Nguyễn Hữu Quý
Có lẽ chỉ có Thống đốc NH mới hiểu thực trạng nền kinh tế?
(Ảnh: vnexpress.net, ngày 25/12/2010)
Ngày 25/12/2010 mạng Bauxite Việt Nam đăng bài “Vào năm 2011, Vinashin trả nợ hay tiếp tục khất nợ???”, của tác giả Lê Trung Thành, người có nhiều bài viết về Vinashin trên mạng Bauxite Việt Nam. Có thể nói, ngoài việc am hiểu về Vinashin, về lĩnh vực tài chính – ngân hàng, tác giả Lê Trung Thành còn có lối viết để những người không am hiểu về hai lĩnh vực này rất dễ hiểu và bị cuốn hút.
Là người theo dõi Vinashin, không chỉ vì khoản nợ khổng lồ của nó mà mọi người đã biết, sau khi sự kiện này đi ra từ diễn đàn QH, thực tình, là người VN ai cũng mong Vinashin qua cơn hoạn nạn, bởi vì, có lần người viết bài này đã từng nói “Việt Nam – một quốc gia biển thì không thể không có ngành công nghiệp đóng tàu…”, nhưng thực tế, Vinashin đang gặp muôn vàn khó khăn.
Đọc qua bài viết, tôi “thu hoạch” được các dữ liệu sau:
1. Nói về việc trả nợ của Vinashin:
Theo tác giả Lê Trung Thành, trong năm 2011, VNS cần có 300-350 triệu USD để thanh toán các khoản nợ nêu trên. Số tiền này không bao gồm phần trả lãi, gốc đã quá hạn hoặc đến hạn của rất nhiều ngân hàng thương mại và ngân hàng phát triển trong nước mà VNS đã vay mượn.
Khoản nợ phải trả gốc, trả lãi bình quân mỗi năm là 240-250 triệu USD sẽ kéo dài từ năm 2012 tới năm 2015.
Đến đầu năm 2016, VNS phải thanh toán đủ 750 triệu USD vay từ tháng 10-2005 cho các chủ nợ quốc tế.
Năm 2017, đến hạn trả gần 10 ngàn tỷ đồng (tương đương 500 triệu USD) trái phiếu công ty mà VNS phát hành năm 2007.
2. Nói về lãi suất vay:
Nếu như ta biết rằng, lãi suất vay của Vinashin đối với các tổ chức tài chính nước ngoài chỉ là 4,50-5%/ năm (trích dẫn trong bài), mà đã đưa Vinashin đến tình trạng phá sản [tất nhiên nguyên nhân chính để Vinashin sụp đổ là ở góc độ khác], thì lãi suất tiền đồng VN mà các ngân hàng cho các doanh nghiệp VN vay ở mức 15-17%/ năm; thì việc doanh nghiệp VN không phá sản hàng loạt trong những năm tới thì mới là chuyện lạ?!
Cũng trong ngày 25/12, các báo đều đưa tin: Uỷ ban kinh tế và Thường trực QH làm việc với Thống đốc ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Giàu, và báo vnexpress.net đã đăng bài “Thống đốc ngân hàng: Lạm phát không phải do quản lý tiền tệ”. Mặc dù không am hiểu về lĩnh vực này, nhưng theo tôi, chính cái tiêu đề bài báo này đã nói lên rằng, nền kinh tế nước nhà, xem ra là rất mong manh.
Có lẽ, chỉ có những người am hiểu về nó như Thống đốc Nguyễn Văn Giàu mới hiểu hết được, và nhìn khuôn mặt đăm chiêu của ông trong buổi “điều trần tại Văn phòng Quốc hội sáng 25/12” đã cho ta thấy điều đó.
Có một điều cũng rất lấy làm lạ, các báo nói rằng, “đây là lần đầu tiên Ủy ban tổ chức một buổi làm việc như vậy”. Vậy thì, hoá ra, 65 năm qua, QH Việt Nam và UB kinh tế của QH xem như “khoán trắng” cho các Bộ, ngành trong điều hành hai lĩnh vực xương sống này (?!); phải chăng, có điều gì đó rất nghiêm trọng cho nên mới có “ngoại lệ” này?
Cũng trong bài “Thống đốc ngân hàng: Lạm phát không phải do quản lý tiền tệ”, có một câu phát biểu của cựu Thống đốc Ngân hàng, ông Cao Sỹ Kiêm, rằng, “Tôi thấy năm suy thoái ngân hàng cũng có lãi. Năm nay lạm phát cao mà nhiều ngân hàng vẫn lãi tới 2.000 tỷ đồng. Trong khi doanh nghiệp thì khó khăn. Nhìn vậy "ngứa mắt" lắm”.
Cũng vì tò mò, mà tôi đã viết một bài có tựa đề “Doanh nghiệp Việt Nam lao động chỉ để nuôi hệ thống ngân hàng?”, phải chăng đúng là như vậy?
Và nếu đúng vậy thì nguy to thật rồi!
Vì không phải là chuyên gia trên bất kỳ lĩnh vực nào và ngại đọc các tài liệu nghiệp vụ về tài chính – ngân hàng, nhưng là người Việt, tôi quan tâm đến đất nước thông qua việc theo dõi tình hình quan hệ VN-TQ, được biểu hiện trên các vấn đề như Biển Đông, dự án Bauxite Tây Nguyên, Innov Green… và tất nhiên, không quên quan sát sự vận hành của nền kinh tế, xã hội của đất nước nói chung…
Dự thảo “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH”, mà Đảng đã công bố lấy ý kiến rộng rãi, theo đó, Đảng vẫn khẳng định “Ði lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Ðảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh”, khẳng định “Nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”; phải chăng, một nền kinh tế mà “Với mức lãi suất hiện nay 17-18%, thậm chí 20-21%, dù là về lý thuyết lãi suất rất hợp lý…” là sản phẩm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng đang hướng đến (?!).
Và “…Năm nay lạm phát cao mà nhiều ngân hàng vẫn lãi tới 2.000 tỷ đồng. Trong khi doanh nghiệp thì khó khăn. Nhìn vậy "ngứa mắt" lắm”, … cũng là một mặt của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng đang hướng đến (?!).
Thế thì... Hu hu!!!
N. H. Q.
26.12.2010
Nguồn: Nguyenhuuquy Blog
Tìm kiếm Blog này
Chủ Nhật, 26 tháng 12, 2010
Cái bụng thiêng liêng
Nguyễn Quang Thân
Tờ 100 tỷ đô vừa được Zimbabwe phát hành chỉ mua được 3 quả trứng. Zimbabwe là nước có mức lạm phát cao nhất thế giới, 2,2 triệu %. - Internet
Lạm phát một hay hai con số, chỉ số giá cả tăng có thể làm các nhà chính khách giật mình, các kinh tế gia đau đầu. Nhưng với người lao động, những phép tính trừu tượng ấy lại trở thành cụ thể. Đó là những đêm không ngủ, những ngày lao động vã mồ hôi và đã từng xảy ra những vụ ngất xỉu một lúc nhiều người trong trường học, trong xí nghiệp.
Vì những người lao động cũng như bất kỳ ai, có cái bụng. Nó đòi hỏi được no để làm việc dù làm như cái máy trong dây chuyền xí nghiệp hiện đại hay thổ mộc “ăn no vác nặng” trong hầm mỏ, trên cánh đồng.
Một nhà nước vì dân trước hết phải nghĩ đến cái bụng của dân. Cái bụng của dân yên thì nước thái bình, thịnh trị. Từ đầu năm 2010 đến nay, báo chí đưa nhiều tin về các cuộc đình công của công nhân từ Trà Vinh đến Thái Bình. Cao trào như tháng Tư có tới 10.000 công nhân xí nghiệp giày 100% vốn nước ngoài ở Đồng Nai đình công đòi nâng bữa trưa từ 5000 ngàn đồng lên 10 ngàn. Cũng tháng Tư, khoảng 5.000 công nhân Công ty liên doanh Chí Hùng chuyên sản xuất, kinh doanh giày tại xã Thái Hòa, huyện Tân Uyên (tỉnh Bình Dương) đã tiếp tục đình công đòi cải thiện bữa ăn. Theo các công nhân, hiện nay suất ăn dành cho công nhân rất nghèo nàn, chỉ hơn 7.000 đồng/suất không đủ tái tạo sức lao động.
Vấn đề đơn giản, đòi hỏi không cao xa. Tăng 7 lên 10 ngàn là chỉ mới thêm một cái trứng vịt, hay nửa mớ rau muống, hay một bịch cà muối vào bữa cơm. Đâu phải yến sào hay vi cá mập. Đòi hỏi ấy chưa đến mức “cầm cuốc chôn chủ nghĩa tư bản” mà các ông chủ phải sợ. Đó chỉ là tiêng sôi của cái bụng đói. Chỉ năm ngoái thôi, 7 ngàn một bữa trưa là tạm đủ sức đứng máy cả chiều. Nhưng vật giá lên gấp rưỡi, gấp đôi thì bảy ngàn chỉ còn ba ngàn rưỡi. Phép tính ấy không cần phải các nhà kinh tế mới tính được. Chỉ số CPIt hay CPIx của các vị ấy đưa ra cao siêu khó hiểu lắm, chỉ biết ra chợ mớ rau muống thấy đã lên 8 ngàn đồng.
Tiền trong ATM không bị ai lấy trộm nhưng thật sự bị bốc hơi bởi những phép nhiệm mầu mà người lao động ít học không thể biết được là phép gì. Nghe nói CPI nói được tăng giảm giá cả nhưng không đánh giá được chất lượng. Người lao động dùng cái bụng đánh giá được cả hai. Ví như ổ bánh mì, vẫn hai đến ba ngàn nhưng ổ bánh năm ngoái ăn tạm lửng bụng, ổ bánh năm nay vo viên lại chỉ bằng quả trứng chim cút. Cái bụng nó “kiểm toán” được liền. Nó vô tư, nó hồn nhiên, không có khuynh hướng chính trị tả hay hữu. Nó biết ông chủ lò bánh mì không tăng giá để lừa các siêu sao tính CPI nhưng ông bớt lại một nửa bột mì và tăng gấp đôi bột nở, ai biết chết liền nhưng cái bụng thì biết hết.
Ai cũng biết công nhân đình công là chuyện bất đắc dĩ. Mất thu nhập, có thể mất cả việc làm. Nhưng đây là mệnh lệnh của “cái bụng”. Bụng đói thì đầu gối phải bò, phải đấu tranh với chủ để được no. Có “ăn no” mới đủ sức “vác nặng”. Ông chủ nào muốn công nhân siêng năng vác nặng cho mình thì phải cho họ ăn no. Nhưng buồn thay không mấy ông chủ chịu biết điều đó hay giả vờ như không biết điều đó. Nhiều ông chủ mơ màng công nhân sống bằng không khí và những lời tán tỉnh hoa mỹ, bốc thơm nhưng lại vui vẻ “vác nặng” cho mình làm giàu. Thế mới buồn! Nhưng thế mới là ông chủ!
Xin hãy thôi đi niềm tự hào về ưu thế đầu tư trên giá lao động rẻ. Xin hãy nhìn xa hơn, tinh tế hơn một chút. Hai, ba thế kỷ trước, hàng chục triệu người lao động châu Phi phải lên tàu sang châu Âu, châu Mỹ để bán sức lao động, thực chất là nô lệ lao động. Ngày nay thế giới “hòa nhập”, người lao động hãy ở tại chỗ, anh đưa nhà máy tới để các cưng làm nha cưng! Nhưng tiền lương thì chuyện khác. Một người thất nghiệp đi lau nhà ở Paris lãnh 10 oi một giờ. Cô công nhân từ Hà Tĩnh vào đóng giày ở Bình Dương, xinh hơn, có thể chịu thương chịu khó hơn, may ra được lãnh 100 oi cả tháng, tức chỉ bằng 10 giờ của cô gái châu Âu kia. Hãy nhìn xa hơn để thấy, giá lao động rẻ có thể thu hút đầu tư, người được hoa hồng, người được lại quả, dân có thêm việc làm, ai cũng vui vẻ, nhà báo có nhuận bút ca ngợi môi trường đầu tư. Nhưng tương lai, khi các nhà máy nhả ra một thế hệ công nhân già nua, suy dinh dưỡng, bệnh tật (vì làm nhiều ăn ít), sinh ra một thế hệ còi cọc thì liệu còn có cái sức lao động dù rất rẻ ấy để tiếp tục bán nữa hay không?
Nhà thơ cộng sản Nazim Hitmet (Thổ Nhĩ Kỳ) có bài thơ về “cái bụng thiêng liêng”. Lão Tử, triết gia cổ đại Á Đông, khuyên “thánh nhân” tức các nhà cai trị rằng, với dân thì cần “hư kỳ tâm” (làm cho lòng dân yên tĩnh, nhẹ nhàng ít bất mãn), bên cạnh đó nhất thiết phải “bão kỳ phúc”! (cái bụng dân phải no đầy). Cái bụng quả thật quan trọng, quả thật thiêng liêng chứ đâu phải chỉ chứa những điều ô trọc, phàm tục.
N. Q. T.
Nguồn: Vanhocfamily
Tờ 100 tỷ đô vừa được Zimbabwe phát hành chỉ mua được 3 quả trứng. Zimbabwe là nước có mức lạm phát cao nhất thế giới, 2,2 triệu %. - Internet
Lạm phát một hay hai con số, chỉ số giá cả tăng có thể làm các nhà chính khách giật mình, các kinh tế gia đau đầu. Nhưng với người lao động, những phép tính trừu tượng ấy lại trở thành cụ thể. Đó là những đêm không ngủ, những ngày lao động vã mồ hôi và đã từng xảy ra những vụ ngất xỉu một lúc nhiều người trong trường học, trong xí nghiệp.
Vì những người lao động cũng như bất kỳ ai, có cái bụng. Nó đòi hỏi được no để làm việc dù làm như cái máy trong dây chuyền xí nghiệp hiện đại hay thổ mộc “ăn no vác nặng” trong hầm mỏ, trên cánh đồng.
Một nhà nước vì dân trước hết phải nghĩ đến cái bụng của dân. Cái bụng của dân yên thì nước thái bình, thịnh trị. Từ đầu năm 2010 đến nay, báo chí đưa nhiều tin về các cuộc đình công của công nhân từ Trà Vinh đến Thái Bình. Cao trào như tháng Tư có tới 10.000 công nhân xí nghiệp giày 100% vốn nước ngoài ở Đồng Nai đình công đòi nâng bữa trưa từ 5000 ngàn đồng lên 10 ngàn. Cũng tháng Tư, khoảng 5.000 công nhân Công ty liên doanh Chí Hùng chuyên sản xuất, kinh doanh giày tại xã Thái Hòa, huyện Tân Uyên (tỉnh Bình Dương) đã tiếp tục đình công đòi cải thiện bữa ăn. Theo các công nhân, hiện nay suất ăn dành cho công nhân rất nghèo nàn, chỉ hơn 7.000 đồng/suất không đủ tái tạo sức lao động.
