Nguyễn Quang A
Với các hiện tượng phức tạp, một chính sách hay một hành động nhằm ảnh hưởng đến diễn tiến của, hay đến dư luận về, hiện tượng đó có thể ngược lại hay khác đi so với dự tính ban đầu. Đấy là kết quả không lường trước được. Sở dĩ có kết quả không lường trước được bởi vì, hoặc người ta chưa tính kỹ đến các hệ quả khả dĩ (do kém cỏi), hoặc vì hiện tượng phức tạp đến mức dẫu có suy tính kỹ cũng vẫn chẳng sao tính hết được. Người khôn ngoan thường tính đến nhiều kết quả khả dĩ trước khi quyết định, thế nhưng việc vẫn có thể có hệ quả không lường trước là điều không thể tránh khỏi. Các chính trị gia, báo giới và tất cả những ai có tiếng nói có thể ảnh hưởng đến nhiều người khác, phải thấu hiểu chuyện này và nên hết sức cẩn trọng trước khi phát ngôn hay hành động nếu không muốn “gậy ông lại đập lưng ông”.
Chuyện ông luật sư và vài người tổ chức chương trình “người xây tổ ấm” muốn hình sự hóa chuyện của cô “Lượm giả” có thể có những hệ quả không lường trước.
Rồi khi đưa tin kẻ trộm đột nhập vào phòng của một ông Thứ trưởng của một Bộ và cuỗm đi gần 250 triệu đồng và 2.000 USD, có báo đã nhanh nhảu giải thích: đấy là “tiền tiết kiệm” của vị Thứ trưởng và tiền ông ta “giữ hộ dòng họ”. Hiện tượng không phức tạp, hành động “giải thích” này có thể là suy tính “kém cỏi” vì nghĩ một chút có thể thấy nó có thể gây ra rất nhiều hệ quả không như ý định của người muốn “minh oan trước” cho ông Thứ trưởng. Hay đấy là chủ ý của nhà báo? Để lửng và buộc người đọc phải tự hỏi: sao tiền tiết kiệm lại không gửi ngân hàng vừa an toàn vừa có lãi? Tiền giữ hộ cho dòng họ, thì chắc phải có nhiều người trong họ biết và sao không để trong két ở nhà hay gửi ngân hàng mà lại để ở cơ quan, vân vân và vân vân. Ai mà biết được.
Rồi đến chuyện Phó thủ tướng báo báo trước quốc hội về chuyện Bộ chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam đã quyết định “không xử lý kỷ luật đối với các thành viên Chính phủ” trong vụ Vinashin vì “đã kiểm điểm nghiêm túc trách nhiệm”. Việc của Đảng sao lại báo cáo trước Quốc hội, chứ không phải ở diễn đàn của Đảng? Đã kiểm điểm nghiêm túc, và đã hứa sẽ công khai, thì có đưa ra công khai các bản kiểm điểm ấy không? Vân vân và vân vân. Không rõ người ta có tính đến những câu hỏi có thể được nêu ra như vậy hay không?
Suy ngẫm kỹ về các hệ quả khả dĩ trước khi hành động là một việc hiển nhiên phải làm. Thế mà chuyện đơn giản ấy vẫn bị nhiều người có trọng trách bỏ qua.
NQA
Bản đầy đủ do tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Tìm kiếm Blog này
Thứ Ba, 22 tháng 3, 2011
Cuộc chơi ngân hàng và 3 cái chết
Tác giả: PHAN THẾ HẢI
(VEF.VN) - Vốn điều lệ tăng lên 3.000 tỷ đồng, khó khăn chung của nền kinh tế và giá cổ phiếu từ từ giảm đang làm nhiều ngân hàng TMCP "chết" từ từ. Cuộc chơi ngân hàng, xem ra, nhiều đại gia đang ngậm phải quả đắng.
Như đã nói ở bài trước, khi phong trào thành lập công ty chứng khoán lắng xuống, các đại gia chuyển sang thành lập ngân hàng thương mại.
