòng phải đánh trả. Các tài liệu sau này cho thấy có vẻ như Việt Nam bị bất ngờ khi Trung Quốc mở cuộc tấn công: Vào đúng ngày đó Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Tổng Tham mưu Trưởng Văn Tiến Dũng đang có mặt tại Phnom Penh. Giới lãnh đạo Việt Nam dường như không ngờ rằng Trung Quốc lại có thể mạnh tay đến thế dù trước đó hai bên đều đã rất mạnh miệng.
Một trong những lý do có thể khiến Việt Nam cho rằng Trung Quốc sẽ không dám mở cuộc tấn công là vì trước đó hơn hai tháng, vào ngày 3.11.1978 Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đích thân tới Liên Xô để ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Xô. Bản hiệp ước nêu rõ: “Trong trường hợp một trong hai bên bị tiến công, hoặc bị đe dọa tiến công, thì hai bên ký hiệp ước sẽ lập tức trao đổi ý kiến với nhau nhằm loại trừ mối đe dọa đó, và áp dụng những biện pháp thích đáng và có hiệu lực để bảo đảm hòa bình và an ninh của hai nước”.
Sau ngày 17/2/1979, khi Việt Nam - “một trong hai bên” bị Trung Quốc mạnh tay thì “biện pháp thích đáng” mà Liên Xô, áp dụng là Mátscơva đã hết sức mạnh miệng, và chỉ có thế, để bảo vệ Hà Nội.
Việt-Miên-Thái
Ngay sau khi Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Xô được ký, vào ngày 7.1.1979 quân Việt Nam tiến vào thủ đô Phnom Penh để “giải phóng nhân dân Campuchia thoát khỏi bè lũ diệt chủng Pol Pot, Ieng Sary”. Trước ngày đó, toàn bộ quân Campuchia Dân Chủ, tức Khmer Đỏ, đã rút lui rất trật tự, bỏ lại Phnom Penh hoàn toàn trống vắng cho quân đội Nhân dân Việt Nam. Nhiều người đã mô tả: về phương diện quân sự thuần túy đây là cuộc lui quân “tuyệt vời”.
Sau khi Việt Nam 'chiếm' hoặc 'giải phóng' Campuchia, tùy quan điểm của người nhìn sự kiện, hai quốc gia lớn trong khu vực là Việt Nam và Thái Lan ở thế trực tiếp đối đầu với nhau mà không còn nước Campuchia đệm ở giữa.
Trong suốt chiều dài lịch sử, Việt Nam và Thái Lan luôn luôn muốn tranh dành ảnh hưởng tại Xứ Chùa Tháp và do vậy đều muốn trực tiếp can thiệp vào việc cai trị xứ này. Trước đây, nếu Việt Nam đã đưa được một Nặc Ông thân Việt nào đó lên ngôi báu thì Xiêm La (tên cũ của Thái Lan) cũng sẽ tìm cách đưa Nặc Ông khác, thân Xiêm La, lên thay thế. Vì thế không có gì là lạ sau ngày 7/1/1979 Thái Lan là một trong những nước mạnh mẽ nhất lên án Việt Nam 'xâm lăng' Campuchia.
Lòng dân tộc
Ngay sau ngày 17/2/1979, cảnh tượng từng đoàn xe thiết giáp và xe quân sự các loại chở đầy ắp bộ đội cắm đầy cành lá ngụy trang hối hả từ Campuchia qua các tỉnh miền Tây về ngang Thành phố Hồ Chí Minh hoặc tụ về một trong những địa điểm tập kết chính là ga xe lửa Sóng Thần, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 10 km để về Bắc, khiến nhiều người dân miền Nam nhớ về ngày 30/4/1975, ngày “hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn” như lời cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Có lẽ phải sống trong những giờ phút đầu tiên khi chiến tranh Việt Trung bùng nổ mới cảm nhận được nỗi lo lắng, băn khoăn của nhiều người dân Việt, trong đó có người dân miền Nam. Dù vậy, trước tin đất nước bị xâm lăng, rất nhiều người hăng hái muốn được góp tay bảo vệ đất nước. Lúc đó, tin tức chiến sự, thời sự trên các phương tiện truyền thông đại chúng, từ báo chí tới truyền hình, truyền thanh, nhất là tin từ các đài truyền thanh nước ngoài, được người dân chăm chú lắng nghe. Lòng yêu nước nồng nàn đã được khơi dậy nơi mỗi người dân Việt với niềm tin đất nước đánh thắng mọi kẻ thù hung hãn. Những tấm gương “anh hùng, dũng sĩ diệt bọn bành trướng Bắc Kinh và bè lũ diệt chủng Pol Pot” liên tục được phát trên các phương tiện truyền thông đại chúng trong nước.
Trong khi đó, ở Trung Quốc người dân cũng nức lòng tham gia tòng quân để "kìm hãm tham vọng của Việt Nam và cho chúng bài học hạn chế thích hợp", như lời lãnh tụ Đặng Tiểu Bình. Thế hệ trẻ ngày nay tại Trung Quốc cho hay họ được người lớn dạy rằng người Việt Nam là “bọn xấu và hết sức vô ơn, tàn nhẫn”. Trung Quốc kể ra rằng trong thời chiến tranh, họ đã “giúp đỡ vô điều kiện về người và của để miền Bắc giải phóng miền Nam Việt Nam”. “Số cố vấn, chuyên gia và kỹ thuật Trung Quốc sang giúp Việt Nam từ năm 1950 đến năm 1978 tổng số có đến 20.000 người” và “từ năm 1965 tới năm 1970” Trung Quốc đã “phái hơn ba mươi vạn bộ đội Trung Quốc sang giúp Việt Nam” (hồi ký Hoàng Văn Hoan).
Câu hỏi không lời đáp
Ba mươi năm đã trôi qua, lịch sử đã sang trang. Ngày nay, nhìn về quá khứ có lẽ nhiều người trẻ Việt Nam lẫn Trung Quốc vẫn đang tự hỏi: “Tại sao ngày đó chiến tranh lại nổ ra”. Một trong những điều mà có lẽ các bạn trẻ băn khoăn nhất là: “Tại sao sự kiện chiến tranh biên giới hoàn toàn không được truyền thông nhà nước nhắc tới. Những người từng tham gia và hy sinh trong cuộc chiến ngắn ngủi nhưng cực kỳ đẫm máu cách nay 30 năm hiện ở đâu trong lòng dân tộc”.
Đối với một số người, trên bàn cờ lịch sử hình như con Tốt đã sang sông.
Chiến tranh biên giới Ấn Độ - Trung Quốc 1962
Chiến tranh biên giới Ấn Độ - Trung Quốc 1962
Nhãn: lichsuchientranh
Khi con voi và con rồng đá chân nhau
Mọi quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc đều bị chi phối bởi vấn đề biên giới vẫn chưa giải quyết từ hơn 50 năm nay. Trung Quốc và Ấn Độ giáp nhau trên 3 550 cây số, được phân cách bởi dãy núi Himalaya hiểm trở và vùng cao nguyên Tây Tạng. Trong nhiều thế kỷ, Tây Tạng là vùng đệm giữa hai nước. Sau khi Trung Quốc chiếm Tây Tạng năm 1950, hai vùng đệm hiện nay là hai nước Nepal và Bhutan, nằm ở phía nam dãy Himalaya. Ba khu vực ngày nay vẫn là điểm nóng của sự xung đột giữa Ấn Độ và Trung Quốc: Aksai Chin ở tụ điểm của biên giới ba nước Pakistan, Ấn Độ và Trung Quốc, Arunachal Pradesh, ở sát biên giới Đông Bắc của Ấn Độ và Kashmir, ở Tây Bắc Ấn Độ.
Aksai Chin hiện thuộc quyền quản lý của Trung Quốc nhưng Ấn Độ coi như thuộc về mình và đòi lại. Ngược lại, Arunachal Pradesh là một tiểu bang của Ấn Độ nhưng Trung Quốc lại coi là thuộc về Tây Tạng và đòi Ấn Độ trả lại. Kashmir là vùng tranh chấp giữa Ấn Độ và Pakistan, mỗi bên chiếm một nửa và đòi bên kia phải trả phần còn lại. Mâu thuẫn giữa Ấn Độ và Trung Quốc ở Kashmir là vì Trung Quốc ủng hộ Pakistan.
Trong những thế kỷ trước Trung Quốc và Ấn Độ rất ít quan hệ vì địa lý cản trở. Khi hai nước giành độc lập và thoát khỏi ách ngoại bang vào cùng thời điểm, những đường biên giới do các nước thực dân ấn định trở thành đầu mối cho những xung đột có khi dẫn đến chiến tranh. Bản tuyên ngôn độc lập năm 1947 cũng chia cắt lãnh thổ Ấn Độ thành hai nước Pakistan và Liên bang Ấn Độ. Một sự phân chia đẫm máu: từ 300 000 đến 500 000 người bị thảm sát trong các cuộc chém giết lẫn nhau của hai cộng đồng hồi giáo và ấn độ giáo, và từ 10 đến 15 triệu người di cư từ vùng này sang vùng kia. Sự chia cắt đất nước và ba cuộc chiến tranh Ấn Độ- Pakistan tiếp nối nhau (1947-1948, 1965, 1971) để giành giựt vùng Kashmir vẫn là vết thương nhức nhối truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tại Ấn Độ. Việc Trung Quốc ngay từ đầu và cho đến ngày nay luôn là đồng minh đắc lực của Pakistan chỉ có thể thêm một ung nhọt cho quan hệ đã căng thẳng giữa hai nước. Trung Quốc cũng không ngần ngại dùng Pakistan để cảnh báo Ấn Độ ngay cả những lúc hai bên vui vẻ với nhau nhất: ngay sau khi viếng thăm Ấn Độ tháng 11.2006, chủ tịch Hồ Cẩm Đào bay sang Pakistan, như để nhắc lại một trong những điểm bất di bất dịch của đường lối ngoại giao mình. Chính sách "tay đấm tay xoa" này cũng thể hiện qua việc đại sứ Trung Quốc tại Ấn Độ Sun Yuxi , chỉ một tuần trước khi ông Hồ Cẩm Đào sang, tuyên bố: "Quan điểm của chúng tôi là toàn bộ tiểu bang Arunachal Pradesh thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Chúng tôi đòi lại tất cả." Khiến cho bộ trưởng ngoại giao Ấn Pranab Mukherjee phải đối đáp lại: " Arunachal là một bộ phận của Ấn Độ".
Mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Ấn Độ trong vùng Kashmir cũng không chỉ vì Pakistan mà còn vì một khu vực hai bên trực tiếp tranh giành nhau. Aksai Chin là một vùng đất rộng 38 000 cây số vuông, ở độ cao 5 000 thước, hoang vu và khô cằn, rất ít dân cư nhưng ở vị trí chiến lược giữa ba nước Pakistan, Ấn Độ và Trung Quốc. Aksai Chin ngày xưa thuộc về vương quốc Ladakh nhưng được sát nhập vào Ấn Độ thuộc đế quốc Anh khi Anh và Tây Tạng (lúc ấy còn độc lập) ký hiệp ước năm 1904, ấn định biên giới giữa Tây Tạng và Ấn Độ theo đường ranh giới Mac Mahon. Trung Quốc lúc ấy không công nhận Tây Tạng là nước độc lập nên cũng không công nhận đường Mac Mahon. Vì vị trí chiến lược của Aksai Chin, nằm trên quốc lộ 219 của Ấn Độ nối Tây Tạng và tỉnh Sinkiang (Tân Cương), Trung Quốc nhất định giữ quyền kiểm soát khu vực này.
Trung Quốc cũng đòi lại một khu vực rộng khoảng 82 000 cây số vuông ở Đông Bắc Ấn Độ hiện là tiểu bang Arunachal Pradesh nhưng Trung Quốc thường gọi là Zangnan (Tạng Nam). Arunachal Pradesh có hơn 1 triệu dân, đại đa số gốc Tây Tạng, Miến Điện và Thái, chỉ khoảng 15% là di dân từ các vùng khác của Ấn Độ, đặc biệt là hai tiểu bang lân cận Assam và Nagaland. Tại hội nghị Simla năm 1913-1914, thống đốc Anh Sir Henry Mac Mahon ấn định biên giới giữa Ấn Độ và Tây Tạng theo một đường ranh giới mệnh danh là "đường Mac Mahon" (Mac Mahon Line) nhằm nới rộng vùng kiểm soát của Anh và tạo ra một số vùng đệm. Các đại diện Anh và Tây Tạng tại hội nghị thông qua đường ranh giới này nhưng Trung Quốc chối từ ký hiệp định vì khẳng định Tây Tạng thuộc chủ quyền của mình và đường Mac Mahon vô giá trị. Năm 1950, thấy Trung Quốc sửa soạn chiếm Tây Tạng, Ấn Độ đơn phương ấn định biên giới theo đường Mac Mahon tuy Trung Quốc phản đối. Trong hơn 10 năm sau đó, vấn đề lắng dịu nhờ không khí hoà hoãn giữa hai nước, nhưng bùng lên trở lại với cuộc chiến tranh biên giới Ấn-Trung năm 1962. Trung Quốc kéo quân sang chiếm đa số khu vực này nhưng sau khi tuyên bố chiến thắng, rút trở lại sau đường Mac Mahon.
Vấn đề Tây Tạng và chiến tranh biên giới năm 1962
Sau khi lên nắm chính quyền, Mao Trạch Đông tuyên bố Tây Tạng thuộc về Trung Quốc và quyết tâm đặt Tây Tạng dưới quyền kiểm soát hành chánh và quân sự của mình. Đối với Bắc Kinh, sự quan tâm của Ấn Độ đến vùng này là can thiệp vào nội bộ Trung Quốc. Tuy Ấn Độ thừa kế một số đặc quyền tại Tây Tạng từ thời còn thuộc về Anh Quốc, thủ tướng Nehru, để trấn an Trung Quốc, khẳng định Ấn Độ không có tham vọng chính trị hay đất đai gì ở Tây Tạng, và cũng không đòi hỏi đặc quyền gì ở đó, nhưng mong muốn duy trì các quyền lợi thương mại cố hữu. Trước thái độ mềm mỏng ấy, Trung Quốc yên tâm tiến hành mưu đồ của mình và tháng 10. 1950 đem 40 000 quân tấn công Tây Tạng cùng lúc ở 6 nơi. Chỉ trong hai ngày, quân đội Trung Quốc đã giết hơn một nửa quân đội nhỏ nhoi và non nớt của Tây Tạng, chỉ có 8 000 người. Ấn Độ tuy bàng hoàng và phẫn nộ cũng không làm được gì để ngăn cản bước tiến của Trung Quốc. Chính quyền Tây Tạng cầu cứu đến cộng đồng quốc tế và Liên Hiệp Quốc nhưng rồi cũng bị ép buộc ký với Bắc Kinh, tháng 5.1951, một hiệp định "17 điểm" trong đó Tây Tạng công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên lãnh thổ nhưng được duy trì hệ thống chính trị và xã hội của mình. Ngày 9.9.1951, 23 000 quân Trung Quốc tiến vào thủ đô Lhassa, mở đầu cho bi kịch của người dân Tây Tạng, còn kéo dài đến ngày nay. Chưa đầy một năm sau, Bắc Kinh bắt đầu siết chặt sự kiểm soát, áp đặt những biện pháp xoá bỏ các truyền thống văn hoá và xã hội của Tây Tạng và tăng cường đàn áp sự kháng cự. Tháng 3.1959, sau một cuộc nổi dậy thất bại ở Lhassa, Đức Đà Lai Lạt Ma và hàng ngàn người Tây Tạng phải bỏ xứ đến nương náu tại những vùng Tây Bắc của Ấn Độ, tập trung ở tiểu bang Himachal Pradesh. Giòng chảy những người từ Tây Tạng đến tị nạn ở Ấn Độ không còn ào ạt như trong những năm đầu nhưng vẫn tiếp tục. Sự hiện diện của Đức Đà Lai Lạt Ma và một cộng đồng Tây Tạng ở Ấn Độ vẫn là một điều làm Trung Quốc khó chịu, dẫu là tháng 6.2003, Ấn Độ đã chính thức công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Tây Tạng và tuyên bố không hỗ trợ những hoạt động chống lại Trung Quốc của cộng đồng Tây Tạng tại Ấn Độ.
Việc Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng bằng vũ lực cũng là một đòn nặng đối với bản thân thủ tướng Nehru và thuyết sống chung hoà bình của ông. Tuy bị chỉ trích trong nội bộ là ngây thơ và yếu hèn, ông Nehru vẫn gắng gượng dĩ hoà vi quí vì tin rằng Ấn Độ cần phải hoà hảo với Trung Quốc để rảnh tay xây dựng kinh tế.
Sau khi lập quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh tháng 4.1950, Ấn Độ ký với Trung Quốc tháng 4.1954 một hiệp định về Tây Tạng và đặt nền tảng cho quan hệ giữa hai nước, trên cơ sở 5 nguyên tắc sống chung hoà bình (Panchsheel). Câu khẩu hiệu quen thuộc thời đó là "Hindi-Chini bhai-bhai" tức "Ấn Độ và Trung Quốc là anh em". Nhưng tình huynh đệ này cũng chỉ kéo dài được vài năm trước khi vỡ tan với cuộc chiến tranh biên giới năm 1962.
Cho đến ngày nay Trung Quốc và Ấn Độ vẫn còn bất đồng ngay cả về những lý do đưa tới chiến tranh và đổ lỗi cho nhau. Một điều chắc chắn là ở đây có nhiều yếu tố: tình hình Tây Tạng, vai trò Trung Quốc gán cho Ấn Độ trong cuộc nổi dậy ở Lhassa và nhất là việc Đức Đà Lai Lạt Ma chạy sang Ấn Độ; những đụng độ liên tiếp giữa các đội biên phòng của hai nước, và chính sách "tiến tới" (Forward Policy) của Ấn Độ thực hiện qua việc xây cất khoảng 60 tiền đồn trong đó 43 là ở phía bắc đường Mac Mahon, đối với Trung Quốc là bằng chứng của một mưu đồ bành trướng. Từ tháng 6.1962, các cuộc chạm súng leo thang thành chiến tranh thực thụ ngày 10.10.1962 khi quân đội Trung Quốc tràn sang Aksai Chin và Arunachal Pradesh, đánh bại các đội phòng vệ và tiến sâu vào lãnh thổ Ấn Độ. Cuộc chiến bất quân bình giữa bên Trung Quốc, đông đảo và dạn dày hơn, và bên Ấn ít kinh nghiệm và thiếu chuẩn bị, kết thúc chớp nhoáng, chỉ hơn một tháng sau, khi Trung Quốc tuyên bố chiến thắng và đơn phương ngừng bắn. Số tử trận và tù binh phía Trung Quốc không được thông báo còn phía Ấn Độ chết 1 383 người, bị bắt làm tù binh 3 968 người và mất tích 1 696 người. Chiến tranh chính thức chấm dứt khi Trung Quốc trả tù binh rồi rút về phía bên kia đường Mac Mahon. Một lý do tại sao Trung Quốc không "thừa thắng xông lên" mà tỏ ra rộng lượng biết điều là vì cùng lúc ấy, thế giới đang rúng động về vụ khủng hoảng tên lửa ở Cuba, khiến cuộc chiến tranh Ấn-Trung bị các nước Tây phương xem như một hành động gây hấn khác của khối Cộng sản. Tuy thắng thế dễ dàng nhưng Trung Quốc khôn ngoan hiểu là nên dừng lại ở đó và nhanh chóng giải quyết tranh chấp.
Cuộc chiến tranh biên giới đánh dấu một sự chuyển hướng triệt để trong đường lối ngoại giao và quân sự của Ấn Độ. Ông Nehru bị chỉ trích nặng nề là đã không đo lường được tình thế, chính sách hoà hảo với Trung Quốc và các lý thuyết sống chung hoà bình trên cơ sở bất bạo lực do ông đề xướng bị thực tế phủ nhận phũ phàng, và giấc mơ của ông xây dựng một trục Ấn Độ-Trung Quốc cùng nhau chế ngự châu Á tan như bong bóng.
Ấn Độ rút ra cho mình bài học là phải xây dựng sức mạnh quân sự và tự bảo vệ nếu muốn có chỗ đứng trên thế giới, quay sang Liên Xô và bắt đầu ra sức trang bị vũ khí. Trung Quốc và Ấn Độ bước vào một thời kỳ lạnh nhạt và đối nghịch kéo dài cho đến cuối thập niên 1980.
Sự bại trận năm 1962 cũng là nỗi tủi hổ của người Ấn cho tới ngày nay và tiếp tục chi phối cái nhìn của Ấn Độ về Trung Quốc, nuôi dưỡng một tâm trạng phức tạp: mặc cảm, tự ái, nghi ngại và tị hiềm pha lẫn nể phục và thèm muốn. Nhiều nhà phân tích, kể cả người Ấn, nhận xét: "Trung Quốc là nỗi ám ảnh của Ấn Độ". Một ám ảnh đi đôi với một nỗi day dứt thường kỳ khác: được xem như một cường quốc, ít ra là trong khu vực, nếu không trên toàn thế giới. Đáp lại khát vọng này là thái độ kẻ cả, có khi khinh thường của Trung Quốc khiến cho Ấn Độ càng bức bối. Một thí dụ: khi ông Atal Bihari Vajpayee, lúc đó là bộ trưởng ngoại giao, đến thăm Trung Quốc tháng 2.1979, ông đã phải hấp tấp về sớm hơn một hôm vì Trung Quốc tấn công biên giới bắc của Việt Nam ngay lúc ấy và còn tuyên bố "sẽ cho Việt Nam một bài học như đã cho Ấn Độ một bài học năm 1962"! Một câu nói vừa gây căm phẫn trong dư luận Ấn Độ, vốn có nhiều cảm tình với Việt Nam và đã nhớ ngay đến kinh nghiệm của chính mình, vừa cho thấy Trung Quốc sẵn sàng "chơi cha" Ấn Độ, chả coi anh ta ra gì.
Cũng vì mong muốn xác định cương vị của mình trên thế giới nên Ấn Độ đòi hỏi tham gia Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc với tư cách thành viên thường trực. Tuy Trung Quốc tuyên bố chính thức ủng hộ nguyện vọng này nhưng cho tới nay hồ sơ của Ấn Độ bị gắn liền với yêu cầu cùng mục đích của Nhật, mà Trung Quốc thì nhất định không cho Nhật tăng cường vai trò của mình, khiến Ấn Độ rất sốt ruột và bất bình.
Do đó không ngạc nhiên khi thấy đối với Ấn Độ, Trung Quốc là một sự nhức đầu kinh niên. Ngay cả việc chọn thái độ, cách đối xử với Trung Quốc cũng là một đề tài tranh cãi trong nội bộ Ấn Độ.
Chọn thế đứng trước con rồng
Theo vài nhà phân tích, ở Ấn Độ có ba cách cảm nhận và phản ứng trước sự vươn lên và sức mạnh của Trung Quốc: một là thán phục và khiếp sợ và do đó nghĩ rằng cần phải cầu an với Trung Quốc; hai là coi Trung Quốc như mối đe doạ nhưng trong tương lai xa, cho nên phải tăng cường sức mạnh kinh tế và quân sự của để giao lưu với Trung Quốc hầu kềm chế và cân bằng ảnh hưởng (check and balance), và ba là coi Trung Quốc như mối đe dọa lớn và ngay trước mắt, và vì thế phải đối xử như Trung Quốc đã đối xử với Ấn Độ: áp dụng chính sách ngăn cản và bao vây (containment–cum-encirclement).
Trường phái thứ nhất là nhóm lobby ủng hộ Trung Quốc: các đảng viên đảng cộng sản, trí thức thiên tả, một số nhà báo, những người chống chiến tranh, chống hạt nhân, chống Mỹ và những người lý tưởng. Ngoài ra còn có một số doanh nhân làm ăn với Trung Quốc và những người cảm thấy gần gũi với Trung Quốc về chính trị hay ý thức hệ. Có lẽ tiêu biểu cho nhóm này là quốc vụ khanh đặc trách thương mại Jairam Ramesh, người đã chế ra từ "Chindia" để miêu tả viễn tượng một sự hợp tác khăng khít giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Trong dịp chủ tịch Hồ Cẩm Đào thăm Ấn Độ tháng 11.2006, ông Ramesh tuyên bố trước Hiệp hội các công nghiệp Ấn Độ: "Chúng ta có còn chạy đua gì nữa đâu. Họ đã ăn đứt chúng ta rồi".
Trường phái thứ ba là nhóm diều hâu chống Trung Quốc, qui tụ một số trí thức dân tộc chủ nghĩa cực đoan và giới lãnh đạo quân sự. Không ít người Ấn, ngay cả giới trẻ, hoặc có thành kiến hoặc không biết mấy gì về Trung Quốc. Đối với họ Trung Quốc là đồng nghĩa với chiếm đóng Tây Tạng, xâm lăng Ấn Độ năm 1962, đồng loã với kẻ thù truyền kiếp là Pakistan, mưu toan thôn tính nước họ.
Song đại đa số người Ấn thuộc vào trường phái thứ hai, họ là các viên chức nhà nước, đa số giới nhà báo và trí thức, các doanh nhân, và những người có cái nhìn thực tế và ôn hoà. Họ nhận thức được ảnh hưởng thuận lợi của các cải cách và bước tiến kinh tế của Trung Quốc trên châu Á và Ấn Độ nhưng cũng chia sẻ những quan tâm về chính sách quân sự của Trung Quốc. Họ hiểu là đối với Trung Quốc không thể cầu an mà cũng chẳng thể ngăn cản. Phần nào họ tiêu biểu cho thái độ chung của Ấn Độ trước Trung Quốc: hoan nghênh về kinh tế và băn khoăn về quốc phòng. Những thăng trầm trong quan hệ giữa hai nước là tuỳ theo khuynh hướng ngả về phía này hay phía kia, ưu tiên cho kinh tế hay ưu tiên cho quốc phòng.
nguồn : hoàng sa
Được đăng bởi coletuan vào lúc 1/24/2009 11:21:00 CH
Nhãn: lichsuchientranh
Khi con voi và con rồng đá chân nhau
Mọi quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc đều bị chi phối bởi vấn đề biên giới vẫn chưa giải quyết từ hơn 50 năm nay. Trung Quốc và Ấn Độ giáp nhau trên 3 550 cây số, được phân cách bởi dãy núi Himalaya hiểm trở và vùng cao nguyên Tây Tạng. Trong nhiều thế kỷ, Tây Tạng là vùng đệm giữa hai nước. Sau khi Trung Quốc chiếm Tây Tạng năm 1950, hai vùng đệm hiện nay là hai nước Nepal và Bhutan, nằm ở phía nam dãy Himalaya. Ba khu vực ngày nay vẫn là điểm nóng của sự xung đột giữa Ấn Độ và Trung Quốc: Aksai Chin ở tụ điểm của biên giới ba nước Pakistan, Ấn Độ và Trung Quốc, Arunachal Pradesh, ở sát biên giới Đông Bắc của Ấn Độ và Kashmir, ở Tây Bắc Ấn Độ.
Aksai Chin hiện thuộc quyền quản lý của Trung Quốc nhưng Ấn Độ coi như thuộc về mình và đòi lại. Ngược lại, Arunachal Pradesh là một tiểu bang của Ấn Độ nhưng Trung Quốc lại coi là thuộc về Tây Tạng và đòi Ấn Độ trả lại. Kashmir là vùng tranh chấp giữa Ấn Độ và Pakistan, mỗi bên chiếm một nửa và đòi bên kia phải trả phần còn lại. Mâu thuẫn giữa Ấn Độ và Trung Quốc ở Kashmir là vì Trung Quốc ủng hộ Pakistan.