Vấn đề đơn giản, đòi hỏi không cao xa. Tăng 7 lên 10 ngàn là chỉ mới thêm một cái trứng vịt, hay nửa mớ rau muống, hay một bịch cà muối vào bữa cơm. Đâu phải yến sào hay vi cá mập. Đòi hỏi ấy chưa đến mức “cầm cuốc chôn chủ nghĩa tư bản” mà các ông chủ phải sợ. Đó chỉ là tiêng sôi của cái bụng đói. Chỉ năm ngoái thôi, 7 ngàn một bữa trưa là tạm đủ sức đứng máy cả chiều. Nhưng vật giá lên gấp rưỡi, gấp đôi thì bảy ngàn chỉ còn ba ngàn rưỡi. Phép tính ấy không cần phải các nhà kinh tế mới tính được. Chỉ số CPIt hay CPIx của các vị ấy đưa ra cao siêu khó hiểu lắm, chỉ biết ra chợ mớ rau muống thấy đã lên 8 ngàn đồng.
Tiền trong ATM không bị ai lấy trộm nhưng thật sự bị bốc hơi bởi những phép nhiệm mầu mà người lao động ít học không thể biết được là phép gì. Nghe nói CPI nói được tăng giảm giá cả nhưng không đánh giá được chất lượng. Người lao động dùng cái bụng đánh giá được cả hai. Ví như ổ bánh mì, vẫn hai đến ba ngàn nhưng ổ bánh năm ngoái ăn tạm lửng bụng, ổ bánh năm nay vo viên lại chỉ bằng quả trứng chim cút. Cái bụng nó “kiểm toán” được liền. Nó vô tư, nó hồn nhiên, không có khuynh hướng chính trị tả hay hữu. Nó biết ông chủ lò bánh mì không tăng giá để lừa các siêu sao tính CPI nhưng ông bớt lại một nửa bột mì và tăng gấp đôi bột nở, ai biết chết liền nhưng cái bụng thì biết hết.
Ai cũng biết công nhân đình công là chuyện bất đắc dĩ. Mất thu nhập, có thể mất cả việc làm. Nhưng đây là mệnh lệnh của “cái bụng”. Bụng đói thì đầu gối phải bò, phải đấu tranh với chủ để được no. Có “ăn no” mới đủ sức “vác nặng”. Ông chủ nào muốn công nhân siêng năng vác nặng cho mình thì phải cho họ ăn no. Nhưng buồn thay không mấy ông chủ chịu biết điều đó hay giả vờ như không biết điều đó. Nhiều ông chủ mơ màng công nhân sống bằng không khí và những lời tán tỉnh hoa mỹ, bốc thơm nhưng lại vui vẻ “vác nặng” cho mình làm giàu. Thế mới buồn! Nhưng thế mới là ông chủ!
Xin hãy thôi đi niềm tự hào về ưu thế đầu tư trên giá lao động rẻ. Xin hãy nhìn xa hơn, tinh tế hơn một chút. Hai, ba thế kỷ trước, hàng chục triệu người lao động châu Phi phải lên tàu sang châu Âu, châu Mỹ để bán sức lao động, thực chất là nô lệ lao động. Ngày nay thế giới “hòa nhập”, người lao động hãy ở tại chỗ, anh đưa nhà máy tới để các cưng làm nha cưng! Nhưng tiền lương thì chuyện khác. Một người thất nghiệp đi lau nhà ở Paris lãnh 10 oi một giờ. Cô công nhân từ Hà Tĩnh vào đóng giày ở Bình Dương, xinh hơn, có thể chịu thương chịu khó hơn, may ra được lãnh 100 oi cả tháng, tức chỉ bằng 10 giờ của cô gái châu Âu kia. Hãy nhìn xa hơn để thấy, giá lao động rẻ có thể thu hút đầu tư, người được hoa hồng, người được lại quả, dân có thêm việc làm, ai cũng vui vẻ, nhà báo có nhuận bút ca ngợi môi trường đầu tư. Nhưng tương lai, khi các nhà máy nhả ra một thế hệ công nhân già nua, suy dinh dưỡng, bệnh tật (vì làm nhiều ăn ít), sinh ra một thế hệ còi cọc thì liệu còn có cái sức lao động dù rất rẻ ấy để tiếp tục bán nữa hay không?
Nhà thơ cộng sản Nazim Hitmet (Thổ Nhĩ Kỳ) có bài thơ về “cái bụng thiêng liêng”. Lão Tử, triết gia cổ đại Á Đông, khuyên “thánh nhân” tức các nhà cai trị rằng, với dân thì cần “hư kỳ tâm” (làm cho lòng dân yên tĩnh, nhẹ nhàng ít bất mãn), bên cạnh đó nhất thiết phải “bão kỳ phúc”! (cái bụng dân phải no đầy). Cái bụng quả thật quan trọng, quả thật thiêng liêng chứ đâu phải chỉ chứa những điều ô trọc, phàm tục.
N. Q. T.
Nguồn: Vanhocfamily
Khai thác và xuất khẩu khoáng sản thô: Những bài học lớn
Bùi Quang Bình
Khai thác vàng trái phép tại Nà Lẹng, Minh Khai, tỉnh Cao Bằng
Ngay tại châu Á, hai nền kinh tế lớn là Nhật Bản và Trung Quốc đang tìm mọi cách “bảo toàn” tài nguyên khoáng sản trong nước và tìm kiếm, khai thác nguồn nguyên liệu thô ở nước ngoài để đảm bảo nguồn cung cho sản xuất trong nước. Trong khi đó, Việt Nam lại đi ngược xu hướng này, thi nhau khai thác tài nguyên để bán ra nước ngoài. Bài học của các nước nói trên đáng để chúng ta suy nghĩ nhằm đưa ra các biện pháp quyết liệt, hạn chế tình trạng “chảy máu khoáng sản” đang diễn ra ồ ạt hiện nay.
Kinh nghiệm cho Việt Nam
Câu chuyện thứ nhất được bắt đầu với Trung Quốc – một quốc gia có nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm khoáng sản lớn thứ hai thế giới (sau Mỹ) cho mục đích phát triển nền công nghiệp của mình. Đến nay, ngành khai khoáng Trung Quốc đã tự đáp ứng được khoảng 92% về khoáng sản năng lượng, 80% về khoáng sản cho công nghiệp và khoảng 70% khoáng sản cho sản xuất vật tư nông nghiệp1. Tuy nhiên, để đảm bảo cho các mục tiêu phát triển trong tương lai, Trung Quốc đã có chiến lược nhập khẩu không hạn chế các loại tài nguyên khoáng sản (TNKS) chiến lược; mở rộng đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực thăm dò, khai thác TNKS; thành lập trung tâm dự trữ các loại TNKS chiến lược; đưa ra các mô hình khai thác chế biến khoáng sản trong nước theo hướng bền vững.
Hiện tại, Trung Quốc vẫn là nước cung ứng nguồn khoáng sản hàng đầu cho Mỹ nhưng Trung Quốc đã và đang trở thành đối thủ cạnh tranh lớn của Mỹ, châu Âu và Nhật Bản trong tiêu thụ nguyên liệu và sản xuất sản phẩm khoáng sản. Trung Quốc đã đưa ra những sách lược cụ thể đối với các nước đối tác của mình để “Giang rộng cánh tay thâu tóm toàn bộ tài nguyên khoáng sản trên thế giới”2.
Đối với những nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latin, Trung Quốc thực hiện hỗ trợ chính thức (ODA) đổi lấy quyền khai thác mỏ. Khoáng sản khai thác ở những nước này được mang về chế biến tiếp ở Trung Quốc. Nhờ nhập khẩu ồ ạt quặng Bauxite và quặng sắt, Trung Quốc đã trở thành nước xuất siêu về nhôm và kim loại đen trong những năm gần đây3.
Đối với những nước công nghiệp phát triển, Trung Quốc tìm cách có chân trong hội đồng quản trị những Tập đoàn khoáng sản quốc tế. Để làm được điều này, Trung Quốc áp dụng theo hai cách. Cách thứ nhất, thu mua cổ phiếu niêm yết trên các sàn giao dịch chứng khoán quốc tế. Cách thứ hai, bỏ vốn vào những tập đoàn khoáng sản gặp khó khăn tài chính phải tìm thêm vốn mới. Cả hai cách này đều đem lại nguồn khoáng sản dồi dào với giá cạnh tranh.
Kiểm tra một địa điểm khai thác than trái phép tại Quảng Ninh
Câu chuyện thứ hai liên quan tới Nhật Bản, một cường quốc kinh tế trên thế giới. Nhận thức rõ ràng là một quốc gia nghèo về khoáng sản trong khi nhu cầu sử dụng lại rất lớn, Chính phủ Nhật Bản đã có nhiều chính sách hợp lý để đảm bảo nhu cầu khoáng sản sử dụng trong nước cho mục tiêu phát triển kinh tế. Nhật Bản tăng cường đầu tư hoặc liên doanh, liên kết với các Chính phủ khác để có nguồn nguyên liệu. Chính phủ Nhật Bản cũng bắt đầu tiếp cận với hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân để đầu tư vào các dự án tìm kiếm quặng sắt ở Australia.
Sự hỗ trợ của Chính phủ Nhật Bản cho các công ty trong nước trong các dự án khai thác tài nguyên tại nước ngoài diễn ra trong bối cảnh nhu cầu khoáng sản ở các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc và Ấn Độ đang tăng nhanh, khiến các nước này đẩy mạnh khai thác tài nguyên tại nước ngoài. Ngoài việc tìm kiếm sự hỗ trợ từ phía Chính phủ, để đối phó với các tập đoàn lớn của Brazil, Anh và Australia đang khống chế thị trường quặng sắt thế giới, các công ty Nhật Bản có xu hướng liên minh liên kết. Vào cuối năm 2008, năm công ty cán thép hàng đầu Nhật Bản đã liên kết với nhau để mua lại quyền khai thác một mỏ quặng vào loại lớn nhất ở Brazil4.
Như vậy, với hai câu chuyện về Trung Quốc và Nhật Bản, có thể nhận thấy thế giới đang đứng trước thách thức cạn kiệt tài nguyên và xu thế cạnh tranh toàn cầu về TNKS. Nhiều quốc gia chậm phát triển nhưng có lợi thế về tài nguyên đang trở thành đối tượng để các quốc gia và các tập đoàn khai khoáng có tiềm lực gây ảnh hưởng và giành quyền khai thác tài nguyên này. Do vậy, cùng với việc điều chỉnh luật và các chính sách liên quan cho ngành công nghiệp khai khoáng, các quốc gia đứng trước thực tiễn đòi hỏi về nhu cầu tăng mạnh nguồn nguyên liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp trong nước đã và đang triển khai nhiều biện pháp. Đó là, (i) hạn chế khai thác khoáng sản trong nước, giữ nguyên hiện trạng, đóng cửa các mỏ khi chưa đủ điều kiện khai thác hoặc gây ô nhiễm môi trường, đồng thời cải tiến công nghệ chế biến nhằm tận thu tối đa các sản phẩm khoáng sản có ích; (ii) tăng cường nhập khẩu khoáng sản thô, các khoáng sản có nguy cơ cạn kiệt, thực hiện dự trữ quốc gia về TNKS; (iii) thúc đẩy hợp tác, liên doanh khai thác khoáng sản.
Bên cạnh đó việc tăng cường tiềm lực tài chính, khả năng đầu tư phát triển công nghệ hiện đại và hợp lý, năng lực tổ chức quản lý trong thăm dò, khai thác và chế biến; khả năng bảo hộ và bao tiêu sản phẩm sau khai thác là những vấn đề được nhiều nước có nền công nghiệp phát triển quan tâm.
Vấn nạn khai thác bừa bãi, lãng phí
Đứng trước xu hướng nói trên của thế giới, câu hỏi đặt ra là Việt Nam nên làm gì để bảo vệ nguồn TNKS của mình cho việc phát triển nền kinh tế và cho tương lai?
Quốc hội hiện cũng đang thảo luận để điều chỉnh, sửa đổi Luật Khoáng sản hướng tới việc khai thác và sử dụng TNKS tiết kiệm, hiệu quả đảm bảo cho sự phát triển lâu dài, bền vững của đất nước. Dự kiến Luật Khoáng sản sửa đổi sẽ được Quốc hội thông qua vào kỳ họp cuối năm nay.
Trên thực tế, TNKS của Việt Nam đang bị khai thác bừa bãi, lãng phí và chủ yếu để xuất khẩu thô. Hiện Việt Nam vẫn chưa có chiến lược dự trữ TNKS cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tình trạng khá phổ biến hiện nay là ở đâu có khoáng sản, ở đó có khai thác, khai thác tối đa, khai thác bằng mọi giá và khai thác bất kỳ loại khoáng sản nào để xuất khẩu, không quan tâm đến hậu quả môi trường…
Việc Trung Quốc tăng cường ưu tiên nhập khẩu các sản phẩm của ngành khai khoáng Titan của Việt Nam để dự trữ, trong khi trữ lượng Titan của Trung Quốc được đánh giá đứng đầu thế giới là vấn đề đáng để suy nghĩ. Công nghệ thiếu, tiềm lực tài chính yếu dẫn đến Việt Nam đành phải chấp nhận bán thô tài nguyên khoáng sản quí hiếm của mình.
Trong khi đang xuất khẩu than với giá rẻ thì chính KTV cùng một số tập đoàn lớn khác lại xây dựng đề án nhập khẩu than từ 2012 trở đi, với số lượng ngày càng nhiều hơn
Cũng như Titan, các loại khoáng sản khác như sắt, đồng, chì,…cũng được Trung Quốc nhập khẩu từ Việt Nam qua con đường chính thức lẫn tiểu ngạch qua biên giới. Cuối năm 2009, Bộ Công thương Việt Nam5 đã tiếp tục đề nghị Thủ tướng cho Tập đoàn TKV xuất khẩu thêm thêm 400 nghìn tấn quặng sắt, 84 nghìn tấn tinh quặng magnetit, 18 nghìn tấn mangan, 44 nghìn tấn kẽm... để tháo gỡ những khó khăn cho các doanh nghiệp thuộc TKV do dư thừa biên chế và thiếu công nghệ chế biến sâu trong nước. Sau khi đã thực hiện xuất khẩu 24 triệu tấn than trong năm 2009, năm nay TKV lại đề nghị xuất khẩu thêm 18 triệu tấn nữa. Riêng đối với quặng đồng, ngày 27/2, TKV lại đề nghị cho xuất khẩu 20.000 tấn tinh quặng đồng quy khô, với lý do là để ổn định tình hình tài chính, duy trì sản xuất của tổ hợp khai thác Sin Quyền (Lào Cai)... Theo số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam, năm 2009 số lượng quặng và khoáng sản xuất khẩu lên tới 2,15 triệu tấn, đạt kim ngạch gần 135 triệu USD (chưa kể dầu thô). Và các khoáng sản này chủ yếu vẫn được xuất khẩu sang thị trường quen thuộc là Trung Quốc.
Trong khi vẫn tiếp tục xuất khẩu than với mức giá được nhiều chuyên gia kinh tế cho là thấp, thì Tập đoàn TKV cùng một số tập đoàn, tổng công ty khác như Tập đoàn Điện lực, Tổng công ty Thép... lại xây dựng đề án nhập khẩu than để từ năm 2012 trở đi, nhập khẩu than với số lượng ngày càng lớn. Đây là một thực tế luẩn quẩn trong chiến lược tiết kiệm và sử dụng hợp lý TNKS của Việt Nam.