Chuyện này cũng dễ hiểu, vì hồi đó, các ngân hàng đang huy động lãi suất từ 5 đến 7%/năm, cho vay ra trên 12%/năm. Có ngân hàng, khắc có người đến mở tài khoản, có người đến gửi tiền, có người đến vay tiền. Nền kinh tế ổn định, tăng trưởng tín dụng đạt trên 30%/năm. Có huy động, có cho vay, có chênh lệch lãi suất là có thu nhập... Chẳng có gì chắc ăn bằng việc sở hữu nhà băng.
Trước hết, không chỉ vì đây là thị trường béo bở mà ở khía cạnh khác, với những đại gia tiền bạc đã rủng rỉnh, cái họ cần không kém là có một ghế, Chủ tịch hoặc Tổng giám đốc, kể cả uỷ viên hoặc phó tổng, đủ để dọa nạt thiên hạ. Ông chủ nhà băng, một khái niệm mà không chỉ ở xứ ta, cả xứ Tây nghe cũng phát thèm.
Vậy là, lại nhà nhà đua nhau làm hồ sơ, đặc biệt các tổng công ty, gửi lên Ngân hàng Nhà nước xin thành lập nhà băng. Trước tháng 6 năm 2007, điều kiện thành lập ngân hàng khá thoáng. Theo đó chỉ cần vốn điều lệ 70 tỷ đồng coi như xong. Còn sau đó, quyết định 24/2007/QĐ-NHNN quy định điều kiện thành lập ngân hàng mới, mức vốn điều lệ tối thiểu của một ngân hàng thương mại cổ phần đô thị tăng từ 70 tỷ đồng lên 1.000 tỷ đồng.
Ảnh minh họa: Việt ThanhKhi thị trường chứng khoán bùng phát, chuyện huy động ngàn tỷ không khó. Các thủ tục, chỉ cần chịu chi, sẽ có tư vấn lo từ A đến Z. Ban vận động chỉ việc họp, thông qua điều lệ, phân định ghế, tìm kiếm văn phòng trụ sở, kiếm nhân sự chủ chốt, coi như xong.
Chính vì sự thông thoáng đó, mà trước đây, Việt Nam chỉ có 4 ngân hàng thương mại đều là của nhà nước, thế mà chỉ trong vòng mấy năm khi Bill Clinton, cựu Tổng thống Hoa Kỳ, bỏ lệnh cấm vận, con số này đã tăng lên gấp nhiều lần. Trước khi gia nhập WTO thì số ngân hàng thương mại ở Việt Nam đã gần 30. Chưa dừng, các hồ sơ xin thành lập mới lại liên tục gửi lên, gửi lên.
Bạn tôi làm ở Ngân hàng Nhà nước cho hay, tính đến hết tháng 8/2007, đã có 25 bộ hồ sơ được gửi lên Ngân hàng Nhà nước xin cấp phép thành lập ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) mới. Nhiều người nộp hồ sơ, nhiều người chờ đợi, ắt sẽ bị nghẽn. Nghẽn vì chen nhau, nghẽn vì cơ quan quản lý Nhà nước chẳng dại gì lại không khép bớt cửa lại. Ai muốn qua, phải "biết điều".
Mấy đại gia, cậy có súng to đạn nhiều, tìm cách gõ nhiều cửa, tranh thủ có được nhiều công văn của cấp có thẩm quyền để tác động. Song, chuyện được cấp giấy phép hay không lại do Ngân hàng Nhà nước.
Từ đầu năm 2006 kéo qua 2007, thị trường tài chính tăng đẹp, giá cổ phiếu của các ngân hàng thương mại tăng gấp nhiều lần mệnh giá. Một ngân hàng thương mại mới ra đời, ngoài cổ đông sáng lập không được phép chuyện nhượng, còn các cổ đông phổ thông, cứ mua bán qua giấy viết tay, cũng được dăm sáu chấm. Nghĩa là có thể dùng tay không bắt giặc, cũng kiếm bộn tiền.