Trong những thế kỷ trước Trung Quốc và Ấn Độ rất ít quan hệ vì địa lý cản trở. Khi hai nước giành độc lập và thoát khỏi ách ngoại bang vào cùng thời điểm, những đường biên giới do các nước thực dân ấn định trở thành đầu mối cho những xung đột có khi dẫn đến chiến tranh. Bản tuyên ngôn độc lập năm 1947 cũng chia cắt lãnh thổ Ấn Độ thành hai nước Pakistan và Liên bang Ấn Độ. Một sự phân chia đẫm máu: từ 300 000 đến 500 000 người bị thảm sát trong các cuộc chém giết lẫn nhau của hai cộng đồng hồi giáo và ấn độ giáo, và từ 10 đến 15 triệu người di cư từ vùng này sang vùng kia. Sự chia cắt đất nước và ba cuộc chiến tranh Ấn Độ- Pakistan tiếp nối nhau (1947-1948, 1965, 1971) để giành giựt vùng Kashmir vẫn là vết thương nhức nhối truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tại Ấn Độ. Việc Trung Quốc ngay từ đầu và cho đến ngày nay luôn là đồng minh đắc lực của Pakistan chỉ có thể thêm một ung nhọt cho quan hệ đã căng thẳng giữa hai nước. Trung Quốc cũng không ngần ngại dùng Pakistan để cảnh báo Ấn Độ ngay cả những lúc hai bên vui vẻ với nhau nhất: ngay sau khi viếng thăm Ấn Độ tháng 11.2006, chủ tịch Hồ Cẩm Đào bay sang Pakistan, như để nhắc lại một trong những điểm bất di bất dịch của đường lối ngoại giao mình. Chính sách "tay đấm tay xoa" này cũng thể hiện qua việc đại sứ Trung Quốc tại Ấn Độ Sun Yuxi , chỉ một tuần trước khi ông Hồ Cẩm Đào sang, tuyên bố: "Quan điểm của chúng tôi là toàn bộ tiểu bang Arunachal Pradesh thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Chúng tôi đòi lại tất cả." Khiến cho bộ trưởng ngoại giao Ấn Pranab Mukherjee phải đối đáp lại: " Arunachal là một bộ phận của Ấn Độ".
Mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Ấn Độ trong vùng Kashmir cũng không chỉ vì Pakistan mà còn vì một khu vực hai bên trực tiếp tranh giành nhau. Aksai Chin là một vùng đất rộng 38 000 cây số vuông, ở độ cao 5 000 thước, hoang vu và khô cằn, rất ít dân cư nhưng ở vị trí chiến lược giữa ba nước Pakistan, Ấn Độ và Trung Quốc. Aksai Chin ngày xưa thuộc về vương quốc Ladakh nhưng được sát nhập vào Ấn Độ thuộc đế quốc Anh khi Anh và Tây Tạng (lúc ấy còn độc lập) ký hiệp ước năm 1904, ấn định biên giới giữa Tây Tạng và Ấn Độ theo đường ranh giới Mac Mahon. Trung Quốc lúc ấy không công nhận Tây Tạng là nước độc lập nên cũng không công nhận đường Mac Mahon. Vì vị trí chiến lược của Aksai Chin, nằm trên quốc lộ 219 của Ấn Độ nối Tây Tạng và tỉnh Sinkiang (Tân Cương), Trung Quốc nhất định giữ quyền kiểm soát khu vực này.
Trung Quốc cũng đòi lại một khu vực rộng khoảng 82 000 cây số vuông ở Đông Bắc Ấn Độ hiện là tiểu bang Arunachal Pradesh nhưng Trung Quốc thường gọi là Zangnan (Tạng Nam). Arunachal Pradesh có hơn 1 triệu dân, đại đa số gốc Tây Tạng, Miến Điện và Thái, chỉ khoảng 15% là di dân từ các vùng khác của Ấn Độ, đặc biệt là hai tiểu bang lân cận Assam và Nagaland. Tại hội nghị Simla năm 1913-1914, thống đốc Anh Sir Henry Mac Mahon ấn định biên giới giữa Ấn Độ và Tây Tạng theo một đường ranh giới mệnh danh là "đường Mac Mahon" (Mac Mahon Line) nhằm nới rộng vùng kiểm soát của Anh và tạo ra một số vùng đệm. Các đại diện Anh và Tây Tạng tại hội nghị thông qua đường ranh giới này nhưng Trung Quốc chối từ ký hiệp định vì khẳng định Tây Tạng thuộc chủ quyền của mình và đường Mac Mahon vô giá trị. Năm 1950, thấy Trung Quốc sửa soạn chiếm Tây Tạng, Ấn Độ đơn phương ấn định biên giới theo đường Mac Mahon tuy Trung Quốc phản đối. Trong hơn 10 năm sau đó, vấn đề lắng dịu nhờ không khí hoà hoãn giữa hai nước, nhưng bùng lên trở lại với cuộc chiến tranh biên giới Ấn-Trung năm 1962. Trung Quốc kéo quân sang chiếm đa số khu vực này nhưng sau khi tuyên bố chiến thắng, rút trở lại sau đường Mac Mahon.
Vấn đề Tây Tạng và chiến tranh biên giới năm 1962
Sau khi lên nắm chính quyền, Mao Trạch Đông tuyên bố Tây Tạng thuộc về Trung Quốc và quyết tâm đặt Tây Tạng dưới quyền kiểm soát hành chánh và quân sự của mình. Đối với Bắc Kinh, sự quan tâm của Ấn Độ đến vùng này là can thiệp vào nội bộ Trung Quốc. Tuy Ấn Độ thừa kế một số đặc quyền tại Tây Tạng từ thời còn thuộc về Anh Quốc, thủ tướng Nehru, để trấn an Trung Quốc, khẳng định Ấn Độ không có tham vọng chính trị hay đất đai gì ở Tây Tạng, và cũng không đòi hỏi đặc quyền gì ở đó, nhưng mong muốn duy trì các quyền lợi thương mại cố hữu. Trước thái độ mềm mỏng ấy, Trung Quốc yên tâm tiến hành mưu đồ của mình và tháng 10. 1950 đem 40 000 quân tấn công Tây Tạng cùng lúc ở 6 nơi. Chỉ trong hai ngày, quân đội Trung Quốc đã giết hơn một nửa quân đội nhỏ nhoi và non nớt của Tây Tạng, chỉ có 8 000 người. Ấn Độ tuy bàng hoàng và phẫn nộ cũng không làm được gì để ngăn cản bước tiến của Trung Quốc. Chính quyền Tây Tạng cầu cứu đến cộng đồng quốc tế và Liên Hiệp Quốc nhưng rồi cũng bị ép buộc ký với Bắc Kinh, tháng 5.1951, một hiệp định "17 điểm" trong đó Tây Tạng công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên lãnh thổ nhưng được duy trì hệ thống chính trị và xã hội của mình. Ngày 9.9.1951, 23 000 quân Trung Quốc tiến vào thủ đô Lhassa, mở đầu cho bi kịch của người dân Tây Tạng, còn kéo dài đến ngày nay. Chưa đầy một năm sau, Bắc Kinh bắt đầu siết chặt sự kiểm soát, áp đặt những biện pháp xoá bỏ các truyền thống văn hoá và xã hội của Tây Tạng và tăng cường đàn áp sự kháng cự. Tháng 3.1959, sau một cuộc nổi dậy thất bại ở Lhassa, Đức Đà Lai Lạt Ma và hàng ngàn người Tây Tạng phải bỏ xứ đến nương náu tại những vùng Tây Bắc của Ấn Độ, tập trung ở tiểu bang Himachal Pradesh. Giòng chảy những người từ Tây Tạng đến tị nạn ở Ấn Độ không còn ào ạt như trong những năm đầu nhưng vẫn tiếp tục. Sự hiện diện của Đức Đà Lai Lạt Ma và một cộng đồng Tây Tạng ở Ấn Độ vẫn là một điều làm Trung Quốc khó chịu, dẫu là tháng 6.2003, Ấn Độ đã chính thức công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Tây Tạng và tuyên bố không hỗ trợ những hoạt động chống lại Trung Quốc của cộng đồng Tây Tạng tại Ấn Độ.
Việc Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng bằng vũ lực cũng là một đòn nặng đối với bản thân thủ tướng Nehru và thuyết sống chung hoà bình của ông. Tuy bị chỉ trích trong nội bộ là ngây thơ và yếu hèn, ông Nehru vẫn gắng gượng dĩ hoà vi quí vì tin rằng Ấn Độ cần phải hoà hảo với Trung Quốc để rảnh tay xây dựng kinh tế.
Sau khi lập quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh tháng 4.1950, Ấn Độ ký với Trung Quốc tháng 4.1954 một hiệp định về Tây Tạng và đặt nền tảng cho quan hệ giữa hai nước, trên cơ sở 5 nguyên tắc sống chung hoà bình (Panchsheel). Câu khẩu hiệu quen thuộc thời đó là "Hindi-Chini bhai-bhai" tức "Ấn Độ và Trung Quốc là anh em". Nhưng tình huynh đệ này cũng chỉ kéo dài được vài năm trước khi vỡ tan với cuộc chiến tranh biên giới năm 1962.
Cho đến ngày nay Trung Quốc và Ấn Độ vẫn còn bất đồng ngay cả về những lý do đưa tới chiến tranh và đổ lỗi cho nhau. Một điều chắc chắn là ở đây có nhiều yếu tố: tình hình Tây Tạng, vai trò Trung Quốc gán cho Ấn Độ trong cuộc nổi dậy ở Lhassa và nhất là việc Đức Đà Lai Lạt Ma chạy sang Ấn Độ; những đụng độ liên tiếp giữa các đội biên phòng của hai nước, và chính sách "tiến tới" (Forward Policy) của Ấn Độ thực hiện qua việc xây cất khoảng 60 tiền đồn trong đó 43 là ở phía bắc đường Mac Mahon, đối với Trung Quốc là bằng chứng của một mưu đồ bành trướng. Từ tháng 6.1962, các cuộc chạm súng leo thang thành chiến tranh thực thụ ngày 10.10.1962 khi quân đội Trung Quốc tràn sang Aksai Chin và Arunachal Pradesh, đánh bại các đội phòng vệ và tiến sâu vào lãnh thổ Ấn Độ. Cuộc chiến bất quân bình giữa bên Trung Quốc, đông đảo và dạn dày hơn, và bên Ấn ít kinh nghiệm và thiếu chuẩn bị, kết thúc chớp nhoáng, chỉ hơn một tháng sau, khi Trung Quốc tuyên bố chiến thắng và đơn phương ngừng bắn. Số tử trận và tù binh phía Trung Quốc không được thông báo còn phía Ấn Độ chết 1 383 người, bị bắt làm tù binh 3 968 người và mất tích 1 696 người. Chiến tranh chính thức chấm dứt khi Trung Quốc trả tù binh rồi rút về phía bên kia đường Mac Mahon. Một lý do tại sao Trung Quốc không "thừa thắng xông lên" mà tỏ ra rộng lượng biết điều là vì cùng lúc ấy, thế giới đang rúng động về vụ khủng hoảng tên lửa ở Cuba, khiến cuộc chiến tranh Ấn-Trung bị các nước Tây phương xem như một hành động gây hấn khác của khối Cộng sản. Tuy thắng thế dễ dàng nhưng Trung Quốc khôn ngoan hiểu là nên dừng lại ở đó và nhanh chóng giải quyết tranh chấp.
Cuộc chiến tranh biên giới đánh dấu một sự chuyển hướng triệt để trong đường lối ngoại giao và quân sự của Ấn Độ. Ông Nehru bị chỉ trích nặng nề là đã không đo lường được tình thế, chính sách hoà hảo với Trung Quốc và các lý thuyết sống chung hoà bình trên cơ sở bất bạo lực do ông đề xướng bị thực tế phủ nhận phũ phàng, và giấc mơ của ông xây dựng một trục Ấn Độ-Trung Quốc cùng nhau chế ngự châu Á tan như bong bóng.
Ấn Độ rút ra cho mình bài học là phải xây dựng sức mạnh quân sự và tự bảo vệ nếu muốn có chỗ đứng trên thế giới, quay sang Liên Xô và bắt đầu ra sức trang bị vũ khí. Trung Quốc và Ấn Độ bước vào một thời kỳ lạnh nhạt và đối nghịch kéo dài cho đến cuối thập niên 1980.
Sự bại trận năm 1962 cũng là nỗi tủi hổ của người Ấn cho tới ngày nay và tiếp tục chi phối cái nhìn của Ấn Độ về Trung Quốc, nuôi dưỡng một tâm trạng phức tạp: mặc cảm, tự ái, nghi ngại và tị hiềm pha lẫn nể phục và thèm muốn. Nhiều nhà phân tích, kể cả người Ấn, nhận xét: "Trung Quốc là nỗi ám ảnh của Ấn Độ". Một ám ảnh đi đôi với một nỗi day dứt thường kỳ khác: được xem như một cường quốc, ít ra là trong khu vực, nếu không trên toàn thế giới. Đáp lại khát vọng này là thái độ kẻ cả, có khi khinh thường của Trung Quốc khiến cho Ấn Độ càng bức bối. Một thí dụ: khi ông Atal Bihari Vajpayee, lúc đó là bộ trưởng ngoại giao, đến thăm Trung Quốc tháng 2.1979, ông đã phải hấp tấp về sớm hơn một hôm vì Trung Quốc tấn công biên giới bắc của Việt Nam ngay lúc ấy và còn tuyên bố "sẽ cho Việt Nam một bài học như đã cho Ấn Độ một bài học năm 1962"! Một câu nói vừa gây căm phẫn trong dư luận Ấn Độ, vốn có nhiều cảm tình với Việt Nam và đã nhớ ngay đến kinh nghiệm của chính mình, vừa cho thấy Trung Quốc sẵn sàng "chơi cha" Ấn Độ, chả coi anh ta ra gì.
Cũng vì mong muốn xác định cương vị của mình trên thế giới nên Ấn Độ đòi hỏi tham gia Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc với tư cách thành viên thường trực. Tuy Trung Quốc tuyên bố chính thức ủng hộ nguyện vọng này nhưng cho tới nay hồ sơ của Ấn Độ bị gắn liền với yêu cầu cùng mục đích của Nhật, mà Trung Quốc thì nhất định không cho Nhật tăng cường vai trò của mình, khiến Ấn Độ rất sốt ruột và bất bình.
Do đó không ngạc nhiên khi thấy đối với Ấn Độ, Trung Quốc là một sự nhức đầu kinh niên. Ngay cả việc chọn thái độ, cách đối xử với Trung Quốc cũng là một đề tài tranh cãi trong nội bộ Ấn Độ.
Chọn thế đứng trước con rồng
Theo vài nhà phân tích, ở Ấn Độ có ba cách cảm nhận và phản ứng trước sự vươn lên và sức mạnh của Trung Quốc: một là thán phục và khiếp sợ và do đó nghĩ rằng cần phải cầu an với Trung Quốc; hai là coi Trung Quốc như mối đe doạ nhưng trong tương lai xa, cho nên phải tăng cường sức mạnh kinh tế và quân sự của để giao lưu với Trung Quốc hầu kềm chế và cân bằng ảnh hưởng (check and balance), và ba là coi Trung Quốc như mối đe dọa lớn và ngay trước mắt, và vì thế phải đối xử như Trung Quốc đã đối xử với Ấn Độ: áp dụng chính sách ngăn cản và bao vây (containment–cum-encirclement).
Trường phái thứ nhất là nhóm lobby ủng hộ Trung Quốc: các đảng viên đảng cộng sản, trí thức thiên tả, một số nhà báo, những người chống chiến tranh, chống hạt nhân, chống Mỹ và những người lý tưởng. Ngoài ra còn có một số doanh nhân làm ăn với Trung Quốc và những người cảm thấy gần gũi với Trung Quốc về chính trị hay ý thức hệ. Có lẽ tiêu biểu cho nhóm này là quốc vụ khanh đặc trách thương mại Jairam Ramesh, người đã chế ra từ "Chindia" để miêu tả viễn tượng một sự hợp tác khăng khít giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Trong dịp chủ tịch Hồ Cẩm Đào thăm Ấn Độ tháng 11.2006, ông Ramesh tuyên bố trước Hiệp hội các công nghiệp Ấn Độ: "Chúng ta có còn chạy đua gì nữa đâu. Họ đã ăn đứt chúng ta rồi".
Trường phái thứ ba là nhóm diều hâu chống Trung Quốc, qui tụ một số trí thức dân tộc chủ nghĩa cực đoan và giới lãnh đạo quân sự. Không ít người Ấn, ngay cả giới trẻ, hoặc có thành kiến hoặc không biết mấy gì về Trung Quốc. Đối với họ Trung Quốc là đồng nghĩa với chiếm đóng Tây Tạng, xâm lăng Ấn Độ năm 1962, đồng loã với kẻ thù truyền kiếp là Pakistan, mưu toan thôn tính nước họ.
Song đại đa số người Ấn thuộc vào trường phái thứ hai, họ là các viên chức nhà nước, đa số giới nhà báo và trí thức, các doanh nhân, và những người có cái nhìn thực tế và ôn hoà. Họ nhận thức được ảnh hưởng thuận lợi của các cải cách và bước tiến kinh tế của Trung Quốc trên châu Á và Ấn Độ nhưng cũng chia sẻ những quan tâm về chính sách quân sự của Trung Quốc. Họ hiểu là đối với Trung Quốc không thể cầu an mà cũng chẳng thể ngăn cản. Phần nào họ tiêu biểu cho thái độ chung của Ấn Độ trước Trung Quốc: hoan nghênh về kinh tế và băn khoăn về quốc phòng. Những thăng trầm trong quan hệ giữa hai nước là tuỳ theo khuynh hướng ngả về phía này hay phía kia, ưu tiên cho kinh tế hay ưu tiên cho quốc phòng.
nguồn : hoàng sa
Được đăng bởi coletuan vào lúc 1/24/2009 11:21:00 CH
Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979
Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979
Một phần của Chiến tranh Đông Dương lần 3
.
Thời gian 17 tháng 2 – 18 tháng 3 năm 1979
Địa điểm Toàn tuyến biên giới phía bắc của Việt Nam.
Kết quả Trung Quốc rút quân. Cả hai phía tuyên bố chiến thắng.
Tham chiến
Giải phóng quân Trung Quốc Quân đội Nhân dân Việt Nam
Chỉ huy
Dương Đắc Chí
Hứa Thế Hữu Văn Tiến Dũng
Lực lượng
300.000+ bộ binh và 400 xe tăng từ Quân khu Côn Minh và Quảng Châu[1]
(lực lượng của 7 quân đoàn với 21 sư đoàn tác chiến, 9 sư đoàn dự bị)[2] 80.000-100.000
(7 sư đoàn, 15 trung đoàn độc lập, biên phòng và dân quân tự vệ)[2]
Tổn thất
Tranh cãi, 20.000+ bị giết [3] Việt Nam tuyên bố 26.000 chết, 37.000 bị thương, 280 xe tăng. [3] Trung Quốc tuyên bố 6.900 chết, 15.000 bị thương[1]
Tranh cãi, 20.000 chết hay bị thương.[1] Trung Quốc tuyên bố 30.000 chết.[3] Việt Nam tuyên bố 10.000 dân thường bị thiệt mạng[1]
.
Chiến tranh biên giới Việt - Trung, 1979 là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, nổ ra vào vào ngày 17 tháng 2 năm 1979 khi Trung Quốc đem quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới giữa hai nước. Chiến tranh biên giới Việt - Trung xuất phát từ quan hệ căng thẳng kéo dài giữa hai quốc gia và ý đồ "dạy cho Việt Nam một bài học" của Đặng Tiểu Bình, kéo dài trong chừng một tháng với thiệt hại nặng nề về người và tài sản cho cả hai phía. Cuộc chiến kết thúc khi Trung Quốc hoàn thành rút quân vào ngày 18 tháng 3 năm 1979, sau khi chiếm được các thị xã Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng, và một số thị trấn vùng biên. Mục tiêu của Trung Quốc buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia không thành, nhưng cuộc chiến để lại hậu quả lâu dài đối với nền kinh tế Việt Nam và quan hệ căng thẳng giữa hai nước. Xung đột vũ trang tại biên giới còn tiếp diễn thêm 10 năm. Hơn 13 năm sau, quan hệ ngoại giao Việt-Trung chính thức được bình thường hóa.
Mục lục [ẩn]
1 Tên gọi
2 Bối cảnh
2.1 Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
2.2 Xung đột khu vực
3 Mục đích và mục tiêu của Trung Quốc
4 Tương quan lực lượng tham chiến
5 Diễn biến
5.1 Chuẩn bị
5.2 Giai đoạn 1
5.3 Giai đoạn 2
5.4 Rút quân
6 Chiến dịch dân vận của Trung Quốc
7 Phản ứng quốc tế
8 Kết quả cuộc chiến
8.1 Thương vong và thiệt hại
8.2 Đánh giá
8.3 Hậu chiến
9 Phản ánh trong văn nghệ
9.1 Việt Nam
9.2 Trung Quốc
9.2.1 Trung Quốc đại lục
9.2.2 Hồng Kông
10 Chú thích
11 Tham khảo
12 Liên kết ngoài
[sửa]Tên gọi
Cuộc chiến được phía Việt Nam gọi là Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, 1979. Phía Trung Quốc gọi là Chiến tranh đánh trả tự vệ trước Việt Nam (对越自卫还击战 Đối Việt tự vệ hoàn kích chiến) (trên nghĩa rộng là chỉ xung đột biên giới Việt-Trung trong gần mười năm từ năm 1979 đến năm 1989), dân gian quen gọi là Chiến tranh phản kích tự vệ trước Việt Nam (对越自卫反击战, Đối Việt tự vệ phản kích chiến)[4].
Nhiều nhà nghiên cứu coi cuộc chiến này là một phần của Chiến tranh Đông Dương lần 3[5]
[sửa]Bối cảnh
[sửa]Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
Tuy được sự giúp đỡ rất lớn của Trung Quốc trong chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam, các rạn nứt trong quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Trung Quốc đã bắt đầu thể hiện từ năm 1968. Hà Nội nhất định cùng lúc giữ mối quan hệ nồng ấm với cả Moskva lẫn Bắc Kinh trong khi mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc đã lên cao. Bất đồng quan điểm giữa Hà Nội và Bắc Kinh về cách tiến hành cuộc chiến tại miền Nam Việt Nam trở nên rõ rệt. Bắc Kinh muốn Hà Nội chỉ tiếp tục chiến tranh du kích có giới hạn chống Hoa Kỳ, trong khi Hà Nội muốn tiến hành chiến tranh quy mô để thống nhất Tổ quốc của họ.[6] Và hơn thế nữa, họ muốn trực tiếp đàm phán với Hoa Kỳ, không cần thông qua một nước nào làm trung gian.[7] Sau sự kiện Tết Mậu Thân, Hà Nội bắt đầu đàm phán với Hoa Kỳ, trong khi đó Bắc Kinh phản đối.[6]
Năm 1972, chuyến thăm của tổng thống Mỹ Nixon tới Bắc Kinh và thỏa thuận giữa Mỹ và Trung Quốc được Việt Nam Dân chủ Cộng hoà xem là một sự phản bội.[8] Năm 1975, trong chuyến thăm Bắc Kinh, Lê Duẩn thẳng thừng từ chối đưa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào liên minh chống Liên Xô của Trung Quốc, phủ nhận quan niệm của Trung Quốc rằng chủ nghĩa bành trướng của Liên Xô là mối đe dọa đối với các nước cộng sản châu Á. Ông rời Trung Quốc mà không tổ chức tiệc đáp lễ theo truyền thống, cũng không ký thỏa thuận chung. Cũng trong chuyến thăm này, Trung Quốc thông báo rằng sẽ không giữ mức viện trợ như đã hứa năm 1973.[9] Bắc Kinh bắt đầu nói về một Việt Nam "hắc tâm", "vô ơn", "ngạo ngược".[8] Viện trợ của Trung Quốc sau đó giảm mạnh và đến năm 1978 thì cắt toàn bộ. Điều kiện đầu tiên Trung Quốc đặt ra cho Việt Nam để nối lại viện trợ là phải từ chối tất cả các khoản viện trợ của Liên Xô.[10]
Khi Việt Nam ngày càng có quan hệ chặt chẽ hơn với Liên Xô, Trung Quốc thấy mình bị đe dọa từ hai phía. Đồng thời, Việt Nam cũng đang cố gắng xây dựng mối quan hệ đặc biệt chặt chẽ giữa 3 nước Đông Dương trong đó Việt Nam giữ vị thế đứng đầu. Cùng với thực tế rằng nước Việt Nam thống nhất đã trở thành một sức mạnh quan trọng trong vùng, làm giảm ảnh hưởng của Trung Quốc. Những điều này làm cho Trung Quốc lo ngại về một "tiểu bá quyền" Việt Nam[11] và việc bị Liên Xô bao vây từ phía Bắc. Một nước Campuchia chống Việt Nam đã trở thành một đồng minh quan trọng đối với Trung Quốc.
Quan hệ Việt Nam - Campuchia ngày càng đi xuống, thể hiện ngay từ tháng 5 năm 1975 khi Khmer Đỏ cho quân đánh chiếm các đảo Phú Quốc và Thổ Chu và bắt đi hàng trăm dân thường, lên cao trào vào những năm 1977-1978 khi Khmer Đỏ nhiều lần đánh sâu vào lãnh thổ Việt Nam tàn sát hàng chục nghìn dân thường. Trong suốt thời gian đó và cả về sau, Trung Quốc luôn là nước viện trợ đắc lực cho Khmer Đỏ về vũ khí khí tài cũng như cố vấn quân sự. Bên cạnh các nỗ lực ngoại giao không thành nhằm xoa dịu căng thẳng với Trung Quốc và Campuchia[12], Việt Nam tin rằng Trung Quốc đang sử dụng Campuchia để tấn công Việt Nam.[11]
Từ năm 1973, Liên Hiệp Quốc bắt đầu thảo luận về vấn đề chủ quyền của các quốc gia đối với vùng đặc quyền kinh tế trên biển. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định tuyên bố chủ quyền với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa dựa theo hiệp ước Pháp-Thanh kí kết năm 1887. Về phía Trung Quốc, với cuộc khủng hoảng dầu lửa những năm 1970 nước này đã tìm kiếm các nguồn khai thác dầu mỏ trên biển Đông sát với Việt Nam, một hành động mà theo Việt Nam là chiến lược bao vây đất nước họ.[13] Tranh chấp giữa hai nước về hai quần đảo này đã bắt đầu ngay từ năm 1975 sau khi Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo này. [14]
Nam Quan, hay Hữu Nghị Quan năm 2007, cửa ải nằm tại biên giới Việt Nam-Trung quốc
Một lý do nữa khiến căng thẳng Việt Nam - Trung Quốc leo thang đó là vấn đề Hoa kiều tại Việt Nam. Trước năm 1975, có khoảng 1,5 triệu người gốc Hoa sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, 15% sống ở phía Bắc vĩ tuyến 17 và 85% còn lại sinh sống ở miền Nam Việt Nam. Người Hoa đặc biệt có ảnh hưởng ở miền Nam Việt Nam, nơi họ hoạt động mạnh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm đưa ra chính sách buộc người Hoa phải nhập quốc tịch Việt Nam hoặc họ sẽ bị trục xuất khỏi lãnh thổ, ngược lại, Hà Nội và Bắc Kinh đồng ý trên nguyên tắc về việc cho phép Hoa kiều tự chọn lựa quốc tịch của mình. Chính sách của Việt Nam từ năm 1976 đã bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi nhanh chóng của mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, với nỗi e ngại rằng Trung Quốc có thể sử dụng Hoa kiều để ép Việt Nam theo các chính sách của mình. Vấn đề Hoa kiều được chính phủ Việt Nam xem là một thử thách đối với chủ quyền quốc gia hơn là một vấn đề nội bộ đơn thuần.[15][16] Chính sách một quốc tịch bắt đầu, Hoa kiều nếu không nhập quốc tịch Việt Nam sẽ bị cho thôi việc,[15] các báo và cơ sở giáo dục tiếng Hoa cũng bị đóng cửa.[17] Từ năm 1977 đã có 70.000 Hoa kiều từ Việt Nam quay về Trung Quốc.[18] Cho đến thời điểm xảy ra cuộc chiến đã có chừng 160.000 Hoa kiều hồi hương từ Việt Nam bằng đường biển hoặc đường bộ qua Cửa khẩu Hữu Nghị.[19]
Tuyên bố chủ quyền của nước Việt Nam thống nhất năm 1975 đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; cách ứng xử của Việt Nam đối với người Việt gốc Hoa; và cố gắng của Việt Nam trong việc xây dựng quan hệ chặt chẽ giữa ba nước Đông Dương được Bắc Kinh xem là nỗ lực nhằm thống trị Đông Dương và là ví dụ về sự hỗn xược của Việt Nam.[20] Từ tháng 8 năm 1975, Trung Quốc bắt đầu giảm mạnh viện trợ kinh tế cho Việt Nam, cắt hoàn toàn vào tháng 6 năm 1978.[21] Cũng năm 1975, Trung Quốc cho Campuchia vay không lấy lãi 1 tỷ USD và kí kết một hiệp ước quân sự bí mật với chính quyền Khmer Đỏ vào tháng 2 năm 1976.[22] Chính sách ngoại giao của Trung Quốc với khu vực Đông Nam Á cũng được thay đổi theo hướng tăng cường quan hệ với khối ASEAN vốn ở thế đối đầu với các chính quyền cộng sản Đông Dương đồng thời cắt bỏ viện trợ của nước này đối với các đảng cộng sản ở Đông Nam Á.[23]
Cuối năm 1978, căng thẳng giữa Việt Nam với cả Campuchia cũng như Trung Quốc đều lên một đỉnh mới.