Việc hội nhập toàn cầu ngày càng sâu rộng tạo ra những cơ hội lớn cũng như những thách thức đáng kể cho Việt Nam trong công cuộc phát triển đất nước. Những ảnh hưởng (tiêu cực lẫn tích cực) xuất phát từ yếu tố nội tại cũng như yếu tố bên ngoài đã và đang tác động mạnh mẽ tới Việt Nam trong chiến lược quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên nói chung vốn đã có nhiều bất cập.
Ngành khai khoáng của Việt Nam đang phải đối mặt với sự phát triển thiếu bền vững do nhiều yếu tố như cơ sở pháp lý, thực thi pháp luật và ảnh hưởng từ các yếu tố bên ngoài.
Cần phải làm gì?
Việt Nam cần xây dựng và áp dụng các chính sách cũng như thể chế tốt hơn về quản lý tài nguyên thiên nhiên cho các vùng dễ bị ảnh hưởng nhằm giảm thiểu cũng như loại bỏ những rủi ro mang lại.
Bên cạnh đó, cần phải nghiên cứu xây dựng các trung tâm dự trữ khoáng sản và cấm triệt để xuất khẩu khoáng sản thô. Các trung tâm dự trữ khoáng sản này nên đặt ở các địa phương có nguồn tài nguyên lớn về khoáng sản để thuận lợi cho việc thu mua khoáng sản thô để dự trữ cho chế biến sâu và kêu gọi đầu tư để sớm tiếp nhận công nghệ và hình thành các nhà máy chế biến các sản phẩm sâu.
Ngoài ra, cũng cần nâng cao hệ số thu hồi trong quá trình khai thác chế biến. Cần có những chính sách đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị khai thác chế biến, khuyến khích hỗ trợ đối với khai thác tận thu ở khu vực khó khăn, phức tạp.
Hiểu rõ những tổn thất có thể xảy ra trong quá trình khai thác quá mức các nguồn tài
nguyên và biết được những ảnh hưởng của thị trường toàn cầu tới thị trường trong nước sẽ là bước khởi đầu để thảo luận đổi mới chính sách và thể chế nhằm giải quyết bài toán tài nguyên.
B. Q. B.
Nguồn: Tiasang
Khai thác vàng trái phép tại Nà Lẹng, Minh Khai, tỉnh Cao Bằng
Ngay tại châu Á, hai nền kinh tế lớn là Nhật Bản và Trung Quốc đang tìm mọi cách “bảo toàn” tài nguyên khoáng sản trong nước và tìm kiếm, khai thác nguồn nguyên liệu thô ở nước ngoài để đảm bảo nguồn cung cho sản xuất trong nước. Trong khi đó, Việt Nam lại đi ngược xu hướng này, thi nhau khai thác tài nguyên để bán ra nước ngoài. Bài học của các nước nói trên đáng để chúng ta suy nghĩ nhằm đưa ra các biện pháp quyết liệt, hạn chế tình trạng “chảy máu khoáng sản” đang diễn ra ồ ạt hiện nay.
Kinh nghiệm cho Việt Nam
Câu chuyện thứ nhất được bắt đầu với Trung Quốc – một quốc gia có nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm khoáng sản lớn thứ hai thế giới (sau Mỹ) cho mục đích phát triển nền công nghiệp của mình. Đến nay, ngành khai khoáng Trung Quốc đã tự đáp ứng được khoảng 92% về khoáng sản năng lượng, 80% về khoáng sản cho công nghiệp và khoảng 70% khoáng sản cho sản xuất vật tư nông nghiệp1. Tuy nhiên, để đảm bảo cho các mục tiêu phát triển trong tương lai, Trung Quốc đã có chiến lược nhập khẩu không hạn chế các loại tài nguyên khoáng sản (TNKS) chiến lược; mở rộng đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực thăm dò, khai thác TNKS; thành lập trung tâm dự trữ các loại TNKS chiến lược; đưa ra các mô hình khai thác chế biến khoáng sản trong nước theo hướng bền vững.
Hiện tại, Trung Quốc vẫn là nước cung ứng nguồn khoáng sản hàng đầu cho Mỹ nhưng Trung Quốc đã và đang trở thành đối thủ cạnh tranh lớn của Mỹ, châu Âu và Nhật Bản trong tiêu thụ nguyên liệu và sản xuất sản phẩm khoáng sản. Trung Quốc đã đưa ra những sách lược cụ thể đối với các nước đối tác của mình để “Giang rộng cánh tay thâu tóm toàn bộ tài nguyên khoáng sản trên thế giới”2.
Đối với những nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latin, Trung Quốc thực hiện hỗ trợ chính thức (ODA) đổi lấy quyền khai thác mỏ. Khoáng sản khai thác ở những nước này được mang về chế biến tiếp ở Trung Quốc. Nhờ nhập khẩu ồ ạt quặng Bauxite và quặng sắt, Trung Quốc đã trở thành nước xuất siêu về nhôm và kim loại đen trong những năm gần đây3.
Đối với những nước công nghiệp phát triển, Trung Quốc tìm cách có chân trong hội đồng quản trị những Tập đoàn khoáng sản quốc tế. Để làm được điều này, Trung Quốc áp dụng theo hai cách. Cách thứ nhất, thu mua cổ phiếu niêm yết trên các sàn giao dịch chứng khoán quốc tế. Cách thứ hai, bỏ vốn vào những tập đoàn khoáng sản gặp khó khăn tài chính phải tìm thêm vốn mới. Cả hai cách này đều đem lại nguồn khoáng sản dồi dào với giá cạnh tranh.
Kiểm tra một địa điểm khai thác than trái phép tại Quảng Ninh
Câu chuyện thứ hai liên quan tới Nhật Bản, một cường quốc kinh tế trên thế giới. Nhận thức rõ ràng là một quốc gia nghèo về khoáng sản trong khi nhu cầu sử dụng lại rất lớn, Chính phủ Nhật Bản đã có nhiều chính sách hợp lý để đảm bảo nhu cầu khoáng sản sử dụng trong nước cho mục tiêu phát triển kinh tế. Nhật Bản tăng cường đầu tư hoặc liên doanh, liên kết với các Chính phủ khác để có nguồn nguyên liệu. Chính phủ Nhật Bản cũng bắt đầu tiếp cận với hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân để đầu tư vào các dự án tìm kiếm quặng sắt ở Australia.
Sự hỗ trợ của Chính phủ Nhật Bản cho các công ty trong nước trong các dự án khai thác tài nguyên tại nước ngoài diễn ra trong bối cảnh nhu cầu khoáng sản ở các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc và Ấn Độ đang tăng nhanh, khiến các nước này đẩy mạnh khai thác tài nguyên tại nước ngoài. Ngoài việc tìm kiếm sự hỗ trợ từ phía Chính phủ, để đối phó với các tập đoàn lớn của Brazil, Anh và Australia đang khống chế thị trường quặng sắt thế giới, các công ty Nhật Bản có xu hướng liên minh liên kết. Vào cuối năm 2008, năm công ty cán thép hàng đầu Nhật Bản đã liên kết với nhau để mua lại quyền khai thác một mỏ quặng vào loại lớn nhất ở Brazil4.
Như vậy, với hai câu chuyện về Trung Quốc và Nhật Bản, có thể nhận thấy thế giới đang đứng trước thách thức cạn kiệt tài nguyên và xu thế cạnh tranh toàn cầu về TNKS. Nhiều quốc gia chậm phát triển nhưng có lợi thế về tài nguyên đang trở thành đối tượng để các quốc gia và các tập đoàn khai khoáng có tiềm lực gây ảnh hưởng và giành quyền khai thác tài nguyên này. Do vậy, cùng với việc điều chỉnh luật và các chính sách liên quan cho ngành công nghiệp khai khoáng, các quốc gia đứng trước thực tiễn đòi hỏi về nhu cầu tăng mạnh nguồn nguyên liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp trong nước đã và đang triển khai nhiều biện pháp. Đó là, (i) hạn chế khai thác khoáng sản trong nước, giữ nguyên hiện trạng, đóng cửa các mỏ khi chưa đủ điều kiện khai thác hoặc gây ô nhiễm môi trường, đồng thời cải tiến công nghệ chế biến nhằm tận thu tối đa các sản phẩm khoáng sản có ích; (ii) tăng cường nhập khẩu khoáng sản thô, các khoáng sản có nguy cơ cạn kiệt, thực hiện dự trữ quốc gia về TNKS; (iii) thúc đẩy hợp tác, liên doanh khai thác khoáng sản.
Bên cạnh đó việc tăng cường tiềm lực tài chính, khả năng đầu tư phát triển công nghệ hiện đại và hợp lý, năng lực tổ chức quản lý trong thăm dò, khai thác và chế biến; khả năng bảo hộ và bao tiêu sản phẩm sau khai thác là những vấn đề được nhiều nước có nền công nghiệp phát triển quan tâm.
Vấn nạn khai thác bừa bãi, lãng phí
Đứng trước xu hướng nói trên của thế giới, câu hỏi đặt ra là Việt Nam nên làm gì để bảo vệ nguồn TNKS của mình cho việc phát triển nền kinh tế và cho tương lai?
Quốc hội hiện cũng đang thảo luận để điều chỉnh, sửa đổi Luật Khoáng sản hướng tới việc khai thác và sử dụng TNKS tiết kiệm, hiệu quả đảm bảo cho sự phát triển lâu dài, bền vững của đất nước. Dự kiến Luật Khoáng sản sửa đổi sẽ được Quốc hội thông qua vào kỳ họp cuối năm nay.
Trên thực tế, TNKS của Việt Nam đang bị khai thác bừa bãi, lãng phí và chủ yếu để xuất khẩu thô. Hiện Việt Nam vẫn chưa có chiến lược dự trữ TNKS cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tình trạng khá phổ biến hiện nay là ở đâu có khoáng sản, ở đó có khai thác, khai thác tối đa, khai thác bằng mọi giá và khai thác bất kỳ loại khoáng sản nào để xuất khẩu, không quan tâm đến hậu quả môi trường…
Việc Trung Quốc tăng cường ưu tiên nhập khẩu các sản phẩm của ngành khai khoáng Titan của Việt Nam để dự trữ, trong khi trữ lượng Titan của Trung Quốc được đánh giá đứng đầu thế giới là vấn đề đáng để suy nghĩ. Công nghệ thiếu, tiềm lực tài chính yếu dẫn đến Việt Nam đành phải chấp nhận bán thô tài nguyên khoáng sản quí hiếm của mình.
Trong khi đang xuất khẩu than với giá rẻ thì chính KTV cùng một số tập đoàn lớn khác lại xây dựng đề án nhập khẩu than từ 2012 trở đi, với số lượng ngày càng nhiều hơn
Cũng như Titan, các loại khoáng sản khác như sắt, đồng, chì,…cũng được Trung Quốc nhập khẩu từ Việt Nam qua con đường chính thức lẫn tiểu ngạch qua biên giới. Cuối năm 2009, Bộ Công thương Việt Nam5 đã tiếp tục đề nghị Thủ tướng cho Tập đoàn TKV xuất khẩu thêm thêm 400 nghìn tấn quặng sắt, 84 nghìn tấn tinh quặng magnetit, 18 nghìn tấn mangan, 44 nghìn tấn kẽm... để tháo gỡ những khó khăn cho các doanh nghiệp thuộc TKV do dư thừa biên chế và thiếu công nghệ chế biến sâu trong nước. Sau khi đã thực hiện xuất khẩu 24 triệu tấn than trong năm 2009, năm nay TKV lại đề nghị xuất khẩu thêm 18 triệu tấn nữa. Riêng đối với quặng đồng, ngày 27/2, TKV lại đề nghị cho xuất khẩu 20.000 tấn tinh quặng đồng quy khô, với lý do là để ổn định tình hình tài chính, duy trì sản xuất của tổ hợp khai thác Sin Quyền (Lào Cai)... Theo số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam, năm 2009 số lượng quặng và khoáng sản xuất khẩu lên tới 2,15 triệu tấn, đạt kim ngạch gần 135 triệu USD (chưa kể dầu thô). Và các khoáng sản này chủ yếu vẫn được xuất khẩu sang thị trường quen thuộc là Trung Quốc.
Trong khi vẫn tiếp tục xuất khẩu than với mức giá được nhiều chuyên gia kinh tế cho là thấp, thì Tập đoàn TKV cùng một số tập đoàn, tổng công ty khác như Tập đoàn Điện lực, Tổng công ty Thép... lại xây dựng đề án nhập khẩu than để từ năm 2012 trở đi, nhập khẩu than với số lượng ngày càng lớn. Đây là một thực tế luẩn quẩn trong chiến lược tiết kiệm và sử dụng hợp lý TNKS của Việt Nam.
Việc hội nhập toàn cầu ngày càng sâu rộng tạo ra những cơ hội lớn cũng như những thách thức đáng kể cho Việt Nam trong công cuộc phát triển đất nước. Những ảnh hưởng (tiêu cực lẫn tích cực) xuất phát từ yếu tố nội tại cũng như yếu tố bên ngoài đã và đang tác động mạnh mẽ tới Việt Nam trong chiến lược quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên nói chung vốn đã có nhiều bất cập.
Ngành khai khoáng của Việt Nam đang phải đối mặt với sự phát triển thiếu bền vững do nhiều yếu tố như cơ sở pháp lý, thực thi pháp luật và ảnh hưởng từ các yếu tố bên ngoài.
Cần phải làm gì?
Việt Nam cần xây dựng và áp dụng các chính sách cũng như thể chế tốt hơn về quản lý tài nguyên thiên nhiên cho các vùng dễ bị ảnh hưởng nhằm giảm thiểu cũng như loại bỏ những rủi ro mang lại.
Bên cạnh đó, cần phải nghiên cứu xây dựng các trung tâm dự trữ khoáng sản và cấm triệt để xuất khẩu khoáng sản thô. Các trung tâm dự trữ khoáng sản này nên đặt ở các địa phương có nguồn tài nguyên lớn về khoáng sản để thuận lợi cho việc thu mua khoáng sản thô để dự trữ cho chế biến sâu và kêu gọi đầu tư để sớm tiếp nhận công nghệ và hình thành các nhà máy chế biến các sản phẩm sâu.
Ngoài ra, cũng cần nâng cao hệ số thu hồi trong quá trình khai thác chế biến. Cần có những chính sách đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị khai thác chế biến, khuyến khích hỗ trợ đối với khai thác tận thu ở khu vực khó khăn, phức tạp.
Hiểu rõ những tổn thất có thể xảy ra trong quá trình khai thác quá mức các nguồn tài
nguyên và biết được những ảnh hưởng của thị trường toàn cầu tới thị trường trong nước sẽ là bước khởi đầu để thảo luận đổi mới chính sách và thể chế nhằm giải quyết bài toán tài nguyên.
B. Q. B.
Nguồn: Tiasang
Tư nhân là động lực chính của nền kinh tế
Tường Nguyên thực hiện
Ông Lê Duy Bình.
(TBKTSG) - Vì sự thịnh vượng của nền kinh tế, tư duy về doanh nghiệp tư nhân cũng như các chính sách hỗ trợ đối với khu vực này cần phải được thay đổi một cách mạnh mẽ hơn. Đây là thông điệp mà ông Lê Duy Bình, Trưởng nhóm nghiên cứu đề tài “Vươn tới tầm cao mới: rà soát một số lĩnh vực chính sách ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp tư nhân” muốn đề cập qua cuộc phỏng vấn dưới đây của TBKTSG.