Một số ngân hàng đã có giấy phép, chỉ cần tăng vốn điều lệ, gọi cổ đông mới tham gia, bán ưu tiên cũng kiếm lãi gấp ba gấp bốn. Việt Nam, từ chỗ có dăm bảy vị tư bản "cỏ", vốn liếng ít ỏi, bỗng dưng xuất hiện hàng trăm triệu phú đô la Mỹ, nhiều như nấm mọc sau mưa.
Nhiều triệu phú, thậm chí là tỷ phú đô la Mỹ, lực lượng này bắt đầu can thiệp vào việc ra chính sách. Họ tham vấn cho Chính phủ chính sách thanh toán không dùng tiền mặt. Đầu năm 2008, chính sách này được phê duyệt, tiền lương được chuyển vào tài khoản, muốn tiêu dùng thẻ để rút. Văn minh không kém gì Hoa Kỳ. Hơn thế là cơ hội lớn cho các ngân hàng thương mại. Huy động vốn qua dịch vụ thẻ tăng vọt.
Trở lại chuyện đã nói ở phần trước, bạn tôi từ Ba Lan trở về, có vài chục triệu đô, lại kiếm được bằng tiến sĩ kinh tế, muốn khoe khoang. Không có sự lựa chọn nào tốt hơn là thành lập ngân hàng thương mại.
Thời điểm 2007, phải có số tiền tối thiểu 1.000 tỷ đồng. Tiền tươi, thóc thật, được duy trì số dư tiền gửi tại một ngân hàng trong suốt thời gian từ khi chấp thuận về nguyên tắc cho đến khi khai trương hoạt động. Bao nhiêu vốn liếng từ Đông Âu, dồn về Việt Nam, ra chợ đen đổi đô ra Việt Nam đồng để làm chuyện ấy. Nhiều tháng trời, khoản tiền đó bị giam chết một chỗ, không sinh lợi.
Cũng như với các công ty chứng khoán, với các ngân hàng thương mại, tìm kiếm nguồn nhân lực cũng là chuyện đau đầu. Sinh viên tốt nghiệp ra trường nhiều như quân nguyên, dưng không thạo việc. Để vận hành một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, cần có đội ngũ am hiểu thực tiễn, thành thạo chuyên môn. Chưa nói chuyện bộ khung quản lý, cán bộ chủ chốt.
Khi số lượng các NHTM đột ngột tăng cao, người làm được việc đắt hàng. Các ngân hàng thương mại vẫn áp dụng chiêu cũ: Lôi kéo cán bộ của nhau với những lời hứa về chức sắc, thu nhập, tiền thưởng, điều kiện làm việc và lớn hơn là cổ phiếu. Trong số đó, các ngân hàng thương mại Nhà nước được coi là những cái kho về nhân sự.
Một người bạn đang giữ ghế trưởng ban ở Agribank bỗng dưng được mời gọi về làm Phó tổng một ngân hàng cổ phần, lương tính bằng đô-la Mỹ, cao ngất ngưởng.
Rồi nữa, bài toán mở rộng mạng lưới, chi nhánh. Muốn giữ khách, muốn hút tiền nhàn rỗi của dân, không cách nào khác phải gần dân. Các chi nhánh cứ thế tăng liên tục như tàu con thoi. Những khu dân cư đông đúc, những khu đô thị mới, ai có nhà mặt tiền hoặc tầng một đều có cơ hội hốt bạc.
Đoạn đường Kim Liên - Ô chợ Dừa mới mở dài chưa đầy cây, chỉ trong có vài tháng đã có 8 chi nhánh và phòng giao dịch ngân hàng. Tầng một của hai toà nhà 18 T1 và 18 T2, sát nhau tại khu đô thị Trung Hoà - Nhân Chính, cũng có mặt tới 5 ngân hàng thương mại.