Ngày 23 tháng 12 năm 1978, Quân đội Việt Nam tổng phản công trên biên giới Tây Nam, đánh sang Campuchia lật đổ chính quyền Khmer Đỏ. Trung Quốc có được lý do để tuyên bố về cuộc chiến chống Việt Nam sắp tiến hành. Việc Trung Quốc lựa chọn thời điểm tấn công Việt Nam cũng hết sức thuận lợi cho Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình vừa kết thúc chuyến công du sang Mỹ, cùng với việc ông ta lớn tiếng đe dọa "dạy cho Việt Nam một bài học", Trung Quốc tỏ ra họ có được hậu thuẫn từ Hoa Kỳ, hoặt ít nhất là Mỹ cũng im lặng tán thành. Ngoài ra việc Trung Quốc cắt nguồn viện trợ dầu cho Việt Nam vào cuối năm 1978, vốn chiếm tới hơn một nửa tiêu thụ dầu của Việt Nam, trong khi Liên Xô chưa kịp viện trợ bổ sung, cũng khiến dự trữ dầu chiến lược của Việt Nam bị thiếu hụt trong thời điểm quyết định khi quân Trung Quốc tấn công.[24]
Thêm vào đó, việc Trưởng Ngân khố Mỹ Blumenthal của chính quyền Carter viếng thăm Trung Quốc vào 24 tháng 2 cũng có tác dụng như một lời khuyến khích ngầm Trung Quốc, và có tác dụng phụ đảm bảo với Trung Quốc tình hình tại vùng duyên hải Phúc Kiến đối diện với Đài Loan sẽ yên tĩnh trong thời gian đầu năm 1979, khiến Trung Quốc có thể yên tâm tái bố trí các lực lượng tại Phúc Kiến về hướng biên giới phía nam với Việt Nam.[25]
Với lý do cần kinh phí để hỗ trợ Hoa kiều hồi hương, tháng 5 năm 1978, lần đầu tiên Trung Quốc tuyên bố cắt một phần viện trợ không hoàn lại đã ký cho Việt Nam và rút bớt chuyên gia về nước[26]. Tháng 7, Trung Quốc tuyên bố cắt hết viện trợ và rút hết chuyên gia đang làm việc tại Việt Nam về nước[26]. Tháng 11 năm 1978 Việt Nam ký "hiệp ước hữu nghị và hợp tác" với Liên Xô. Ngày 22 tháng 12 năm 1978, Trung Quốc ngừng tuyến xe lửa liên vận tới Việt Nam. Đầu tháng 1 năm 1979, đường bay Bắc Kinh - Hà Nội cũng bị cắt[26].
Trong khi đó, Đặng Tiểu Bình nổi lên trở thành người lãnh đạo quyền lực nhất Trung Quốc. Đặng nhìn thấy cả rắc rối lẫn cơ hội trong mối quan hệ khó khăn với Việt Nam và cho rằng cách tốt nhất để nắm lấy những cơ hội này là một hành động quân sự.[10]. Trong chuyến thăm Đông Nam Á tháng 12 năm 1978, tại một cuộc trả lời phỏng vấn được Trung Quốc truyền hình trực tiếp, Đặng Tiểu Bình tuyên bố: "Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học" mà ngày hôm sau báo chí chính thức của Trung Quốc cắt ngắn thành "phải dạy cho Việt Nam bài học"[26].
[sửa]Xung đột khu vực
Cùng lúc căng thẳng Việt Nam-Trung Quốc lên cao thì ở biên giới phía Tây Nam của Việt Nam, chính quyền Khmer Đỏ, với sự bảo trợ của Trung Quốc, cũng bắt đầu leo thang hoạt động quân sự xâm lấn miền Nam Việt Nam. Các xung đột lẻ tẻ ở khu vực này đã nhanh chóng bùng nổ thành Chiến tranh biên giới Việt Nam - Campuchia với hệ quả là Việt Nam đưa quân vào Campuchia lật đổ chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ.[27] Đứng trước tình hình đó, Trung Quốc quyết định tấn công xâm lược Việt Nam với lý do "dạy cho Việt Nam một bài học" (lời Đặng Tiểu Bình) nhưng mục đích chính là phân chia lực lượng quân đội của Việt Nam để giúp chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ[28].
Ngoài ra, theo một số nhà nghiên cứu quân sự Tây phương, về mặt chiến lược, Trung Quốc thử nghiệm một cuộc chiến tranh biên giới có giới hạn để thăm dò khả năng tương trợ của Liên Xô, sau khi Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế (SEV), và ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên Xô (1978), trong đó có điều khoản về tương trợ quân sự. Nếu thỏa ước này được tuân thủ nghiêm ngặt, theo nhận định của Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, nó sẽ là hiểm họa quốc phòng lớn vì đặt Trung Quốc vào tình thế lưỡng đầu thọ địch khi xảy ra chiến tranh với Việt Nam hoặc Liên Xô.[29]
Về phía Liên Xô, nguy cơ bị cô lập về ngoại giao sau khi quan hệ Trung Quốc - Hoa Kỳ trở nên nồng ấm khiến Moskva buộc phải tìm cách tăng cường quan hệ đối với Việt Nam. Viện trợ kinh tế của Liên Xô cho Việt Nam tăng đều từ năm 1975 đến 1979 từ 450 triệu USD lên 1,1 tỷ USD, viện trợ quân sự cũng tăng mạnh do sự kiện xung đột Việt Nam Campuchia (từ 125 triệu USD năm 1977 lên 600 triệu năm 1978 và 890 triệu năm 1979).[30]
[sửa]Mục đích và mục tiêu của Trung Quốc
Tuyên bố chiến tranh của Bắc Kinh nói rằng đây là cuộc chiến để quân Trung Quốc "phản công" chống lại các khiêu khích của Việt Nam. Phát ngôn viên của Tân Hoa xã nói: "Các lực lượng biên phòng Trung Quốc đã hành động khi tình hình trở nên không thể chấp nhận được và không còn lựa chọn nào khác. Chúng tôi không muốn một tấc đất nào của Việt Nam. Cái chúng tôi muốn là một đường biên giới ổn định và hòa bình. Sau khi đánh trả các thế lực hiếu chiến đủ mức cần thiết, các lực lượng biên phòng của chúng tôi sẽ quay lại bảo vệ chặt chẽ biên giới của tổ quốc."[19]
Nhiều nhà sử học phương Tây cho rằng cuộc chiến có những mục đích không rõ ràng, trong đó dễ thấy nhất là mục đích trừng phạt Việt Nam vì đã lật đổ chế độ Khmer Đỏ tại Campuchia - một đồng minh của Trung Quốc và là một trong những chế độ tàn bạo nhất của thế kỉ 20. Về sau, một số nhà sử học suy đoán rằng cuộc chiến có vẻ là một phần trong kế hoạch hiện đại hóa quân đội của Đặng Tiểu Bình khi nó thể hiện rõ các khiếm khuyết của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Những người khác cho rằng Đặng Tiểu Bình gây ra chiến tranh để giữ cho quân đội bận rộn trong khi ông củng cố quyền lực và loại bỏ các đối thủ cánh tả từ thời Mao Trạch Đông.[31]
Theo Carl Thayer, trong mắt Trung Quốc, Hà Nội đã vô ơn với Bắc Kinh: sau khi được giúp đỡ trong cuộc chiến chống Mỹ thì quay sang bạc đãi cộng đồng người Hoa, quan hệ nồng ấm với Liên Xô mà khi đó Trung Quốc coi là kẻ thù, rồi lại tấn công quân sự lật đổ đồng minh Khmer Đỏ của Bắc Kinh. Trung Quốc muốn "dạy cho Việt Nam một bài học" vì đã thách thức uy quyền và ảnh hưởng của Trung Quốc tại vùng Đông Dương. Bên cạnh việc xâm lấn Việt Nam để "bình định vùng biên giới" sau nhiều năm căng thẳng với các xung đột ngày càng nhiều, Trung Quốc phải hành động để chứng tỏ uy tín của mình trong việc bảo vệ đồng minh Khmer Đỏ.[32]
Đối với Việt Nam, cuộc chiến là một phần trong kế hoạch bành trướng về phía Nam của Trung Quốc.[33]. Theo phân tích của phía Việt Nam, mục tiêu chính của Trung Quốc trong hành động quân sự lần này gồm:[34]
Nhanh chóng chiếm đóng vùng biên giới Việt-Trung, đặc biệt là các thị xã trọng yếu gồm Lạng Sơn (chốt chặn nối Quốc lộ 1A của Việt Nam với Trung Quốc), Cao Bằng và Lào Cai. Vùng chiếm đóng dự kiến với bề sâu chừng vài chục km sẽ được Trung Quốc sử dụng làm bàn đạp cho các cuộc tấn công vào sâu nội địa Việt Nam.
Tiêu hao lực lượng chủ lực và làm suy yếu khả năng phòng ngự phía Việt Nam bằng việc quét sạch các đồn biên phòng, tiêu diệt một phần lực lượng quân địa phương và các đơn vị quân độc lập khác của Việt Nam.
Hủy diệt cơ sở hạ tầng và nền kinh tế ở các vùng chiếm đóng để đưa nền kinh tế Việt Nam tới chỗ sụp đổ.
[sửa]Tương quan lực lượng tham chiến
Dân binh Trung Quốc trong các đội tải thương. Ước tính có khoảng 4.000 lính Trung Quốc tử trận chỉ trong 2 ngày đầu của cuộc chiến.
Để tấn công Việt Nam, Trung Quốc sử dụng 9 quân đoàn chủ lực và một số sư đoàn bộ binh độc lập (tổng cộng 32 sư đoàn), 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư đoàn và nhiều trung đoàn pháo binh, phòng không. Lực lượng được huy động khoảng trên 30 vạn binh sĩ, 550 xe tăng, 480 khẩu pháo, 1.260 súng cối[35] và dàn hỏa tiễn, chưa kể hơn 200 tàu chiến của hạm đội Nam Hải và 1.700 máy bay sẵn sàng phía sau. Tướng Hứa Thế Hữu, tư lệnh Đại Quân khu Quảng Châu chỉ huy hướng tiến công vào đông bắc Việt Nam với trọng điểm là Lạng Sơn và Cao Bằng. Tướng Dương Đắc Chí, tư lệnh Đại Quân khu Côn Minh đảm nhiệm hướng tây bắc với trọng điểm là Hoàng Liên Sơn (nay là Lào Cai). Đây là đợt huy động quân sự lớn nhất của Trung Quốc kể từ Chiến tranh Triều Tiên. Ngoài lực lượng quân chính qui, Trung Quốc còn huy động hàng chục vạn dân công và lực lượng dân binh ở các tỉnh biên giới để tải đồ tiếp tế, phục vụ, tải thương, hỗ trợ quân chính qui phục vụ cho chiến dịch.[36], chỉ riêng tại Quảng Tây đã có đến 215.000 dân công được huy động[1]. Về phân phối lực lượng của Trung Quốc: hướng Lạng Sơn có quân đoàn 43, 54, 55; hướng Cao Bằng có quân đoàn 41, 42, 50; hướng Hoàng Liên Sơn có quân đoàn 13, 14; hướng Lai Châu có quân đoàn 11; hướng Quảng Ninh, Hà Tuyên (nay là Hà Giang) mỗi nơi cũng có từ 1-2 sư đoàn.
Về phía Việt Nam, do phần lớn các quân đoàn chính quy (3 trong số 4 quân đoàn) đang chiến đấu ở Campuchia nên phòng thủ ở biên giới với Trung Quốc chỉ có một số sư đoàn chủ lực quân khu (chủ yếu là tân binh) của Quân khu I và II cùng các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện, công an vũ trang (biên phòng) và dân quân tự vệ. Lực lượng tinh nhuệ nhất của phía Việt Nam đóng ở biên giới Việt-Trung là Sư đoàn 3 (đóng tại Lạng Sơn) và sư đoàn 316A (đóng tại Sa Pa), ngoài ra còn có các sư đoàn 346 ở Cao Bằng, 325B ở Quảng Ninh, 345 ở Lào Cai, 326 ở Phong Thổ, Lai Châu. Sư đoàn 346 đóng tại Cao Bằng nhiều năm chủ yếu làm nhiệm vụ kinh tế, thời gian huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trở lại chưa nhiều. Lực lượng biên giới có khoảng 70.000 quân, sau được hai sư đoàn (327 và 337) từ tuyến sau lên Lạng Sơn tiếp viện.[37] Lực lượng độc lập gồm các trung đoàn 141, 147, 148, 197, trung đoàn pháo binh 68, các trung đoàn quân địa phương 95, 121, 192, 254 và 741.[34] Quân đoàn 1 vẫn đóng quanh Hà Nội đề phòng Trung Quốc đổi ý tiến sâu vào trung châu. Ngày 27 tháng 2, Quân đoàn 2 là chủ lực của Bộ quốc phòng được lệnh cơ động về để bảo vệ miền Bắc, đến ngày 5 tháng 3 bắt đầu triển khai trên hướng Lạng Sơn nhưng rốt cục không tham gia.
[sửa]Diễn biến
Các hướng tiến công của Trung Quốc trên toàn tuyến biên giới
[sửa]Chuẩn bị
Từ tháng 10 năm 1978 cho đến 15 tháng 2 năm 1979, Trung Quốc thực hiện hàng loạt các vụ tấn công thăm dò vào các vị trí phòng thủ của Việt Nam tại biên giới, với mục đích thu thập thông tin tình báo, đe dọa quân Việt Nam, và đánh lạc hướng khỏi mục tiêu chính của chiến dịch sắp tới. Các cuộc tấn công nhỏ này tăng dần về quy mô và tần số khi lực lượng Trung Quốc tập trung tại biên giới ngày càng đông. Không có tài liệu gì về các cuộc tấn công thăm dò của quân Việt Nam.[38] Dấu hiệu đầu tiên của chiến tranh là việc Trung Quốc cắt đứt tuyến đường sắt Hữu Nghị nối liền hai nước vào ngày 22 tháng 12 năm 1978.[39] Đến cuối tháng 1 năm 1979, khoảng 17 sư đoàn chính quy Trung Quốc (khoảng 225.000 quân), đã tập trung gần biên giới với Việt Nam. Hơn 700 máy bay chiến đấu và máy bay ném bom - 1/5 lực lượng không quân Trung Quốc - đã được đưa đến các sân bay gần biên giới. [40] Các động thái leo thang này của Trung Quốc đã được phía Việt Nam đề cập tại cuộc họp của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc ngày 11 tháng 2 năm 1979.[29]
Ngày 7 tháng 2, Bắc Kinh báo trước về một chiến dịch tấn công Việt Nam với thông cáo chính thức của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phản đối việc quân đội Việt Nam tiến vào lãnh thổ Campuchia và đề nghị tất cả các quốc gia yêu hòa bình "dùng mọi biện pháp có thể để chấm dứt cuộc xâm lược dã man này".[41] Về mặt ngoại giao, sau khi bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ từ tháng 12 năm 1978, trong chuyến thăm Washington từ 28 đến 30 tháng 1, Đặng Tiểu Bình nhận được sự ủng hộ cần thiết của đồng minh mới Hoa Kỳ trong kế hoạch tấn công Việt Nam, tuy nhiên tổng thống Jimmy Carter cũng cảnh báo Đặng rằng vụ tấn công của Trung Quốc, nếu xảy ra, sẽ không thể nhận được sự ủng hộ về mặt ngoại giao hoặc quân sự quốc tế.[42][43]
Ngày 15 tháng 2 năm 1979, nhân dịp 29 năm hiệp ước Trung-Xô về vấn đề Mông Cổ và thời điểm kết thúc chính thức Hiệp ước hợp tác Trung-Xô, Đặng Tiểu Bình tuyên bố Trung Quốc chuẩn bị tấn công giới hạn Việt Nam. Để cảnh báo Liên Xô và cũng nhằm ngăn chặn bị tấn công từ hai mặt, Trung Quốc đặt toàn bộ quân đội đóng dọc biên giới Trung-Xô vào tình trạng báo động đồng thời thiết lập một sở chỉ huy quân đội mới ở Tân Cương và di tản 300.000 dân khỏi vùng biên giới với Liên Xô.[44]
Để đối phó lại việc Trung Quốc tập trung bộ binh và vũ khí hạng nặng tại biên giới, cũng như việc các cuộc đột kích vũ trang ngày càng gia tăng, Việt Nam tiến hành chuẩn bị các vị trí phòng ngự, chuẩn bị tinh thần dân chúng sẵn sàng một khi chiến tranh xảy ra. Tuy nhiên Việt Nam tại thời điểm đó vẫn tin rằng Trung Quốc sẽ không tấn công, vì Trung Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa anh em. Thêm nữa, Việt Nam tin rằng đa phần nhân dân Trung Quốc không ủng hộ chiến tranh và sẽ phản đối chiến tranh nổ ra. Ngoài ra, tuyên bố của Đặng Tiểu Bình chỉ một tuần trước khi chiến tranh nổ ra, rằng chiến dịch quân sự của PLA sẽ không dài hơn cuộc chiến 1962 với Ấn Độ, cộng với các tuyên bố của Đặng trước đó rằng chiến dịch quân sự này "giới hạn về không gian và thời gian", khiến Hà Nội tin tưởng họ có khả năng cầm chân quân Trung Quốc tại các tỉnh biên giới[45]
Lực lượng Việt Nam đương đầu với cuộc tấn công của Trung Quốc chủ yếu là dân quân và bộ đội địa phương. Từ vài tháng trước khi chiến tranh nổ ra, Hà Nội đã tiến hành huấn luyện và trang bị vũ khí hạng nhẹ cho dân quân tại các tỉnh biên giới. Chỉ có một số đơn vị quân chính qui tham gia chiến trận, nhất là các đơn vị phòng thủ Lạng Sơn, nhưng ngay cả tại đây, lực lượng chủ yếu vẫn là dân quân và quân địa phương. Hà Nội giữ lại 5 sư đoàn chủ lực ở tuyến sau đề phòng Trung Quốc tiến sâu về đồng bằng, và đồng thời cũng để giới hạn việc cuộc chiến leo thang[46]
[sửa]Giai đoạn 1
Mặt trận Lạng Sơn
Mặt trận Cao Bằng
5 giờ sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, lực lượng Trung Quốc khoảng 120.000 quân bắt đầu tiến vào Việt Nam trên toàn tuyến biên giới, mở đầu là pháo, tiếp theo là xe tăng và bộ binh.[47][19] Cánh phía Đông có sở chỉ huy tiền phương đặt tại Nam Ninh và mục tiêu chính là Lạng Sơn. Có hai hướng tiến song song, hướng thứ nhất do quân đoàn 42A dẫn đầu từ Long Châu đánh vào Đồng Đăng nhằm làm bàn đạp đánh Lạng Sơn, hướng thứ hai do quân đoàn 41A dẫn đầu từ Tĩnh Tây và Long Châu tiến vào Cao Bằng và Đông Khê. Ngoài ra còn có quân đoàn 55A tiến từ Phòng Thành vào Móng Cái. Cánh phía Tây có sở chỉ huy tiền phương đặt tại Mông Tự, có 3 hướng tiến công chính. Hướng thứ nhất do các quân đoàn 13A và 11A dẫn đầu đánh từ vào thị xã Lào Cai. Hướng thứ hai từ Văn Sơn đánh vào Hà Giang. Hướng thứ 3 do sư đoàn 42D của quân đoàn 14A dẫn đầu đánh từ Kim Bình vào Lai Châu. [48] Tổng cộng quân Trung Quốc xâm nhập Việt Nam trên 26 điểm, các khu vực dân cư Việt Nam chịu thiệt hại nặng nhất từ đợt tấn công đầu tiên này là Lào Cai, Mường Khương, Cao Bằng, Lạng Sơn và Móng Cái.[19]
Không quân và hải quân không được sử dụng trong toàn bộ cuộc chiến. Tất cả các hướng tấn công đều có xe tăng, pháo binh hỗ trợ. Quân Trung Quốc vừa chiếm ưu thế về lực lượng, vừa chủ động về thời gian tiến công, lại còn có "lực lượng thứ năm" gồm những người Việt gốc Hoa cài cắm từ lâu trên đất Việt Nam. Từ đêm 16 tháng 2, các tổ thám báo Trung Quốc đã mang theo bộc phá luồn sâu vào nội địa Việt Nam móc nối với "lực lượng thứ năm" này lập thành các toán vũ trang phục sẵn các ngã ba đường, bờ suối, các cây cầu để ngăn chặn quân tiếp viện của Việt Nam từ phía sau lên. Trước giờ nổ súng, các lực lượng này cũng bí mật cắt các đường dây điện thoại để cô lập chỉ huy sư đoàn với các chốt, trận địa pháo.[49]
Tiến nhanh lúc khởi đầu, nhưng quân Trung Quốc nhanh chóng phải giảm tốc độ do gặp nhiều trở ngại về địa hình và hệ thống hậu cần lạc hậu phải dùng lừa, ngựa và người thồ hàng.[48] Hệ thống phòng thủ của Việt Nam dọc theo biên giới rất mạnh, với các hầm hào hang động tại các điểm cao dọc biên giới do lực lượng quân sự có trang bị và huấn luyện tốt trấn giữ. Kết quả là Trung Quốc phải chịu thương vong lớn.[50] Trong ngày đầu của cuộc chiến, chiến thuật dùng biển lửa và biển người của Trung Quốc đã có kết quả tốt, họ tiến được vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam hơn 10 dặm và chiếm được một số thị trấn. Chiến sự ác liệt nhất diễn ra tại các vùng Bát Xát, Mường Khương ở Tây Bắc và Đồng Đăng, cửa khẩu Hữu Nghị, Thông Nông ở Đông Bắc. Quân Trung Quốc cũng đã vượt sông Hồng và đánh mạnh về phía Lào Cai. [50]
Trong hai ngày 18 và 19 tháng 2, chiến sự lan rộng hơn. Việt Nam kháng cự rất mạnh và với tinh thần chiến đấu cao. Quân Trung Quốc hầu như không thể sử dụng lực lượng ở mức sư đoàn mà phải dùng đội hình nhỏ và thay đổi chiến thuật. Họ tiến chậm chạp, giành giật từng đường hầm, từng điểm cao, và cuối cùng cũng chiếm được Mường Khương, Trùng Khánh, và Đồng Đăng. Tại Móng Cái, hai bên giành giật dai dẳng. Cả hai bên đều phải chịu thương vong cao,[51] có ít nhất 4.000 lính Trung Quốc chết trong hai ngày đầu này.[52] Sau hai ngày chiến tranh, quân Trung Quốc đã chiếm được 11 làng mạc và thị trấn, đồng thời bao vây Đồng Đăng, thị trấn có vị trí then chốt trên đường biên giới Trung-Việt.[19]
Trận chiến tại Đồng Đăng bắt đầu ngay từ ngày 17 và là trận ác liệt nhất.[51] Đây là trận địa phòng thủ của Trung đoàn 12 Tây Sơn, Sư đoàn 3 Sao Vàng, Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tấn công vào Đồng Đăng là 2 sư đoàn bộ binh, 1 trung đoàn xe tăng, và chi viện của 6 trung đoàn pháo binh Trung Quốc.[49] Cụm điểm tựa Thâm Mô, Pháo Đài, 339 tạo thế chân kiềng bảo vệ phía Tây Nam thị xã Đồng Đăng, do lực lượng của 2 tiểu đoàn 4, 6, Trung đoàn 12 trấn giữ, bị Trung Quốc bao vây và tấn công dồn dập ngay từ đầu với lực lượng cấp sư đoàn. Lực lượng phòng thủ không được chi viện nhưng đã chiến đấu đến những người cuối cùng, trụ được cho đến ngày 22. Ngày cuối cùng tại Pháo Đài, nơi có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất, không gọi được đối phương đầu hàng, quân Trung Quốc chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, bắn đạn hóa chất độc vào các lỗ thông hơi làm thiệt mạng cả thương binh cũng như dân quanh vùng đến đây lánh nạn.[53]
Ngày 19 tháng 2, Đặng Tiểu Bình trong cuộc gặp với giới ngoại giao Argentina tuyên bố đây là cuộc chiến tranh hạn chế và Trung Quốc sẽ rút quân ngay sau khi đạt được mục tiêu giới hạn,[54] Cùng ngày, nhóm cố vấn quân sự cao cấp của Liên Xô tới Hà Nội để gặp các tướng lĩnh chỉ huy của Việt Nam. Moskva yêu cầu Trung Quốc rút quân. Liên Xô cũng viện trợ gấp vũ khí cho Việt Nam qua cảng Hải Phòng, đồng thời dùng máy bay vận tải chuyển một số sư đoàn chủ lực của Việt Nam từ Campuchia về.
Mặt trận Lào Cai
Đến 21 tháng 2, Trung Quốc tăng cường thêm 2 sư đoàn và tiếp tục tấn công mạnh hơn nữa. Ngày 22, các thị xã Lào Cai và Cao Bằng bị chiếm. Quân Trung Quốc chiếm thêm một số vùng tại Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, và Quảng Ninh. Chiến sự lan rộng tới các khu đô thị ven biển ở Móng Cái. Về phía Việt Nam, cùng lúc với việc triển khai phòng ngự quyết liệt, khoảng từ 3 đến 5 sư đoàn (gồm 30.000 quân) cũng được giữ lại để thành lập một tuyến phòng ngự cánh cung từ Yên Bái tới Quảng Yên với nhiệm vụ bảo vệ Hà Nội và Hải Phòng.[19]
Ngày 23 tháng 2, Đặng Tiểu Bình nhắc lại tuyên bố về "cuộc chiến tranh hạn chế" và nói sẽ rút quân trong vòng 10 ngày hoặc hơn. Đây được xem là thông điệp nhằm ngăn Liên Xô can thiệp quân sự, đáp lại kêu gọi rút quân của Mỹ, xoa dịu các nước đang lo ngại về một cuộc chiến lớn hơn, và gây khó hiểu cho Việt Nam[54] Trong khi đó, một tuần dương hạm Sverdlov và một khu trục hạm Krivak của Liên Xô đã rời cảng từ ngày 21 tiến về phía vùng biển Việt Nam. Liên Xô cũng đã bắt đầu dùng máy bay giúp Việt Nam chở quân và vũ khí ra Bắc. Hai chuyến bay đặc biệt của Liên Xô và Bulgaria chở vũ khí khí tài bay tới Hà Nội. Một phái đoàn quân sự của Liên Xô cùng từ Moskva bay tới Hà Nội.[54]
Ngày 26 tháng 2, thêm nhiều quân Trung Quốc tập kết quanh khu vực Lạng Sơn chuẩn bị cho trận chiến đánh chiếm thị xã này.[51]
Ngày 25 tháng 2, tại Mai Sao, Quân đoàn 14 thuộc Quân khu 1, Quân đội Nhân dân Việt Nam cùng Bộ chỉ huy thống nhất Lạng Sơn được thành lập, lực lượng bao gồm các sư đoàn 3, 327, 338, 337 (đang từ quân khu 4 ra) và sau này có thêm sư đoàn 347 cùng các đơn vị trực thuộc khác.[55]
Trong giai đoạn đầu đến ngày 28 tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, và một số thị trấn. Các cơ sở vật chất, kinh tế ở những nơi này bị phá hủy triệt để. Tuy nhiên, do vấp phải sự phòng ngự có hiệu quả của Việt Nam cũng như có chiến thuật lạc hậu so với phía Việt Nam nên quân Trung Quốc tiến rất chậm và bị thiệt hại nặng.[52] Quân Việt Nam còn phản kích đánh cả vào hai thị trấn biên giới Ninh Minh (Quảng Tây) và Malipo (Vân Nam) của Trung Quốc, nhưng chỉ có ý nghĩa quấy rối.[56]
[sửa]Giai đoạn 2
Bài chi tiết: Trận Lạng Sơn
Giai đoạn 2 bắt đầu từ ngày 27 tháng 2. Chiến sự tập trung tại Lạng Sơn tuy giao tranh tại Lào Cai, Cao Bằng, và Móng Cái vẫn tiếp diễn. Trận đánh chiếm thị xã Lạng Sơn bắt đầu lúc 6 giờ sáng cùng ngày. Trung Quốc điều tới đây thêm 2 sư đoàn từ Đồng Đăng và Lộc Bình (phía Đông Nam Lạng Sơn), tiếp tục đưa thêm quân mới từ Trung Quốc thâm nhập Việt Nam để tăng viện.[56] Tại Lạng Sơn, các Sư đoàn 3, 337, của Việt Nam đã tổ chức phòng thủ chu đáo và phản ứng mãnh liệt trước các đợt tấn công lớn của quân Trung Quốc. Từ ngày 2 tháng 3, Sư đoàn 337 trụ tại khu vực cầu Khánh Khê. Sư đoàn 3 chống trả 3 sư đoàn bộ binh 160, 161, 129, cùng nhiều tăng, pháo, tiến công trên một chiều dài 20 km từ xã Hồng Phong huyện Văn Lãng đến xã Cao Lâu huyện Cao Lộc. Suốt ngày 27, ở hướng Cao Lộc, sư đoàn 129 Trung Quốc không phá nổi trận địa phòng thủ của trung đoàn 141; ở hướng đường 1B, sư đoàn 161 bị trung đoàn 12 ghìm chân; ở hướng đường 1A, trung đoàn 2 vừa chặn đánh sư đoàn 160 từ phía Bắc vừa chống lại cánh quân vu hồi của sư đoàn 161 từ hướng Tây Bắc thọc sang. Nhưng 14 giờ ngày hôm đó, 1 tiểu đoàn Trung Quốc bí mật luồn qua phía sau bất ngờ đánh chiếm điểm cao 800, nơi đặt đài quan sát pháo binh của sư đoàn 3 Sao Vàng. Mất điểm cao 800, thế trận phòng ngự của Việt Nam ở phía tây đường 1A từ Cốc Chủ đến điểm cao 417 bị chọc thủng. [55] Chiếm được điểm cao 800 và Tam Lung, nhưng trong suốt các ngày từ 28 tháng 2 đến 2 tháng 3, quân Trung Quốc vẫn không vượt qua được đoạn đường 4 km để vào thị xã Lạng Sơn, tuy đã dùng cho hướng tiến công này gần 5 sư đoàn bộ binh.[55] Sau nhiều trận đánh đẫm máu giành giật các điểm cao quanh Lạng Sơn, mà có trận quân phòng thủ Việt Nam đánh đến viên đạn cuối cùng, quân Trung Quốc bắt đầu bao vây thị xã Lạng Sơn ngày 2 tháng 3[56] sử dụng thêm sư đoàn 162 dự bị chiến dịch của quân đoàn 54 và dùng 6 sư đoàn tấn công đồng loạt trên nhiều hướng[55]. Chiều ngày 4, một cánh quân Trung Quốc đã vượt sông Kỳ Cùng, chiếm điểm cao 340 và vào tới thị xã Lạng Sơn, một cánh quân khác của sư đoàn 128 Trung Quốc cũng chiếm sân bay Mai Pha, điểm cao 391 ở phía tây nam thị xã.