TBKTSG: Báo cáo dường như chỉ mới dừng ở việc nêu hiện tượng mà chưa lý giải vì sao chính sách cho khu vực tư nhân vẫn còn hạn chế như vậy?
- Ông Lê Duy Bình: Có thể nói, cái nhìn định kiến đối với tư nhân xuất phát từ mô hình kinh tế trước đây vẫn còn rơi rớt trong nhiều chính sách. Ngoài ra lợi ích cục bộ của các cơ quan ban hành chính sách cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng này.
Trong báo cáo, chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc cần có một tư duy mới về khu vực kinh tế tư nhân và về cách thức hỗ trợ đối với khu vực này. Điều này còn quan trọng hơn việc xử lý một số những bất cập trong một số luật và nghị định mà báo cáo đã phát hiện và khuyến nghị điều chỉnh. Chỉ khi tư duy đổi mới thực sự thì mới có thể kỳ vọng được sự thay đổi căn bản, lâu dài trong chính sách, pháp luật, thể chế và cách hành xử của các cơ quan quản lý vì sự phát triển hiệu quả của các doanh nghiệp tư nhân.
TBKTSG: Theo nhóm nghiên cứu, cần coi khu vực tư nhân là trụ cột của nền kinh tế và chính sách phát triển công nghiệp; các chương trình nâng cao năng lực quốc gia cần dựa trên nền tảng doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là khu vực tư nhân? Đây là một đề xuất mạnh mẽ nhưng cơ sở của đề xuất này là ở đâu?
- Nếu tự hỏi liệu có nền kinh tế nào trên thế giới có năng lực cạnh tranh mạnh mà chỉ dựa vào doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hoặc chỉ dựa vào doanh nghiệp đầu tư nước ngoài không? Tôi nghĩ mỗi chúng ta đều có thể nhanh chóng khẳng định một cách chắc chắn là không.
Rõ ràng, năng lực cạnh tranh quốc gia và sự tự chủ của nền kinh tế không thể chỉ dựa vào các doanh nghiệp nước ngoài. Doanh nghiệp tư nhân cần được trao một sứ mệnh rõ ràng trong việc phát triển nhiều ngành kinh tế mà các DNNN không nên làm hoặc làm không hiệu quả.
Sự thừa nhận về vai trò trụ cột của khu vực tư nhân, trong đó có các doanh nghiệp tư nhân, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc làm thay đổi tư duy của các cơ quan hoạch định chính sách, các cơ quan quản lý. Điều đó đảm bảo sự tiếp cận bình đẳng, không thiên vị tới các nguồn lực của đất nước, tới các quyền kinh doanh mà trước đây chỉ dành cho các DNNN.
Sự tự chủ kinh tế và năng lực cạnh tranh mạnh mẽ của các nền kinh tế như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Chile có sự góp phần rất lớn từ năng lực cạnh tranh ở cấp vi mô - tức là dựa trên năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước và hầu hết các doanh nghiệp này đều là doanh nghiệp tư nhân. Ví dụ từ những quốc gia này rõ ràng rất đáng để chúng ta suy ngẫm và học hỏi.
TBKTSG: Nếu coi tư nhân là trụ cột của nền kinh tế thì lúc ấy vai trò của DNNN sẽ như thế nào?
- Chắc hẳn là với một trụ cột nữa, nền kinh tế sẽ vững chắc hơn. Coi doanh nghiệp tư nhân là một trụ cột đồng nghĩa với việc buộc các DNNN và doanh nghiệp tư nhân phải cạnh tranh một cách bình đẳng, theo đúng các nguyên tắc căn bản của nền kinh tế thị trường. Các DNNN và tư nhân đều có được cơ hội ngang bằng khi tiếp cận tới các nguồn lực quốc gia, các cơ hội kinh doanh và cũng có thể đều bị loại ra khỏi thị trường nếu như hoạt động yếu kém.
Áp dụng triệt để các nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng này, chúng ta có thể thấy một khu vực doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh hơn, và một khu vực DNNN nhỏ hơn trong tương lai. Nhỏ hơn song có thể sẽ hiệu quả hơn, mạnh và có tính cạnh tranh cao hơn. Điều này, tính tổng lại thì chắc chắn sẽ có lợi hơn cho toàn bộ nền kinh tế và cho sự thịnh vượng chung của quốc gia.
TBKTSG: Theo báo cáo, hỗ trợ của Nhà nước trong thời gian qua rất tản mạn, chưa phù hợp thông lệ quốc tế. Vậy, theo ông, Nhà nước cần thay đổi cách thức, tư duy hỗ trợ như thế nào? Nên tập trung hỗ trợ những gì cho khu vực tư nhân?
- Sự hỗ trợ của Nhà nước, thoạt nhìn trong các văn bản thì rất nhiều. Quá nhiều song lại manh mún và không có trọng điểm. Thuế và tiền thuê đất là hai hình thức được áp dụng phổ biến nhất và dường như các nhà hoạch định chính sách đang lạm dụng hai hình thức này. Thông thường, đây là cách hỗ trợ dễ làm nhất và ít phải sáng tạo nhất. Như đã trình bày trong báo cáo, các doanh nghiệp lại không hưởng ứng tích cực đối với hai hình thức hỗ trợ này. Họ cần những hình thức hỗ trợ thiết thực, sát với nhu cầu của họ.
Các chính sách hỗ trợ nên được tập trung một cách trọng điểm vào một hoặc một vài cụm doanh nghiệp trong một ngành kinh tế có tiềm năng tạo ra năng lực cạnh tranh lớn nhất. Tại các cụm doanh nghiệp đó sẽ có những gói hỗ trợ tổng thể, đồng bộ về thuế, đất đai, tư vấn về khoa học, công nghệ, thị trường, trình độ quản lý, đào tạo nghề gắn với các nhu cầu của doanh nghiệp. Điều này sẽ hấp dẫn hơn nhiều đối với các doanh nghiệp và có thể tạo ra sự khác biệt về năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này. Trên cơ sở đó, các gói hỗ trợ tổng thể này có thể được nhân rộng dần sang các cụm doanh nghiệp khác.
TBKTSG: Có ý kiến cho rằng đất và tín dụng là hai vấn đề mà khu vực tư nhân bao giờ cũng khó tiếp cận và bị thiệt thòi hơn so với khu vực DNNN và kể cả khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Chỉ cần xóa bỏ bất công này là một cách hỗ trợ cơ bản cho khu vực tư nhân?
- Xóa bỏ bất công này là cần thiết nhưng không hẳn là một cách hỗ trợ cơ bản cho khu vực tư nhân. Trên thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng cần có đất hoặc vốn ngân hàng mới bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi khởi sự kinh doanh, doanh nghiệp cần nhiều sự hỗ trợ khác có tầm quan trọng như thương quyền kinh doanh; thông tin kinh doanh; cơ hội tiếp cận tới mua sắm dịch vụ, hàng hóa công; hỗ trợ để tăng năng lực quản trị doanh nghiệp; cải thiện thủ tục hành chính... Hỗ trợ trong những lĩnh vực này cũng có ý nghĩa quan trọng như trong lĩnh vực đất đai và tín dụng.
Nguồn: Thesaigontimes
Ông Lê Duy Bình.
(TBKTSG) - Vì sự thịnh vượng của nền kinh tế, tư duy về doanh nghiệp tư nhân cũng như các chính sách hỗ trợ đối với khu vực này cần phải được thay đổi một cách mạnh mẽ hơn. Đây là thông điệp mà ông Lê Duy Bình, Trưởng nhóm nghiên cứu đề tài “Vươn tới tầm cao mới: rà soát một số lĩnh vực chính sách ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp tư nhân” muốn đề cập qua cuộc phỏng vấn dưới đây của TBKTSG.
TBKTSG: Báo cáo dường như chỉ mới dừng ở việc nêu hiện tượng mà chưa lý giải vì sao chính sách cho khu vực tư nhân vẫn còn hạn chế như vậy?
- Ông Lê Duy Bình: Có thể nói, cái nhìn định kiến đối với tư nhân xuất phát từ mô hình kinh tế trước đây vẫn còn rơi rớt trong nhiều chính sách. Ngoài ra lợi ích cục bộ của các cơ quan ban hành chính sách cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng này.
Trong báo cáo, chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc cần có một tư duy mới về khu vực kinh tế tư nhân và về cách thức hỗ trợ đối với khu vực này. Điều này còn quan trọng hơn việc xử lý một số những bất cập trong một số luật và nghị định mà báo cáo đã phát hiện và khuyến nghị điều chỉnh. Chỉ khi tư duy đổi mới thực sự thì mới có thể kỳ vọng được sự thay đổi căn bản, lâu dài trong chính sách, pháp luật, thể chế và cách hành xử của các cơ quan quản lý vì sự phát triển hiệu quả của các doanh nghiệp tư nhân.
TBKTSG: Theo nhóm nghiên cứu, cần coi khu vực tư nhân là trụ cột của nền kinh tế và chính sách phát triển công nghiệp; các chương trình nâng cao năng lực quốc gia cần dựa trên nền tảng doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là khu vực tư nhân? Đây là một đề xuất mạnh mẽ nhưng cơ sở của đề xuất này là ở đâu?
- Nếu tự hỏi liệu có nền kinh tế nào trên thế giới có năng lực cạnh tranh mạnh mà chỉ dựa vào doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hoặc chỉ dựa vào doanh nghiệp đầu tư nước ngoài không? Tôi nghĩ mỗi chúng ta đều có thể nhanh chóng khẳng định một cách chắc chắn là không.
Rõ ràng, năng lực cạnh tranh quốc gia và sự tự chủ của nền kinh tế không thể chỉ dựa vào các doanh nghiệp nước ngoài. Doanh nghiệp tư nhân cần được trao một sứ mệnh rõ ràng trong việc phát triển nhiều ngành kinh tế mà các DNNN không nên làm hoặc làm không hiệu quả.
Sự thừa nhận về vai trò trụ cột của khu vực tư nhân, trong đó có các doanh nghiệp tư nhân, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc làm thay đổi tư duy của các cơ quan hoạch định chính sách, các cơ quan quản lý. Điều đó đảm bảo sự tiếp cận bình đẳng, không thiên vị tới các nguồn lực của đất nước, tới các quyền kinh doanh mà trước đây chỉ dành cho các DNNN.
Sự tự chủ kinh tế và năng lực cạnh tranh mạnh mẽ của các nền kinh tế như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Chile có sự góp phần rất lớn từ năng lực cạnh tranh ở cấp vi mô - tức là dựa trên năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước và hầu hết các doanh nghiệp này đều là doanh nghiệp tư nhân. Ví dụ từ những quốc gia này rõ ràng rất đáng để chúng ta suy ngẫm và học hỏi.
TBKTSG: Nếu coi tư nhân là trụ cột của nền kinh tế thì lúc ấy vai trò của DNNN sẽ như thế nào?
- Chắc hẳn là với một trụ cột nữa, nền kinh tế sẽ vững chắc hơn. Coi doanh nghiệp tư nhân là một trụ cột đồng nghĩa với việc buộc các DNNN và doanh nghiệp tư nhân phải cạnh tranh một cách bình đẳng, theo đúng các nguyên tắc căn bản của nền kinh tế thị trường. Các DNNN và tư nhân đều có được cơ hội ngang bằng khi tiếp cận tới các nguồn lực quốc gia, các cơ hội kinh doanh và cũng có thể đều bị loại ra khỏi thị trường nếu như hoạt động yếu kém.
Áp dụng triệt để các nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng này, chúng ta có thể thấy một khu vực doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh hơn, và một khu vực DNNN nhỏ hơn trong tương lai. Nhỏ hơn song có thể sẽ hiệu quả hơn, mạnh và có tính cạnh tranh cao hơn. Điều này, tính tổng lại thì chắc chắn sẽ có lợi hơn cho toàn bộ nền kinh tế và cho sự thịnh vượng chung của quốc gia.
TBKTSG: Theo báo cáo, hỗ trợ của Nhà nước trong thời gian qua rất tản mạn, chưa phù hợp thông lệ quốc tế. Vậy, theo ông, Nhà nước cần thay đổi cách thức, tư duy hỗ trợ như thế nào? Nên tập trung hỗ trợ những gì cho khu vực tư nhân?
- Sự hỗ trợ của Nhà nước, thoạt nhìn trong các văn bản thì rất nhiều. Quá nhiều song lại manh mún và không có trọng điểm. Thuế và tiền thuê đất là hai hình thức được áp dụng phổ biến nhất và dường như các nhà hoạch định chính sách đang lạm dụng hai hình thức này. Thông thường, đây là cách hỗ trợ dễ làm nhất và ít phải sáng tạo nhất. Như đã trình bày trong báo cáo, các doanh nghiệp lại không hưởng ứng tích cực đối với hai hình thức hỗ trợ này. Họ cần những hình thức hỗ trợ thiết thực, sát với nhu cầu của họ.
Các chính sách hỗ trợ nên được tập trung một cách trọng điểm vào một hoặc một vài cụm doanh nghiệp trong một ngành kinh tế có tiềm năng tạo ra năng lực cạnh tranh lớn nhất. Tại các cụm doanh nghiệp đó sẽ có những gói hỗ trợ tổng thể, đồng bộ về thuế, đất đai, tư vấn về khoa học, công nghệ, thị trường, trình độ quản lý, đào tạo nghề gắn với các nhu cầu của doanh nghiệp. Điều này sẽ hấp dẫn hơn nhiều đối với các doanh nghiệp và có thể tạo ra sự khác biệt về năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này. Trên cơ sở đó, các gói hỗ trợ tổng thể này có thể được nhân rộng dần sang các cụm doanh nghiệp khác.
TBKTSG: Có ý kiến cho rằng đất và tín dụng là hai vấn đề mà khu vực tư nhân bao giờ cũng khó tiếp cận và bị thiệt thòi hơn so với khu vực DNNN và kể cả khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Chỉ cần xóa bỏ bất công này là một cách hỗ trợ cơ bản cho khu vực tư nhân?
- Xóa bỏ bất công này là cần thiết nhưng không hẳn là một cách hỗ trợ cơ bản cho khu vực tư nhân. Trên thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng cần có đất hoặc vốn ngân hàng mới bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi khởi sự kinh doanh, doanh nghiệp cần nhiều sự hỗ trợ khác có tầm quan trọng như thương quyền kinh doanh; thông tin kinh doanh; cơ hội tiếp cận tới mua sắm dịch vụ, hàng hóa công; hỗ trợ để tăng năng lực quản trị doanh nghiệp; cải thiện thủ tục hành chính... Hỗ trợ trong những lĩnh vực này cũng có ý nghĩa quan trọng như trong lĩnh vực đất đai và tín dụng.
Nguồn: Thesaigontimes
Vinashin là vấn đề thế kỷ
Nguyễn Trần Bạt, Chủ tịch, Tổng Giám đốc Tập đoàn Invest Consult
Tạp chí Pháp lý cuối tháng
Hai vấn đề nhân dân cả nước đang rất quan tâm và cũng vừa được phản ánh nóng bỏng ở Quốc hội là Vinashin và Bauxite Tây Nguyên, với tư cách là một nhà kinh tế, ông Nguyễn Trần Bạt đã có những nhận xét đáng quan tâm xung quanh vụ đổ vỡ Vinashin.