Không chỉ là chi phí, mà các ngân hàng còn phải tranh địa điểm với nhau. Có ngân hàng vừa thoả thuận với chủ nhà xong, chưa kịp nhận tiền đặt cọc thì đã có ngân hàng khác đến thuê với giá cao hơn. Thậm chí, đã nhận đặt cọc rồi, chủ nhà còn trả lại tiền, chịu phạt để được ký với đối tác khác giá cao hơn.
Ngoài ra là hàng loạt thách thức khác, như: công nghệ, quản trị điều hành, đặc biệt là quản trị rủi ro, đa dạng hoá nghiệp vụ kinh doanh, chất lượng và uy tín của dịch vụ, thu hút khách hàng... Chỉ riêng việc xây dựng hệ thống core-banking (ngân hàng lõi) cho một ngân hàng thương mại đã tốn khoảng 4 triệu USD.
Chuyện giành giật về nhân sự, cạnh tranh về phát triển mạng lưới, thuê địa điểm đẹp, tưởng đã là những rào cản khó vượt qua. Chưa hết, tháng 10 năm 2008, Ngân hàng Nhà nước chắp bút cho Chính phủ ra quyết định mới về điều kiện thành lập ngân hàng thương mại.
Theo đó, vốn điều lệ của một ngân hàng TMCP mới sẽ không dưới 3.000 tỷ đồng, cao gấp 3 lần quy định cũ. Ngoài ra, mỗi ngân hàng phải có ít nhất 100 cổ đông, trong đó mỗi DN là cổ đông sáng lập phải có ít nhất 500 tỷ đồng vốn chủ sở hữu và phải đảm bảo làm ăn có lãi trong vòng 3 năm liên tiếp trước khi xin thành lập ngân hàng.
Trước rào cản lớn như vậy, hầu hết các Ban chuẩn bị thành lập ngân hàng đều bỏ cuộc. Một cán bộ Ngân hàng Nhà nước cho biết, tính đến tháng 8/2008, cơ quan này đã nhận được tổng cộng 37 bộ hồ sơ xin thành lập mới ngân hàng TMCP. Trong số các hồ sơ trên, chỉ có Liên Việt và Tiên Phong được chấp nhận thành lập và đã đi vào hoạt động.
Ít lâu sau, Bảo Việt Bank cũng được Thủ tướng chấp thuận. Số còn lại đang nằm ở Ngân hàng Nhà nước chờ cấp phép bỗng dưng trở thành mớ giấy lộn. Không ít người dở khóc dở cười chỉ vì đã trót bỏ ra hàng trăm tỷ đồng cho công tác chuẩn bị.
Đây được coi là cách chết thứ nhất.
Cũng như các công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại cũng sống trong cảnh đìu hiu của thị trường tài chính. Khủng hoảng tài chính toàn cầu chưa kịp phục hồi lại bị bồi thêm chuyện động đất ở Nhật, rồi chuyện nổ nhà máy điện hạt nhân, nghe mà hãi.
Trước những tin dữ đó, đầu tư khu vực tư nhân giảm vẫn chưa khá lên, tiêu dùng nội địa và quốc tế phục hồi chậm. Nhà nước thắt chặt tín dụng, thắt chặt giao dịch vàng, ngoại hối. Cạnh tranh hàng nhập khẩu tăng mạnh, niềm tin của nhà đầu tư yếu...
Điều này đang báo hiệu một cách chết thứ ba: chết từ từ. Giá cổ phiếu của các ngân hàng thương mại giảm có lý do từ bệnh tật này. Theo Vietnam Credit 2009, công ty chuyên về xếp hạng tín nhiệm, có hơn chục ngân hàng thương mại phải xếp hạng CCC, nghĩa là, doanh nghiệp có mức độ rủi ro cao, nếu điều kiện bất lợi thì ít khả năng thực hiện được các cam kết tài chính của mình.
