Thứ Tư, 19 tháng 1, 2011

MỘT CÁI NHÌN VỀ NHẠC TIỀN CHIẾN

Thử tìm một dấu mốc
Âm nhạc, cũng như thơ, hội họa, tiểu thuyết không bùng lên trong một ngày, và cũng không ra đi, chấm dứt trong một ngày để hôm trước còn là một nền Nhạc hùng, vang vọng tiếng quân hành và ngày hôm sau, là những âm thanh lãng mạn chứa chất tình yêu trữ tình.

Bởi thế khó mà có thể định được một nền nhạc, một khuynh hướng nhạc bắt đầu chính xác từ lúc nào. Nó có những khoảng lấn sang phía sau, nó có những khoảng còn vương lại từ phía trước.

Nhạc tiền chiến, danh từ này xuất hiện từ lúc nào và ai là người dùng nó lần đầu tiên? Ðây là những câu hỏi khó trả lời.
Nhưng có điều chắc là danh từ Nhạc tiền chiến phải ra đời sau khi cuộc chiến Ðông Dương thứ nhất chấm dứt với sự chia cắt đất nước. Nó ra đời sau khi có một phân định văn học, gọi sinh hoạt chữ nghĩa của giai đoạn trước ngày chiến cuộc bùng nổ là văn học tiền chiến, lấy năm 1945 là cái mốc để nhìn về trước và cũng là điểm đế nhìn về phía sau. Ðó là năm cuộc chiến Ðông Dương bắt đầu đồng thời nó cũng chấm dứt một giai đoạn tương đối yên bình của xã hội Việt Nam.

Các sinh hoạt văn học như tiểu thuyết, thơ trong những năm trước 1945 được gọi là văn học tiền chiến, các nhà văn, nhà thơ hoạt động trong những năm này là các nhà văn, nhà thơ tiền chiến.

Và khi đã có một dòng văn học được đặt tên cho là văn học tiền chiến thì việc gọi những sinh hoạt âm Nhạc trong cùng giai đoạn đó là Nhạc tiền chiến là điều sẽ phải xẩy ra. Lê Thương, một trong những Nhạc sĩ đi đầu của tân NhạcViệt Nam thì khẳng định đó là thời gian giữa những năm 1938 và 1945 [1].
Những bước đầu

Ảnh hưởng của văn hóa Pháp bắt đầu bén rễ khá vững từ năm 1930. Trước đó, trong những năm từ 1900 đến 1930, là giai đoạn sửa son cho những sinh hoạtsau năm 1930, khi chữ quốc ngữ thật sự phát triển với những tác phẩm bước ra khỏi truyền thống văn học từ chương cũ viết bằng Hán văn. Các tiểu thuyết Tây phương, nói rõ hơn, là của Pháp từ năm 1925 cho đến những năm của thập niên 30 đã được giới thiệu, đưa tới độc giả Việt Nam và được ưa chuộng ngay. Trường Mỹ Thuật Ðông Dương được thành lập ở Hà Nội mở đầu cho một phong trào mới của các họa phẩm mang ảnh hưởng của Tây phương. Và trong khung cảnh này, là những bản Nhạc mới do các Nhạc sĩ Việt Nam sáng tác ra đời, để sau này mang tên là Nhạc tiền chiến.

Theo Phạm Duy, năm 1938 là một năm quan trọng vì đó là năm khai sinh ra lời Nhạc cải cách [2].
Các Nhạc sĩ Việt Nam sau một thời trình tấu các bài ta theo điệu Tây mà các Nhạc sĩ tiền phong như Tư Chơi Huỳnh Hữu Trung và Năm Châu Nguyễn Thành Châu đề xướng trong những năm 1933, 1934, muốn viết những bài hát hoàn toàn Việt Nam thay vì vay mượn Nhạc điệu của Tây .

Một trong những bài hát đầu tiên của lời Nhạc này là bài Kiếp Hoa của Nguyễn Văn Tuyên, một thanh niên sinh trưởng tại Huế, làm việc ti Sài Gòn, học Nhạclý và thanh Nhạcti Hội trường Philharmonique (3). Sáng tác đầu tay này được giới thiệu trên đài phát thanh Radio Indochine . Ðược trợ cấp của thống đốc Nam Kỳ Rivoalen, ông Tuyên đi diễn thuyết ở Huế, Hải Phòng, Hà Nội (tháng 4 năm 1938). ông Nguyễn văn Cổn làm việc cho Radio Indochine, một người ủng hộ và bảo trợ cho ông Tuyên đã đặt tên cho loi Nhạc này là âm Nhạc cải cách (Musique Renovée).