Vinashin là loại dự án, không chỉ liên quan đến kinh tế, mà là loại vấn đề liên quan một cách toàn diện đến tương lai cấu trúc sống của xã hội chúng ta,vì thế xã hội quan tâm một cách rất riết ráo đối với chuyện này. Vinashin cũng là một vấn đề chiến lược. Bởi vì nó là kết quả của một quá trình thí nghiệm mô hình tập đoàn kinh tế. Cương lĩnh của chúng ta nói đến tập đoàn kinh tế, khu vực kinh tế Nhà nước như là một lực lượng chủ đạo. Điều này đang gây ra các tranh luận khá rộng rãi trong xã hội, làm cho vấn đề các tập đoàn kinh tế trở thành một vấn đề nóng bỏng. Cho nên, vấn đề Vinashin, ngoài ý nghĩa về sự thua thiệt về mặt tiền bạc thuần tuý, nó còn có một ý nghĩa rất quan trọng, đó là vai trò của khu vực kinh tế nhà nước đối với toàn bộ tiến trình phát triển kinh tế và xã hội Việt Nam. Đấy là vấn đề rất lớn, mà nói cho cùng là vấn đề thế kỷ. Bởi vì nói đến thời kỳ quá độ tiến lên CNXH mà người Trung Quốc nói rằng phải mất hàng trăm năm nữa thì đấy tức là những vấn đề thế kỷ.
Vinashin là một vấn đề thế kỷ, do đó cần phải có một thái độ thế kỷ đối với vấn đề này. Nhưng thái độ đối với vấn đề này phải rất thực tế.
Trước hết, chúng ta tìm ra các khuyết tật của quá trình hình thành dự án này và chúng ta phải có tiếng nói với Đảng, Quốc hội, Chính phủ trong việc quan niệm cho đúng thực trạng tâm lý xã hội đối với sự xuất hiện các vấn đề. Vấn đề Vinashin các đại biểu Quốc hội thường chỉ mới nhìn những khía cạnh thất thoát tài chính, còn các ý kiến về cấu trúc các tập đoàn, cấu trúc về phương diện quản lý các tập đoàn, cấu trúc của các vấn đề quản trị tài sản quốc gia mà các tập đoàn nắm giữ chưa được làm rõ trong quá trình thảo luận.
Mỗi một lực lượng xã hội khi tham gia vào quá trình tranh luận phải có một thái độ khiêm tốn vừa phải và tôn trọng lẫn nhau. Và người bắt đầu phải là Chính phủ vì Chính phủ có quyền lực, Chính phủ có địa vị cao hơn trong đời sống xã hội. Ví dụ, tôi hơi chạnh lòng khi nghe được tuyên bố của Chính phủ rằng tháng 11 này chúng ta có một Vinashin mới. Chúng ta đã từng có một Vinashin với tất cả các khuyết tật của nó và khuyết tật của thể chế quản lý nó, các khuyết tật của kinh nghiệm quản lý nó… nhiều khuyết tật hùn vào mới sinh ra hậu quả như vậy. Chúng ta chưa lý giải được sự thất bại của nó mà chúng ta lại muốn có ngay một cái mới. Câu hỏi có thể đặt ra là “đến bao giờ chúng ta lại phải bàn về Vinashin mới giống như chúng ta đang bàn về Vinashin cũ?” Có lẽ Chính phủ nên thận trọng hơn khi đưa ra các thông báo như thế.
Chính phủ của chúng ta từng khá thận trọng về chuyện này. Nhiệm kỳ trước Chính phủ mới chỉ giới thiệu khái niệm tập đoàn. Chính phủ mới dọ dẫm thí điểm hai tập đoàn Bưu chính viễn thông (VNPT) và Than khoáng sản. Mặc dù có không ít vấn đề nhưng VNPT khá thành công, đưa được vào Việt Nam một ngành công nghiệp hiện đại. Kinh doanh viễn thông bây giờ trở thành một hoạt động kinh doanh rất có lời và ổn định, trong đó chống được thế độc quyền bằng sự xuất hiện của các công ty viễn thông khác nằm ở các địa phương khác nhau như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Tập đoàn này tương đối yên ổn và các công ty bưu chính viễn thông trở thành một tập đoàn có không khí cạnh tranh và nó phá vỡ thế độc quyền. Phải nói rằng xét về mặt thị trường thì bưu chính viễn thông là thị trường tương đối lành mạnh trong tất cả các thị trường chúng ta có ở Việt Nam.
Việc thể nghiệm tập đoàn ở giai đoạn gần đây có lẽ hơi vội vàng. Có lẽ Chính phủ chưa quan niệm rằng xây dựng một tập đoàn chính là xây dựng một thị trường kinh doanh mà tập đoàn đó đảm nhiệm. Trong quá trình nghiêm cứu lịch sử hình thành khái niệm này tôi đa phát hiện ra điều đó. Chúng ta gọi nó là tập đoàn nhưng chúng ta chưa xây dựng được qui chế cho nó thì đó là một khuyết tật, nhưng đấy cũng chưa phải là khuyết tật chính. Cái khuyết tật chính là ở chỗ chúng ta chưa xây dựng nổi thị trường cho nó. Song song với việc hình thành một tập đoàn như một quả đấm thì chúng ta cần phải xây dựng một thị trường có sức cạnh tranh một cách bình đẳng để nó hạn chế sự cực đoan của một tập đoàn. Bản chất của việc xây dựng tập đoàn là xây dựng thị trường. Mà xây dựng thị trường là xây dựng cả thị trường ổn định và thị trường phát triển. Không có thị trường ổn định là phiêu lưu, còn không có thị trường phát triển là không có triển vọng.
Chúng ta còn có một cái sai thứ ba, đó là chúng ta không quan niệm được quy mô thí nghiệm. Bây giờ để tìm ra những thị trường khác nhau để tiếp tục thành lập những tập đoàn là không còn nữa, hay nói cách khách là tất cả những lĩnh vực kinh tế, những thị trường kinh tế, thị trường ngành có thể lập tập đoàn thì chúng ta lập hết rồi. Tức là sau khi kết luận về thí điểm thì chúng ta không có cái gì để làm thêm, bởi chúng ta thí điểm hết các vùng, các ngành kinh tế mà chúng ta có.
Còn vấn đề thứ tư nữa quan trọng hơn trong việc nghiên cứu Vinashin chính là chúng ta bỏ rơi thị trường nội địa. Chúng ta có một ngành công nghiệp đánh cá và chế biến hải sản với một số lượng xuất khẩu chiếm không biết bao nhiêu % của GDP. Nhưng phần lớn các tàu đánh cá của chúng ta không có năng lực để đánh bắt cá xa bờ, không có năng lực tự vệ trước thiên tai và không có sức đề kháng đối với sự mất an ninh phi truyền thống ở ngoài biển , thậm chí chúng ta không giải quyết nổi cả vùng săn bắt của nền công nghiệp đánh bắt và chế biến hải sản. Hay nói cách khác, chúng ta bỏ quên thị trường rất truyền thống. Đáng ra, việc đầu tiên mà Vinashin phải làm là đóng tàu, không phải những con tàu vài chục tấn, mà là tàu đánh cá để phát triển ngành công nghiệp đánh bắt và chế biến hải sản mà thiên hạ đã đi rất xa rồi. Chúng ta biết rằng có những con tàu mà chi phí để làm ra nó không lớn lắm, nhưng mỗi năm nó làm ra hàng triệu đô la, ví dụ như các tàu đánh bắt cua ở biển bắc, tàu đánh bắt cá ngừ…
Tóm lại, đóng tàu mà không nhìn ngó thị trường nội địa để vực dậy các khu vực kinh tế khác có thể liên đới là một sai lầm về mặt chiến lược. Chúng ta mua những con tàu, con phà để làm sướng mắt, sướng chỗ nằm của một số người, đó là cách nhìn hoàn toàn phi nhân dân trong một chính sách vĩ mô. Tiếng kêu cứu, tiếng khóc về bão tố, về mất an toàn, mất an ninh phi truyền thống của ngư dân diễn ra liên tục trong hàng chục năm nay. Vậy tại sao Vinashin không coi đấy là thị trường để cung cấp dịch vụ đóng những con tàu có khả năng đề kháng cả với cướp biển? Trong báo cáo của Vinashin không hề có bất kỳ sự nghiên cứu nào để phục vụ các ngành công nghiệp trong nước cả, mà chỉ có những ảo tưởng về chuyện đóng những con tàu viễn dương.
Nhân chuyện Vinashin, tôi đề nghị báo chí phải nhìn nhận lại, đừng truy đuổi những trách nhiệm chính trị quá lớn mà hãy truy đuổi những khuyết tật chính trị, khuyết tật quản trị để từ đó cung cấp cho Đảng, cho Quốc hội và Chính phủ những gợi ý xây dựng để phát triển.
N. T. B.
Nguồn: Chungta
Tạp chí Pháp lý cuối tháng
Hai vấn đề nhân dân cả nước đang rất quan tâm và cũng vừa được phản ánh nóng bỏng ở Quốc hội là Vinashin và Bauxite Tây Nguyên, với tư cách là một nhà kinh tế, ông Nguyễn Trần Bạt đã có những nhận xét đáng quan tâm xung quanh vụ đổ vỡ Vinashin.
Vinashin là loại dự án, không chỉ liên quan đến kinh tế, mà là loại vấn đề liên quan một cách toàn diện đến tương lai cấu trúc sống của xã hội chúng ta,vì thế xã hội quan tâm một cách rất riết ráo đối với chuyện này. Vinashin cũng là một vấn đề chiến lược. Bởi vì nó là kết quả của một quá trình thí nghiệm mô hình tập đoàn kinh tế. Cương lĩnh của chúng ta nói đến tập đoàn kinh tế, khu vực kinh tế Nhà nước như là một lực lượng chủ đạo. Điều này đang gây ra các tranh luận khá rộng rãi trong xã hội, làm cho vấn đề các tập đoàn kinh tế trở thành một vấn đề nóng bỏng. Cho nên, vấn đề Vinashin, ngoài ý nghĩa về sự thua thiệt về mặt tiền bạc thuần tuý, nó còn có một ý nghĩa rất quan trọng, đó là vai trò của khu vực kinh tế nhà nước đối với toàn bộ tiến trình phát triển kinh tế và xã hội Việt Nam. Đấy là vấn đề rất lớn, mà nói cho cùng là vấn đề thế kỷ. Bởi vì nói đến thời kỳ quá độ tiến lên CNXH mà người Trung Quốc nói rằng phải mất hàng trăm năm nữa thì đấy tức là những vấn đề thế kỷ.
Vinashin là một vấn đề thế kỷ, do đó cần phải có một thái độ thế kỷ đối với vấn đề này. Nhưng thái độ đối với vấn đề này phải rất thực tế.
Trước hết, chúng ta tìm ra các khuyết tật của quá trình hình thành dự án này và chúng ta phải có tiếng nói với Đảng, Quốc hội, Chính phủ trong việc quan niệm cho đúng thực trạng tâm lý xã hội đối với sự xuất hiện các vấn đề. Vấn đề Vinashin các đại biểu Quốc hội thường chỉ mới nhìn những khía cạnh thất thoát tài chính, còn các ý kiến về cấu trúc các tập đoàn, cấu trúc về phương diện quản lý các tập đoàn, cấu trúc của các vấn đề quản trị tài sản quốc gia mà các tập đoàn nắm giữ chưa được làm rõ trong quá trình thảo luận.
Mỗi một lực lượng xã hội khi tham gia vào quá trình tranh luận phải có một thái độ khiêm tốn vừa phải và tôn trọng lẫn nhau. Và người bắt đầu phải là Chính phủ vì Chính phủ có quyền lực, Chính phủ có địa vị cao hơn trong đời sống xã hội. Ví dụ, tôi hơi chạnh lòng khi nghe được tuyên bố của Chính phủ rằng tháng 11 này chúng ta có một Vinashin mới. Chúng ta đã từng có một Vinashin với tất cả các khuyết tật của nó và khuyết tật của thể chế quản lý nó, các khuyết tật của kinh nghiệm quản lý nó… nhiều khuyết tật hùn vào mới sinh ra hậu quả như vậy. Chúng ta chưa lý giải được sự thất bại của nó mà chúng ta lại muốn có ngay một cái mới. Câu hỏi có thể đặt ra là “đến bao giờ chúng ta lại phải bàn về Vinashin mới giống như chúng ta đang bàn về Vinashin cũ?” Có lẽ Chính phủ nên thận trọng hơn khi đưa ra các thông báo như thế.
Chính phủ của chúng ta từng khá thận trọng về chuyện này. Nhiệm kỳ trước Chính phủ mới chỉ giới thiệu khái niệm tập đoàn. Chính phủ mới dọ dẫm thí điểm hai tập đoàn Bưu chính viễn thông (VNPT) và Than khoáng sản. Mặc dù có không ít vấn đề nhưng VNPT khá thành công, đưa được vào Việt Nam một ngành công nghiệp hiện đại. Kinh doanh viễn thông bây giờ trở thành một hoạt động kinh doanh rất có lời và ổn định, trong đó chống được thế độc quyền bằng sự xuất hiện của các công ty viễn thông khác nằm ở các địa phương khác nhau như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Tập đoàn này tương đối yên ổn và các công ty bưu chính viễn thông trở thành một tập đoàn có không khí cạnh tranh và nó phá vỡ thế độc quyền. Phải nói rằng xét về mặt thị trường thì bưu chính viễn thông là thị trường tương đối lành mạnh trong tất cả các thị trường chúng ta có ở Việt Nam.
Việc thể nghiệm tập đoàn ở giai đoạn gần đây có lẽ hơi vội vàng. Có lẽ Chính phủ chưa quan niệm rằng xây dựng một tập đoàn chính là xây dựng một thị trường kinh doanh mà tập đoàn đó đảm nhiệm. Trong quá trình nghiêm cứu lịch sử hình thành khái niệm này tôi đa phát hiện ra điều đó. Chúng ta gọi nó là tập đoàn nhưng chúng ta chưa xây dựng được qui chế cho nó thì đó là một khuyết tật, nhưng đấy cũng chưa phải là khuyết tật chính. Cái khuyết tật chính là ở chỗ chúng ta chưa xây dựng nổi thị trường cho nó. Song song với việc hình thành một tập đoàn như một quả đấm thì chúng ta cần phải xây dựng một thị trường có sức cạnh tranh một cách bình đẳng để nó hạn chế sự cực đoan của một tập đoàn. Bản chất của việc xây dựng tập đoàn là xây dựng thị trường. Mà xây dựng thị trường là xây dựng cả thị trường ổn định và thị trường phát triển. Không có thị trường ổn định là phiêu lưu, còn không có thị trường phát triển là không có triển vọng.