Đến đây, phía Việt Nam đã điều các sư đoàn chủ lực có xe tăng, pháo binh, không quân hỗ trợ áp sát mặt trận, chuẩn bị phản công giải phóng các khu vực bị chiếm đóng. Quân đoàn 14 với các sư đoàn 337, 327, 338 hầu như còn nguyên vẹn đang bố trí quân quanh thị xã Lạng Sơn. Quân đoàn 2, chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam, đã tập kết sau lưng Quân đoàn 14.[55]
[sửa]Rút quân
Ngày 5 tháng 3 năm 1979, Bắc Kinh tuyên bố đã "hoàn thành mục tiêu chiến tranh", "chiến thắng" và bắt đầu rút quân. Cũng ngày 5 tháng 3 năm 1979, Việt Nam ra lệnh tổng động viên toàn quốc.[57] Ngày 7 tháng 3, Việt Nam tuyên bố rằng để thể hiện "thiện chí hòa bình", Việt Nam sẽ cho phép Trung Quốc rút quân.[58]
Mặc dù Trung Quốc tuyên bố rút quân, chiến sự vẫn tiếp diễn ở một số nơi. Dân thường Việt Nam vẫn tiếp tục bị giết, chẳng hạn như vụ thảm sát ngày 9 tháng 3 tại thôn Đổng Chúc, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, khi quân Trung Quốc đã dùng búa và dao giết 43 người, gồm 21 phụ nữ và 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai, rồi ném xác xuống giếng hoặc chặt ra nhiều khúc rồi vứt hai bên bờ suối.[59] Trong thời gian chuẩn bị rút quân, Trung Quốc còn phá hủy một cách có hệ thống toàn bộ các công trình xây dựng, từ nhà dân hay cột điện, tại các thị xã thị trấn Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn...[59]
Sư đoàn 337 của Việt Nam, lên tham chiến từ ngày 2 tháng 3 tại khu vực cầu Khánh Khê ở Lạng Sơn để chi viện cho các đơn vị đang chặn đánh quân Trung Quốc. Sư đoàn này đến nơi quá muộn để thay đổi cục diện trận đánh tại Lạng Sơn, nhưng đã cùng sư đoàn 338 tổ chức phản kích đánh vào quân Trung Quốc rút lui qua ngả Chi Mã[60].
Ngày 18 tháng 3 năm 1979, Trung Quốc hoàn tất việc rút quân khỏi Việt Nam.
[sửa]Chiến dịch dân vận của Trung Quốc
Theo truyền thống, Trung Quốc đề cao việc tuyên truyền chính trị cho binh sỹ và dân chúng của mình về chính nghĩa của họ trong việc cần thiết tiến hành cuộc chiến trừng phạt Việt Nam. Ngay từ trước khi quân Trung Quốc vượt biên giới đánh vào Việt Nam, cả hai bên đã lớn tiếng cáo buộc nhau có các hành vi gây hấn trên tuyến biên giới. Theo phía Trung Quốc, quân Việt Nam đã tiến hành hơn 1100 vụ xâm nhập trên biên giới. Đối lại, Việt Nam cho biết việc quân Trung Quốc tiến hành khiêu khích diễn ra hàng ngày[19]. Cùng với việc quan hệ chính trị trở nên căng thẳng, số vụ xung đột vũ trang tại biên giới cũng tăng lên, từ khoảng 100 vụ năm 1974 lên tới hơn 900 vụ năm 1976[61]. Việc Trung Quốc chiếm Hoàng Sa năm 1974 cũng như việc Việt Nam đưa quân tiếp quản Trường Sa cũng góp phần khiến nguyên nhân bất đồng giữa hai phía trở nên sâu sắc[61].
Trung Quốc tuyên truyền trong nhân dân rằng đây là cuộc chiến phản công chống Việt Nam để bảo vệ lãnh thổ quốc gia; tuyên truyền với quân đội rằng chiến dịch quân sự này được tiến hành để trừng phạt nhà cầm quyền Việt Nam, cụ thể là "bè lũ Lê Duẩn", và rằng quân đội cần giành được sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam[62]. Chiến dịch vận động quần chúng của Trung Quốc tỏ ra có kết quả với dân chúng và cán bộ Trung Quốc tại vùng biên, khiến họ có thể huy động hàng chục vạn dân công tham gia các hoạt động bảo đảm an ninh và tiếp tế cho quân đội.
Đối với dân thường Việt Nam, Trung Quốc bỏ ra nhiều công sức tuyên truyền lôi kéo người dân vùng biên, đặc biệt là với các dân tộc thiểu số sống vắt qua biên giới hai nước như Tày, Nùng (ở Trung Quốc gọi là dân tộc Choang), Dao, Hmong và các nhóm người thiểu số gốc Hoa. Kết quả là trong ngày đầu của cuộc chiến, có nơi, quân Trung Quốc đã được dẫn vòng qua đồn biên phòng tiến sâu vào đất Việt Nam mà không bị phát hiện. Phục vụ công tác dân vận tại các khu vực chiến sự, Trung Quốc còn thành lập các đơn vị đặc biệt mà nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức cũng như kiểm tra hoạt động của các đội vận động quần chúng trong tất cả các đơn vị quân. Theo đó, quân Trung Quốc tiến sang Việt Nam phải giảm tối thiểu những hành động gây xáo trộn, phiền hà đến dân chúng, tôn trọng phong tục tập quán, tài sản, cung cấp gạo, muối, dầu thắp, thuốc chữa bệnh... cho dân cư bản địa. Chính sách này được một số đơn vị Trung Quốc ở vùng Lào Cai thực hiện[63]
Tuy nhiên, quân Trung Quốc đã thực hiện nhiều hành động như giết chóc, đốt phá, ngay cả sau khi đã tuyên bố rút quân. Hầu hết các thị xã thị trấn mà Trung Quốc chiếm được đều bị phá hủy một cách có hệ thống.[64] Tại thị xã Cao Bằng, quân Trung Quốc dùng thuốc nổ phá sập bất cứ công trình gì từ công sở đến bưu điện, từ bệnh viện đến trường học, từ chợ đến cầu.[64]. Tại Đồng Đăng, quân Trung Quốc lấy đi tất cả những gì có thể mang theo, từ xe đạp cho đến thanh ray tàu hỏa, những gì không mang được đều bị đập phá. Tại thị xã Cam Đường trên bờ sông Hồng, cách biên giới khoảng 10km, ngoài việc phá hủy thị xã, quân Trung Quốc còn cho đốt cả mỏ apatit[65].
O'Dowd tổng kết là chính sách dân vận của quân Trung Quốc tỏ ra không thành công đối với người dân Việt Nam. Ông lí giải rằng "người Việt Nam rất yêu nước, thấm nhuần tư tưởng chính trị, giỏi chịu đựng, không dễ bị lung lạc...".[66]. Ngoài ra, những hành động tàn phá, giết chóc dân thường, cũng như ngược đãi tù binh của quân Trung Quốc đã gây hại cho nỗ lực dân vận của họ.[66] Những hoạt động này một phần là do binh lính Trung Quốc sang Việt Nam bị sốc vì sự khốc liệt, sức kháng cự của quân Việt Nam cũng như của dân bản địa,[67] một phần nằm trong các phá hoại có kế hoạch và tổ chức, ví dụ như tại thị xã Lạng Sơn[68]. Hoạt động lôi kéo người thiểu số tại biên giới của Trung Quốc cũng không đạt được kết quả mong đợi. Khi quân Trung Quốc từ quân khu Vân Nam rút về nước, tất cả những điệp viên và quân du kích người thiểu số mà họ gây dựng được khi chiếm đóng các khu vực biên giới trong thời gian chiến dịch đều bị lực lượng an ninh Việt Nam bắt giữ và xử tử.[69]
Chiến tranh tâm lý của Trung Quốc với các lực lượng phòng thủ của Việt Nam cũng thất bại. Trong suốt cuộc chiến, hiếm có đơn vị nào của Việt Nam không đánh trả quyết liệt quân Trung Quốc. Quân Trung Quốc cuối cùng cũng hiểu rằng ngoài việc sử dụng sức mạnh quân sự, họ không có hy vọng giành thắng lợi trong chiến tranh tuyên truyền chính trị[70].
[sửa]Phản ứng quốc tế
Đặng Tiểu Bình và Tổng thống Mỹ Jimmy Carter trong một buổi lễ ngày 31 tháng 1 năm 1979.
Ngay khi cuộc chiến nổ ra, Hoa Kỳ tuyên bố giữ vị trí trung lập và kêu gọi "sự rút quân lập tức của Việt Nam khỏi Campuchia và Trung Quốc khỏi Việt Nam"[50], nói rằng "việc Trung Quốc xâm lược Việt Nam là sự tiếp nối của việc Việt Nam xâm lược Campuchia".[51] Nhưng theo đánh giá của Nayan Chanda, Hoa Kỳ đã là quốc gia phương Tây duy nhất gần như ủng hộ cuộc xâm lược Việt Nam của Trung Quốc; trái với lời lên án việc Việt Nam tiến đánh Khmer Đỏ là "một mối đe dọa cho hòa bình và ổn định trong khu vực", tuyên bố của Mỹ về cuộc tấn công của Trung Quốc có hàm ý bào chữa rằng "việc Trung Quốc thâm nhập biên giới Việt Nam là kết quả của việc Việt Nam xâm lược Campuchia".[71] Ngoài Hoa Kỳ thì đa số các quốc gia phương Tây phản đối mạnh mẽ hành động quân sự của phía Trung Quốc, sự cô lập này đã ảnh hưởng khá lớn tới chính sách ngoại giao bước đầu mở cửa của Bắc Kinh khi đó.[29]
Ngày 18 tháng 2, Liên Xô viện dẫn hiệp định ký với Việt Nam, thúc giục Trung Quốc "ngừng trước khi quá muộn" và đòi Trung Quốc rút quân lập tức và toàn bộ. Trong thời gian xảy ra cuộc chiến, Liên Xô đã lên án cuộc tấn công của Trung Quốc là "hành động man rợ bất chấp đạo lý của kẻ cướp", đòi Trung Quốc lập tức chấm dứt "cuộc chiến tranh xâm lược", và cảnh báo Trung Quốc về lòng trung thành của Liên Xô đối với hiệp ước quân sự Xô-Việt. Ngoài ra, Liên Xô không có hành động can thiệp quân sự mà chỉ hỗ trợ vận chuyển bằng hàng không và triển khai hải quân ngoài bờ biển Việt Nam[58] nhằm tránh đổ vỡ quan hệ vốn đã căng thẳng với Trung Quốc[29]. Liên Xô cũng cảnh báo Trung Quốc về việc đặt các lực lượng vũ trang Xô Viết ở Siberi vào tình trạng báo động đồng thời cung cấp cho Việt Nam các thông tin quân sự thu được từ vệ tinh do thám. Bản thân chính quyền Hà Nội, vốn giữ chiến thuật phòng thủ trong cuộc chiến, cũng từ chối sự tham gia của các phi công Liên Xô vào các trận đánh.[72] Do không tham gia về quân sự, ngày 10 tháng 3, Liên Xô hứa sẽ tăng viện trợ quân sự cho Việt Nam.[58]
Đêm hôm Trung Quốc tuyên bố rút quân, Cuba cảnh báo Trung Quốc là nước này sẽ hỗ trợ Việt Nam, kể cả việc đưa quân đến nếu cần.[58] Sau khi biết tin Trung Quốc rút quân, nhật báo Pravda của Liên Xô cũng đưa ra bình luận rằng "Liên Xô hiểu được dã tâm của Bắc Kinh vì vậy đã không đáp lại những khiêu khích quân sự của Trung Quốc với mục đích duy nhất là làm leo thang căng thẳng giữa Liên Xô và Hoa Kỳ".[29]
Tại Liên Hợp Quốc, tranh cãi kịch liệt xảy ra xung quanh vấn đề an ninh ở Đông Nam Á. Hai sự kiện Việt Nam đánh vào Campuchia lật đổ chế độ Khmer Đỏ và Trung Quốc đánh vào Việt Nam cùng được đưa ra bàn luận. Hội đồng Bảo An bị chia rẽ sâu sắc sau các cuộc họp vào các ngày cuối tháng 2.[73] Các nước ASEAN muốn tất cả các lực lượng quân sự nước ngoài rút quân về nước. Mỹ ủng hộ lập trường này. Liên Xô tuyên bố không ủng hộ bất cứ nghị quyết nào không lên án Trung Quốc và đòi Trung Quốc rút quân. Ngày 23 tháng 2, Liên Xô cùng Tiệp Khắc đưa dự thảo nghị quyết trong đó lên án Trung Quốc xâm lược, đòi Trung Quốc rút quân và bồi thường chiến tranh cho Việt Nam, và kêu gọi cấm vận vũ khí đối với Trung Quốc. Còn Trung Quốc thì chỉ trích Liên Xô "khuyến khích Việt Nam tấn công Trung Quốc và xâm lược Campuchia". Ngày 24 tháng 2, Trung Quốc đưa dự thảo nghị quyết đòi Việt Nam "lập tức rút quân hoàn toàn khỏi Campuchia". Cuối cùng, Liên Hợp Quốc không đi đến được một nghị quyết nào.[73]
[sửa]Kết quả cuộc chiến
Tuy Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chiến thắng trong cuộc chiến nhưng cả hai bên đều phải chịu thiệt hại nặng nề về người và của.[52] Cuộc chiến để lại đặc biệt nhiều tác hại lớn cho phía Việt Nam. Ngoài các thương vong về con người, tổn thất cụ thể về cơ sở vật chất hạ tầng ở 6 tỉnh biên giới bị phá hủy do trận chiến, Việt Nam còn phải gánh chịu nhiều khó khăn, thiệt hại do thái độ và chính sách thù địch, vây hãm mà Trung Quốc và đồng minh của Trung Quốc gây ra trên các mặt trận quân sự, kinh tế, ngoại giao...
[sửa]Thương vong và thiệt hại
Theo tướng Ngũ Tu Quyền (伍修权), phó tổng tư lệnh Quân giải phóng Trung Quốc, số quân Việt Nam bị chết và bị thương là 50.000, trong khi con số tương ứng của Trung Quốc là 20.000.[74] Theo nhà sử học Gilles Férier thì có khoảng 25.000 lính Trung Quốc thiệt mạng và gần 500 xe bọc thép hoặc pháo bị phá hủy, con số này phía Việt Nam cũng là gần tương tự nhưng thấp hơn một chút.[75][76] Russell D. Howard cho rằng quân Trung Quốc thương vong 60.000 người, trong đó số chết là 26.000,[77] một số nguồn khác cũng đồng ý với con số thương vong ít nhất khoảng 50.000 của phía Trung Quốc.[29][78] Nguồn của King Chen nói rằng riêng tại các bệnh viện lớn ở Quảng Tây đã có ít nhất 30.000 thương binh Trung Quốc.[74] Tháng 4 năm 1979, Tạp chí Quân đội Nhân dân của Việt Nam ước lượng tổng thương vong của quân Trung Quốc là 62.500 người[79]. Phía Việt Nam có hàng nghìn dân thường chết và bị thương, theo tạp chí Time thì có khoảng dưới 10.000 lính Việt Nam thiệt mạng (con số này phía Trung Quốc là trên 20.000).[52] Phía Trung Quốc bắt được khoảng 1.600 tù binh trong tổng số hơn 50 ngàn quân Việt Nam tham chiến tại mặt trận Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn[80].
Theo tuyên bố của Việt Nam, kết quả chiến đấu của họ như sau:
Mặt trận Lạng Sơn: diệt 19.000 lính TQ, phá hủy 76 xe tăng, thiết giáp và 52 xe quân sự, 95 khẩu pháo-cối và giàn phóng hoả tiễn, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 4 tiểu đoàn (có hơi khác biệt so với kí sự Sư đoàn Sao Vàng).
Mặt trận Cao Bằng: diệt 18.000 lính TQ, phá hủy 134 xe tăng, thiết giáp và 23 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 7 tiểu đoàn.
Mặt trận Hoàng Liên Sơn (Lào Cai): diệt 11.500 lính TQ, phá hủy 66 xe tăng, thiết giáp và 189 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn.
Mặt trận Quảng Ninh, Lai Châu và Hà Tuyên: diệt 14.000 lính TQ, phá hủy 4 xe tăng, thiết giáp, 6 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn
Cuộc chiến cũng đã gây ra những thiệt hại nặng nề về kinh tế cho Việt Nam: các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường bị hủy diệt hoàn toàn, 320/320 xã, 735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, bệnh xá, 41/41 nông trường, 38/42 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 80.000 ha hoa màu bị tàn phá, 400.000 gia súc bị giết và bị cướp.[81] Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh sống. Để nhận được tăng cường viện trợ từ phía Liên Xô, từ 27 tháng 3 năm 1979, Việt Nam quyết định cho tàu quân sự Liên Xô đóng ở cảng Cam Ranh.[82] Về phía Bắc Kinh, cuộc chiến ngắn ngày đã tiêu tốn của nước này khoảng 1,3 tỷ USD và làm ảnh hưởng lớn tới quá trình cải tổ kinh tế.[83]
Về lâu dài, nó mở đầu cho hơn 10 năm căng thẳng trong quan hệ và xung đột vũ trang dọc biên giới giữa hai quốc gia, buộc Việt Nam phải thường xuyên duy trì một lực lượng quân sự khổng lồ dọc biên giới, gây hậu quả xấu đến nền kinh tế. Sinh hoạt và sản xuất của người dân vùng biên giới bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Ngoài ra, nhiều cột mốc biên giới cũng bị quân Trung Quốc phá hủy, gây khó khăn cho việc hoạch định biên giới sau này.
[sửa]Đánh giá
Cả Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chiến thắng.
Phía Trung Quốc: Đặng Tiểu Bình khẳng định mặc dù có một số thất bại về quân sự nhưng Trung Quốc "đã đạt được chiến thắng về chính trị và chiến thắng chung cuộc". Ông còn khẳng định quân Trung Quốc "đã có thể tiến thẳng tới Hà Nội nếu muốn". Quan điểm ít phổ biến hơn là của Trần Vân (Phó Thủ tướng, một trong 5 nhân vật quan trọng nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng với Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai và Chu Đức) rằng việc chiếm được Hà Nội không phục vụ được mục đích gì, cuộc chiến sẽ có chi phí nặng nề quá sức chịu đựng nếu kéo dài thêm 6 tháng nữa, và vì lý do tài chính không nên lặp lại một cuộc chiến không phân thắng bại như vậy.[74]
Theo đánh giá của tác giả King C. Chen[74], quân Trung Quốc có lẽ đã đạt được 50-55% các mục tiêu có giới hạn của mình.[84] Bên cạnh thành công trong việc bám theo được khá sát các kế hoạch tiến quân và rút quân[84], quân Trung Quốc đã không đạt được kết quả như các mục tiêu đã công bố: họ đã không tiêu diệt được sư đoàn nào của Việt Nam; không chấm dứt được xung đột có vũ trang tại vùng biên giới; không buộc được Việt Nam rút quân khỏi Campuchia[85]; không gây được ảnh hưởng lên chính phủ Việt Nam trong vấn đề Hoa kiều[86]. Điểm yếu của quân Trung Quốc là vũ khí và phương tiện lạc hậu. Ngoài ra, họ đánh giá thấp sức mạnh quân sự của Việt Nam.[87] Sự thiếu kinh nghiệm chiến đấu và tinh thần kém cũng nằm trong các điểm yếu của quân Trung Quốc[85].
Về quân sự, tác giả Edward C. O'Dowd[88] đánh giá rằng quân Trung Quốc đã thể hiện trình độ chiến đấu kém trong cuộc chiến. Tại Lạng Sơn, 2 quân đoàn Trung Quốc đã bị một trung đoàn Việt Nam cầm chân trong 1 tuần, một quân đoàn khác cần 10 ngày để lấy Lào Cai và Cam Đường - hai đô thị cách biên giới không đến 15 km. Trung Quốc chiếm Cao Bằng vất vả đến mức cần ít nhất 2 quân đoàn để tiếp tục tấn công một thị xã mà Trung Quốc tuyên bố đã chiếm được. Tại Quảng Ninh, một trung đội Việt Nam đã cầm chân 5 tiếng đồng hồ một trung đoàn Trung Quốc đang trên đường chiếm núi Cao Ba Lanh giáp biên giới, gây thương vong cho 360 trong quân số 2800 của trung đoàn này. Những tổn thất nhân mạng như vậy lặp lại trên toàn mặt trận và đem lại ít hiệu quả. Quân Trung Quốc đã không sử dụng được số quân đông một cách hiệu quả bằng các chiến thuật thích hợp và do đó không thể đạt được tốc độ hành binh như mong muốn của chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" (速战速决 tốc chiến tốc quyết). Đây là hậu quả của sự lạc hậu về chiến thuật tác chiến của quân đội Trung Quốc vốn gần như không được cải thiện kể từ sau chiến thuật biển người ở chiến tranh Triều Tiên những năm 1950. Thất bại về mặt chiến thuật đã buộc Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa quân đội nước này.[89]
Trên phương diện quan hệ quốc tế, cuộc chiến Việt-Trung cho thấy rằng Trung Quốc, với sự ủng hộ từ phía Hoa Kỳ, sẵn sàng can thiệp quân sự vào Việt Nam - một quốc gia cộng sản từng là đồng minh trong nhiều năm, kết quả chiến tranh cũng cho thấy Việt Nam đủ sức chống lại sự can thiệp quân sự đó mà không phải điều động quân chủ lực từ biên giới Tây Nam và miền Nam Việt Nam. Những sự kiện từ cuộc chiến cho thấy mối quan hệ ngoại giao phức tạp Liên Xô - Trung Quốc - Việt Nam với kết quả là Trung Quốc không thể tung toàn bộ lực lượng vào cuộc chiến nhằm "dạy cho Việt Nam một bài học" vì chịu sức ép từ phía Liên Xô, đồng thời Liên Xô cũng không sẵn sàng tung quân đội vào tham chiến bảo vệ đồng minh mà chỉ tập trung viện trợ kinh tế, quân sự.[90] Kết quả cuộc chiến cũng cho thấy Trung Quốc bất lực trong việc hỗ trợ đồng minh Khmer Đỏ trong cuộc chiến với Việt Nam và thất bại trong việc điều chỉnh quan hệ ngoại giao để tăng cường ảnh hưởng ở khu vực Đông Nam Á.[29][78]
Nhiều quan điểm khác cho rằng Trung Quốc đã thất bại về quân sự nhưng lại đạt được một số thành công về chiến lược, trong đó có việc chứng tỏ cho các nước Đông Nam Á rằng họ sẵn sàng dùng vũ lực nếu vị thế và uy lực của mình bị thách thức.[32]
[sửa]Hậu chiến
Bài chi tiết: Xung đột biên giới Việt Nam-Trung Quốc 1979-1990 và Vấn đề lãnh thổ biên giới Việt Nam-Trung Quốc
Khi quân Trung Quốc rút khỏi Việt Nam tháng 3 năm 1979, Trung Quốc tuyên bố họ không tham vọng dù "chỉ một tấc đất lãnh thổ Việt Nam" [91]. Trên thực tế, quân Trung Quốc chiếm đóng khoảng 60km2 lãnh thổ[92] có tranh chấp mà Việt Nam kiểm soát trước khi chiến sự nổ ra. Tại một số nơi như khu vực quanh Hữu Nghị Quan gần Lạng Sơn, quân Trung Quốc chiếm đóng các lãnh thổ không có giá trị quân sự nhưng có giá trị biểu tượng quan trọng. Tại các nơi khác, quân Trung Quốc chiếm giữ các vị trí chiến lược quân sự làm bàn đạp để từ đó có thể tiến đánh Việt Nam[93].
Việc Trung Quốc chiếm đóng các lãnh thổ biên giới làm cho Việt Nam căm giận, và giữa hai phía nổ ra một loạt trận giao tranh nhằm giành quyền kiểm soát các khu vực đó. Xung đột biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn tiếp diễn cho đến năm 1988, lên cao vào các năm 1984-1985.[94] Trong tháng 5-6 năm 1981, quân Trung Quốc mở cuộc tấn công vào đồi 400 (mà Trung Quốc gọi là Pháp Tạp Sơn - 法卡山) ở huyện Cao Lộc, Lạng Sơn,[95] xa hơn về phía tây, quân Trung Quốc cũng vượt biên giới đánh vào các vị trí quanh đồi 1688 ở tỉnh Hà Tuyên. Giao tranh diễn ra hết sức đẫm máu với hàng trăm người thuộc cả hai bên thiệt mạng.[96] Tới năm 1984, quân Trung Quốc lại dùng nhiều tiểu đoàn mở các đợt tấn công lớn vào Lạng Sơn. Đặc biệt tại Hà Tuyên, trong tháng 4-tháng 7 năm 1984, quân Trung Quốc đánh vào dải đồi thuộc huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang mà Trung Quốc gọi là Lão Sơn. Quân Trung Quốc chiếm một số ngọn đồi thuộc dải đồi này, giao tranh kéo dài dằng dai, nhưng không có nơi nào quân Trung Quốc tiến sâu được hơn vào lãnh thổ Việt Nam quá 5km, dù quân đông hơn nhiều[97].
Cuộc chiến năm 1979 cho Trung Quốc thấy sự lạc hậu của vũ khí cũng như chiến thuật mà quân đội nước này sử dụng, do đó, sau cuộc chiến là bắt đầu của một cuộc cải cách và hiện đại hóa mạnh đối với Quân giải phóng Trung Quốc, ngày nay công cuộc hiện đại hóa này vẫn tiếp tục.[98] Ảnh hưởng trực tiếp có thể thấy là ngân sách dành cho quốc phòng của Trung Quốc tăng từ 15% năm 1978 lên 18% năm 1979[99].
Quan hệ xấu với Trung Quốc đã làm Việt Nam đã phải trả một cái giá rất đắt.[32] Việc Trung Quốc duy trì áp lực quân sự tại vùng biên giới trong suốt mười năm sau đó buộc Việt Nam cũng phải duy trì lực lượng phòng thủ lớn ở biên giới và miền Bắc[32]. Cùng với việc bị sa lầy với chiến sự dai dẳng ở Campuchia mà Trung Quốc muốn kéo dài[100], Việt Nam bị cô lập trong mười năm đó trên trường quốc tế.[32] Nền kinh tế yếu kém và bị Mỹ cấm vận phải căng ra duy trì một lực lượng quân đội lớn, và phải phụ thuộc vào sự giúp đỡ của Liên Xô. Sau năm 1979, tình hình kinh tế miền Bắc Việt Nam tệ hại đi rất nhiều so với thời kỳ trước đó.[32] Trong khi đó, Trung Quốc phát triển mạnh từ năm 1978 do công cuộc cải tổ kinh tế của Đặng Tiểu Bình. 7 năm sau chiến tranh biên giới, Việt Nam mới bắt đầu thời kì Đổi Mới, khi đó đã chậm hơn Trung Quốc 8 năm.