(Mời bạn đón đọc kỳ 3: Cuộc chơi bất động sản)
(VEF.VN) - Vốn điều lệ tăng lên 3.000 tỷ đồng, khó khăn chung của nền kinh tế và giá cổ phiếu từ từ giảm đang làm nhiều ngân hàng TMCP "chết" từ từ. Cuộc chơi ngân hàng, xem ra, nhiều đại gia đang ngậm phải quả đắng.
Như đã nói ở bài trước, khi phong trào thành lập công ty chứng khoán lắng xuống, các đại gia chuyển sang thành lập ngân hàng thương mại.
Chuyện này cũng dễ hiểu, vì hồi đó, các ngân hàng đang huy động lãi suất từ 5 đến 7%/năm, cho vay ra trên 12%/năm. Có ngân hàng, khắc có người đến mở tài khoản, có người đến gửi tiền, có người đến vay tiền. Nền kinh tế ổn định, tăng trưởng tín dụng đạt trên 30%/năm. Có huy động, có cho vay, có chênh lệch lãi suất là có thu nhập... Chẳng có gì chắc ăn bằng việc sở hữu nhà băng.
Trước hết, không chỉ vì đây là thị trường béo bở mà ở khía cạnh khác, với những đại gia tiền bạc đã rủng rỉnh, cái họ cần không kém là có một ghế, Chủ tịch hoặc Tổng giám đốc, kể cả uỷ viên hoặc phó tổng, đủ để dọa nạt thiên hạ. Ông chủ nhà băng, một khái niệm mà không chỉ ở xứ ta, cả xứ Tây nghe cũng phát thèm.
Vậy là, lại nhà nhà đua nhau làm hồ sơ, đặc biệt các tổng công ty, gửi lên Ngân hàng Nhà nước xin thành lập nhà băng. Trước tháng 6 năm 2007, điều kiện thành lập ngân hàng khá thoáng. Theo đó chỉ cần vốn điều lệ 70 tỷ đồng coi như xong. Còn sau đó, quyết định 24/2007/QĐ-NHNN quy định điều kiện thành lập ngân hàng mới, mức vốn điều lệ tối thiểu của một ngân hàng thương mại cổ phần đô thị tăng từ 70 tỷ đồng lên 1.000 tỷ đồng.
Ảnh minh họa: Việt ThanhKhi thị trường chứng khoán bùng phát, chuyện huy động ngàn tỷ không khó. Các thủ tục, chỉ cần chịu chi, sẽ có tư vấn lo từ A đến Z. Ban vận động chỉ việc họp, thông qua điều lệ, phân định ghế, tìm kiếm văn phòng trụ sở, kiếm nhân sự chủ chốt, coi như xong.
Chính vì sự thông thoáng đó, mà trước đây, Việt Nam chỉ có 4 ngân hàng thương mại đều là của nhà nước, thế mà chỉ trong vòng mấy năm khi Bill Clinton, cựu Tổng thống Hoa Kỳ, bỏ lệnh cấm vận, con số này đã tăng lên gấp nhiều lần. Trước khi gia nhập WTO thì số ngân hàng thương mại ở Việt Nam đã gần 30. Chưa dừng, các hồ sơ xin thành lập mới lại liên tục gửi lên, gửi lên.
Bạn tôi làm ở Ngân hàng Nhà nước cho hay, tính đến hết tháng 8/2007, đã có 25 bộ hồ sơ được gửi lên Ngân hàng Nhà nước xin cấp phép thành lập ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) mới. Nhiều người nộp hồ sơ, nhiều người chờ đợi, ắt sẽ bị nghẽn. Nghẽn vì chen nhau, nghẽn vì cơ quan quản lý Nhà nước chẳng dại gì lại không khép bớt cửa lại. Ai muốn qua, phải "biết điều".
Mấy đại gia, cậy có súng to đạn nhiều, tìm cách gõ nhiều cửa, tranh thủ có được nhiều công văn của cấp có thẩm quyền để tác động. Song, chuyện được cấp giấy phép hay không lại do Ngân hàng Nhà nước.