Ông Tuyên viết thêm bài Anh Hùng Ca, thơ của Nguyễn Văn Cổn và Bông Cúc Vàng phổ thơ của Nguyễn Quí Anh. Cùng với bài Kiếp Hoa, đó là ba ca khúc đầu tiên của tân NhạcViệt Nam. Chuyến du thuyết của ông được báo Tiếng Dân của Huỳnh Thúc Kháng và Ngày Nay của Tự Lực Văn Ðoàn hết lòng ca ngợi và trân trọng giới thiệu. Báo Ngày Nay sau đó còn cho đăng tải những tác phẩm đầu của nền Nhạc mới.
Ảnh hưởng của Nhạc Tây phương

Bứt đi từ âm Nhạc dựa trên ngũ cung cổ truyền Việt Nam, các Nhạc sĩ trong giai đoạn đầu của tân Nhạc Việt bị ảnh hưởng sâu đậm bởi Nhạc Tây phương qua việc sử dụng các Nhạc khí Tây phương như dương cầm, Tây Ban cầm, vĩ cầm và các loi kèn. Một số học sử dụng các Nhạc khí này với các Nhạc sĩ Pháp, trong các ban quân nhạc, và qua các ca Nhạcđoàn của nhà thờ.

Hầu hết các Nhạc sĩ sáng tác thế hệ đầu của tân Nhạc Việt không được học đến nơi đến chốn về âm NhạcTây phương. Nhạc viện Viễn Ðông mở cửa ti Hà Nội năm 1927 nhưng năm 1930 phải đóng cửa vì những khó khăn kinh tế của thế giới thời đó. Nhiều người học với các Nhạc sĩ Pháp, Nga hay Phi Luật Tân. Số khác học sáng tác qua các lớp hàm thụ của Sinat.
Ngay từ những năm sau đệ nhất thế chiến, một số bài hát của Pháp đã bắt đầu đến với người Việt, từ những xuất hát cải lương ở miền nam với hai ban nhạc, một cổ truyền, một sử dụng Nhạckhí Tây phương cho đến những người hát rong ngoài đường trình tấu các ca khúc mang từ mẫu quốc sang [4]. Các ca khúc này được thanh niên thời đó đón nhận nồng nhiệt cùng với tất cả các mốt quần áo, sách vở, báo chí Pháp ti các thành phố lớn.

Các giọng ca của Edith Piaf, Maurice Chevalier, Tino Rossi, Josephine Baker ... những bài hát như J'ai Deux Amours, La Marinella, Ma Petite Tonkinoise ... là những ca khúc trên môi của các thanh niên Tây học thời đó. Ở Hà Nội lúc ấy có cả một hội ái mộ Tino Rossi, Hội ái Tino ...

Tuy nhiên vào thời đó, phương tiện truyền bá những bản Nhạc này vẫn còn quá ít, và máy thu thanh vẫn còn ở ngoài tầm tay của nhiều người. Chỉ những thành phần khá giả mới có được máy quay đĩa hay máy thu thanh để nghe những bản Nhạcnày. Tại các đài phát thanh Hà Nội, Huế, Sài Gòn, đâu đâu cũng nghe hát theo kiểu Tino Rossi. Các phòng trà, các hộp đêm ở các thành phố lớn cũng là những nơi giúp phổ biến NhạcPháp đến cho giới thanh niên mà thú giải trí không còn là đi hát ả đào nữa. Họ cũng tụ tập trước các tiệm bán đĩa hát để nghe các bài hát mới từ Pháp đưa sang.
Sự lan tràn của các ca khúc này, theo Lê Thương trong một bài viết nhan đề Thời Tiền Chiến Trong Tân nhạc, có một ảnh hưởng quan trọng. Ðó là công chúng chuộng cái mới, muốn quên lãng đi những cái gì không thay đổi trong Nhạccổ truyền.

Các Nhạc sĩ đi đầu

Ở Hà Nội trong những năm cuối của thập niên 30, Dương Thiệu Tước đã là một Nhạc sĩ nổi tiếng sử dụng Hạ Uy Cầm rất điêu luyện. Ông có một tiệm bán đàn và lớp dậy Hạ Uy cầm ở phố hàng Gai. Cùng với Thẩm Oánh, Trần Dư, Phạm Văn Nhường và Vũ Khánh, ông thành lập một ban Nhạc lấy tên là Myosotis. Lúc đầu, ban Nhạc chỉ trình diễn các ca khúc viết bằng tiếng Pháp như Joie D'Aimer, Souvenance , Ton Doux Sourire do Dương Thiệu Tước viết phần Nhạc và lời ca do Thẩm Bích, bào huynh của Thẩm Oánh viết.