Sau khi Liên Xô tan rã và Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, đến năm 1992 quan hệ giữa hai nước mới được bình thường hóa chính thức.
Từ khi quan hệ ngoại giao giữa hai nước được cải thiện, cuộc chiến hầu như không còn được nhắc đến trong các phương tiện truyền thông đại chúng, không được nói đến trong sách giáo khoa lịch sử ở Trung Quốc[31] và một cách hạn chế tại SGK của Việt Nam. Tại Trung Quốc, các phương tiện truyền thông gần như lãng quên nó, các tuyển tập bài hát không còn in các ca khúc nói về cuộc chiến, sách nghiên cứu viết về cuộc chiến bị từ chối xuất bản, đa số cựu chiến binh từng tham gia cuộc chiến không muốn nhắc đến nó.[31] Ở Việt Nam, một số ca khúc có nội dung về cuộc chiến, ví dụ "Chiến đấu vì độc lập tự do" của Phạm Tuyên, không còn được lưu hành trên các phương tiện truyền thông chính thống, đó là theo một thỏa thuận giữa Việt Nam và Trung Quốc nhằm bình thường hóa hoàn toàn quan hệ giữa hai nước.[101] Chính phủ Việt Nam để ý chặt chẽ các nội dung báo chí liên quan đến quan hệ Việt - Trung[102], và báo chí hầu như không nhắc đến cuộc chiến. Theo giải thích của ông Dương Danh Dy, cựu Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh, thì Việt Nam "không nói lại chuyện cũ là vì nghĩa lớn, chứ không phải vì chúng ta không có lý, không phải vì người Việt Nam sợ hãi hay chóng quên"[26]. Khi được hỏi về cuộc chiến từ 30 năm trước, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói rằng từ nhiều năm trước lãnh đạo hai nước đã "thỏa thuận bỏ lại quá khứ và mở ra tương lai".[103]
Năm 2009, 30 năm sau cuộc chiến, Việt Nam và Trung Quốc hoàn thành việc cắm 1971 mốc phân định biên giới[104] sau khi hai chính phủ kí kết hiệp định biên giới, kết thúc đàm phán về các khu vực tranh chấp dọc biên giới.
[sửa]Phản ánh trong văn nghệ
[sửa]Việt Nam
Chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 đã được nhắc tới trong hai bộ phim Đất mẹ (1980) của đạo diễn Hải Ninh và Thị xã trong tầm tay (1982) của đạo diễn Đặng Nhật Minh.[105][106][107] Với câu chuyện về chuyến đi của một phóng viên lên Lạng Sơn tìm người yêu trong thời gian chiến tranh biên giới nổ ra, Thị xã trong tầm tay - tác phẩm đầu tay của đạo diễn Đặng Nhật Minh đã giành giải Bông sen vàng tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 6, và nằm trong cụm tác phẩm của ông được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt III năm 2005.[107][108] Năm 1982, một bộ phim tài liệu với tựa đề Hoa đưa hương nơi đất anh nằm do Trường Thanh thực hiện để nói về một nhà báo người Nhật chết trong thời gian đưa tin chiến tranh biên giới, bộ phim này sau đó đã được đánh giá cao ở Nhật Bản.[109] Trong thời gian chiến tranh biên giới nổ ra và những năm sau đó, hàng loạt bài hát Việt Nam về đề tài chiến tranh và bảo vệ tổ quốc cũng ra đời như Chiến đấu vì độc lập tự do của nhạc sĩ Phạm Tuyên, Lời tạm biệt lúc lên đường của nhạc sĩ Vũ Trọng Hối, Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận của nhạc sĩ Hồng Đăng, Những đôi mắt mang hình viên đạn của nhạc sĩ Trần Tiến và Hát về anh của nhạc sĩ Thế Hiển.[101]. Về văn học có tiểu thuyết Đêm tháng Hai (1979) của Chu Lai và Chân dung người hàng xóm] (1979) của Dương Thu Hương.
[sửa]Trung Quốc
[sửa]Trung Quốc đại lục
Khải hoàn giữa đêm khuya [凯旋在子夜 Khải hoàn tại tý dạ] (Kịch truyền hình)
Vòng hoa dưới núi cao [高山下的花环 Cao sơn hạ để hoa hoàn] (Phim truyện).
Đội biệt kích Hắc Báo [黑豹突击队 Hắc Báo đột kích đội] (Kịch truyền hình)
Phong thái nhuốm máu [血染的风采 Huyết nhiễm để phong thái] (Ca khúc). Với nội dung ban đầu là tưởng niệm các binh sĩ Trung Quốc chết trong cuộc chiến, Phong thái nhuốm máu sau này lại được dùng rộng rãi để tưởng niệm những người đã chết trong Sự kiện Thiên An Môn.[110]
Trăng rằm [十五的月亮 Thập ngũ để nguyệt lượng] (ca khúc)
Xe thiết giáp 008 [铁甲008 Thiết giáp linh bát bát] (Phim truyện)
Tân binh Mã Cường [新兵马强 Tân binh Mã Cường] (Phim truyện)
Nhành hoa đẹp [花枝俏 Hoa chi tiếu]] (Phim truyện)
Hàng động chớp nhoáng [闪电行动 Thiểm điện hành động] (Phim truyện)
Trận chiến ở núi Trường Bài [长排山之战 Trường Bái sơn để chiến] (Phim truyện)
Cây tương tư ở bãi mìn [雷场相思树 Lôi trường tương tư thụ] (Phim truyện)
Tiểu thuyết Ma chiến hữu (1992) của Mạc Ngôn. Tác phẩm có "cách nhìn khác về chủ nghĩa anh hùng" và nói đến "những điều ngớ ngẩn và phi lý" của cuộc chiến.[111]
[sửa]Hồng Kông
Phim Câu chuyện của Hồ Việt [胡越的故事 Hồ Việt để cố sự] (Chu Nhuận Phát vào vai nạn dân Việt Nam Hồ Việt, Chung Sở Hồng vào vai nạn dân Việt Nam Thẩm Thanh Đẳng.
Phim Đồng chí thương dân (爱人同志 Ái dân đồng chí) (Lưu Đức Hoa vào vai phóng viên Hương Cảng, Chung Sở Hồng vào vai phiên dịch viên Việt Nam, Thành Khuê An vào vai chiến sĩ Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc bị Việt Nam bắt làm tù binh)
Ca khúc Đó là yêu (这是爱 Giá thị ái) (nguyên tác của Teddy Robin, Hạ Âm Thanh, Trương Quốc Vinh vân vân dịch lời.
[sửa]Chú thích
^ a b c d e Zhang Xiaoming, "China's 1979 War with Vietnam: A Reassessment", China Quarterly, Issue no. 184 (December 2005), trang 851-874. Zhang cho biết: "Các tài liệu hiện hữu ước tính khoảng 25.000 quân Trung Quốc bị chết và 37.000 bị thương. Các nguồn gần đây từ Trung Quốc đánh giá có khoảng 6.900 chết và 15.000 bị thương, tổng số là 21.900 thương vong trên tổng số 300.000 quân tham chiến."
^ a b Bùi Xuân Quang, tr. 429
^ a b c Clodfelter, Michael. Vietnam in Military Statistics: A History of the Indochina Wars, 1772–1991 (McFarland & Co., Jefferson, NC, 1995) ISBN 0-7864-0027-7. Clodfelter cho rằng 20.000 quân Trung Quốc chết trận là con số "khả dĩ".
^ (tiếng Trung) “中越战争三十周年之际 两国关系发展令人关注”, Radio France Internationale, 17 tháng 2 năm 2009. Truy cập 18 tháng 2 năm 2009.
^ Xem các nguồn Edward C. O'Dowd, Bùi Xuân Quang, Laurent Cesari, Gilles Férier.
^ a b Edward C. O'Dowd, tr. 40
^ Lưu Văn Lợi. Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ-Kissinger tại Paris. NXB Công an nhân dân. Hà Nội. 2002. trang 312
^ a b Nayan Chanda, tr. 134
^ Edward C. O'Dowd, tr. 41
^ a b Edward C. O'Dowd, tr. 44
^ a b Nayan Chanda, tr. 212
^ Ví dụ các chuyến thăm của Võ Nguyên Giáp (Nayan Chanda, tr. 92), Phạm Văn Đồng năm 1977 (Nayan Chanda, tr. 93) nhằm xoa dịu quan hệ với Trung Quốc, các chuyến đi của Phan Hiền đề nghị Trung Quốc giúp đỡ trong đàm phán với Campuchia
^ Laurent Cesari, tr. 256
^ Nayan Chanda, tr. 88.
^ a b Evans và Rowley, tr. 51
^ Nguyễn Khắc Viện (1999). Vietnam, une longue histoire. Harmattan. 424. ISBN 2-7384-8503-0.
^ Laurent Cesari, tr. 255
^ Laurent Cesari, tr. 255
^ a b c d e f g “A War of Angry Cousins”. Tạp chí Time (5 tháng 3 năm 1979). Truy cập 16 tháng 2 năm 2009.
^ Nayan Chanda, tr. 134-135
^ Edward C. O'dowd, tr. 43
^ Laurent Cesari, tr. 251
^ François Joyaux, tr. 282
^ D. Rancic, Politika (Belgrade), 8 tháng 3 1979, trang 1, FBIS, Số 51, trang A17- A1
^ China's "Punitive" War on Vietnam: A Military Assessment, Harlan W. Jencks, Asian Survey, Vol. 19, No. 8 (Aug., 1979), trang 801-815
^ a b c d e “Nhớ lại đêm 17 tháng 2 năm 1979”. BBC (16 tháng 2 năm 1999).
^ Laurent Cesari, tr. 256
^ “A Country Study: Vietnam - Foreign Relations - China”. Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ (tháng 12 năm 1987). Truy cập 24 tháng 2 năm 2009.
^ a b c d e f g François Joyaux, tr. 240
^ Laurent Cesari, tr. 262
^ a b c Howard W. French, Malipo Journal; Was the War Pointless? China Shows How to Bury It, The New York Times, 1 tháng 3 năm 2005, truy nhập ngày 3/11/2008.
Howard W. French, In China, a war's memories are buried, International Herald Tribute, 2 tháng 3 năm 2005
^ a b c d e f Trọng Nghĩa, “30 năm sau cuộc chiến tranh biên giới, hai chính quyền muốn xòa nhòa quá khứ”, RFI, 16 tháng 2 năm 2009. Truy cập 17 tháng 2 năm 2009.
^ Comrade B on the Plot of the Reactionary Chinese Clique Against Vietnam, Thư viện Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1979. Christopher Goscha dịch ra tiếng Anh cho CWIHP, Woodrow Wilson International Center for Scholars. [1]
Lời của Lê Duẩn năm 1979: Bản dịch tiếng Anh: Vietnam is resolved not to allow the Chinese to carry out their expansionist scheme. The recent battle [with China] was one round only....The Chinese now have a plot to attack [us] in order to expand southwards (Dịch ngược: Việt Nam quyết tâm không cho phép Trung Quốc thực hiện kế hoạch bành trướng. Trận chiến vừa rồi [với Trung Quốc] mới chỉ là hiệp đầu... Hiện Trung Quốc có một âm mưu tấn công [chúng ta] để bành trướng về phía Nam)
^ a b Bùi Xuân Quang, tr. 424
^ Lê Mậu Hãn (chủ biên) (2001). Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập III, 1945-2000. Hà Nội: NXB Giáo dục.
^ Edward C. O'dowd, có khoảng 80 ngàn dân quân các huyện phía nam Vân Nam và Quảng Tây được huy động, hàng vạn dân công cũng được huy động, trang 131-133
^ Lê Xuân Khoạ (2004). Việt Nam 1945-1995. Bethesda, MD: Tiên Rồng. 211.
^ Edward C. O'Dowd, tr. 54
^ Bùi Xuân Quang, tr. 421
^ Nayan Chanda, tr. 350
^ Laurent Cesari, tr. 264
^ Laurent Cesari, tr. 265
^ François Joyaux, tr. 239
^ Bruce Elleman (20 tháng 4 năm 1996). “Sino-Soviet Relations and the February 1979 Sino-Vietnamese Conflict”. 1996 Vietnam Symposium - Vietnam Center and Archive, Texas Tech University. Truy cập 16 tháng 2 năm 2007.
^ Mark A. Ryan, tr. 226-228
^ Mark A. Ryan, tr. 230
^ Laurent Cesari, tr. 265
^ a b King C. Chen, tr. 106
^ a b Lịch sử Sư đoàn 3 Sao vàng, Chương 7, Mục 2: Ngày 17 tháng 2.
^ a b c King C. Chen, tr. 107
^ a b c d King C. Chen, tr. 108
^ a b c d “30 Yrs. After the China-Vietnam Border War”. Tạp chí Time. Truy cập 17 tháng 2 năm 2009.
^ Lịch sử Sư đoàn 3 Sao vàng, Chương 7, Mục 3: Những điểm cao bất tử.
^ a b c King C. Chen, tr. 109
^ a b c d e Lịch sử Sư đoàn 3 Sao vàng, Chương 7, Mục 4: Trước cửa ngõ thị xã Lạng Sơn.
^ a b c King C. Chen, tr. 110
^ Laurent Cesari, tr. 266
^ a b c d King C. Chen, tr. 111
^ a b Huy Đức (9 tháng 2 năm 2009). Biên Giới Tháng Hai (2009-1979). Báo Sài Gòn Tiếp Thị. 6.
^ Edward O'dowd, trang 65
^ a b Nayan Chanda, trang 93
^ Edward C. O’Dowd, trang 134
^ Edward C. O’Dowd, trang 134-135, 137: Theo tài liệu của Trung Quốc: đơn vị 56041 (một trung đoàn bộ binh của Sư đoàn 149, Quân đoàn 13, Quân khu Thành Đô) tại Lào Cai và đơn vị 33762 (một trung đoàn thuộc quân khu Vũ Hán) đã thực hiện tốt chính sách dân vận.
^ a b Nayan Chanda, trang 358
^ Edward C. O’Dowd, trang 137
^ a b Edward C. O’Dowd, trang 138
^ Edward C. O’Dowd, trang 140-141
^ Edward C. O’Dowd, trang 141-142
^ Edward C. O’Dowd, trang 69
^ Edward C. O’Dowd, trang 142
^ Nayan Chanda, tr. 359
^ Laurent Cesari, tr. 266
^ a b King C. Chen, tr. 112
^ a b c d King C. Chen, tr. 113
^ Gilles Férier, tr. 148
^ Theo "Lịch sử pháo binh Quân đội Nhân dân Việt Nam" - Tập 2, NXB Quân đội Nhân dân, 1999, khoảng 19% số pháo Việt Nam tham chiến bị quân Trung Quốc chiếm
^ Russell D. Howard (tháng 9 năm 1999). “THE CHINESE PEOPLE’S LIBERATION ARMY: "SHORT ARMS AND SLOW LEGS"”. Học Viện An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, Học viện Quân sự Hoa Kỳ ở Colorado. Truy cập 24 tháng 2 năm 2009.
^ a b Pierre Gentelle, ed (1989). l'Etat de la Chine. Paris: Editions la décoverte. 411. ISBN 2-7071-1877-X.
^ Edward O'Dowd, tr. 45.
^ Edward C. O’Dowd, trang 103
^ Gilles Férier, tr. 148
^ Laurent Cesari, tr. 266
^ Marie-Claire Bergère (2000). La Chine de 1949 à nos jours. Paris: Armand Colin. 244. ISBN 2-200-25123-8.
^ a b King C. Chen, tr. 114
^ a b King C. Chen, tr. 115
^ King C. Chen, tr. 116
^ Cuối tháng 12 năm 1978, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc Túc Dụ (粟裕) báo cáo tại Kì họp thứ 3 của Đảng Cộng sản Trung Quốc rằng chỉ cần dùng một phần lực lượng của các quân khu Quảng Châu và Côn Minh là đủ để đánh chiếm Hà Nội trong vòng 1 tuần. Trong thực tế, quân Trung Quốc đã cần 16 ngày với 10 sư đoàn từ 6 quân khu (lực lượng bằng tổng hai quân khu Quảng Châu và Côn Minh) để đánh chiếm thị xã Lạng Sơn cách Hà Nội 85 dặm. Nguồn: Chen, tr. 114
^ Edward C. O'Dowd (2007). Chinese Military Strategy in the Third Indochina War: The Last Maoist War. Routledge., tr. 46
^ Laurent Cesari, tr. 266
^ Gilles Férier, tr. 149
^ Nayan Chanda (16 tháng 3 năm 1979). End of the Battle but Not of the War. Far Eastern Economic Review. 10.. Chanda trích lời quan chức Trung Quốc tuyên bố rút lui ngày 5 tháng 3 năm 1979
^ O’Dowd, trang 91
^ Nayan Chanda (16 tháng 3 năm 1979). End of the Battle but Not of the War. Far Eastern Economic Review. 10.. trang 10. Khu vực có giá trị tượng trưng tinh thần nhất là khoảng 300m đường xe lửa giữa Hữu Nghị Quan và trạm kiểm soát biên giới Việt Nam.
^ François Joyaux, tr. 242
^ Associated Press. “AROUND THE NATION; China Reports Repelling Vietnamese 'Invaders'”. New York Times.
^ Carlyle A. Thayer, tr. 6–7.
^ O’Dowd, trang 100
^ Terry McCarthy, “PINGXIANG: Border War, 1979. A Nervous China Invades Vietnam”, 09/27/1999.
^ "Contending Explanations of the 1979 Sino-Vietnamese War", Bruce Burton, International Journal, Vol. 34, No. 4, China: Thirty Years On (Autumn, 1979), trang 699-722
^ Trong khi Trung Quốc công khai đòi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, tháng 12 năm 1979, Đặng Tiểu Bình đã nói với Thủ tướng Nhật Bản Masayoshi Ohira rằng "Trung Quốc nên giữ chân Việt Nam ở Campuchia vì như vậy họ sẽ phải chịu đựng khổ sở ngày càng nhiều và sẽ không thể với tay tới Thái Lan, Malaysia, và Singapore. Đó là hành động khôn ngoan." Nayan Chanda, tr. 379.
^ a b Đoan Trang, “Những bài ca biên giới không thể nào quên”, Tuần ViệtNamNet, 16 tháng 2 năm 2009. Truy cập 16 tháng 2 năm 2009.
^ Nga Pham, “Vietnam tense as China war is marked”, BBC News, 16 tháng 2 năm 2009. Truy cập 17 tháng 2 năm 2009.
^ “Foreign Ministry Spokesperson Jiang Yu's Regular Press Conference on 17 tháng 2 năm 2009”. Bộ Ngoại giao Trung Quốc (18 tháng 2 năm 2009). Truy cập 21 tháng 2 năm 2009.
^ Tạp chí Cộng sản Hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam và Trung Quốc(Cập nhật: 27/2/2009)
^ Nam Nguyễn (24 tháng 12 năm 2005). “Cha - con và chiến tranh”. Tạp chí Tia sáng. Truy cập 21 tháng 2 năm 2009.
^ “Dũng "6 trong 1": Ai xin đồ cổ tôi cho”. VTC (25 tháng 4 năm 2006). Truy cập 21 tháng 2 năm 2009.
^ a b Ngọc Trần. “Đặng Nhật Minh vui buồn với bình chọn của CNN”. VnExpress. Truy cập 21 tháng 2 năm 2009.
^ “NSND Đặng Nhật Minh giản dị mà bí ẩn”. VnExpress (7 tháng 1 năm 2006). Truy cập 21 tháng 2 năm 2009.
^ Nguyễn Duy Chiến (23 tháng 6 năm 2008). “Thăm một nhà văn vừa... mãn hạn tù treo”. Tiền Phong Online. Truy cập 21 tháng 2 năm 2009.
^ “Bloodstained Glory sung by Helena Hung”. Ân xá Quốc tế tại Anh. Truy cập 23 tháng 2 năm 2009.
^ Mạc Ngôn (2008). Ma Chiến hữu. Phương Nam/NXB Văn học. 200.
[sửa]Tham khảo
Tiếng Việt
Nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân (1980), Lịch sử Sư đoàn 3 Sao vàng
Tiếng Anh
Colonel G.D. Bakshi (Tháng 11, 12 năm 2000). The Sino-Vietnam War-1979: Case Studies in Limited Wars. Volume 3(3). Bharat Rakshak Monitor.
Nayan Chanda (1986). Brother Enemy. The War after the War.. Harcourt Brace Jovanovich. ISBN 0-15-114420-6.
King C. Chen (1987). China's War with Vietnam, 1979: Issues, Decisions, and Implications. Hoover Press. ISBN 0817985727.
Grant Evans, Kelvin Rowley (1984). Red Brotherhood at War - Indochina since the Fall of Saigon. London: Verso. ISBN 0860910903.
Bruce Elleman (20 tháng 4 năm 1996). “Sino-Soviet Relations and the February 1979 Sino-Vietnamese Conflict”. 1996 Vietnam Symposium - Vietnam Center and Archive, Texas Tech University. Truy cập 16 tháng 2 năm 2007.
Nguyen Huu Thuy (1979). Chinese Aggression : How and Why it failed. NXB Ngoại ngữ.
Edward C. O'dowd (2007). Chinese Military Strategy in the Third Indochina War. Routledge. ISBN 9780415414272.
Mark A. Ryan , David Michael Finkelstein, Michael A. McDevitt (2003). Chinese Warfighting: The Pla Experience Since 1949. M.E. Sharpe. ISBN 0765610876.
Carlyle A. Thayer, Security Issues in Southeast Asia: The Third Indochina War, Conference on Security and Arms Control in the North Pacific, Australian National University, Canberra, August 1987.
Odd Arne Westad (2006). The Third Indochina War conflict between China, Vietnam and Cambodia, 1972-79. London ; New York : Routledge. ISBN 9780415390583.
Tiếng Pháp
Bùi Xuân Quang (2000). La troisième guerre d'Indochine, 1975-1999 sécurité et géopolitique en Asie. Harmattan. ISBN 2738491847.
Laurent Cesari (1995). L'Indochine en guerres 1945-1993. Paris: Belin. ISBN 2-7011-1405-5.
Gilles Férier (1993). Les trois guerres d'Indochine. Lyon: Presse universitaire de Lyon. ISBN 2-7297-0483-3.
François Joyaux (1994). La Tentation impériale - Politique extérieure de la Chine depuis 1949. Paris: Imprimerie nationale. ISBN 2-11-081331-8.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979
Một phần của Chiến tranh Đông Dương lần 3
.
Thời gian 17 tháng 2 – 18 tháng 3 năm 1979
Địa điểm Toàn tuyến biên giới phía bắc của Việt Nam.
Kết quả Trung Quốc rút quân. Cả hai phía tuyên bố chiến thắng.
Tham chiến
Giải phóng quân Trung Quốc Quân đội Nhân dân Việt Nam
Chỉ huy
Dương Đắc Chí
Hứa Thế Hữu Văn Tiến Dũng
Lực lượng
300.000+ bộ binh và 400 xe tăng từ Quân khu Côn Minh và Quảng Châu[1]
(lực lượng của 7 quân đoàn với 21 sư đoàn tác chiến, 9 sư đoàn dự bị)[2] 80.000-100.000
(7 sư đoàn, 15 trung đoàn độc lập, biên phòng và dân quân tự vệ)[2]
Tổn thất
Tranh cãi, 20.000+ bị giết [3] Việt Nam tuyên bố 26.000 chết, 37.000 bị thương, 280 xe tăng. [3] Trung Quốc tuyên bố 6.900 chết, 15.000 bị thương[1]
Tranh cãi, 20.000 chết hay bị thương.[1] Trung Quốc tuyên bố 30.000 chết.[3] Việt Nam tuyên bố 10.000 dân thường bị thiệt mạng[1]
.
Chiến tranh biên giới Việt - Trung, 1979 là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, nổ ra vào vào ngày 17 tháng 2 năm 1979 khi Trung Quốc đem quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới giữa hai nước. Chiến tranh biên giới Việt - Trung xuất phát từ quan hệ căng thẳng kéo dài giữa hai quốc gia và ý đồ "dạy cho Việt Nam một bài học" của Đặng Tiểu Bình, kéo dài trong chừng một tháng với thiệt hại nặng nề về người và tài sản cho cả hai phía. Cuộc chiến kết thúc khi Trung Quốc hoàn thành rút quân vào ngày 18 tháng 3 năm 1979, sau khi chiếm được các thị xã Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng, và một số thị trấn vùng biên. Mục tiêu của Trung Quốc buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia không thành, nhưng cuộc chiến để lại hậu quả lâu dài đối với nền kinh tế Việt Nam và quan hệ căng thẳng giữa hai nước. Xung đột vũ trang tại biên giới còn tiếp diễn thêm 10 năm. Hơn 13 năm sau, quan hệ ngoại giao Việt-Trung chính thức được bình thường hóa.
Mục lục [ẩn]
1 Tên gọi
2 Bối cảnh
2.1 Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
2.2 Xung đột khu vực
3 Mục đích và mục tiêu của Trung Quốc
4 Tương quan lực lượng tham chiến
5 Diễn biến
5.1 Chuẩn bị
5.2 Giai đoạn 1
5.3 Giai đoạn 2
5.4 Rút quân
6 Chiến dịch dân vận của Trung Quốc
7 Phản ứng quốc tế
8 Kết quả cuộc chiến
8.1 Thương vong và thiệt hại
8.2 Đánh giá
8.3 Hậu chiến
9 Phản ánh trong văn nghệ
9.1 Việt Nam
9.2 Trung Quốc
9.2.1 Trung Quốc đại lục
9.2.2 Hồng Kông
10 Chú thích
11 Tham khảo
12 Liên kết ngoài
[sửa]Tên gọi
Cuộc chiến được phía Việt Nam gọi là Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, 1979. Phía Trung Quốc gọi là Chiến tranh đánh trả tự vệ trước Việt Nam (对越自卫还击战 Đối Việt tự vệ hoàn kích chiến) (trên nghĩa rộng là chỉ xung đột biên giới Việt-Trung trong gần mười năm từ năm 1979 đến năm 1989), dân gian quen gọi là Chiến tranh phản kích tự vệ trước Việt Nam (对越自卫反击战, Đối Việt tự vệ phản kích chiến)[4].
Nhiều nhà nghiên cứu coi cuộc chiến này là một phần của Chiến tranh Đông Dương lần 3[5]
[sửa]Bối cảnh
[sửa]Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
Tuy được sự giúp đỡ rất lớn của Trung Quốc trong chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam, các rạn nứt trong quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Trung Quốc đã bắt đầu thể hiện từ năm 1968. Hà Nội nhất định cùng lúc giữ mối quan hệ nồng ấm với cả Moskva lẫn Bắc Kinh trong khi mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc đã lên cao. Bất đồng quan điểm giữa Hà Nội và Bắc Kinh về cách tiến hành cuộc chiến tại miền Nam Việt Nam trở nên rõ rệt. Bắc Kinh muốn Hà Nội chỉ tiếp tục chiến tranh du kích có giới hạn chống Hoa Kỳ, trong khi Hà Nội muốn tiến hành chiến tranh quy mô để thống nhất Tổ quốc của họ.[6] Và hơn thế nữa, họ muốn trực tiếp đàm phán với Hoa Kỳ, không cần thông qua một nước nào làm trung gian.[7] Sau sự kiện Tết Mậu Thân, Hà Nội bắt đầu đàm phán với Hoa Kỳ, trong khi đó Bắc Kinh phản đối.[6]
Năm 1972, chuyến thăm của tổng thống Mỹ Nixon tới Bắc Kinh và thỏa thuận giữa Mỹ và Trung Quốc được Việt Nam Dân chủ Cộng hoà xem là một sự phản bội.[8] Năm 1975, trong chuyến thăm Bắc Kinh, Lê Duẩn thẳng thừng từ chối đưa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào liên minh chống Liên Xô của Trung Quốc, phủ nhận quan niệm của Trung Quốc rằng chủ nghĩa bành trướng của Liên Xô là mối đe dọa đối với các nước cộng sản châu Á. Ông rời Trung Quốc mà không tổ chức tiệc đáp lễ theo truyền thống, cũng không ký thỏa thuận chung. Cũng trong chuyến thăm này, Trung Quốc thông báo rằng sẽ không giữ mức viện trợ như đã hứa năm 1973.[9] Bắc Kinh bắt đầu nói về một Việt Nam "hắc tâm", "vô ơn", "ngạo ngược".[8] Viện trợ của Trung Quốc sau đó giảm mạnh và đến năm 1978 thì cắt toàn bộ. Điều kiện đầu tiên Trung Quốc đặt ra cho Việt Nam để nối lại viện trợ là phải từ chối tất cả các khoản viện trợ của Liên Xô.[10]
Khi Việt Nam ngày càng có quan hệ chặt chẽ hơn với Liên Xô, Trung Quốc thấy mình bị đe dọa từ hai phía. Đồng thời, Việt Nam cũng đang cố gắng xây dựng mối quan hệ đặc biệt chặt chẽ giữa 3 nước Đông Dương trong đó Việt Nam giữ vị thế đứng đầu. Cùng với thực tế rằng nước Việt Nam thống nhất đã trở thành một sức mạnh quan trọng trong vùng, làm giảm ảnh hưởng của Trung Quốc. Những điều này làm cho Trung Quốc lo ngại về một "tiểu bá quyền" Việt Nam[11] và việc bị Liên Xô bao vây từ phía Bắc. Một nước Campuchia chống Việt Nam đã trở thành một đồng minh quan trọng đối với Trung Quốc.