Chúng ta còn có một cái sai thứ ba, đó là chúng ta không quan niệm được quy mô thí nghiệm. Bây giờ để tìm ra những thị trường khác nhau để tiếp tục thành lập những tập đoàn là không còn nữa, hay nói cách khách là tất cả những lĩnh vực kinh tế, những thị trường kinh tế, thị trường ngành có thể lập tập đoàn thì chúng ta lập hết rồi. Tức là sau khi kết luận về thí điểm thì chúng ta không có cái gì để làm thêm, bởi chúng ta thí điểm hết các vùng, các ngành kinh tế mà chúng ta có.
Còn vấn đề thứ tư nữa quan trọng hơn trong việc nghiên cứu Vinashin chính là chúng ta bỏ rơi thị trường nội địa. Chúng ta có một ngành công nghiệp đánh cá và chế biến hải sản với một số lượng xuất khẩu chiếm không biết bao nhiêu % của GDP. Nhưng phần lớn các tàu đánh cá của chúng ta không có năng lực để đánh bắt cá xa bờ, không có năng lực tự vệ trước thiên tai và không có sức đề kháng đối với sự mất an ninh phi truyền thống ở ngoài biển , thậm chí chúng ta không giải quyết nổi cả vùng săn bắt của nền công nghiệp đánh bắt và chế biến hải sản. Hay nói cách khác, chúng ta bỏ quên thị trường rất truyền thống. Đáng ra, việc đầu tiên mà Vinashin phải làm là đóng tàu, không phải những con tàu vài chục tấn, mà là tàu đánh cá để phát triển ngành công nghiệp đánh bắt và chế biến hải sản mà thiên hạ đã đi rất xa rồi. Chúng ta biết rằng có những con tàu mà chi phí để làm ra nó không lớn lắm, nhưng mỗi năm nó làm ra hàng triệu đô la, ví dụ như các tàu đánh bắt cua ở biển bắc, tàu đánh bắt cá ngừ…
Tóm lại, đóng tàu mà không nhìn ngó thị trường nội địa để vực dậy các khu vực kinh tế khác có thể liên đới là một sai lầm về mặt chiến lược. Chúng ta mua những con tàu, con phà để làm sướng mắt, sướng chỗ nằm của một số người, đó là cách nhìn hoàn toàn phi nhân dân trong một chính sách vĩ mô. Tiếng kêu cứu, tiếng khóc về bão tố, về mất an toàn, mất an ninh phi truyền thống của ngư dân diễn ra liên tục trong hàng chục năm nay. Vậy tại sao Vinashin không coi đấy là thị trường để cung cấp dịch vụ đóng những con tàu có khả năng đề kháng cả với cướp biển? Trong báo cáo của Vinashin không hề có bất kỳ sự nghiên cứu nào để phục vụ các ngành công nghiệp trong nước cả, mà chỉ có những ảo tưởng về chuyện đóng những con tàu viễn dương.
Nhân chuyện Vinashin, tôi đề nghị báo chí phải nhìn nhận lại, đừng truy đuổi những trách nhiệm chính trị quá lớn mà hãy truy đuổi những khuyết tật chính trị, khuyết tật quản trị để từ đó cung cấp cho Đảng, cho Quốc hội và Chính phủ những gợi ý xây dựng để phát triển.
N. T. B.
Nguồn: Chungta
Vạ lây vì Vinashin
Nhật Minh – Hoàng Ly
Chi phí huy động vốn quốc tế của Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam sẽ tăng sau sự kiện Vinashin xin hoãn nợ.
Xếp hạng tín nhiệm quốc gia bị hạ bậc, vị trí của các nhà băng lớn theo đánh giá của Moody’s hay Standard & Poor’s cũng giảm theo. Chưa hết, một số doanh nghiệp phát hành trái phiếu quốc tế cũng bị ảnh hưởng vì Vinashin.
Trao đổi với VnExpress.net, Chủ tịch một quỹ đầu tư cho biết, vụ Vinashin mới vỡ lở ở Việt Nam thời gian gần đây nhưng dân trong ngành tài chính thì dự đoán trước đó khá lâu. Năm 2008, trái phiếu quốc tế của Vinashin đã được mua bán trên thị trường với lợi tức từ 24-27% một năm, thể hiện mức độ rủi ro rất cao mà các nhà đầu tư nhận định về tập đoàn này. Cũng từ đó, ông này nhận định, chi phí huy động vốn quốc tế nói chung của Việt Nam (bao gồm cả Chính phủ và các doanh nghiệp) cũng sẽ bị gia tăng.
Chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành nhận định, khó khăn nhất sẽ là các ngân hàng đang có trái phiếu phát hành trên thị trường quốc tế. Lợi tức đối với các trái phiếu này sẽ tăng cao khi nhà đầu tư lo ngại hơn về rủi ro trả nợ. Trong trường hợp các ngân hàng nội địa chào bán cổ phiếu cho đối tác nước ngoài, thị giá của chứng khoán cũng sẽ bị ảnh hưởng do uy tín tài chính của các ngân hàng Việt Nam nói chung bị giảm sút.
Tuy nhiên, phó tổng giám đốc một ngân hàng thương mại lớn lưu ý, việc hạ bậc tín nhiệm của Moody’s và Standard & Poor’s đối với một số nhà băng như Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV), Techcombank, Vietcombank được thực hiện theo yêu cầu của chính những tổ chức này. Vị này nói: “Mức đánh giá của họ cũng phản ánh tình hình chung của ngành chứ không phải một ngân hàng cá biệt nào”.
Trong khi đó, một lãnh đạo của BIDV thì cho rằng, không chỉ có các ngân hàng, các doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu quốc tế hay việc phát hành công cụ nợ của Chính phủ cũng sẽ bị đội chi phí.
Ông này nói, khi các hãng xếp hạng tín nhiệm đánh giá mức độ rủi ro cao hơn thì lợi tức đưa ra cũng phải cao hơn. Điều này càng gia tăng sau sự kiện Vinashin không trả được nợ trái phiếu quốc tế đợt đầu tiên. Tuy nhiên, chi phí huy động vốn trong nước thì không bị ảnh hưởng.
Trong số các doanh nghiệp nội địa có khả năng bị ảnh hưởng từ việc hạ bậc xếp hạng tín nhiệm, với nguyên nhân quan trọng từ Vinashin, Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai là cái tên đứng đầu. Tổ chức này vừa tổ chức đại hội cổ đông và thông qua phương án phát hành 200 triệu USD trái phiếu quốc tế.
Trao đổi với VnExpress.net, ông Đoàn Nguyên Đức – Chủ tịch Hội đồng quản trị Hoàng Anh Gia Lai cho biết, đơn vị này đã mời một hãng xếp hạng tín nhiệm vào đánh giá và trong tháng 1/2011 mới biết kết quả. Vì thế, vào thời điểm hiện tại, Hoàng Anh Gia Lai chưa thể biết chính xác về chi phí huy động vốn quốc tế cho đợt phát hành sắp diễn ra.
Làm gia tăng chi phí huy động vốn nước ngoài của các doanh nghiệp nội địa, giá trái phiếu quốc tế của Vinashin cũng chịu những tác động từ việc tập đoàn này không trả được khoản nợ đợt đầu. Một chuyên gia có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề “buôn vốn” cho biết, năm 2009, giá trái phiếu Vinashin có mức lợi tức khoảng 20% một năm. Sau khi các thông tin về việc Vinashin không trả được khoản nợ đầu tiên được loan đi, trái phiếu của Vinashin sẽ bị giảm giá thêm nữa (mức lợi tức cao hơn 20%).
Tuy nhiên, việc Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy xin hoãn trả nợ không đồng nghĩa với việc trái phiếu quốc tế của Vinashin không có ai mua hay doanh nghiệp Việt Nam không thể huy động được vốn từ nước ngoài, chuyên gia này khẳng định.
“Nếu nhà đầu tư nào chào bán trái phiếu Vinashin với lợi tức đủ cao thì tất yếu sẽ có người mua, bởi sẽ có người chấp nhận rủi ro khi mức giá hời. Tất nhiên, doanh nghiệp khác cũng phải huy động vốn quốc tế với chi phí cao hơn trước đây”, ông này nói.
N. M. – H. L.
Nguồn: Vnexpress
Chi phí huy động vốn quốc tế của Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam sẽ tăng sau sự kiện Vinashin xin hoãn nợ.
Xếp hạng tín nhiệm quốc gia bị hạ bậc, vị trí của các nhà băng lớn theo đánh giá của Moody’s hay Standard & Poor’s cũng giảm theo. Chưa hết, một số doanh nghiệp phát hành trái phiếu quốc tế cũng bị ảnh hưởng vì Vinashin.
Trao đổi với VnExpress.net, Chủ tịch một quỹ đầu tư cho biết, vụ Vinashin mới vỡ lở ở Việt Nam thời gian gần đây nhưng dân trong ngành tài chính thì dự đoán trước đó khá lâu. Năm 2008, trái phiếu quốc tế của Vinashin đã được mua bán trên thị trường với lợi tức từ 24-27% một năm, thể hiện mức độ rủi ro rất cao mà các nhà đầu tư nhận định về tập đoàn này. Cũng từ đó, ông này nhận định, chi phí huy động vốn quốc tế nói chung của Việt Nam (bao gồm cả Chính phủ và các doanh nghiệp) cũng sẽ bị gia tăng.
Chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành nhận định, khó khăn nhất sẽ là các ngân hàng đang có trái phiếu phát hành trên thị trường quốc tế. Lợi tức đối với các trái phiếu này sẽ tăng cao khi nhà đầu tư lo ngại hơn về rủi ro trả nợ. Trong trường hợp các ngân hàng nội địa chào bán cổ phiếu cho đối tác nước ngoài, thị giá của chứng khoán cũng sẽ bị ảnh hưởng do uy tín tài chính của các ngân hàng Việt Nam nói chung bị giảm sút.
Tuy nhiên, phó tổng giám đốc một ngân hàng thương mại lớn lưu ý, việc hạ bậc tín nhiệm của Moody’s và Standard & Poor’s đối với một số nhà băng như Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV), Techcombank, Vietcombank được thực hiện theo yêu cầu của chính những tổ chức này. Vị này nói: “Mức đánh giá của họ cũng phản ánh tình hình chung của ngành chứ không phải một ngân hàng cá biệt nào”.
Trong khi đó, một lãnh đạo của BIDV thì cho rằng, không chỉ có các ngân hàng, các doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu quốc tế hay việc phát hành công cụ nợ của Chính phủ cũng sẽ bị đội chi phí.
Ông này nói, khi các hãng xếp hạng tín nhiệm đánh giá mức độ rủi ro cao hơn thì lợi tức đưa ra cũng phải cao hơn. Điều này càng gia tăng sau sự kiện Vinashin không trả được nợ trái phiếu quốc tế đợt đầu tiên. Tuy nhiên, chi phí huy động vốn trong nước thì không bị ảnh hưởng.
Trong số các doanh nghiệp nội địa có khả năng bị ảnh hưởng từ việc hạ bậc xếp hạng tín nhiệm, với nguyên nhân quan trọng từ Vinashin, Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai là cái tên đứng đầu. Tổ chức này vừa tổ chức đại hội cổ đông và thông qua phương án phát hành 200 triệu USD trái phiếu quốc tế.
Trao đổi với VnExpress.net, ông Đoàn Nguyên Đức – Chủ tịch Hội đồng quản trị Hoàng Anh Gia Lai cho biết, đơn vị này đã mời một hãng xếp hạng tín nhiệm vào đánh giá và trong tháng 1/2011 mới biết kết quả. Vì thế, vào thời điểm hiện tại, Hoàng Anh Gia Lai chưa thể biết chính xác về chi phí huy động vốn quốc tế cho đợt phát hành sắp diễn ra.
Làm gia tăng chi phí huy động vốn nước ngoài của các doanh nghiệp nội địa, giá trái phiếu quốc tế của Vinashin cũng chịu những tác động từ việc tập đoàn này không trả được khoản nợ đợt đầu. Một chuyên gia có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề “buôn vốn” cho biết, năm 2009, giá trái phiếu Vinashin có mức lợi tức khoảng 20% một năm. Sau khi các thông tin về việc Vinashin không trả được khoản nợ đầu tiên được loan đi, trái phiếu của Vinashin sẽ bị giảm giá thêm nữa (mức lợi tức cao hơn 20%).
Tuy nhiên, việc Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy xin hoãn trả nợ không đồng nghĩa với việc trái phiếu quốc tế của Vinashin không có ai mua hay doanh nghiệp Việt Nam không thể huy động được vốn từ nước ngoài, chuyên gia này khẳng định.
“Nếu nhà đầu tư nào chào bán trái phiếu Vinashin với lợi tức đủ cao thì tất yếu sẽ có người mua, bởi sẽ có người chấp nhận rủi ro khi mức giá hời. Tất nhiên, doanh nghiệp khác cũng phải huy động vốn quốc tế với chi phí cao hơn trước đây”, ông này nói.
N. M. – H. L.
Nguồn: Vnexpress
Đầu tư công và lạm phát
Huỳnh Bửu Sơn, Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
Điều quyết định cho một quốc gia có sớm trở nên cường thịnh hay không tùy thuộc ở chỗ cách thức có hiệu quả hay không mà quốc gia đó sử dụng để sung dụng các nguồn lực - đặc biệt là nội lực.
Vào đầu tháng 12/2010, mặc dù Chính phủ đã kêu gọi các địa phương thực hiện những biện pháp can thiệp quyết liệt với mong muốn ngăn chặn đà tăng giá dường như có xu hướng ngày càng mạnh trên thị trường trong nước, khả năng kiềm chế lạm phát năm 2010 dưới hai con số xem ra rất khó khăn, khi vào cuối tháng 11/2010, tốc độ lạm phát đã ngấp nghé ngưỡng 10% và tháng 12 là tháng của lễ tết, của mua sắm và theo "truyền thống thị trường", đó vẫn là một trong những tháng có chỉ số tăng giá cao nhất. Việc lạm phát vượt ngưỡng hai con số không phải là điều đáng ngạc nhiên, tuy rằng lẽ ra, với một chính sách tiền tệ thắt chặt suốt năm 2010 bằng các biện pháp hạn chế gia tăng tín dụng ngân hàng không quá 25% và duy trì một mức lãi suất cơ bản (base rate) cao, người ta có thể kỳ vọng một mức lạm phát thấp hơn.
Chắc chắn người ta không thể cáo buộc chính sách tiền tệ năm 2010 là "thủ phạm" gây ra lạm phát. Trong suốt thời kỳ suy thoái kinh tế của hai năm 2008-2009, hậu quả trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, chính sách tiền tệ vẫn chưa hề được nới lỏng thực sự, điều này được minh chứng qua việc Ngân hàng Nhà nước chưa bao giờ hạ lãi suất cơ bản (base rate) xuống dưới 8%/năm, trong khi những đồng nghiệp của họ trong khu vực và trên thế giới đã đưa mức lãi suất này xuống rất thấp, có trường hợp xấp xỉ 0%.
Có thể nói, trong nhiều năm, chúng ta đã theo đuổi một chính sách tài khóa quá cởi mở và rất dễ dàng, thể hiện qua việc luật hóa một mức khiếm hụt ngân sách quốc gia hằng năm thường xuyên là trên 5% và trên thực tế có khi lên đến mức 8% GDP. So sánh với nhiều nước đang phát triển khác, đây là một mức khiếm hụt khá cao, nếu biết rằng nguồn thu ngân sách của nước ta (chủ yếu là từ thuế) chiếm đến 28 - 29% GDP.