Chuyến đi nói chuyện của Nguyễn Văn Tuyên với những ca khúc lời Việt của ông đã kích động các Nhạc sĩở Hà Nội như Thẩm Oánh, Văn Chung, Lê Yên, Trần Quang Ngọc đem các sáng tác mà các ông viết trước đó ra trình diễn trước công chúng lần đầu tiên. Ðó là những bài như Hồ Xuân, Khúc Yêu Ðương của Thẩm Oánh, Tâm Hồn Anh Tìm Em, Thuyền Mơ của Dương Thiệu Tước, Trên Thuyền Hoa, Bóng Ai Qua Thềm của Văn Chung.

Những ca khúc này được giới thưởng ngoạn ưa thích lập tức.
Nhóm Myosotis có hai chủ trương: Thẩm Oánh theo con đường trung dung. Trong bài viết đăng trong tạp chí Nhạc Việt số 5 đề ngày 16 tháng 10 năm 1948, ông cho rằng các ca khúc Việt Nam phải theo ý Nhạc Việt và phải có cảm tưởng thuần túy Á Ðông.

Trong khi đó, Dương Thiệu Tước thì chủ trương phải soạn theo âm điệu Tây phương hoàn toàn.

Người ta thấy là cả hai đã rất trung thành với chủ trương của mình. Thẩm Oánh rất Á Ðông. Dương Thiệu Tước đầy âm điệu khiêu vũ Tây phương.
Ngoài ra, từ năm 1938, nhóm Myosotis cũng đứng ra xuất bản các ca khúc mới, những bài như Ðôi Oanh Vàng, Hoa Tàn, Phút Vui Xưa... cùng những bản Nhạc không lời của Dương Thiệu Tước. Các ca sĩ nổi tiếng như ái Liên và Kim Thoa được hãng đĩa Beka thuê thu thanh các bài hát này trên đĩa hát 78 vòng.

Một nhóm khác tên là Tricea gồm 7 người, trong đó có Văn Chung, Lê Yên và Dzoãn Mẫn (mới đây, trong một bài viết về ông ở Hà Nội của Yên Ba, tên ông được ghi là Doãn Mẫn, không có chữ Z). Cả hai đều sáng tác, trình diễn và xuất bản các ca khúc họ viết. Trong số các sáng tác của nhóm được quần chúng ưa thích là các bản viết hồi năm 1939 như Khúc Ca Ban Chiều, Trên Thuyền Hoa của Văn Chung; Biệt Ly, Sao Hoa Chóng Tàn, Tiếng Hát Ðêm Thu của Dzoãn Mẫn; Bẽ Bàng, Vườn Xuân của Lê Yên. Văn Chung bị ảnh hưởng NhạcTrung Hoa. Dzoãn Mẫn và Lê Yên bay bướm nhịp tiết mang ảnh hưởng NhạcTây phương. Nhóm Tricea tan rã sau khi thành lập không lâu. Ðó là ở Hà Nội.

Hải Phòng có Lê Thương và Văn Cao là những người viết tân Nhạc trong thời gian này. Cùng với hai ông là các Nhạc sĩ trẻ hơn như Canh Thân, Hoàng Quí, Phạm Ngữ, Hoàng Phú, Văn Trang... Nhóm xuất hiện lần đầu tại nhà Hát Lớn Hải Phòng với các tác phẩm Tiếng Ðàn Ðêm Khuya, Một Ngày Xanh, Trên Sông Dương Tử, Thu Trên Ðảo Kinh Châu... Phạm Ngữ viết ca khúc Nhớ Quê Hương năm 1939, Hoàng Quí viết một loạt ca khúc trẻ với bài đầu là bài Chùa Hương rất trong sáng, tươi mát như những bản Nhạc sau của ông.
Ở Nam Ðịnh có Ðặng Thế Phong, một Nhạc sĩ tài hoa mệnh yểu qua đời khi mới ngoài hai mươi tuổi. Ông lưu lại các tuyệt phẩm Ðêm Thu, Giọt Mưa Thu, Con Thuyền Không Bến. Cùng với Ðặng Thế Phong, Nam Ðịnh còn có ra Bùi Công Kỳ, Ðan Thọ và Hoàng Trọng. Phạm Duy, trong cuốn Hồi Ký (trang 278) gọi đây là những tên tuổi tiền phong của nền Nhạc mới.