Quan hệ Việt Nam - Campuchia ngày càng đi xuống, thể hiện ngay từ tháng 5 năm 1975 khi Khmer Đỏ cho quân đánh chiếm các đảo Phú Quốc và Thổ Chu và bắt đi hàng trăm dân thường, lên cao trào vào những năm 1977-1978 khi Khmer Đỏ nhiều lần đánh sâu vào lãnh thổ Việt Nam tàn sát hàng chục nghìn dân thường. Trong suốt thời gian đó và cả về sau, Trung Quốc luôn là nước viện trợ đắc lực cho Khmer Đỏ về vũ khí khí tài cũng như cố vấn quân sự. Bên cạnh các nỗ lực ngoại giao không thành nhằm xoa dịu căng thẳng với Trung Quốc và Campuchia[12], Việt Nam tin rằng Trung Quốc đang sử dụng Campuchia để tấn công Việt Nam.[11]
Từ năm 1973, Liên Hiệp Quốc bắt đầu thảo luận về vấn đề chủ quyền của các quốc gia đối với vùng đặc quyền kinh tế trên biển. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định tuyên bố chủ quyền với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa dựa theo hiệp ước Pháp-Thanh kí kết năm 1887. Về phía Trung Quốc, với cuộc khủng hoảng dầu lửa những năm 1970 nước này đã tìm kiếm các nguồn khai thác dầu mỏ trên biển Đông sát với Việt Nam, một hành động mà theo Việt Nam là chiến lược bao vây đất nước họ.[13] Tranh chấp giữa hai nước về hai quần đảo này đã bắt đầu ngay từ năm 1975 sau khi Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo này. [14]
Nam Quan, hay Hữu Nghị Quan năm 2007, cửa ải nằm tại biên giới Việt Nam-Trung quốc
Một lý do nữa khiến căng thẳng Việt Nam - Trung Quốc leo thang đó là vấn đề Hoa kiều tại Việt Nam. Trước năm 1975, có khoảng 1,5 triệu người gốc Hoa sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, 15% sống ở phía Bắc vĩ tuyến 17 và 85% còn lại sinh sống ở miền Nam Việt Nam. Người Hoa đặc biệt có ảnh hưởng ở miền Nam Việt Nam, nơi họ hoạt động mạnh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm đưa ra chính sách buộc người Hoa phải nhập quốc tịch Việt Nam hoặc họ sẽ bị trục xuất khỏi lãnh thổ, ngược lại, Hà Nội và Bắc Kinh đồng ý trên nguyên tắc về việc cho phép Hoa kiều tự chọn lựa quốc tịch của mình. Chính sách của Việt Nam từ năm 1976 đã bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi nhanh chóng của mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, với nỗi e ngại rằng Trung Quốc có thể sử dụng Hoa kiều để ép Việt Nam theo các chính sách của mình. Vấn đề Hoa kiều được chính phủ Việt Nam xem là một thử thách đối với chủ quyền quốc gia hơn là một vấn đề nội bộ đơn thuần.[15][16] Chính sách một quốc tịch bắt đầu, Hoa kiều nếu không nhập quốc tịch Việt Nam sẽ bị cho thôi việc,[15] các báo và cơ sở giáo dục tiếng Hoa cũng bị đóng cửa.[17] Từ năm 1977 đã có 70.000 Hoa kiều từ Việt Nam quay về Trung Quốc.[18] Cho đến thời điểm xảy ra cuộc chiến đã có chừng 160.000 Hoa kiều hồi hương từ Việt Nam bằng đường biển hoặc đường bộ qua Cửa khẩu Hữu Nghị.[19]
Tuyên bố chủ quyền của nước Việt Nam thống nhất năm 1975 đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; cách ứng xử của Việt Nam đối với người Việt gốc Hoa; và cố gắng của Việt Nam trong việc xây dựng quan hệ chặt chẽ giữa ba nước Đông Dương được Bắc Kinh xem là nỗ lực nhằm thống trị Đông Dương và là ví dụ về sự hỗn xược của Việt Nam.[20] Từ tháng 8 năm 1975, Trung Quốc bắt đầu giảm mạnh viện trợ kinh tế cho Việt Nam, cắt hoàn toàn vào tháng 6 năm 1978.[21] Cũng năm 1975, Trung Quốc cho Campuchia vay không lấy lãi 1 tỷ USD và kí kết một hiệp ước quân sự bí mật với chính quyền Khmer Đỏ vào tháng 2 năm 1976.[22] Chính sách ngoại giao của Trung Quốc với khu vực Đông Nam Á cũng được thay đổi theo hướng tăng cường quan hệ với khối ASEAN vốn ở thế đối đầu với các chính quyền cộng sản Đông Dương đồng thời cắt bỏ viện trợ của nước này đối với các đảng cộng sản ở Đông Nam Á.[23]
Cuối năm 1978, căng thẳng giữa Việt Nam với cả Campuchia cũng như Trung Quốc đều lên một đỉnh mới.
Ngày 23 tháng 12 năm 1978, Quân đội Việt Nam tổng phản công trên biên giới Tây Nam, đánh sang Campuchia lật đổ chính quyền Khmer Đỏ. Trung Quốc có được lý do để tuyên bố về cuộc chiến chống Việt Nam sắp tiến hành. Việc Trung Quốc lựa chọn thời điểm tấn công Việt Nam cũng hết sức thuận lợi cho Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình vừa kết thúc chuyến công du sang Mỹ, cùng với việc ông ta lớn tiếng đe dọa "dạy cho Việt Nam một bài học", Trung Quốc tỏ ra họ có được hậu thuẫn từ Hoa Kỳ, hoặt ít nhất là Mỹ cũng im lặng tán thành. Ngoài ra việc Trung Quốc cắt nguồn viện trợ dầu cho Việt Nam vào cuối năm 1978, vốn chiếm tới hơn một nửa tiêu thụ dầu của Việt Nam, trong khi Liên Xô chưa kịp viện trợ bổ sung, cũng khiến dự trữ dầu chiến lược của Việt Nam bị thiếu hụt trong thời điểm quyết định khi quân Trung Quốc tấn công.[24]
Thêm vào đó, việc Trưởng Ngân khố Mỹ Blumenthal của chính quyền Carter viếng thăm Trung Quốc vào 24 tháng 2 cũng có tác dụng như một lời khuyến khích ngầm Trung Quốc, và có tác dụng phụ đảm bảo với Trung Quốc tình hình tại vùng duyên hải Phúc Kiến đối diện với Đài Loan sẽ yên tĩnh trong thời gian đầu năm 1979, khiến Trung Quốc có thể yên tâm tái bố trí các lực lượng tại Phúc Kiến về hướng biên giới phía nam với Việt Nam.[25]
Với lý do cần kinh phí để hỗ trợ Hoa kiều hồi hương, tháng 5 năm 1978, lần đầu tiên Trung Quốc tuyên bố cắt một phần viện trợ không hoàn lại đã ký cho Việt Nam và rút bớt chuyên gia về nước[26]. Tháng 7, Trung Quốc tuyên bố cắt hết viện trợ và rút hết chuyên gia đang làm việc tại Việt Nam về nước[26]. Tháng 11 năm 1978 Việt Nam ký "hiệp ước hữu nghị và hợp tác" với Liên Xô. Ngày 22 tháng 12 năm 1978, Trung Quốc ngừng tuyến xe lửa liên vận tới Việt Nam. Đầu tháng 1 năm 1979, đường bay Bắc Kinh - Hà Nội cũng bị cắt[26].
Trong khi đó, Đặng Tiểu Bình nổi lên trở thành người lãnh đạo quyền lực nhất Trung Quốc. Đặng nhìn thấy cả rắc rối lẫn cơ hội trong mối quan hệ khó khăn với Việt Nam và cho rằng cách tốt nhất để nắm lấy những cơ hội này là một hành động quân sự.[10]. Trong chuyến thăm Đông Nam Á tháng 12 năm 1978, tại một cuộc trả lời phỏng vấn được Trung Quốc truyền hình trực tiếp, Đặng Tiểu Bình tuyên bố: "Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học" mà ngày hôm sau báo chí chính thức của Trung Quốc cắt ngắn thành "phải dạy cho Việt Nam bài học"[26].
[sửa]Xung đột khu vực
Cùng lúc căng thẳng Việt Nam-Trung Quốc lên cao thì ở biên giới phía Tây Nam của Việt Nam, chính quyền Khmer Đỏ, với sự bảo trợ của Trung Quốc, cũng bắt đầu leo thang hoạt động quân sự xâm lấn miền Nam Việt Nam. Các xung đột lẻ tẻ ở khu vực này đã nhanh chóng bùng nổ thành Chiến tranh biên giới Việt Nam - Campuchia với hệ quả là Việt Nam đưa quân vào Campuchia lật đổ chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ.[27] Đứng trước tình hình đó, Trung Quốc quyết định tấn công xâm lược Việt Nam với lý do "dạy cho Việt Nam một bài học" (lời Đặng Tiểu Bình) nhưng mục đích chính là phân chia lực lượng quân đội của Việt Nam để giúp chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ[28].
Ngoài ra, theo một số nhà nghiên cứu quân sự Tây phương, về mặt chiến lược, Trung Quốc thử nghiệm một cuộc chiến tranh biên giới có giới hạn để thăm dò khả năng tương trợ của Liên Xô, sau khi Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế (SEV), và ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên Xô (1978), trong đó có điều khoản về tương trợ quân sự. Nếu thỏa ước này được tuân thủ nghiêm ngặt, theo nhận định của Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, nó sẽ là hiểm họa quốc phòng lớn vì đặt Trung Quốc vào tình thế lưỡng đầu thọ địch khi xảy ra chiến tranh với Việt Nam hoặc Liên Xô.[29]
Về phía Liên Xô, nguy cơ bị cô lập về ngoại giao sau khi quan hệ Trung Quốc - Hoa Kỳ trở nên nồng ấm khiến Moskva buộc phải tìm cách tăng cường quan hệ đối với Việt Nam. Viện trợ kinh tế của Liên Xô cho Việt Nam tăng đều từ năm 1975 đến 1979 từ 450 triệu USD lên 1,1 tỷ USD, viện trợ quân sự cũng tăng mạnh do sự kiện xung đột Việt Nam Campuchia (từ 125 triệu USD năm 1977 lên 600 triệu năm 1978 và 890 triệu năm 1979).[30]
[sửa]Mục đích và mục tiêu của Trung Quốc
Tuyên bố chiến tranh của Bắc Kinh nói rằng đây là cuộc chiến để quân Trung Quốc "phản công" chống lại các khiêu khích của Việt Nam. Phát ngôn viên của Tân Hoa xã nói: "Các lực lượng biên phòng Trung Quốc đã hành động khi tình hình trở nên không thể chấp nhận được và không còn lựa chọn nào khác. Chúng tôi không muốn một tấc đất nào của Việt Nam. Cái chúng tôi muốn là một đường biên giới ổn định và hòa bình. Sau khi đánh trả các thế lực hiếu chiến đủ mức cần thiết, các lực lượng biên phòng của chúng tôi sẽ quay lại bảo vệ chặt chẽ biên giới của tổ quốc."[19]
Nhiều nhà sử học phương Tây cho rằng cuộc chiến có những mục đích không rõ ràng, trong đó dễ thấy nhất là mục đích trừng phạt Việt Nam vì đã lật đổ chế độ Khmer Đỏ tại Campuchia - một đồng minh của Trung Quốc và là một trong những chế độ tàn bạo nhất của thế kỉ 20. Về sau, một số nhà sử học suy đoán rằng cuộc chiến có vẻ là một phần trong kế hoạch hiện đại hóa quân đội của Đặng Tiểu Bình khi nó thể hiện rõ các khiếm khuyết của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Những người khác cho rằng Đặng Tiểu Bình gây ra chiến tranh để giữ cho quân đội bận rộn trong khi ông củng cố quyền lực và loại bỏ các đối thủ cánh tả từ thời Mao Trạch Đông.[31]
Theo Carl Thayer, trong mắt Trung Quốc, Hà Nội đã vô ơn với Bắc Kinh: sau khi được giúp đỡ trong cuộc chiến chống Mỹ thì quay sang bạc đãi cộng đồng người Hoa, quan hệ nồng ấm với Liên Xô mà khi đó Trung Quốc coi là kẻ thù, rồi lại tấn công quân sự lật đổ đồng minh Khmer Đỏ của Bắc Kinh. Trung Quốc muốn "dạy cho Việt Nam một bài học" vì đã thách thức uy quyền và ảnh hưởng của Trung Quốc tại vùng Đông Dương. Bên cạnh việc xâm lấn Việt Nam để "bình định vùng biên giới" sau nhiều năm căng thẳng với các xung đột ngày càng nhiều, Trung Quốc phải hành động để chứng tỏ uy tín của mình trong việc bảo vệ đồng minh Khmer Đỏ.[32]
Đối với Việt Nam, cuộc chiến là một phần trong kế hoạch bành trướng về phía Nam của Trung Quốc.[33]. Theo phân tích của phía Việt Nam, mục tiêu chính của Trung Quốc trong hành động quân sự lần này gồm:[34]
Nhanh chóng chiếm đóng vùng biên giới Việt-Trung, đặc biệt là các thị xã trọng yếu gồm Lạng Sơn (chốt chặn nối Quốc lộ 1A của Việt Nam với Trung Quốc), Cao Bằng và Lào Cai. Vùng chiếm đóng dự kiến với bề sâu chừng vài chục km sẽ được Trung Quốc sử dụng làm bàn đạp cho các cuộc tấn công vào sâu nội địa Việt Nam.
Tiêu hao lực lượng chủ lực và làm suy yếu khả năng phòng ngự phía Việt Nam bằng việc quét sạch các đồn biên phòng, tiêu diệt một phần lực lượng quân địa phương và các đơn vị quân độc lập khác của Việt Nam.
Hủy diệt cơ sở hạ tầng và nền kinh tế ở các vùng chiếm đóng để đưa nền kinh tế Việt Nam tới chỗ sụp đổ.
[sửa]Tương quan lực lượng tham chiến
Dân binh Trung Quốc trong các đội tải thương. Ước tính có khoảng 4.000 lính Trung Quốc tử trận chỉ trong 2 ngày đầu của cuộc chiến.
Để tấn công Việt Nam, Trung Quốc sử dụng 9 quân đoàn chủ lực và một số sư đoàn bộ binh độc lập (tổng cộng 32 sư đoàn), 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư đoàn và nhiều trung đoàn pháo binh, phòng không. Lực lượng được huy động khoảng trên 30 vạn binh sĩ, 550 xe tăng, 480 khẩu pháo, 1.260 súng cối[35] và dàn hỏa tiễn, chưa kể hơn 200 tàu chiến của hạm đội Nam Hải và 1.700 máy bay sẵn sàng phía sau. Tướng Hứa Thế Hữu, tư lệnh Đại Quân khu Quảng Châu chỉ huy hướng tiến công vào đông bắc Việt Nam với trọng điểm là Lạng Sơn và Cao Bằng. Tướng Dương Đắc Chí, tư lệnh Đại Quân khu Côn Minh đảm nhiệm hướng tây bắc với trọng điểm là Hoàng Liên Sơn (nay là Lào Cai). Đây là đợt huy động quân sự lớn nhất của Trung Quốc kể từ Chiến tranh Triều Tiên. Ngoài lực lượng quân chính qui, Trung Quốc còn huy động hàng chục vạn dân công và lực lượng dân binh ở các tỉnh biên giới để tải đồ tiếp tế, phục vụ, tải thương, hỗ trợ quân chính qui phục vụ cho chiến dịch.[36], chỉ riêng tại Quảng Tây đã có đến 215.000 dân công được huy động[1]. Về phân phối lực lượng của Trung Quốc: hướng Lạng Sơn có quân đoàn 43, 54, 55; hướng Cao Bằng có quân đoàn 41, 42, 50; hướng Hoàng Liên Sơn có quân đoàn 13, 14; hướng Lai Châu có quân đoàn 11; hướng Quảng Ninh, Hà Tuyên (nay là Hà Giang) mỗi nơi cũng có từ 1-2 sư đoàn.
Về phía Việt Nam, do phần lớn các quân đoàn chính quy (3 trong số 4 quân đoàn) đang chiến đấu ở Campuchia nên phòng thủ ở biên giới với Trung Quốc chỉ có một số sư đoàn chủ lực quân khu (chủ yếu là tân binh) của Quân khu I và II cùng các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện, công an vũ trang (biên phòng) và dân quân tự vệ. Lực lượng tinh nhuệ nhất của phía Việt Nam đóng ở biên giới Việt-Trung là Sư đoàn 3 (đóng tại Lạng Sơn) và sư đoàn 316A (đóng tại Sa Pa), ngoài ra còn có các sư đoàn 346 ở Cao Bằng, 325B ở Quảng Ninh, 345 ở Lào Cai, 326 ở Phong Thổ, Lai Châu. Sư đoàn 346 đóng tại Cao Bằng nhiều năm chủ yếu làm nhiệm vụ kinh tế, thời gian huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trở lại chưa nhiều. Lực lượng biên giới có khoảng 70.000 quân, sau được hai sư đoàn (327 và 337) từ tuyến sau lên Lạng Sơn tiếp viện.[37] Lực lượng độc lập gồm các trung đoàn 141, 147, 148, 197, trung đoàn pháo binh 68, các trung đoàn quân địa phương 95, 121, 192, 254 và 741.[34] Quân đoàn 1 vẫn đóng quanh Hà Nội đề phòng Trung Quốc đổi ý tiến sâu vào trung châu. Ngày 27 tháng 2, Quân đoàn 2 là chủ lực của Bộ quốc phòng được lệnh cơ động về để bảo vệ miền Bắc, đến ngày 5 tháng 3 bắt đầu triển khai trên hướng Lạng Sơn nhưng rốt cục không tham gia.
[sửa]Diễn biến
Các hướng tiến công của Trung Quốc trên toàn tuyến biên giới
[sửa]Chuẩn bị
Từ tháng 10 năm 1978 cho đến 15 tháng 2 năm 1979, Trung Quốc thực hiện hàng loạt các vụ tấn công thăm dò vào các vị trí phòng thủ của Việt Nam tại biên giới, với mục đích thu thập thông tin tình báo, đe dọa quân Việt Nam, và đánh lạc hướng khỏi mục tiêu chính của chiến dịch sắp tới. Các cuộc tấn công nhỏ này tăng dần về quy mô và tần số khi lực lượng Trung Quốc tập trung tại biên giới ngày càng đông. Không có tài liệu gì về các cuộc tấn công thăm dò của quân Việt Nam.[38] Dấu hiệu đầu tiên của chiến tranh là việc Trung Quốc cắt đứt tuyến đường sắt Hữu Nghị nối liền hai nước vào ngày 22 tháng 12 năm 1978.[39] Đến cuối tháng 1 năm 1979, khoảng 17 sư đoàn chính quy Trung Quốc (khoảng 225.000 quân), đã tập trung gần biên giới với Việt Nam. Hơn 700 máy bay chiến đấu và máy bay ném bom - 1/5 lực lượng không quân Trung Quốc - đã được đưa đến các sân bay gần biên giới. [40] Các động thái leo thang này của Trung Quốc đã được phía Việt Nam đề cập tại cuộc họp của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc ngày 11 tháng 2 năm 1979.[29]
Ngày 7 tháng 2, Bắc Kinh báo trước về một chiến dịch tấn công Việt Nam với thông cáo chính thức của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phản đối việc quân đội Việt Nam tiến vào lãnh thổ Campuchia và đề nghị tất cả các quốc gia yêu hòa bình "dùng mọi biện pháp có thể để chấm dứt cuộc xâm lược dã man này".[41] Về mặt ngoại giao, sau khi bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ từ tháng 12 năm 1978, trong chuyến thăm Washington từ 28 đến 30 tháng 1, Đặng Tiểu Bình nhận được sự ủng hộ cần thiết của đồng minh mới Hoa Kỳ trong kế hoạch tấn công Việt Nam, tuy nhiên tổng thống Jimmy Carter cũng cảnh báo Đặng rằng vụ tấn công của Trung Quốc, nếu xảy ra, sẽ không thể nhận được sự ủng hộ về mặt ngoại giao hoặc quân sự quốc tế.[42][43]
Ngày 15 tháng 2 năm 1979, nhân dịp 29 năm hiệp ước Trung-Xô về vấn đề Mông Cổ và thời điểm kết thúc chính thức Hiệp ước hợp tác Trung-Xô, Đặng Tiểu Bình tuyên bố Trung Quốc chuẩn bị tấn công giới hạn Việt Nam. Để cảnh báo Liên Xô và cũng nhằm ngăn chặn bị tấn công từ hai mặt, Trung Quốc đặt toàn bộ quân đội đóng dọc biên giới Trung-Xô vào tình trạng báo động đồng thời thiết lập một sở chỉ huy quân đội mới ở Tân Cương và di tản 300.000 dân khỏi vùng biên giới với Liên Xô.[44]
Để đối phó lại việc Trung Quốc tập trung bộ binh và vũ khí hạng nặng tại biên giới, cũng như việc các cuộc đột kích vũ trang ngày càng gia tăng, Việt Nam tiến hành chuẩn bị các vị trí phòng ngự, chuẩn bị tinh thần dân chúng sẵn sàng một khi chiến tranh xảy ra. Tuy nhiên Việt Nam tại thời điểm đó vẫn tin rằng Trung Quốc sẽ không tấn công, vì Trung Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa anh em. Thêm nữa, Việt Nam tin rằng đa phần nhân dân Trung Quốc không ủng hộ chiến tranh và sẽ phản đối chiến tranh nổ ra. Ngoài ra, tuyên bố của Đặng Tiểu Bình chỉ một tuần trước khi chiến tranh nổ ra, rằng chiến dịch quân sự của PLA sẽ không dài hơn cuộc chiến 1962 với Ấn Độ, cộng với các tuyên bố của Đặng trước đó rằng chiến dịch quân sự này "giới hạn về không gian và thời gian", khiến Hà Nội tin tưởng họ có khả năng cầm chân quân Trung Quốc tại các tỉnh biên giới[45]
Lực lượng Việt Nam đương đầu với cuộc tấn công của Trung Quốc chủ yếu là dân quân và bộ đội địa phương. Từ vài tháng trước khi chiến tranh nổ ra, Hà Nội đã tiến hành huấn luyện và trang bị vũ khí hạng nhẹ cho dân quân tại các tỉnh biên giới. Chỉ có một số đơn vị quân chính qui tham gia chiến trận, nhất là các đơn vị phòng thủ Lạng Sơn, nhưng ngay cả tại đây, lực lượng chủ yếu vẫn là dân quân và quân địa phương. Hà Nội giữ lại 5 sư đoàn chủ lực ở tuyến sau đề phòng Trung Quốc tiến sâu về đồng bằng, và đồng thời cũng để giới hạn việc cuộc chiến leo thang[46]
[sửa]Giai đoạn 1
Mặt trận Lạng Sơn
Mặt trận Cao Bằng
5 giờ sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, lực lượng Trung Quốc khoảng 120.000 quân bắt đầu tiến vào Việt Nam trên toàn tuyến biên giới, mở đầu là pháo, tiếp theo là xe tăng và bộ binh.[47][19] Cánh phía Đông có sở chỉ huy tiền phương đặt tại Nam Ninh và mục tiêu chính là Lạng Sơn. Có hai hướng tiến song song, hướng thứ nhất do quân đoàn 42A dẫn đầu từ Long Châu đánh vào Đồng Đăng nhằm làm bàn đạp đánh Lạng Sơn, hướng thứ hai do quân đoàn 41A dẫn đầu từ Tĩnh Tây và Long Châu tiến vào Cao Bằng và Đông Khê. Ngoài ra còn có quân đoàn 55A tiến từ Phòng Thành vào Móng Cái. Cánh phía Tây có sở chỉ huy tiền phương đặt tại Mông Tự, có 3 hướng tiến công chính. Hướng thứ nhất do các quân đoàn 13A và 11A dẫn đầu đánh từ vào thị xã Lào Cai. Hướng thứ hai từ Văn Sơn đánh vào Hà Giang. Hướng thứ 3 do sư đoàn 42D của quân đoàn 14A dẫn đầu đánh từ Kim Bình vào Lai Châu. [48] Tổng cộng quân Trung Quốc xâm nhập Việt Nam trên 26 điểm, các khu vực dân cư Việt Nam chịu thiệt hại nặng nhất từ đợt tấn công đầu tiên này là Lào Cai, Mường Khương, Cao Bằng, Lạng Sơn và Móng Cái.[19]
Không quân và hải quân không được sử dụng trong toàn bộ cuộc chiến. Tất cả các hướng tấn công đều có xe tăng, pháo binh hỗ trợ. Quân Trung Quốc vừa chiếm ưu thế về lực lượng, vừa chủ động về thời gian tiến công, lại còn có "lực lượng thứ năm" gồm những người Việt gốc Hoa cài cắm từ lâu trên đất Việt Nam. Từ đêm 16 tháng 2, các tổ thám báo Trung Quốc đã mang theo bộc phá luồn sâu vào nội địa Việt Nam móc nối với "lực lượng thứ năm" này lập thành các toán vũ trang phục sẵn các ngã ba đường, bờ suối, các cây cầu để ngăn chặn quân tiếp viện của Việt Nam từ phía sau lên. Trước giờ nổ súng, các lực lượng này cũng bí mật cắt các đường dây điện thoại để cô lập chỉ huy sư đoàn với các chốt, trận địa pháo.[49]
Tiến nhanh lúc khởi đầu, nhưng quân Trung Quốc nhanh chóng phải giảm tốc độ do gặp nhiều trở ngại về địa hình và hệ thống hậu cần lạc hậu phải dùng lừa, ngựa và người thồ hàng.[48] Hệ thống phòng thủ của Việt Nam dọc theo biên giới rất mạnh, với các hầm hào hang động tại các điểm cao dọc biên giới do lực lượng quân sự có trang bị và huấn luyện tốt trấn giữ. Kết quả là Trung Quốc phải chịu thương vong lớn.[50] Trong ngày đầu của cuộc chiến, chiến thuật dùng biển lửa và biển người của Trung Quốc đã có kết quả tốt, họ tiến được vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam hơn 10 dặm và chiếm được một số thị trấn. Chiến sự ác liệt nhất diễn ra tại các vùng Bát Xát, Mường Khương ở Tây Bắc và Đồng Đăng, cửa khẩu Hữu Nghị, Thông Nông ở Đông Bắc. Quân Trung Quốc cũng đã vượt sông Hồng và đánh mạnh về phía Lào Cai. [50]
Trong hai ngày 18 và 19 tháng 2, chiến sự lan rộng hơn. Việt Nam kháng cự rất mạnh và với tinh thần chiến đấu cao. Quân Trung Quốc hầu như không thể sử dụng lực lượng ở mức sư đoàn mà phải dùng đội hình nhỏ và thay đổi chiến thuật. Họ tiến chậm chạp, giành giật từng đường hầm, từng điểm cao, và cuối cùng cũng chiếm được Mường Khương, Trùng Khánh, và Đồng Đăng. Tại Móng Cái, hai bên giành giật dai dẳng. Cả hai bên đều phải chịu thương vong cao,[51] có ít nhất 4.000 lính Trung Quốc chết trong hai ngày đầu này.[52] Sau hai ngày chiến tranh, quân Trung Quốc đã chiếm được 11 làng mạc và thị trấn, đồng thời bao vây Đồng Đăng, thị trấn có vị trí then chốt trên đường biên giới Trung-Việt.[19]
Trận chiến tại Đồng Đăng bắt đầu ngay từ ngày 17 và là trận ác liệt nhất.[51] Đây là trận địa phòng thủ của Trung đoàn 12 Tây Sơn, Sư đoàn 3 Sao Vàng, Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tấn công vào Đồng Đăng là 2 sư đoàn bộ binh, 1 trung đoàn xe tăng, và chi viện của 6 trung đoàn pháo binh Trung Quốc.[49] Cụm điểm tựa Thâm Mô, Pháo Đài, 339 tạo thế chân kiềng bảo vệ phía Tây Nam thị xã Đồng Đăng, do lực lượng của 2 tiểu đoàn 4, 6, Trung đoàn 12 trấn giữ, bị Trung Quốc bao vây và tấn công dồn dập ngay từ đầu với lực lượng cấp sư đoàn. Lực lượng phòng thủ không được chi viện nhưng đã chiến đấu đến những người cuối cùng, trụ được cho đến ngày 22. Ngày cuối cùng tại Pháo Đài, nơi có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất, không gọi được đối phương đầu hàng, quân Trung Quốc chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, bắn đạn hóa chất độc vào các lỗ thông hơi làm thiệt mạng cả thương binh cũng như dân quanh vùng đến đây lánh nạn.[53]
Ngày 19 tháng 2, Đặng Tiểu Bình trong cuộc gặp với giới ngoại giao Argentina tuyên bố đây là cuộc chiến tranh hạn chế và Trung Quốc sẽ rút quân ngay sau khi đạt được mục tiêu giới hạn,[54] Cùng ngày, nhóm cố vấn quân sự cao cấp của Liên Xô tới Hà Nội để gặp các tướng lĩnh chỉ huy của Việt Nam. Moskva yêu cầu Trung Quốc rút quân. Liên Xô cũng viện trợ gấp vũ khí cho Việt Nam qua cảng Hải Phòng, đồng thời dùng máy bay vận tải chuyển một số sư đoàn chủ lực của Việt Nam từ Campuchia về.