Ngay cả việc hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp nhằm giúp họ vượt khó thông qua chương trình kích cầu 17 ngàn tỉ đồng cũng không phải là một biện pháp tiền tệ mà lại là một biện pháp tài khóa. Nguồn tiền sử dụng được trích từ ngân sách chứ không phải là một khoản tín dụng từ Ngân hàng Nhà nước. Điều đáng quan tâm là rất ít khi chúng ta chứng kiến được một sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, hai cột trụ chính của chính sách kinh tế vĩ mô, trong nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong hầu hết các trường hợp, chính sách tiền tệ của chúng ta là thắt chặt nhằm hạn chế bớt hậu quả gia tăng lạm phát của một chính sách tài khóa mở rộng.
Có thể nói, trong nhiều năm, chúng ta đã theo đuổi một chính sách tài khóa quá cởi mở và rất dễ dàng, thể hiện qua việc luật hóa một mức khiếm hụt ngân sách quốc gia hằng năm thường xuyên là trên 5% và trên thực tế có khi lên đến mức 8% GDP. So sánh với nhiều nước đang phát triển khác, đây là một mức khiếm hụt khá cao, nếu biết rằng nguồn thu ngân sách của nước ta (chủ yếu là từ thuế) chiếm đến 28 - 29% GDP.
Theo nhận định của các chuyên gia phân tích ngân sách, mức khiếm hụt lớn của ngân sách quốc gia hầu hết được sử dụng để tài trợ cho các khoản đầu tư công, nhưng không phải đầu tư công chỉ sử dụng duy nhất nguồn tài trợ từ ngân sách mà còn từ các khoản nợ công trong nước và ngoài nước thông qua việc phát hành trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ và vay ODA.
Đầu tư công bao gồm hai khoản mục chính: (1) Đầu tư trực tiếp của Chính phủ nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng như đường sá, cầu cống, hệ thống thủy lợi, đê điều, điện nước, trường học, bệnh viện...; (2) Đầu tư gián tiếp của Chính phủ qua việc cấp vốn, vay nợ thay cho những công ty, tập đoàn quốc doanh.
Đầu tư công trực tiếp, trong những thập niên qua, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới, đã là nguồn đầu tư chính yếu trong việc xây dựng đất nước "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn". Cơ sở hạ tầng của đất nước được nâng cấp, hiện đại hóa, mở rộng đến tận vùng nông thôn xa xôi, làm thay đổi bộ mặt của đất nước, trở thành nền tảng vững chắc cho việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, góp phần biến Việt Nam thành "điểm đến" thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Trong những năm suy thoái, đầu tư công là nguồn lực chính giúp cải thiện tình trạng thất nghiệp, ngăn chặn sự suy giảm nhanh chóng của khối cầu khả dụng nội địa và là đầu tàu vực dậy, lôi kéo sự tăng trưởng của các khu vực kinh tế khác.
Đầu tư gián tiếp của Chính phủ vào các tập đoàn kinh tế nhà nước cũng giúp tạo nên những công ty công nghiệp lớn hoạt động trong các ngành công nghiệp chủ lực và thiết yếu của nền kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, tham nhũng và lãng phí, đặc điểm tự nhiên của bất cứ các khoản đầu tư công nào tại bất cứ nước nào, đã luôn luôn hạn chế hiệu quả - và thành quả - của đầu tư công.
Trong suốt mấy mươi năm Đổi Mới, đầu tư công - trực tiếp và gián tiếp - đều phát triển cực kỳ nhanh chóng, đồng thời chúng ta cũng chứng kiến vô vàn các trường hợp lãng phí, tham nhũng và kém hiệu quả. Chỉ số ICOR của Việt Nam, từ 2,5 trong thời kỳ đầu của Đổi Mới đã tăng lên đến trên 8 vào thời điểm hiện nay cho thấy mức độ kém hiệu quả của đầu tư tại Việt Nam (trong đó tác nhân chính là đầu tư công) như thế nào.
Hiện nay, chúng ta phải bỏ ra 8 đồng đầu tư chỉ để làm tăng thêm vỏn vẹn 1 đồng xuất lượng của GDP, đó quả là một việc làm vô cùng lãng phí. Chính từ sự lãng phí và kém hiệu quả đó mà đầu tư công đã trở thành tác nhân chính gây ra lạm phát, một con bệnh dai dẳng, kinh niên của nền kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên, điều nghiêm trọng hơn chính là ở cách thức mà chúng ta đối phó với lạm phát được gây ra từ các khoản đầu tư công trực tiếp và gián tiếp không hiệu quả.
Trong khi chính sách tài khóa không thể thắt chặt do Chính phủ vẫn chưa muốn giảm đầu tư công, chính sách tiền tệ vốn là một nguồn lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hướng vào các đối tượng doanh nghiệp chọn lọc, làm ăn có hiệu quả lại phải siết chặt để chống lạm phát. Hệ quả là các khu vực kinh tế đang hoạt động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, đang góp phần vào việc thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế phải dừng bước. Nói một cách khác, phải chăng chúng ta buộc phải hy sinh mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh chỉ vì chúng ta cần dành các nguồn lực quốc gia cho các khoản đầu tư công?
Tiến trình hội nhập kinh tế với thế giới đòi hỏi chúng ta phải thay đổi phương cách sung dụng các nguồn tài nguyên đất nước sẽ trở nên ngày càng hiếm hoi hơn nhằm giúp nền kinh tế quốc gia ngày càng có năng lực cạnh tranh cao hơn. Đây sẽ là một vấn đề sinh tử cho tương lai dân tộc Việt từ nay về sau.
Năng lực cạnh tranh cao hơn yêu cầu chi phí thấp hơn, sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn và tiết kiệm hơn. Các doanh nghiệp phải có động lực để làm được việc đó, và động lực đó, trên thực tế, chỉ thường xuất hiện trong khu vực kinh tế dân doanh. Khu vực này phải được tạo điều kiện thuận lợi để tiếp cận đầy đủ các nguồn lực của quốc gia vì chỉ có họ mới sử dụng với hiệu quả cao nhất các nguồn lực này.
Điều quyết định cho một quốc gia có sớm trở nên cường thịnh hay không tùy thuộc ở chỗ cách thức có hiệu quả hay không mà quốc gia đó sử dụng để sung dụng các nguồn lực - đặc biệt là nội lực. Kinh nghiệm nhiều năm nay cho thấy rằng đầu tư công, đặc biệt là đầu tư công gián tiếp, không phải là phương cách sung dụng nguồn lực hiệu quả, mà còn tạo ra một cơ chế bao cấp về tài chính, "đưa tới những tổn thất quá lớn, làm mất khả năng phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững không chỉ với bản thân doanh nghiệp nhà nước, mà còn với toàn bộ nền kinh tế", như nhận xét của tác giả Việt Phương - nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ.
Điều đáng phấn khởi là trong kỳ họp vừa qua, Quốc hội nước ta đã biểu quyết một hạn mức khiếm hụt ngân sách trên GDP thấp hơn năm trước. Đây có thể là một tín hiệu đáng mừng cho thấy lãnh đạo đất nước đang quyết tâm hơn trong việc xây dựng và thực thi một chính sách tài khóa lành mạnh, tiến đến mục tiêu cân bằng ngân sách, một mục tiêu tuy khó khăn nhưng không phải là không thể.
Để kết luận, chúng tôi xin mạn phép một lần nữa được mượn lời của tác giả Việt Phương trong bài viết Con đường vinh quang và khổ ải, trong quyển Đổi Mới ở Việt Nam, nhớ lại và suy ngẫm: "Kinh nghiệm thực tế của Đổi Mới đã chứng tỏ, để thoát khỏi sự bế tắc nguy hiểm này, Nhà nước cần chủ động rút khỏi chức năng nhà đầu tư và điều hành doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh cạnh tranh, theo hướng chỉ giữ doanh nghiệp nhà nước khi khu vực dân doanh chưa thể làm, đồng thời phải có giải pháp quản lý, giám sát phù hợp".
H. B. S.
Nguồn: Tuanvietnam
Điều quyết định cho một quốc gia có sớm trở nên cường thịnh hay không tùy thuộc ở chỗ cách thức có hiệu quả hay không mà quốc gia đó sử dụng để sung dụng các nguồn lực - đặc biệt là nội lực.
Vào đầu tháng 12/2010, mặc dù Chính phủ đã kêu gọi các địa phương thực hiện những biện pháp can thiệp quyết liệt với mong muốn ngăn chặn đà tăng giá dường như có xu hướng ngày càng mạnh trên thị trường trong nước, khả năng kiềm chế lạm phát năm 2010 dưới hai con số xem ra rất khó khăn, khi vào cuối tháng 11/2010, tốc độ lạm phát đã ngấp nghé ngưỡng 10% và tháng 12 là tháng của lễ tết, của mua sắm và theo "truyền thống thị trường", đó vẫn là một trong những tháng có chỉ số tăng giá cao nhất. Việc lạm phát vượt ngưỡng hai con số không phải là điều đáng ngạc nhiên, tuy rằng lẽ ra, với một chính sách tiền tệ thắt chặt suốt năm 2010 bằng các biện pháp hạn chế gia tăng tín dụng ngân hàng không quá 25% và duy trì một mức lãi suất cơ bản (base rate) cao, người ta có thể kỳ vọng một mức lạm phát thấp hơn.
Chắc chắn người ta không thể cáo buộc chính sách tiền tệ năm 2010 là "thủ phạm" gây ra lạm phát. Trong suốt thời kỳ suy thoái kinh tế của hai năm 2008-2009, hậu quả trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, chính sách tiền tệ vẫn chưa hề được nới lỏng thực sự, điều này được minh chứng qua việc Ngân hàng Nhà nước chưa bao giờ hạ lãi suất cơ bản (base rate) xuống dưới 8%/năm, trong khi những đồng nghiệp của họ trong khu vực và trên thế giới đã đưa mức lãi suất này xuống rất thấp, có trường hợp xấp xỉ 0%.
Có thể nói, trong nhiều năm, chúng ta đã theo đuổi một chính sách tài khóa quá cởi mở và rất dễ dàng, thể hiện qua việc luật hóa một mức khiếm hụt ngân sách quốc gia hằng năm thường xuyên là trên 5% và trên thực tế có khi lên đến mức 8% GDP. So sánh với nhiều nước đang phát triển khác, đây là một mức khiếm hụt khá cao, nếu biết rằng nguồn thu ngân sách của nước ta (chủ yếu là từ thuế) chiếm đến 28 - 29% GDP.
Ngay cả việc hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp nhằm giúp họ vượt khó thông qua chương trình kích cầu 17 ngàn tỉ đồng cũng không phải là một biện pháp tiền tệ mà lại là một biện pháp tài khóa. Nguồn tiền sử dụng được trích từ ngân sách chứ không phải là một khoản tín dụng từ Ngân hàng Nhà nước. Điều đáng quan tâm là rất ít khi chúng ta chứng kiến được một sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, hai cột trụ chính của chính sách kinh tế vĩ mô, trong nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong hầu hết các trường hợp, chính sách tiền tệ của chúng ta là thắt chặt nhằm hạn chế bớt hậu quả gia tăng lạm phát của một chính sách tài khóa mở rộng.
Có thể nói, trong nhiều năm, chúng ta đã theo đuổi một chính sách tài khóa quá cởi mở và rất dễ dàng, thể hiện qua việc luật hóa một mức khiếm hụt ngân sách quốc gia hằng năm thường xuyên là trên 5% và trên thực tế có khi lên đến mức 8% GDP. So sánh với nhiều nước đang phát triển khác, đây là một mức khiếm hụt khá cao, nếu biết rằng nguồn thu ngân sách của nước ta (chủ yếu là từ thuế) chiếm đến 28 - 29% GDP.
Theo nhận định của các chuyên gia phân tích ngân sách, mức khiếm hụt lớn của ngân sách quốc gia hầu hết được sử dụng để tài trợ cho các khoản đầu tư công, nhưng không phải đầu tư công chỉ sử dụng duy nhất nguồn tài trợ từ ngân sách mà còn từ các khoản nợ công trong nước và ngoài nước thông qua việc phát hành trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ và vay ODA.
Đầu tư công bao gồm hai khoản mục chính: (1) Đầu tư trực tiếp của Chính phủ nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng như đường sá, cầu cống, hệ thống thủy lợi, đê điều, điện nước, trường học, bệnh viện...; (2) Đầu tư gián tiếp của Chính phủ qua việc cấp vốn, vay nợ thay cho những công ty, tập đoàn quốc doanh.
Đầu tư công trực tiếp, trong những thập niên qua, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới, đã là nguồn đầu tư chính yếu trong việc xây dựng đất nước "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn". Cơ sở hạ tầng của đất nước được nâng cấp, hiện đại hóa, mở rộng đến tận vùng nông thôn xa xôi, làm thay đổi bộ mặt của đất nước, trở thành nền tảng vững chắc cho việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, góp phần biến Việt Nam thành "điểm đến" thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Trong những năm suy thoái, đầu tư công là nguồn lực chính giúp cải thiện tình trạng thất nghiệp, ngăn chặn sự suy giảm nhanh chóng của khối cầu khả dụng nội địa và là đầu tàu vực dậy, lôi kéo sự tăng trưởng của các khu vực kinh tế khác.
Đầu tư gián tiếp của Chính phủ vào các tập đoàn kinh tế nhà nước cũng giúp tạo nên những công ty công nghiệp lớn hoạt động trong các ngành công nghiệp chủ lực và thiết yếu của nền kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, tham nhũng và lãng phí, đặc điểm tự nhiên của bất cứ các khoản đầu tư công nào tại bất cứ nước nào, đã luôn luôn hạn chế hiệu quả - và thành quả - của đầu tư công.
Trong suốt mấy mươi năm Đổi Mới, đầu tư công - trực tiếp và gián tiếp - đều phát triển cực kỳ nhanh chóng, đồng thời chúng ta cũng chứng kiến vô vàn các trường hợp lãng phí, tham nhũng và kém hiệu quả. Chỉ số ICOR của Việt Nam, từ 2,5 trong thời kỳ đầu của Đổi Mới đã tăng lên đến trên 8 vào thời điểm hiện nay cho thấy mức độ kém hiệu quả của đầu tư tại Việt Nam (trong đó tác nhân chính là đầu tư công) như thế nào.
Hiện nay, chúng ta phải bỏ ra 8 đồng đầu tư chỉ để làm tăng thêm vỏn vẹn 1 đồng xuất lượng của GDP, đó quả là một việc làm vô cùng lãng phí. Chính từ sự lãng phí và kém hiệu quả đó mà đầu tư công đã trở thành tác nhân chính gây ra lạm phát, một con bệnh dai dẳng, kinh niên của nền kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên, điều nghiêm trọng hơn chính là ở cách thức mà chúng ta đối phó với lạm phát được gây ra từ các khoản đầu tư công trực tiếp và gián tiếp không hiệu quả.
Trong khi chính sách tài khóa không thể thắt chặt do Chính phủ vẫn chưa muốn giảm đầu tư công, chính sách tiền tệ vốn là một nguồn lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hướng vào các đối tượng doanh nghiệp chọn lọc, làm ăn có hiệu quả lại phải siết chặt để chống lạm phát. Hệ quả là các khu vực kinh tế đang hoạt động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, đang góp phần vào việc thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế phải dừng bước. Nói một cách khác, phải chăng chúng ta buộc phải hy sinh mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh chỉ vì chúng ta cần dành các nguồn lực quốc gia cho các khoản đầu tư công?