Ở Sài Gòn có Nguyễn Xuân Khoát và Phạm Ðăng Hinh. Phạm Ðăng Hinh cầm đầu một ban Nhạcvĩ cầm và đi vĩ cầm gồm 15, 16 Nhạc sinh của ông. Ban Nhạccó ra Hà Nội trình diễn các sáng tác của ông nhưng rồi cũng ngưng hoạt động ít lâu sau đó. Ông sớm ra đi, để lại vài bài như Ðám Mây Hàng và Cám Dỗ, Nhạc đề cho phim Trận Phong Ba quay tại Hương Cảng năm 1940.

Bước qua thập niên 40, một khuynh hướng mới bắt đầu tìm thấy trong NhạcViệt. Ðó là những bài hùng ca viết cho thanh niên, phong trào khỏe và hướng đạo, của nhóm Ðồng Vọng với Hoàng Quí cùng các Nhạc sĩ trong Tổng Hội Sinh Viên và Lưu Hữu Phước. Chính phủ Pháp, sau khi thua quân Ðức, đang muốn tìm đường đứng dậy. Phong trào Phục Hưng của thống chế Pétain lan sang Việt Nam, phát triển để chuẩn bị giúp Pháp sống li, và thanh niên là cái đích người ta nghĩ đến đầu tiên. Chủ trương lãng mạn bị đả kích, dẹp bỏ để đào to một lớp thanh niên thuộc địa mới khỏe mạnh, cường tráng sẵn sàng phục vụ mẫu quốc.
Chủ trương lành mạnh hóa các sinh hoạtvăn học, âm Nhạc đưa đến việc sách vở bị kiểm duyệt, vũ trường bị đóng cửa. Các bài hùng ca được phổ biến và cũng được yêu mến trong giai đoạn này là Việt Nam Bất Diệt của Hoàng Gia Lịnh, Trên Sông Bạch Ðằng của Hoàng Quí...

Trong giai đoạn này, các nhóm Myosotis và Tricea cũng viết một số hùng ca và ca khúc thanh niên để tỏ một thái độ với thứ văn chương diễm lệ và quá ủy mị đang rất được thanh niên nam nữ ưa chuộng.

Ảnh hưởng của Hoàng Quí và nhóm Ðồng Vọng của ông cùng với Lưu Hữu Phước và Tổng Hội Sinh Viên là những ảnh hưởng lớn, kéo dài cho cả đến những năm sau khi hai nhóm không còn hoạt động nữa. Với các sáng tác của hai nhóm, người ta thấy Nhạc hùng vẫn có thể hấp dẫn tuổi trẻ như Nhạc tình lãng mạn.
Tuy nhiên, theo Lê Thương, bất kể những tin tức chiến tranh vọng lại, Nhạctình cảm vẫn xuất hiện như Con Thuyền Không Bến, Giọt Mưa Thu của Ðặng Thế Phong; Xuân Yêu Ðương, Bản Ðàn Xuân của Lê Thương; Hồn Xuân của Nguyễn Xuân Khoát; Trở Li Cùng Anh của Dzoãn Mẫn...

Một nền Nhạc lãng mạn

Hoàng Nguyên, trong bài giới thiệu tập ca khúc Nhạc Tiền Chiến xuất bản ở Sài Gòn năm 1970 đã viết về Tiếng Hát Những Ngày Chưa Chiến Tranh. Ông nói về những ngày không khí trữ tình bàng bạc, thanh bình, nhẹ nhàng lâng lâng. Ông ghi nhận nó còn có nét đơn sơ của cánh đồng, cái không-khó-khăn của những ngày bàn tay không quen máy móc, cái bình dị của những tâm hồn quán nhỏ.
Tập Nhạc gồm 27 ca khúc của 18 Nhạc sĩ mà hầu hết là những ca khúc lãng mạn. Nhạc tiền chiến là Nhạc lãng mạn. Có nói như vậy chắc cũng không sai là bao nhiêu. Âm Nhạc đi song song với sinh hoạt thơ của giai đoạn này. Trong lãnh vực thơ, là Huy Cận, Xuân Diệu, Tế Hanh, Hàn Mặc Tử, Thâm Tâm, Vũ Hoàng Chương, Ðinh Hùng, Nguyễn Bính thì âm Nhạc cũng có những dòng Nhạc lãng mạn không kém. Ða số các Nhạc sĩ sáng tác đều là các thi sĩ ở một nơi khác, thơ của họ được nâng đỡ bởi nhạc. Nên người ta không ngạc nhiên khi âm Nhạctrong giai đoạn này cũng đi con đường song hành với thơ.