Mặt trận Lào Cai
Đến 21 tháng 2, Trung Quốc tăng cường thêm 2 sư đoàn và tiếp tục tấn công mạnh hơn nữa. Ngày 22, các thị xã Lào Cai và Cao Bằng bị chiếm. Quân Trung Quốc chiếm thêm một số vùng tại Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, và Quảng Ninh. Chiến sự lan rộng tới các khu đô thị ven biển ở Móng Cái. Về phía Việt Nam, cùng lúc với việc triển khai phòng ngự quyết liệt, khoảng từ 3 đến 5 sư đoàn (gồm 30.000 quân) cũng được giữ lại để thành lập một tuyến phòng ngự cánh cung từ Yên Bái tới Quảng Yên với nhiệm vụ bảo vệ Hà Nội và Hải Phòng.[19]
Ngày 23 tháng 2, Đặng Tiểu Bình nhắc lại tuyên bố về "cuộc chiến tranh hạn chế" và nói sẽ rút quân trong vòng 10 ngày hoặc hơn. Đây được xem là thông điệp nhằm ngăn Liên Xô can thiệp quân sự, đáp lại kêu gọi rút quân của Mỹ, xoa dịu các nước đang lo ngại về một cuộc chiến lớn hơn, và gây khó hiểu cho Việt Nam[54] Trong khi đó, một tuần dương hạm Sverdlov và một khu trục hạm Krivak của Liên Xô đã rời cảng từ ngày 21 tiến về phía vùng biển Việt Nam. Liên Xô cũng đã bắt đầu dùng máy bay giúp Việt Nam chở quân và vũ khí ra Bắc. Hai chuyến bay đặc biệt của Liên Xô và Bulgaria chở vũ khí khí tài bay tới Hà Nội. Một phái đoàn quân sự của Liên Xô cùng từ Moskva bay tới Hà Nội.[54]
Ngày 26 tháng 2, thêm nhiều quân Trung Quốc tập kết quanh khu vực Lạng Sơn chuẩn bị cho trận chiến đánh chiếm thị xã này.[51]
Ngày 25 tháng 2, tại Mai Sao, Quân đoàn 14 thuộc Quân khu 1, Quân đội Nhân dân Việt Nam cùng Bộ chỉ huy thống nhất Lạng Sơn được thành lập, lực lượng bao gồm các sư đoàn 3, 327, 338, 337 (đang từ quân khu 4 ra) và sau này có thêm sư đoàn 347 cùng các đơn vị trực thuộc khác.[55]
Trong giai đoạn đầu đến ngày 28 tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, và một số thị trấn. Các cơ sở vật chất, kinh tế ở những nơi này bị phá hủy triệt để. Tuy nhiên, do vấp phải sự phòng ngự có hiệu quả của Việt Nam cũng như có chiến thuật lạc hậu so với phía Việt Nam nên quân Trung Quốc tiến rất chậm và bị thiệt hại nặng.[52] Quân Việt Nam còn phản kích đánh cả vào hai thị trấn biên giới Ninh Minh (Quảng Tây) và Malipo (Vân Nam) của Trung Quốc, nhưng chỉ có ý nghĩa quấy rối.[56]
[sửa]Giai đoạn 2
Bài chi tiết: Trận Lạng Sơn
Giai đoạn 2 bắt đầu từ ngày 27 tháng 2. Chiến sự tập trung tại Lạng Sơn tuy giao tranh tại Lào Cai, Cao Bằng, và Móng Cái vẫn tiếp diễn. Trận đánh chiếm thị xã Lạng Sơn bắt đầu lúc 6 giờ sáng cùng ngày. Trung Quốc điều tới đây thêm 2 sư đoàn từ Đồng Đăng và Lộc Bình (phía Đông Nam Lạng Sơn), tiếp tục đưa thêm quân mới từ Trung Quốc thâm nhập Việt Nam để tăng viện.[56] Tại Lạng Sơn, các Sư đoàn 3, 337, của Việt Nam đã tổ chức phòng thủ chu đáo và phản ứng mãnh liệt trước các đợt tấn công lớn của quân Trung Quốc. Từ ngày 2 tháng 3, Sư đoàn 337 trụ tại khu vực cầu Khánh Khê. Sư đoàn 3 chống trả 3 sư đoàn bộ binh 160, 161, 129, cùng nhiều tăng, pháo, tiến công trên một chiều dài 20 km từ xã Hồng Phong huyện Văn Lãng đến xã Cao Lâu huyện Cao Lộc. Suốt ngày 27, ở hướng Cao Lộc, sư đoàn 129 Trung Quốc không phá nổi trận địa phòng thủ của trung đoàn 141; ở hướng đường 1B, sư đoàn 161 bị trung đoàn 12 ghìm chân; ở hướng đường 1A, trung đoàn 2 vừa chặn đánh sư đoàn 160 từ phía Bắc vừa chống lại cánh quân vu hồi của sư đoàn 161 từ hướng Tây Bắc thọc sang. Nhưng 14 giờ ngày hôm đó, 1 tiểu đoàn Trung Quốc bí mật luồn qua phía sau bất ngờ đánh chiếm điểm cao 800, nơi đặt đài quan sát pháo binh của sư đoàn 3 Sao Vàng. Mất điểm cao 800, thế trận phòng ngự của Việt Nam ở phía tây đường 1A từ Cốc Chủ đến điểm cao 417 bị chọc thủng. [55] Chiếm được điểm cao 800 và Tam Lung, nhưng trong suốt các ngày từ 28 tháng 2 đến 2 tháng 3, quân Trung Quốc vẫn không vượt qua được đoạn đường 4 km để vào thị xã Lạng Sơn, tuy đã dùng cho hướng tiến công này gần 5 sư đoàn bộ binh.[55] Sau nhiều trận đánh đẫm máu giành giật các điểm cao quanh Lạng Sơn, mà có trận quân phòng thủ Việt Nam đánh đến viên đạn cuối cùng, quân Trung Quốc bắt đầu bao vây thị xã Lạng Sơn ngày 2 tháng 3[56] sử dụng thêm sư đoàn 162 dự bị chiến dịch của quân đoàn 54 và dùng 6 sư đoàn tấn công đồng loạt trên nhiều hướng[55]. Chiều ngày 4, một cánh quân Trung Quốc đã vượt sông Kỳ Cùng, chiếm điểm cao 340 và vào tới thị xã Lạng Sơn, một cánh quân khác của sư đoàn 128 Trung Quốc cũng chiếm sân bay Mai Pha, điểm cao 391 ở phía tây nam thị xã.
Đến đây, phía Việt Nam đã điều các sư đoàn chủ lực có xe tăng, pháo binh, không quân hỗ trợ áp sát mặt trận, chuẩn bị phản công giải phóng các khu vực bị chiếm đóng. Quân đoàn 14 với các sư đoàn 337, 327, 338 hầu như còn nguyên vẹn đang bố trí quân quanh thị xã Lạng Sơn. Quân đoàn 2, chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam, đã tập kết sau lưng Quân đoàn 14.[55]
[sửa]Rút quân
Ngày 5 tháng 3 năm 1979, Bắc Kinh tuyên bố đã "hoàn thành mục tiêu chiến tranh", "chiến thắng" và bắt đầu rút quân. Cũng ngày 5 tháng 3 năm 1979, Việt Nam ra lệnh tổng động viên toàn quốc.[57] Ngày 7 tháng 3, Việt Nam tuyên bố rằng để thể hiện "thiện chí hòa bình", Việt Nam sẽ cho phép Trung Quốc rút quân.[58]
Mặc dù Trung Quốc tuyên bố rút quân, chiến sự vẫn tiếp diễn ở một số nơi. Dân thường Việt Nam vẫn tiếp tục bị giết, chẳng hạn như vụ thảm sát ngày 9 tháng 3 tại thôn Đổng Chúc, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, khi quân Trung Quốc đã dùng búa và dao giết 43 người, gồm 21 phụ nữ và 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai, rồi ném xác xuống giếng hoặc chặt ra nhiều khúc rồi vứt hai bên bờ suối.[59] Trong thời gian chuẩn bị rút quân, Trung Quốc còn phá hủy một cách có hệ thống toàn bộ các công trình xây dựng, từ nhà dân hay cột điện, tại các thị xã thị trấn Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn...[59]
Sư đoàn 337 của Việt Nam, lên tham chiến từ ngày 2 tháng 3 tại khu vực cầu Khánh Khê ở Lạng Sơn để chi viện cho các đơn vị đang chặn đánh quân Trung Quốc. Sư đoàn này đến nơi quá muộn để thay đổi cục diện trận đánh tại Lạng Sơn, nhưng đã cùng sư đoàn 338 tổ chức phản kích đánh vào quân Trung Quốc rút lui qua ngả Chi Mã[60].
Ngày 18 tháng 3 năm 1979, Trung Quốc hoàn tất việc rút quân khỏi Việt Nam.
[sửa]Chiến dịch dân vận của Trung Quốc
Theo truyền thống, Trung Quốc đề cao việc tuyên truyền chính trị cho binh sỹ và dân chúng của mình về chính nghĩa của họ trong việc cần thiết tiến hành cuộc chiến trừng phạt Việt Nam. Ngay từ trước khi quân Trung Quốc vượt biên giới đánh vào Việt Nam, cả hai bên đã lớn tiếng cáo buộc nhau có các hành vi gây hấn trên tuyến biên giới. Theo phía Trung Quốc, quân Việt Nam đã tiến hành hơn 1100 vụ xâm nhập trên biên giới. Đối lại, Việt Nam cho biết việc quân Trung Quốc tiến hành khiêu khích diễn ra hàng ngày[19]. Cùng với việc quan hệ chính trị trở nên căng thẳng, số vụ xung đột vũ trang tại biên giới cũng tăng lên, từ khoảng 100 vụ năm 1974 lên tới hơn 900 vụ năm 1976[61]. Việc Trung Quốc chiếm Hoàng Sa năm 1974 cũng như việc Việt Nam đưa quân tiếp quản Trường Sa cũng góp phần khiến nguyên nhân bất đồng giữa hai phía trở nên sâu sắc[61].
Trung Quốc tuyên truyền trong nhân dân rằng đây là cuộc chiến phản công chống Việt Nam để bảo vệ lãnh thổ quốc gia; tuyên truyền với quân đội rằng chiến dịch quân sự này được tiến hành để trừng phạt nhà cầm quyền Việt Nam, cụ thể là "bè lũ Lê Duẩn", và rằng quân đội cần giành được sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam[62]. Chiến dịch vận động quần chúng của Trung Quốc tỏ ra có kết quả với dân chúng và cán bộ Trung Quốc tại vùng biên, khiến họ có thể huy động hàng chục vạn dân công tham gia các hoạt động bảo đảm an ninh và tiếp tế cho quân đội.
Đối với dân thường Việt Nam, Trung Quốc bỏ ra nhiều công sức tuyên truyền lôi kéo người dân vùng biên, đặc biệt là với các dân tộc thiểu số sống vắt qua biên giới hai nước như Tày, Nùng (ở Trung Quốc gọi là dân tộc Choang), Dao, Hmong và các nhóm người thiểu số gốc Hoa. Kết quả là trong ngày đầu của cuộc chiến, có nơi, quân Trung Quốc đã được dẫn vòng qua đồn biên phòng tiến sâu vào đất Việt Nam mà không bị phát hiện. Phục vụ công tác dân vận tại các khu vực chiến sự, Trung Quốc còn thành lập các đơn vị đặc biệt mà nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức cũng như kiểm tra hoạt động của các đội vận động quần chúng trong tất cả các đơn vị quân. Theo đó, quân Trung Quốc tiến sang Việt Nam phải giảm tối thiểu những hành động gây xáo trộn, phiền hà đến dân chúng, tôn trọng phong tục tập quán, tài sản, cung cấp gạo, muối, dầu thắp, thuốc chữa bệnh... cho dân cư bản địa. Chính sách này được một số đơn vị Trung Quốc ở vùng Lào Cai thực hiện[63]
Tuy nhiên, quân Trung Quốc đã thực hiện nhiều hành động như giết chóc, đốt phá, ngay cả sau khi đã tuyên bố rút quân. Hầu hết các thị xã thị trấn mà Trung Quốc chiếm được đều bị phá hủy một cách có hệ thống.[64] Tại thị xã Cao Bằng, quân Trung Quốc dùng thuốc nổ phá sập bất cứ công trình gì từ công sở đến bưu điện, từ bệnh viện đến trường học, từ chợ đến cầu.[64]. Tại Đồng Đăng, quân Trung Quốc lấy đi tất cả những gì có thể mang theo, từ xe đạp cho đến thanh ray tàu hỏa, những gì không mang được đều bị đập phá. Tại thị xã Cam Đường trên bờ sông Hồng, cách biên giới khoảng 10km, ngoài việc phá hủy thị xã, quân Trung Quốc còn cho đốt cả mỏ apatit[65].
O'Dowd tổng kết là chính sách dân vận của quân Trung Quốc tỏ ra không thành công đối với người dân Việt Nam. Ông lí giải rằng "người Việt Nam rất yêu nước, thấm nhuần tư tưởng chính trị, giỏi chịu đựng, không dễ bị lung lạc...".[66]. Ngoài ra, những hành động tàn phá, giết chóc dân thường, cũng như ngược đãi tù binh của quân Trung Quốc đã gây hại cho nỗ lực dân vận của họ.[66] Những hoạt động này một phần là do binh lính Trung Quốc sang Việt Nam bị sốc vì sự khốc liệt, sức kháng cự của quân Việt Nam cũng như của dân bản địa,[67] một phần nằm trong các phá hoại có kế hoạch và tổ chức, ví dụ như tại thị xã Lạng Sơn[68]. Hoạt động lôi kéo người thiểu số tại biên giới của Trung Quốc cũng không đạt được kết quả mong đợi. Khi quân Trung Quốc từ quân khu Vân Nam rút về nước, tất cả những điệp viên và quân du kích người thiểu số mà họ gây dựng được khi chiếm đóng các khu vực biên giới trong thời gian chiến dịch đều bị lực lượng an ninh Việt Nam bắt giữ và xử tử.[69]
Chiến tranh tâm lý của Trung Quốc với các lực lượng phòng thủ của Việt Nam cũng thất bại. Trong suốt cuộc chiến, hiếm có đơn vị nào của Việt Nam không đánh trả quyết liệt quân Trung Quốc. Quân Trung Quốc cuối cùng cũng hiểu rằng ngoài việc sử dụng sức mạnh quân sự, họ không có hy vọng giành thắng lợi trong chiến tranh tuyên truyền chính trị[70].
[sửa]Phản ứng quốc tế
Đặng Tiểu Bình và Tổng thống Mỹ Jimmy Carter trong một buổi lễ ngày 31 tháng 1 năm 1979.
Ngay khi cuộc chiến nổ ra, Hoa Kỳ tuyên bố giữ vị trí trung lập và kêu gọi "sự rút quân lập tức của Việt Nam khỏi Campuchia và Trung Quốc khỏi Việt Nam"[50], nói rằng "việc Trung Quốc xâm lược Việt Nam là sự tiếp nối của việc Việt Nam xâm lược Campuchia".[51] Nhưng theo đánh giá của Nayan Chanda, Hoa Kỳ đã là quốc gia phương Tây duy nhất gần như ủng hộ cuộc xâm lược Việt Nam của Trung Quốc; trái với lời lên án việc Việt Nam tiến đánh Khmer Đỏ là "một mối đe dọa cho hòa bình và ổn định trong khu vực", tuyên bố của Mỹ về cuộc tấn công của Trung Quốc có hàm ý bào chữa rằng "việc Trung Quốc thâm nhập biên giới Việt Nam là kết quả của việc Việt Nam xâm lược Campuchia".[71] Ngoài Hoa Kỳ thì đa số các quốc gia phương Tây phản đối mạnh mẽ hành động quân sự của phía Trung Quốc, sự cô lập này đã ảnh hưởng khá lớn tới chính sách ngoại giao bước đầu mở cửa của Bắc Kinh khi đó.[29]
Ngày 18 tháng 2, Liên Xô viện dẫn hiệp định ký với Việt Nam, thúc giục Trung Quốc "ngừng trước khi quá muộn" và đòi Trung Quốc rút quân lập tức và toàn bộ. Trong thời gian xảy ra cuộc chiến, Liên Xô đã lên án cuộc tấn công của Trung Quốc là "hành động man rợ bất chấp đạo lý của kẻ cướp", đòi Trung Quốc lập tức chấm dứt "cuộc chiến tranh xâm lược", và cảnh báo Trung Quốc về lòng trung thành của Liên Xô đối với hiệp ước quân sự Xô-Việt. Ngoài ra, Liên Xô không có hành động can thiệp quân sự mà chỉ hỗ trợ vận chuyển bằng hàng không và triển khai hải quân ngoài bờ biển Việt Nam[58] nhằm tránh đổ vỡ quan hệ vốn đã căng thẳng với Trung Quốc[29]. Liên Xô cũng cảnh báo Trung Quốc về việc đặt các lực lượng vũ trang Xô Viết ở Siberi vào tình trạng báo động đồng thời cung cấp cho Việt Nam các thông tin quân sự thu được từ vệ tinh do thám. Bản thân chính quyền Hà Nội, vốn giữ chiến thuật phòng thủ trong cuộc chiến, cũng từ chối sự tham gia của các phi công Liên Xô vào các trận đánh.[72] Do không tham gia về quân sự, ngày 10 tháng 3, Liên Xô hứa sẽ tăng viện trợ quân sự cho Việt Nam.[58]
Đêm hôm Trung Quốc tuyên bố rút quân, Cuba cảnh báo Trung Quốc là nước này sẽ hỗ trợ Việt Nam, kể cả việc đưa quân đến nếu cần.[58] Sau khi biết tin Trung Quốc rút quân, nhật báo Pravda của Liên Xô cũng đưa ra bình luận rằng "Liên Xô hiểu được dã tâm của Bắc Kinh vì vậy đã không đáp lại những khiêu khích quân sự của Trung Quốc với mục đích duy nhất là làm leo thang căng thẳng giữa Liên Xô và Hoa Kỳ".[29]
Tại Liên Hợp Quốc, tranh cãi kịch liệt xảy ra xung quanh vấn đề an ninh ở Đông Nam Á. Hai sự kiện Việt Nam đánh vào Campuchia lật đổ chế độ Khmer Đỏ và Trung Quốc đánh vào Việt Nam cùng được đưa ra bàn luận. Hội đồng Bảo An bị chia rẽ sâu sắc sau các cuộc họp vào các ngày cuối tháng 2.[73] Các nước ASEAN muốn tất cả các lực lượng quân sự nước ngoài rút quân về nước. Mỹ ủng hộ lập trường này. Liên Xô tuyên bố không ủng hộ bất cứ nghị quyết nào không lên án Trung Quốc và đòi Trung Quốc rút quân. Ngày 23 tháng 2, Liên Xô cùng Tiệp Khắc đưa dự thảo nghị quyết trong đó lên án Trung Quốc xâm lược, đòi Trung Quốc rút quân và bồi thường chiến tranh cho Việt Nam, và kêu gọi cấm vận vũ khí đối với Trung Quốc. Còn Trung Quốc thì chỉ trích Liên Xô "khuyến khích Việt Nam tấn công Trung Quốc và xâm lược Campuchia". Ngày 24 tháng 2, Trung Quốc đưa dự thảo nghị quyết đòi Việt Nam "lập tức rút quân hoàn toàn khỏi Campuchia". Cuối cùng, Liên Hợp Quốc không đi đến được một nghị quyết nào.[73]
[sửa]Kết quả cuộc chiến
Tuy Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chiến thắng trong cuộc chiến nhưng cả hai bên đều phải chịu thiệt hại nặng nề về người và của.[52] Cuộc chiến để lại đặc biệt nhiều tác hại lớn cho phía Việt Nam. Ngoài các thương vong về con người, tổn thất cụ thể về cơ sở vật chất hạ tầng ở 6 tỉnh biên giới bị phá hủy do trận chiến, Việt Nam còn phải gánh chịu nhiều khó khăn, thiệt hại do thái độ và chính sách thù địch, vây hãm mà Trung Quốc và đồng minh của Trung Quốc gây ra trên các mặt trận quân sự, kinh tế, ngoại giao...
[sửa]Thương vong và thiệt hại
Theo tướng Ngũ Tu Quyền (伍修权), phó tổng tư lệnh Quân giải phóng Trung Quốc, số quân Việt Nam bị chết và bị thương là 50.000, trong khi con số tương ứng của Trung Quốc là 20.000.[74] Theo nhà sử học Gilles Férier thì có khoảng 25.000 lính Trung Quốc thiệt mạng và gần 500 xe bọc thép hoặc pháo bị phá hủy, con số này phía Việt Nam cũng là gần tương tự nhưng thấp hơn một chút.[75][76] Russell D. Howard cho rằng quân Trung Quốc thương vong 60.000 người, trong đó số chết là 26.000,[77] một số nguồn khác cũng đồng ý với con số thương vong ít nhất khoảng 50.000 của phía Trung Quốc.[29][78] Nguồn của King Chen nói rằng riêng tại các bệnh viện lớn ở Quảng Tây đã có ít nhất 30.000 thương binh Trung Quốc.[74] Tháng 4 năm 1979, Tạp chí Quân đội Nhân dân của Việt Nam ước lượng tổng thương vong của quân Trung Quốc là 62.500 người[79]. Phía Việt Nam có hàng nghìn dân thường chết và bị thương, theo tạp chí Time thì có khoảng dưới 10.000 lính Việt Nam thiệt mạng (con số này phía Trung Quốc là trên 20.000).[52] Phía Trung Quốc bắt được khoảng 1.600 tù binh trong tổng số hơn 50 ngàn quân Việt Nam tham chiến tại mặt trận Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn[80].
Theo tuyên bố của Việt Nam, kết quả chiến đấu của họ như sau:
Mặt trận Lạng Sơn: diệt 19.000 lính TQ, phá hủy 76 xe tăng, thiết giáp và 52 xe quân sự, 95 khẩu pháo-cối và giàn phóng hoả tiễn, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 4 tiểu đoàn (có hơi khác biệt so với kí sự Sư đoàn Sao Vàng).
Mặt trận Cao Bằng: diệt 18.000 lính TQ, phá hủy 134 xe tăng, thiết giáp và 23 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 7 tiểu đoàn.
Mặt trận Hoàng Liên Sơn (Lào Cai): diệt 11.500 lính TQ, phá hủy 66 xe tăng, thiết giáp và 189 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn.
Mặt trận Quảng Ninh, Lai Châu và Hà Tuyên: diệt 14.000 lính TQ, phá hủy 4 xe tăng, thiết giáp, 6 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn
Cuộc chiến cũng đã gây ra những thiệt hại nặng nề về kinh tế cho Việt Nam: các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường bị hủy diệt hoàn toàn, 320/320 xã, 735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, bệnh xá, 41/41 nông trường, 38/42 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 80.000 ha hoa màu bị tàn phá, 400.000 gia súc bị giết và bị cướp.[81] Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh sống. Để nhận được tăng cường viện trợ từ phía Liên Xô, từ 27 tháng 3 năm 1979, Việt Nam quyết định cho tàu quân sự Liên Xô đóng ở cảng Cam Ranh.[82] Về phía Bắc Kinh, cuộc chiến ngắn ngày đã tiêu tốn của nước này khoảng 1,3 tỷ USD và làm ảnh hưởng lớn tới quá trình cải tổ kinh tế.[83]
Về lâu dài, nó mở đầu cho hơn 10 năm căng thẳng trong quan hệ và xung đột vũ trang dọc biên giới giữa hai quốc gia, buộc Việt Nam phải thường xuyên duy trì một lực lượng quân sự khổng lồ dọc biên giới, gây hậu quả xấu đến nền kinh tế. Sinh hoạt và sản xuất của người dân vùng biên giới bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Ngoài ra, nhiều cột mốc biên giới cũng bị quân Trung Quốc phá hủy, gây khó khăn cho việc hoạch định biên giới sau này.
[sửa]Đánh giá
Cả Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chiến thắng.
Phía Trung Quốc: Đặng Tiểu Bình khẳng định mặc dù có một số thất bại về quân sự nhưng Trung Quốc "đã đạt được chiến thắng về chính trị và chiến thắng chung cuộc". Ông còn khẳng định quân Trung Quốc "đã có thể tiến thẳng tới Hà Nội nếu muốn". Quan điểm ít phổ biến hơn là của Trần Vân (Phó Thủ tướng, một trong 5 nhân vật quan trọng nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng với Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai và Chu Đức) rằng việc chiếm được Hà Nội không phục vụ được mục đích gì, cuộc chiến sẽ có chi phí nặng nề quá sức chịu đựng nếu kéo dài thêm 6 tháng nữa, và vì lý do tài chính không nên lặp lại một cuộc chiến không phân thắng bại như vậy.[74]
Theo đánh giá của tác giả King C. Chen[74], quân Trung Quốc có lẽ đã đạt được 50-55% các mục tiêu có giới hạn của mình.[84] Bên cạnh thành công trong việc bám theo được khá sát các kế hoạch tiến quân và rút quân[84], quân Trung Quốc đã không đạt được kết quả như các mục tiêu đã công bố: họ đã không tiêu diệt được sư đoàn nào của Việt Nam; không chấm dứt được xung đột có vũ trang tại vùng biên giới; không buộc được Việt Nam rút quân khỏi Campuchia[85]; không gây được ảnh hưởng lên chính phủ Việt Nam trong vấn đề Hoa kiều[86]. Điểm yếu của quân Trung Quốc là vũ khí và phương tiện lạc hậu. Ngoài ra, họ đánh giá thấp sức mạnh quân sự của Việt Nam.[87] Sự thiếu kinh nghiệm chiến đấu và tinh thần kém cũng nằm trong các điểm yếu của quân Trung Quốc[85].