Tiến trình hội nhập kinh tế với thế giới đòi hỏi chúng ta phải thay đổi phương cách sung dụng các nguồn tài nguyên đất nước sẽ trở nên ngày càng hiếm hoi hơn nhằm giúp nền kinh tế quốc gia ngày càng có năng lực cạnh tranh cao hơn. Đây sẽ là một vấn đề sinh tử cho tương lai dân tộc Việt từ nay về sau.
Năng lực cạnh tranh cao hơn yêu cầu chi phí thấp hơn, sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn và tiết kiệm hơn. Các doanh nghiệp phải có động lực để làm được việc đó, và động lực đó, trên thực tế, chỉ thường xuất hiện trong khu vực kinh tế dân doanh. Khu vực này phải được tạo điều kiện thuận lợi để tiếp cận đầy đủ các nguồn lực của quốc gia vì chỉ có họ mới sử dụng với hiệu quả cao nhất các nguồn lực này.
Điều quyết định cho một quốc gia có sớm trở nên cường thịnh hay không tùy thuộc ở chỗ cách thức có hiệu quả hay không mà quốc gia đó sử dụng để sung dụng các nguồn lực - đặc biệt là nội lực. Kinh nghiệm nhiều năm nay cho thấy rằng đầu tư công, đặc biệt là đầu tư công gián tiếp, không phải là phương cách sung dụng nguồn lực hiệu quả, mà còn tạo ra một cơ chế bao cấp về tài chính, "đưa tới những tổn thất quá lớn, làm mất khả năng phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững không chỉ với bản thân doanh nghiệp nhà nước, mà còn với toàn bộ nền kinh tế", như nhận xét của tác giả Việt Phương - nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ.
Điều đáng phấn khởi là trong kỳ họp vừa qua, Quốc hội nước ta đã biểu quyết một hạn mức khiếm hụt ngân sách trên GDP thấp hơn năm trước. Đây có thể là một tín hiệu đáng mừng cho thấy lãnh đạo đất nước đang quyết tâm hơn trong việc xây dựng và thực thi một chính sách tài khóa lành mạnh, tiến đến mục tiêu cân bằng ngân sách, một mục tiêu tuy khó khăn nhưng không phải là không thể.
Để kết luận, chúng tôi xin mạn phép một lần nữa được mượn lời của tác giả Việt Phương trong bài viết Con đường vinh quang và khổ ải, trong quyển Đổi Mới ở Việt Nam, nhớ lại và suy ngẫm: "Kinh nghiệm thực tế của Đổi Mới đã chứng tỏ, để thoát khỏi sự bế tắc nguy hiểm này, Nhà nước cần chủ động rút khỏi chức năng nhà đầu tư và điều hành doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh cạnh tranh, theo hướng chỉ giữ doanh nghiệp nhà nước khi khu vực dân doanh chưa thể làm, đồng thời phải có giải pháp quản lý, giám sát phù hợp".
H. B. S.
Nguồn: Tuanvietnam
Có lẽ chỉ có Thống đốc NH mới hiểu thực trạng nền kinh tế
Nguyễn Hữu Quý
Ngày 25/12/2010 mạng Bauxite Việt Nam đăng bài “Vào năm 2011, Vinashin trả nợ hay tiếp tục khất nợ???”, của tác giả Lê Trung Thành, người có nhiều bài viết về Vinashin trên mạng Bauxite Việt Nam. Có thể nói, ngoài việc am hiểu về Vinashin, về lĩnh vực tài chính – ngân hàng, tác giả Lê Trung Thành còn có lối viết để những người không am hiểu về hai lĩnh vực này rất dễ hiểu và bị cuốn hút.
Là người theo dõi Vinashin, không chỉ vì khoản nợ khổng lồ của nó mà mọi người đã biết, sau khi sự kiện này đi ra từ diễn đàn QH, thực tình, là người VN ai cũng mong Vinashin qua cơn hoạn nạn, bởi vì, có lần người viết bài này đã từng nói “Việt Nam – một quốc gia biển thì không thể không có ngành công nghiệp đóng tàu…”, nhưng thực tế, Vinashin đang gặp muôn vàn khó khăn.
Đọc qua bài viết, tôi “thu hoạch” được các dữ liệu sau:
1. Nói về việc trả nợ của Vinashin:
Theo tác giả Lê Trung Thành, trong năm 2011, VNS cần có 300-350 triệu USD để thanh toán các khoản nợ nêu trên. Số tiền này không bao gồm phần trả lãi, gốc đã quá hạn hoặc đến hạn của rất nhiều ngân hàng thương mại và ngân hàng phát triển trong nước mà VNS đã vay mượn.
Khoản nợ phải trả gốc, trả lãi bình quân mỗi năm là 240-250 triệu USD sẽ kéo dài từ năm 2012 tới năm 2015.
Đến đầu năm 2016, VNS phải thanh toán đủ 750 triệu USD vay từ tháng 10-2005 cho các chủ nợ quốc tế.
Năm 2017, đến hạn trả gần 10 ngàn tỷ đồng (tương đương 500 triệu USD) trái phiếu công ty mà VNS phát hành năm 2007.
2. Nói về lãi suất vay:
Nếu như ta biết rằng, lãi suất vay của Vinashin đối với các tổ chức tài chính nước ngoài chỉ là 4,50-5%/ năm (trích dẫn trong bài), mà đã đưa Vinashin đến tình trạng phá sản [tất nhiên nguyên nhân chính để Vinashin sụp đổ là ở góc độ khác], thì lãi suất tiền đồng VN mà các ngân hàng cho các doanh nghiệp VN vay ở mức 15-17%/ năm; thì việc doanh nghiệp VN không phá sản hàng loạt trong những năm tới thì mới là chuyện lạ?!
Cũng trong ngày 25/12, các báo đều đưa tin: Uỷ ban kinh tế và Thường trực QH làm việc với Thống đốc ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Giàu, và báo vnexpress.net đã đăng bài “Thống đốc ngân hàng: Lạm phát không phải do quản lý tiền tệ”. Mặc dù không am hiểu về lĩnh vực này, nhưng theo tôi, chính cái tiêu đề bài báo này đã nói lên rằng, nền kinh tế nước nhà, xem ra là rất mong manh.
Có lẽ, chỉ có những người am hiểu về nó như Thống đốc Nguyễn Văn Giàu mới hiểu hết được, và nhìn khuôn mặt đăm chiêu của ông trong buổi “điều trần tại Văn phòng Quốc hội sáng 25/12” đã cho ta thấy điều đó.
Có một điều cũng rất lấy làm lạ, các báo nói rằng, “đây là lần đầu tiên Ủy ban tổ chức một buổi làm việc như vậy”. Vậy thì, hoá ra, 65 năm qua, QH Việt Nam và UB kinh tế của QH xem như “khoán trắng” cho các Bộ, ngành trong điều hành hai lĩnh vực xương sống này (?!); phải chăng, có điều gì đó rất nghiêm trọng cho nên mới có “ngoại lệ” này?
Cũng trong bài “Thống đốc ngân hàng: Lạm phát không phải do quản lý tiền tệ”, có một câu phát biểu của cựu Thống đốc Ngân hàng, ông Cao Sỹ Kiêm, rằng, “Tôi thấy năm suy thoái ngân hàng cũng có lãi. Năm nay lạm phát cao mà nhiều ngân hàng vẫn lãi tới 2.000 tỷ đồng. Trong khi doanh nghiệp thì khó khăn. Nhìn vậy "ngứa mắt" lắm”.
Cũng vì tò mò, mà tôi đã viết một bài có tựa đề “Doanh nghiệp Việt Nam lao động chỉ để nuôi hệ thống ngân hàng?”, phải chăng đúng là như vậy?
Và nếu đúng vậy thì nguy to thật rồi!
Vì không phải là chuyên gia trên bất kỳ lĩnh vực nào và ngại đọc các tài liệu nghiệp vụ về tài chính – ngân hàng, nhưng là người Việt, tôi quan tâm đến đất nước thông qua việc theo dõi tình hình quan hệ VN-TQ, được biểu hiện trên các vấn đề như Biển Đông, dự án Bauxite Tây Nguyên, Innov Green… và tất nhiên, không quên quan sát sự vận hành của nền kinh tế, xã hội của đất nước nói chung…
Dự thảo “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH”, mà Đảng đã công bố lấy ý kiến rộng rãi, theo đó, Đảng vẫn khẳng định “Ði lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Ðảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh”, khẳng định “Nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”; phải chăng, một nền kinh tế mà “Với mức lãi suất hiện nay 17-18%, thậm chí 20-21%, dù là về lý thuyết lãi suất rất hợp lý…” là sản phẩm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng đang hướng đến (?!).
Và “…Năm nay lạm phát cao mà nhiều ngân hàng vẫn lãi tới 2.000 tỷ đồng. Trong khi doanh nghiệp thì khó khăn. Nhìn vậy "ngứa mắt" lắm”, … cũng là một mặt của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng đang hướng đến (?!).
Thế thì... Hu hu!!!
N. H. Q.
26.12.2010
Nguồn: Nguyenhuuquy Blog
Ngày 25/12/2010 mạng Bauxite Việt Nam đăng bài “Vào năm 2011, Vinashin trả nợ hay tiếp tục khất nợ???”, của tác giả Lê Trung Thành, người có nhiều bài viết về Vinashin trên mạng Bauxite Việt Nam. Có thể nói, ngoài việc am hiểu về Vinashin, về lĩnh vực tài chính – ngân hàng, tác giả Lê Trung Thành còn có lối viết để những người không am hiểu về hai lĩnh vực này rất dễ hiểu và bị cuốn hút.
Là người theo dõi Vinashin, không chỉ vì khoản nợ khổng lồ của nó mà mọi người đã biết, sau khi sự kiện này đi ra từ diễn đàn QH, thực tình, là người VN ai cũng mong Vinashin qua cơn hoạn nạn, bởi vì, có lần người viết bài này đã từng nói “Việt Nam – một quốc gia biển thì không thể không có ngành công nghiệp đóng tàu…”, nhưng thực tế, Vinashin đang gặp muôn vàn khó khăn.
Đọc qua bài viết, tôi “thu hoạch” được các dữ liệu sau:
1. Nói về việc trả nợ của Vinashin:
Theo tác giả Lê Trung Thành, trong năm 2011, VNS cần có 300-350 triệu USD để thanh toán các khoản nợ nêu trên. Số tiền này không bao gồm phần trả lãi, gốc đã quá hạn hoặc đến hạn của rất nhiều ngân hàng thương mại và ngân hàng phát triển trong nước mà VNS đã vay mượn.
Khoản nợ phải trả gốc, trả lãi bình quân mỗi năm là 240-250 triệu USD sẽ kéo dài từ năm 2012 tới năm 2015.
Đến đầu năm 2016, VNS phải thanh toán đủ 750 triệu USD vay từ tháng 10-2005 cho các chủ nợ quốc tế.
Năm 2017, đến hạn trả gần 10 ngàn tỷ đồng (tương đương 500 triệu USD) trái phiếu công ty mà VNS phát hành năm 2007.
2. Nói về lãi suất vay:
Nếu như ta biết rằng, lãi suất vay của Vinashin đối với các tổ chức tài chính nước ngoài chỉ là 4,50-5%/ năm (trích dẫn trong bài), mà đã đưa Vinashin đến tình trạng phá sản [tất nhiên nguyên nhân chính để Vinashin sụp đổ là ở góc độ khác], thì lãi suất tiền đồng VN mà các ngân hàng cho các doanh nghiệp VN vay ở mức 15-17%/ năm; thì việc doanh nghiệp VN không phá sản hàng loạt trong những năm tới thì mới là chuyện lạ?!
Cũng trong ngày 25/12, các báo đều đưa tin: Uỷ ban kinh tế và Thường trực QH làm việc với Thống đốc ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Giàu, và báo vnexpress.net đã đăng bài “Thống đốc ngân hàng: Lạm phát không phải do quản lý tiền tệ”. Mặc dù không am hiểu về lĩnh vực này, nhưng theo tôi, chính cái tiêu đề bài báo này đã nói lên rằng, nền kinh tế nước nhà, xem ra là rất mong manh.
Có lẽ, chỉ có những người am hiểu về nó như Thống đốc Nguyễn Văn Giàu mới hiểu hết được, và nhìn khuôn mặt đăm chiêu của ông trong buổi “điều trần tại Văn phòng Quốc hội sáng 25/12” đã cho ta thấy điều đó.
Có một điều cũng rất lấy làm lạ, các báo nói rằng, “đây là lần đầu tiên Ủy ban tổ chức một buổi làm việc như vậy”. Vậy thì, hoá ra, 65 năm qua, QH Việt Nam và UB kinh tế của QH xem như “khoán trắng” cho các Bộ, ngành trong điều hành hai lĩnh vực xương sống này (?!); phải chăng, có điều gì đó rất nghiêm trọng cho nên mới có “ngoại lệ” này?
Cũng trong bài “Thống đốc ngân hàng: Lạm phát không phải do quản lý tiền tệ”, có một câu phát biểu của cựu Thống đốc Ngân hàng, ông Cao Sỹ Kiêm, rằng, “Tôi thấy năm suy thoái ngân hàng cũng có lãi. Năm nay lạm phát cao mà nhiều ngân hàng vẫn lãi tới 2.000 tỷ đồng. Trong khi doanh nghiệp thì khó khăn. Nhìn vậy "ngứa mắt" lắm”.
Cũng vì tò mò, mà tôi đã viết một bài có tựa đề “Doanh nghiệp Việt Nam lao động chỉ để nuôi hệ thống ngân hàng?”, phải chăng đúng là như vậy?
Và nếu đúng vậy thì nguy to thật rồi!
Vì không phải là chuyên gia trên bất kỳ lĩnh vực nào và ngại đọc các tài liệu nghiệp vụ về tài chính – ngân hàng, nhưng là người Việt, tôi quan tâm đến đất nước thông qua việc theo dõi tình hình quan hệ VN-TQ, được biểu hiện trên các vấn đề như Biển Đông, dự án Bauxite Tây Nguyên, Innov Green… và tất nhiên, không quên quan sát sự vận hành của nền kinh tế, xã hội của đất nước nói chung…
Dự thảo “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH”, mà Đảng đã công bố lấy ý kiến rộng rãi, theo đó, Đảng vẫn khẳng định “Ði lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Ðảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh”, khẳng định “Nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”; phải chăng, một nền kinh tế mà “Với mức lãi suất hiện nay 17-18%, thậm chí 20-21%, dù là về lý thuyết lãi suất rất hợp lý…” là sản phẩm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng đang hướng đến (?!).
Và “…Năm nay lạm phát cao mà nhiều ngân hàng vẫn lãi tới 2.000 tỷ đồng. Trong khi doanh nghiệp thì khó khăn. Nhìn vậy "ngứa mắt" lắm”, … cũng là một mặt của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng đang hướng đến (?!).
Thế thì... Hu hu!!!
N. H. Q.
26.12.2010
Nguồn: Nguyenhuuquy Blog
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)