Lời của Văn Cao, như trong ca khúc Thu Cô Liêu, theo Phạm Duy, nghe đầy âm hưởng Ðường thi. Nguyễn Mỹ Ca, Ngọc Bích ( sau này), Phạm Ngữ, Tô Vũ, Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Dzoãn Mẫn, Nguyễn Hiền, Anh Việt... cho thấy họ làm thơ bằng nhạc. Phần lời ca chuốt lọc của các ca khúc có thể đọc lên như những bài thơ. Nhờ có nhạc, những bài thơ đó lại có thêm được một đời sống khác: đời sống âm nhạc. Và đó là lý do các tác phẩm của giai đoạn này đã qua được tất cả các thử thách của thời gian để tiếp tục được yêu mến, có những bài, sau hơn nửa thế kỷ, lời ca vẫn còn mới, vẫn còn như vừa được viết bằng thứ ngôn ngữ của ngày hôm nay.

Chuyển tiếp
Thực ra, không thể nói Nhạc tiền chiến ngưng lại vào năm 1945. Những ca khúc vẫn tiếp tục được các Nhạc sĩ viết xuống, và gửi đến người nghe trong một chiều hướng các Nhạc sĩ này đã vẽ được ra trong những năm trước đó. Dòng Nhạc này vẫn tiếp tục chảy, và nó không hề đứng lại, với những Nhạc sĩ chọn ở lại với âm nhạc.

Dư Âm của Nguyễn Văn Tý năm 1949; các ca khúc về mùa Thu của Ðoàn Chuẩn trong những năm trước Genève; Ngọc Lan của Dương Thiệu Tước... là những thí dụ. Những bài ca này vẫn được coi, xếp hạng vào các ca khúc tiền chiến mặc dù chúng được viết sau khi súng nổ khá lâu. Các tác giả vẫn tiếp tục nuôi dưỡng những cảm xúc có được trong những năm trước đó.

Năm 1950, tờ Việt Nhạc do đài phát thanh Hà Nội ấn hành cho biết đài đã phát thanh khoảng 300 Nhạc phẩm của các Nhạc sĩ tiền chiến, những người ở vùng quốc gia cũng như những người đi theo kháng chiến. Khi đài Hà Nội ngưng tiếng năm 1954, đài đã phát trên 2000 tác phẩm của khoảng hơn 300 Nhạc sĩ.
Các Nhạc sĩ tiền chiến một số vẫn còn sống, đều đã trọng tuổi, như Phạm Duy (sinh 1921), Dzoãn Mẫn (sinh1916), Nguyễn Văn Tuyên (sinh1909), Lê Yên (sinh 1917). Những người đã qua đời gồm Văn Cao (mất 1995), Văn Chung (mất 1984), Nguyễn Xuân Khoát (mất 1993), Bùi Công Kỳ ( mất 1985), Ðỗ Nhuận ( mất 1991), Thẩm Oánh (mất 1996), Ðặng Thế Phong (mất 1942), Lưu Hữu Phước (mất 1989), Hoàng Quí (mất 1946), Lê Thương (mất 1996 ), Dương Thiệu Tước (mất 1995).

Dư âm cuả Nhạc tiền chiến

Nhạc tiền chiến vẫn tiếp tục những vang vọng của nó cho đến ngày hôm nay, trong người nghe cũng như trong những người viết nhạc.
Phạm Duy , Nguyễn Hiền , Dương Thiệu Tước... tiếp tục viết loại Nhạc mà các ông đã rất thành công. Anh Việt với Bến Cũ, Thơ Ngây... Ngọc Bích, viết những ca khúc làm gợi nhớ cái không khí lãng mạn của thời tiền chiến, những Mộng Chiều Xuân, Trở Về Bến Mơ... Nếu Tô Vũ (tên thật là Hoàng Phú ) không ở một nơi chốn như ông đã phải sống trong mấy chục năm nay, thì tác giả Em Ðến Thăm Anh Một Chiều Mưa sẽ tiếp tục viết những ca khúc rất đỗi lãng mạn như thế, như Tiếng Chuông Chiều Thu, như Tạ Từ ...

Phải chờ đến Trịnh Công Sơn và Lê Uyên Phương, ảnh hưởng Nhạc tiền chiến mới dứt để âm NhạcViệt Nam đi sang một con đường khác, cả về lối chuyển cung, chuyển điệu.

Bùi Bảo Trúc


Chú thích :
1. Lê Thương, Nhạc Tiền Chiến Việt Nam in lại ở Hoa kỳ
2. Phạm Duy Hồi Ký trang 150
3. Huỳnh Thanh Nam báo Văn Nghệ ngày 27 tháng năm 2000 xuất bản tin Sài Gòn trang 5
4. Jason Gibbs The Origins of Vietnamese Popular Songs
Cuộc Sống Việt