Về quân sự, tác giả Edward C. O'Dowd[88] đánh giá rằng quân Trung Quốc đã thể hiện trình độ chiến đấu kém trong cuộc chiến. Tại Lạng Sơn, 2 quân đoàn Trung Quốc đã bị một trung đoàn Việt Nam cầm chân trong 1 tuần, một quân đoàn khác cần 10 ngày để lấy Lào Cai và Cam Đường - hai đô thị cách biên giới không đến 15 km. Trung Quốc chiếm Cao Bằng vất vả đến mức cần ít nhất 2 quân đoàn để tiếp tục tấn công một thị xã mà Trung Quốc tuyên bố đã chiếm được. Tại Quảng Ninh, một trung đội Việt Nam đã cầm chân 5 tiếng đồng hồ một trung đoàn Trung Quốc đang trên đường chiếm núi Cao Ba Lanh giáp biên giới, gây thương vong cho 360 trong quân số 2800 của trung đoàn này. Những tổn thất nhân mạng như vậy lặp lại trên toàn mặt trận và đem lại ít hiệu quả. Quân Trung Quốc đã không sử dụng được số quân đông một cách hiệu quả bằng các chiến thuật thích hợp và do đó không thể đạt được tốc độ hành binh như mong muốn của chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" (速战速决 tốc chiến tốc quyết). Đây là hậu quả của sự lạc hậu về chiến thuật tác chiến của quân đội Trung Quốc vốn gần như không được cải thiện kể từ sau chiến thuật biển người ở chiến tranh Triều Tiên những năm 1950. Thất bại về mặt chiến thuật đã buộc Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa quân đội nước này.[89]
Trên phương diện quan hệ quốc tế, cuộc chiến Việt-Trung cho thấy rằng Trung Quốc, với sự ủng hộ từ phía Hoa Kỳ, sẵn sàng can thiệp quân sự vào Việt Nam - một quốc gia cộng sản từng là đồng minh trong nhiều năm, kết quả chiến tranh cũng cho thấy Việt Nam đủ sức chống lại sự can thiệp quân sự đó mà không phải điều động quân chủ lực từ biên giới Tây Nam và miền Nam Việt Nam. Những sự kiện từ cuộc chiến cho thấy mối quan hệ ngoại giao phức tạp Liên Xô - Trung Quốc - Việt Nam với kết quả là Trung Quốc không thể tung toàn bộ lực lượng vào cuộc chiến nhằm "dạy cho Việt Nam một bài học" vì chịu sức ép từ phía Liên Xô, đồng thời Liên Xô cũng không sẵn sàng tung quân đội vào tham chiến bảo vệ đồng minh mà chỉ tập trung viện trợ kinh tế, quân sự.[90] Kết quả cuộc chiến cũng cho thấy Trung Quốc bất lực trong việc hỗ trợ đồng minh Khmer Đỏ trong cuộc chiến với Việt Nam và thất bại trong việc điều chỉnh quan hệ ngoại giao để tăng cường ảnh hưởng ở khu vực Đông Nam Á.[29][78]
Nhiều quan điểm khác cho rằng Trung Quốc đã thất bại về quân sự nhưng lại đạt được một số thành công về chiến lược, trong đó có việc chứng tỏ cho các nước Đông Nam Á rằng họ sẵn sàng dùng vũ lực nếu vị thế và uy lực của mình bị thách thức.[32]
[sửa]Hậu chiến
Bài chi tiết: Xung đột biên giới Việt Nam-Trung Quốc 1979-1990 và Vấn đề lãnh thổ biên giới Việt Nam-Trung Quốc
Khi quân Trung Quốc rút khỏi Việt Nam tháng 3 năm 1979, Trung Quốc tuyên bố họ không tham vọng dù "chỉ một tấc đất lãnh thổ Việt Nam" [91]. Trên thực tế, quân Trung Quốc chiếm đóng khoảng 60km2 lãnh thổ[92] có tranh chấp mà Việt Nam kiểm soát trước khi chiến sự nổ ra. Tại một số nơi như khu vực quanh Hữu Nghị Quan gần Lạng Sơn, quân Trung Quốc chiếm đóng các lãnh thổ không có giá trị quân sự nhưng có giá trị biểu tượng quan trọng. Tại các nơi khác, quân Trung Quốc chiếm giữ các vị trí chiến lược quân sự làm bàn đạp để từ đó có thể tiến đánh Việt Nam[93].
Việc Trung Quốc chiếm đóng các lãnh thổ biên giới làm cho Việt Nam căm giận, và giữa hai phía nổ ra một loạt trận giao tranh nhằm giành quyền kiểm soát các khu vực đó. Xung đột biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn tiếp diễn cho đến năm 1988, lên cao vào các năm 1984-1985.[94] Trong tháng 5-6 năm 1981, quân Trung Quốc mở cuộc tấn công vào đồi 400 (mà Trung Quốc gọi là Pháp Tạp Sơn - 法卡山) ở huyện Cao Lộc, Lạng Sơn,[95] xa hơn về phía tây, quân Trung Quốc cũng vượt biên giới đánh vào các vị trí quanh đồi 1688 ở tỉnh Hà Tuyên. Giao tranh diễn ra hết sức đẫm máu với hàng trăm người thuộc cả hai bên thiệt mạng.[96] Tới năm 1984, quân Trung Quốc lại dùng nhiều tiểu đoàn mở các đợt tấn công lớn vào Lạng Sơn. Đặc biệt tại Hà Tuyên, trong tháng 4-tháng 7 năm 1984, quân Trung Quốc đánh vào dải đồi thuộc huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang mà Trung Quốc gọi là Lão Sơn. Quân Trung Quốc chiếm một số ngọn đồi thuộc dải đồi này, giao tranh kéo dài dằng dai, nhưng không có nơi nào quân Trung Quốc tiến sâu được hơn vào lãnh thổ Việt Nam quá 5km, dù quân đông hơn nhiều[97].
Cuộc chiến năm 1979 cho Trung Quốc thấy sự lạc hậu của vũ khí cũng như chiến thuật mà quân đội nước này sử dụng, do đó, sau cuộc chiến là bắt đầu của một cuộc cải cách và hiện đại hóa mạnh đối với Quân giải phóng Trung Quốc, ngày nay công cuộc hiện đại hóa này vẫn tiếp tục.[98] Ảnh hưởng trực tiếp có thể thấy là ngân sách dành cho quốc phòng của Trung Quốc tăng từ 15% năm 1978 lên 18% năm 1979[99].
Quan hệ xấu với Trung Quốc đã làm Việt Nam đã phải trả một cái giá rất đắt.[32] Việc Trung Quốc duy trì áp lực quân sự tại vùng biên giới trong suốt mười năm sau đó buộc Việt Nam cũng phải duy trì lực lượng phòng thủ lớn ở biên giới và miền Bắc[32]. Cùng với việc bị sa lầy với chiến sự dai dẳng ở Campuchia mà Trung Quốc muốn kéo dài[100], Việt Nam bị cô lập trong mười năm đó trên trường quốc tế.[32] Nền kinh tế yếu kém và bị Mỹ cấm vận phải căng ra duy trì một lực lượng quân đội lớn, và phải phụ thuộc vào sự giúp đỡ của Liên Xô. Sau năm 1979, tình hình kinh tế miền Bắc Việt Nam tệ hại đi rất nhiều so với thời kỳ trước đó.[32] Trong khi đó, Trung Quốc phát triển mạnh từ năm 1978 do công cuộc cải tổ kinh tế của Đặng Tiểu Bình. 7 năm sau chiến tranh biên giới, Việt Nam mới bắt đầu thời kì Đổi Mới, khi đó đã chậm hơn Trung Quốc 8 năm.
Sau khi Liên Xô tan rã và Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, đến năm 1992 quan hệ giữa hai nước mới được bình thường hóa chính thức.
Từ khi quan hệ ngoại giao giữa hai nước được cải thiện, cuộc chiến hầu như không còn được nhắc đến trong các phương tiện truyền thông đại chúng, không được nói đến trong sách giáo khoa lịch sử ở Trung Quốc[31] và một cách hạn chế tại SGK của Việt Nam. Tại Trung Quốc, các phương tiện truyền thông gần như lãng quên nó, các tuyển tập bài hát không còn in các ca khúc nói về cuộc chiến, sách nghiên cứu viết về cuộc chiến bị từ chối xuất bản, đa số cựu chiến binh từng tham gia cuộc chiến không muốn nhắc đến nó.[31] Ở Việt Nam, một số ca khúc có nội dung về cuộc chiến, ví dụ "Chiến đấu vì độc lập tự do" của Phạm Tuyên, không còn được lưu hành trên các phương tiện truyền thông chính thống, đó là theo một thỏa thuận giữa Việt Nam và Trung Quốc nhằm bình thường hóa hoàn toàn quan hệ giữa hai nước.[101] Chính phủ Việt Nam để ý chặt chẽ các nội dung báo chí liên quan đến quan hệ Việt - Trung[102], và báo chí hầu như không nhắc đến cuộc chiến. Theo giải thích của ông Dương Danh Dy, cựu Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh, thì Việt Nam "không nói lại chuyện cũ là vì nghĩa lớn, chứ không phải vì chúng ta không có lý, không phải vì người Việt Nam sợ hãi hay chóng quên"[26]. Khi được hỏi về cuộc chiến từ 30 năm trước, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói rằng từ nhiều năm trước lãnh đạo hai nước đã "thỏa thuận bỏ lại quá khứ và mở ra tương lai".[103]
Năm 2009, 30 năm sau cuộc chiến, Việt Nam và Trung Quốc hoàn thành việc cắm 1971 mốc phân định biên giới[104] sau khi hai chính phủ kí kết hiệp định biên giới, kết thúc đàm phán về các khu vực tranh chấp dọc biên giới.
[sửa]Phản ánh trong văn nghệ
[sửa]Việt Nam
Chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 đã được nhắc tới trong hai bộ phim Đất mẹ (1980) của đạo diễn Hải Ninh và Thị xã trong tầm tay (1982) của đạo diễn Đặng Nhật Minh.[105][106][107] Với câu chuyện về chuyến đi của một phóng viên lên Lạng Sơn tìm người yêu trong thời gian chiến tranh biên giới nổ ra, Thị xã trong tầm tay - tác phẩm đầu tay của đạo diễn Đặng Nhật Minh đã giành giải Bông sen vàng tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 6, và nằm trong cụm tác phẩm của ông được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt III năm 2005.[107][108] Năm 1982, một bộ phim tài liệu với tựa đề Hoa đưa hương nơi đất anh nằm do Trường Thanh thực hiện để nói về một nhà báo người Nhật chết trong thời gian đưa tin chiến tranh biên giới, bộ phim này sau đó đã được đánh giá cao ở Nhật Bản.[109] Trong thời gian chiến tranh biên giới nổ ra và những năm sau đó, hàng loạt bài hát Việt Nam về đề tài chiến tranh và bảo vệ tổ quốc cũng ra đời như Chiến đấu vì độc lập tự do của nhạc sĩ Phạm Tuyên, Lời tạm biệt lúc lên đường của nhạc sĩ Vũ Trọng Hối, Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận của nhạc sĩ Hồng Đăng, Những đôi mắt mang hình viên đạn của nhạc sĩ Trần Tiến và Hát về anh của nhạc sĩ Thế Hiển.[101]. Về văn học có tiểu thuyết Đêm tháng Hai (1979) của Chu Lai và Chân dung người hàng xóm] (1979) của Dương Thu Hương.
[sửa]Trung Quốc
[sửa]Trung Quốc đại lục
Khải hoàn giữa đêm khuya [凯旋在子夜 Khải hoàn tại tý dạ] (Kịch truyền hình)
Vòng hoa dưới núi cao [高山下的花环 Cao sơn hạ để hoa hoàn] (Phim truyện).
Đội biệt kích Hắc Báo [黑豹突击队 Hắc Báo đột kích đội] (Kịch truyền hình)
Phong thái nhuốm máu [血染的风采 Huyết nhiễm để phong thái] (Ca khúc). Với nội dung ban đầu là tưởng niệm các binh sĩ Trung Quốc chết trong cuộc chiến, Phong thái nhuốm máu sau này lại được dùng rộng rãi để tưởng niệm những người đã chết trong Sự kiện Thiên An Môn.[110]
Trăng rằm [十五的月亮 Thập ngũ để nguyệt lượng] (ca khúc)
Xe thiết giáp 008 [铁甲008 Thiết giáp linh bát bát] (Phim truyện)
Tân binh Mã Cường [新兵马强 Tân binh Mã Cường] (Phim truyện)
Nhành hoa đẹp [花枝俏 Hoa chi tiếu]] (Phim truyện)
Hàng động chớp nhoáng [闪电行动 Thiểm điện hành động] (Phim truyện)
Trận chiến ở núi Trường Bài [长排山之战 Trường Bái sơn để chiến] (Phim truyện)
Cây tương tư ở bãi mìn [雷场相思树 Lôi trường tương tư thụ] (Phim truyện)
Tiểu thuyết Ma chiến hữu (1992) của Mạc Ngôn. Tác phẩm có "cách nhìn khác về chủ nghĩa anh hùng" và nói đến "những điều ngớ ngẩn và phi lý" của cuộc chiến.[111]
[sửa]Hồng Kông
Phim Câu chuyện của Hồ Việt [胡越的故事 Hồ Việt để cố sự] (Chu Nhuận Phát vào vai nạn dân Việt Nam Hồ Việt, Chung Sở Hồng vào vai nạn dân Việt Nam Thẩm Thanh Đẳng.
Phim Đồng chí thương dân (爱人同志 Ái dân đồng chí) (Lưu Đức Hoa vào vai phóng viên Hương Cảng, Chung Sở Hồng vào vai phiên dịch viên Việt Nam, Thành Khuê An vào vai chiến sĩ Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc bị Việt Nam bắt làm tù binh)
Ca khúc Đó là yêu (这是爱 Giá thị ái) (nguyên tác của Teddy Robin, Hạ Âm Thanh, Trương Quốc Vinh vân vân dịch lời.
[sửa]Chú thích
^ a b c d e Zhang Xiaoming, "China's 1979 War with Vietnam: A Reassessment", China Quarterly, Issue no. 184 (December 2005), trang 851-874. Zhang cho biết: "Các tài liệu hiện hữu ước tính khoảng 25.000 quân Trung Quốc bị chết và 37.000 bị thương. Các nguồn gần đây từ Trung Quốc đánh giá có khoảng 6.900 chết và 15.000 bị thương, tổng số là 21.900 thương vong trên tổng số 300.000 quân tham chiến."
^ a b Bùi Xuân Quang, tr. 429
^ a b c Clodfelter, Michael. Vietnam in Military Statistics: A History of the Indochina Wars, 1772–1991 (McFarland & Co., Jefferson, NC, 1995) ISBN 0-7864-0027-7. Clodfelter cho rằng 20.000 quân Trung Quốc chết trận là con số "khả dĩ".
^ (tiếng Trung) “中越战争三十周年之际 两国关系发展令人关注”, Radio France Internationale, 17 tháng 2 năm 2009. Truy cập 18 tháng 2 năm 2009.
^ Xem các nguồn Edward C. O'Dowd, Bùi Xuân Quang, Laurent Cesari, Gilles Férier.
^ a b Edward C. O'Dowd, tr. 40
^ Lưu Văn Lợi. Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ-Kissinger tại Paris. NXB Công an nhân dân. Hà Nội. 2002. trang 312
^ a b Nayan Chanda, tr. 134
^ Edward C. O'Dowd, tr. 41
^ a b Edward C. O'Dowd, tr. 44
^ a b Nayan Chanda, tr. 212
^ Ví dụ các chuyến thăm của Võ Nguyên Giáp (Nayan Chanda, tr. 92), Phạm Văn Đồng năm 1977 (Nayan Chanda, tr. 93) nhằm xoa dịu quan hệ với Trung Quốc, các chuyến đi của Phan Hiền đề nghị Trung Quốc giúp đỡ trong đàm phán với Campuchia
^ Laurent Cesari, tr. 256
^ Nayan Chanda, tr. 88.
^ a b Evans và Rowley, tr. 51
^ Nguyễn Khắc Viện (1999). Vietnam, une longue histoire. Harmattan. 424. ISBN 2-7384-8503-0.
^ Laurent Cesari, tr. 255
^ Laurent Cesari, tr. 255
^ a b c d e f g “A War of Angry Cousins”. Tạp chí Time (5 tháng 3 năm 1979). Truy cập 16 tháng 2 năm 2009.
^ Nayan Chanda, tr. 134-135
^ Edward C. O'dowd, tr. 43
^ Laurent Cesari, tr. 251
^ François Joyaux, tr. 282
^ D. Rancic, Politika (Belgrade), 8 tháng 3 1979, trang 1, FBIS, Số 51, trang A17- A1
^ China's "Punitive" War on Vietnam: A Military Assessment, Harlan W. Jencks, Asian Survey, Vol. 19, No. 8 (Aug., 1979), trang 801-815
^ a b c d e “Nhớ lại đêm 17 tháng 2 năm 1979”. BBC (16 tháng 2 năm 1999).
^ Laurent Cesari, tr. 256
^ “A Country Study: Vietnam - Foreign Relations - China”. Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ (tháng 12 năm 1987). Truy cập 24 tháng 2 năm 2009.
^ a b c d e f g François Joyaux, tr. 240
^ Laurent Cesari, tr. 262
^ a b c Howard W. French, Malipo Journal; Was the War Pointless? China Shows How to Bury It, The New York Times, 1 tháng 3 năm 2005, truy nhập ngày 3/11/2008.
Howard W. French, In China, a war's memories are buried, International Herald Tribute, 2 tháng 3 năm 2005
^ a b c d e f Trọng Nghĩa, “30 năm sau cuộc chiến tranh biên giới, hai chính quyền muốn xòa nhòa quá khứ”, RFI, 16 tháng 2 năm 2009. Truy cập 17 tháng 2 năm 2009.
^ Comrade B on the Plot of the Reactionary Chinese Clique Against Vietnam, Thư viện Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1979. Christopher Goscha dịch ra tiếng Anh cho CWIHP, Woodrow Wilson International Center for Scholars. [1]
Lời của Lê Duẩn năm 1979: Bản dịch tiếng Anh: Vietnam is resolved not to allow the Chinese to carry out their expansionist scheme. The recent battle [with China] was one round only....The Chinese now have a plot to attack [us] in order to expand southwards (Dịch ngược: Việt Nam quyết tâm không cho phép Trung Quốc thực hiện kế hoạch bành trướng. Trận chiến vừa rồi [với Trung Quốc] mới chỉ là hiệp đầu... Hiện Trung Quốc có một âm mưu tấn công [chúng ta] để bành trướng về phía Nam)
^ a b Bùi Xuân Quang, tr. 424
^ Lê Mậu Hãn (chủ biên) (2001). Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập III, 1945-2000. Hà Nội: NXB Giáo dục.
^ Edward C. O'dowd, có khoảng 80 ngàn dân quân các huyện phía nam Vân Nam và Quảng Tây được huy động, hàng vạn dân công cũng được huy động, trang 131-133
^ Lê Xuân Khoạ (2004). Việt Nam 1945-1995. Bethesda, MD: Tiên Rồng. 211.
^ Edward C. O'Dowd, tr. 54
^ Bùi Xuân Quang, tr. 421
^ Nayan Chanda, tr. 350
^ Laurent Cesari, tr. 264
^ Laurent Cesari, tr. 265
^ François Joyaux, tr. 239
^ Bruce Elleman (20 tháng 4 năm 1996). “Sino-Soviet Relations and the February 1979 Sino-Vietnamese Conflict”. 1996 Vietnam Symposium - Vietnam Center and Archive, Texas Tech University. Truy cập 16 tháng 2 năm 2007.
^ Mark A. Ryan, tr. 226-228
^ Mark A. Ryan, tr. 230
^ Laurent Cesari, tr. 265
^ a b King C. Chen, tr. 106
^ a b Lịch sử Sư đoàn 3 Sao vàng, Chương 7, Mục 2: Ngày 17 tháng 2.
^ a b c King C. Chen, tr. 107
^ a b c d King C. Chen, tr. 108
^ a b c d “30 Yrs. After the China-Vietnam Border War”. Tạp chí Time. Truy cập 17 tháng 2 năm 2009.
^ Lịch sử Sư đoàn 3 Sao vàng, Chương 7, Mục 3: Những điểm cao bất tử.
^ a b c King C. Chen, tr. 109
^ a b c d e Lịch sử Sư đoàn 3 Sao vàng, Chương 7, Mục 4: Trước cửa ngõ thị xã Lạng Sơn.
^ a b c King C. Chen, tr. 110
^ Laurent Cesari, tr. 266
^ a b c d King C. Chen, tr. 111
^ a b Huy Đức (9 tháng 2 năm 2009). Biên Giới Tháng Hai (2009-1979). Báo Sài Gòn Tiếp Thị. 6.
^ Edward O'dowd, trang 65
^ a b Nayan Chanda, trang 93
^ Edward C. O’Dowd, trang 134
^ Edward C. O’Dowd, trang 134-135, 137: Theo tài liệu của Trung Quốc: đơn vị 56041 (một trung đoàn bộ binh của Sư đoàn 149, Quân đoàn 13, Quân khu Thành Đô) tại Lào Cai và đơn vị 33762 (một trung đoàn thuộc quân khu Vũ Hán) đã thực hiện tốt chính sách dân vận.
^ a b Nayan Chanda, trang 358
^ Edward C. O’Dowd, trang 137
^ a b Edward C. O’Dowd, trang 138
^ Edward C. O’Dowd, trang 140-141
^ Edward C. O’Dowd, trang 141-142
^ Edward C. O’Dowd, trang 69
^ Edward C. O’Dowd, trang 142
^ Nayan Chanda, tr. 359
^ Laurent Cesari, tr. 266
^ a b King C. Chen, tr. 112
^ a b c d King C. Chen, tr. 113
^ Gilles Férier, tr. 148
^ Theo "Lịch sử pháo binh Quân đội Nhân dân Việt Nam" - Tập 2, NXB Quân đội Nhân dân, 1999, khoảng 19% số pháo Việt Nam tham chiến bị quân Trung Quốc chiếm
^ Russell D. Howard (tháng 9 năm 1999). “THE CHINESE PEOPLE’S LIBERATION ARMY: "SHORT ARMS AND SLOW LEGS"”. Học Viện An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, Học viện Quân sự Hoa Kỳ ở Colorado. Truy cập 24 tháng 2 năm 2009.
^ a b Pierre Gentelle, ed (1989). l'Etat de la Chine. Paris: Editions la décoverte. 411. ISBN 2-7071-1877-X.
^ Edward O'Dowd, tr. 45.
^ Edward C. O’Dowd, trang 103
^ Gilles Férier, tr. 148
^ Laurent Cesari, tr. 266
^ Marie-Claire Bergère (2000). La Chine de 1949 à nos jours. Paris: Armand Colin. 244. ISBN 2-200-25123-8.
^ a b King C. Chen, tr. 114
^ a b King C. Chen, tr. 115
^ King C. Chen, tr. 116
^ Cuối tháng 12 năm 1978, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc Túc Dụ (粟裕) báo cáo tại Kì họp thứ 3 của Đảng Cộng sản Trung Quốc rằng chỉ cần dùng một phần lực lượng của các quân khu Quảng Châu và Côn Minh là đủ để đánh chiếm Hà Nội trong vòng 1 tuần. Trong thực tế, quân Trung Quốc đã cần 16 ngày với 10 sư đoàn từ 6 quân khu (lực lượng bằng tổng hai quân khu Quảng Châu và Côn Minh) để đánh chiếm thị xã Lạng Sơn cách Hà Nội 85 dặm. Nguồn: Chen, tr. 114
^ Edward C. O'Dowd (2007). Chinese Military Strategy in the Third Indochina War: The Last Maoist War. Routledge., tr. 46
^ Laurent Cesari, tr. 266
^ Gilles Férier, tr. 149
^ Nayan Chanda (16 tháng 3 năm 1979). End of the Battle but Not of the War. Far Eastern Economic Review. 10.. Chanda trích lời quan chức Trung Quốc tuyên bố rút lui ngày 5 tháng 3 năm 1979
^ O’Dowd, trang 91
^ Nayan Chanda (16 tháng 3 năm 1979). End of the Battle but Not of the War. Far Eastern Economic Review. 10.. trang 10. Khu vực có giá trị tượng trưng tinh thần nhất là khoảng 300m đường xe lửa giữa Hữu Nghị Quan và trạm kiểm soát biên giới Việt Nam.
^ François Joyaux, tr. 242
^ Associated Press. “AROUND THE NATION; China Reports Repelling Vietnamese 'Invaders'”. New York Times.
^ Carlyle A. Thayer, tr. 6–7.
^ O’Dowd, trang 100
^ Terry McCarthy, “PINGXIANG: Border War, 1979. A Nervous China Invades Vietnam”, 09/27/1999.
^ "Contending Explanations of the 1979 Sino-Vietnamese War", Bruce Burton, International Journal, Vol. 34, No. 4, China: Thirty Years On (Autumn, 1979), trang 699-722
^ Trong khi Trung Quốc công khai đòi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, tháng 12 năm 1979, Đặng Tiểu Bình đã nói với Thủ tướng Nhật Bản Masayoshi Ohira rằng "Trung Quốc nên giữ chân Việt Nam ở Campuchia vì như vậy họ sẽ phải chịu đựng khổ sở ngày càng nhiều và sẽ không thể với tay tới Thái Lan, Malaysia, và Singapore. Đó là hành động khôn ngoan." Nayan Chanda, tr. 379.
^ a b Đoan Trang, “Những bài ca biên giới không thể nào quên”, Tuần ViệtNamNet, 16 tháng 2 năm 2009. Truy cập 16 tháng 2 năm 2009.
^ Nga Pham, “Vietnam tense as China war is marked”, BBC News, 16 tháng 2 năm 2009. Truy cập 17 tháng 2 năm 2009.
^ “Foreign Ministry Spokesperson Jiang Yu's Regular Press Conference on 17 tháng 2 năm 2009”. Bộ Ngoại giao Trung Quốc (18 tháng 2 năm 2009). Truy cập 21 tháng 2 năm 2009.
^ Tạp chí Cộng sản Hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam và Trung Quốc(Cập nhật: 27/2/2009)
^ Nam Nguyễn (24 tháng 12 năm 2005). “Cha - con và chiến tranh”. Tạp chí Tia sáng. Truy cập 21 tháng 2 năm 2009.
^ “Dũng "6 trong 1": Ai xin đồ cổ tôi cho”. VTC (25 tháng 4 năm 2006). Truy cập 21 tháng 2 năm 2009.
^ a b Ngọc Trần. “Đặng Nhật Minh vui buồn với bình chọn của CNN”. VnExpress. Truy cập 21 tháng 2 năm 2009.
^ “NSND Đặng Nhật Minh giản dị mà bí ẩn”. VnExpress (7 tháng 1 năm 2006). Truy cập 21 tháng 2 năm 2009.
^ Nguyễn Duy Chiến (23 tháng 6 năm 2008). “Thăm một nhà văn vừa... mãn hạn tù treo”. Tiền Phong Online. Truy cập 21 tháng 2 năm 2009.
^ “Bloodstained Glory sung by Helena Hung”. Ân xá Quốc tế tại Anh. Truy cập 23 tháng 2 năm 2009.
^ Mạc Ngôn (2008). Ma Chiến hữu. Phương Nam/NXB Văn học. 200.
[sửa]Tham khảo
Tiếng Việt
Nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân (1980), Lịch sử Sư đoàn 3 Sao vàng
Tiếng Anh
Colonel G.D. Bakshi (Tháng 11, 12 năm 2000). The Sino-Vietnam War-1979: Case Studies in Limited Wars. Volume 3(3). Bharat Rakshak Monitor.
Nayan Chanda (1986). Brother Enemy. The War after the War.. Harcourt Brace Jovanovich. ISBN 0-15-114420-6.
King C. Chen (1987). China's War with Vietnam, 1979: Issues, Decisions, and Implications. Hoover Press. ISBN 0817985727.
Grant Evans, Kelvin Rowley (1984). Red Brotherhood at War - Indochina since the Fall of Saigon. London: Verso. ISBN 0860910903.
Bruce Elleman (20 tháng 4 năm 1996). “Sino-Soviet Relations and the February 1979 Sino-Vietnamese Conflict”. 1996 Vietnam Symposium - Vietnam Center and Archive, Texas Tech University. Truy cập 16 tháng 2 năm 2007.
Nguyen Huu Thuy (1979). Chinese Aggression : How and Why it failed. NXB Ngoại ngữ.
Edward C. O'dowd (2007). Chinese Military Strategy in the Third Indochina War. Routledge. ISBN 9780415414272.
Mark A. Ryan , David Michael Finkelstein, Michael A. McDevitt (2003). Chinese Warfighting: The Pla Experience Since 1949. M.E. Sharpe. ISBN 0765610876.
Carlyle A. Thayer, Security Issues in Southeast Asia: The Third Indochina War, Conference on Security and Arms Control in the North Pacific, Australian National University, Canberra, August 1987.
Odd Arne Westad (2006). The Third Indochina War conflict between China, Vietnam and Cambodia, 1972-79. London ; New York : Routledge. ISBN 9780415390583.
Tiếng Pháp
Bùi Xuân Quang (2000). La troisième guerre d'Indochine, 1975-1999 sécurité et géopolitique en Asie. Harmattan. ISBN 2738491847.
Laurent Cesari (1995). L'Indochine en guerres 1945-1993. Paris: Belin. ISBN 2-7011-1405-5.
Gilles Férier (1993). Les trois guerres d'Indochine. Lyon: Presse universitaire de Lyon. ISBN 2-7297-0483-3.
François Joyaux (1994). La Tentation impériale - Politique extérieure de la Chine depuis 1949. Paris: Imprimerie nationale. ISBN 2-11-081331-8.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)