Từ đầu năm 2006 kéo qua 2007, thị trường tài chính tăng đẹp, giá cổ phiếu của các ngân hàng thương mại tăng gấp nhiều lần mệnh giá. Một ngân hàng thương mại mới ra đời, ngoài cổ đông sáng lập không được phép chuyện nhượng, còn các cổ đông phổ thông, cứ mua bán qua giấy viết tay, cũng được dăm sáu chấm. Nghĩa là có thể dùng tay không bắt giặc, cũng kiếm bộn tiền.
Một số ngân hàng đã có giấy phép, chỉ cần tăng vốn điều lệ, gọi cổ đông mới tham gia, bán ưu tiên cũng kiếm lãi gấp ba gấp bốn. Việt Nam, từ chỗ có dăm bảy vị tư bản "cỏ", vốn liếng ít ỏi, bỗng dưng xuất hiện hàng trăm triệu phú đô la Mỹ, nhiều như nấm mọc sau mưa.
Nhiều triệu phú, thậm chí là tỷ phú đô la Mỹ, lực lượng này bắt đầu can thiệp vào việc ra chính sách. Họ tham vấn cho Chính phủ chính sách thanh toán không dùng tiền mặt. Đầu năm 2008, chính sách này được phê duyệt, tiền lương được chuyển vào tài khoản, muốn tiêu dùng thẻ để rút. Văn minh không kém gì Hoa Kỳ. Hơn thế là cơ hội lớn cho các ngân hàng thương mại. Huy động vốn qua dịch vụ thẻ tăng vọt.
Trở lại chuyện đã nói ở phần trước, bạn tôi từ Ba Lan trở về, có vài chục triệu đô, lại kiếm được bằng tiến sĩ kinh tế, muốn khoe khoang. Không có sự lựa chọn nào tốt hơn là thành lập ngân hàng thương mại.
Thời điểm 2007, phải có số tiền tối thiểu 1.000 tỷ đồng. Tiền tươi, thóc thật, được duy trì số dư tiền gửi tại một ngân hàng trong suốt thời gian từ khi chấp thuận về nguyên tắc cho đến khi khai trương hoạt động. Bao nhiêu vốn liếng từ Đông Âu, dồn về Việt Nam, ra chợ đen đổi đô ra Việt Nam đồng để làm chuyện ấy. Nhiều tháng trời, khoản tiền đó bị giam chết một chỗ, không sinh lợi.
Cũng như với các công ty chứng khoán, với các ngân hàng thương mại, tìm kiếm nguồn nhân lực cũng là chuyện đau đầu. Sinh viên tốt nghiệp ra trường nhiều như quân nguyên, dưng không thạo việc. Để vận hành một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, cần có đội ngũ am hiểu thực tiễn, thành thạo chuyên môn. Chưa nói chuyện bộ khung quản lý, cán bộ chủ chốt.
Khi số lượng các NHTM đột ngột tăng cao, người làm được việc đắt hàng. Các ngân hàng thương mại vẫn áp dụng chiêu cũ: Lôi kéo cán bộ của nhau với những lời hứa về chức sắc, thu nhập, tiền thưởng, điều kiện làm việc và lớn hơn là cổ phiếu. Trong số đó, các ngân hàng thương mại Nhà nước được coi là những cái kho về nhân sự.
Một người bạn đang giữ ghế trưởng ban ở Agribank bỗng dưng được mời gọi về làm Phó tổng một ngân hàng cổ phần, lương tính bằng đô-la Mỹ, cao ngất ngưởng.
Rồi nữa, bài toán mở rộng mạng lưới, chi nhánh. Muốn giữ khách, muốn hút tiền nhàn rỗi của dân, không cách nào khác phải gần dân. Các chi nhánh cứ thế tăng liên tục như tàu con thoi. Những khu dân cư đông đúc, những khu đô thị mới, ai có nhà mặt tiền hoặc tầng một đều có cơ hội hốt bạc.
Đoạn đường Kim Liên - Ô chợ Dừa mới mở dài chưa đầy cây, chỉ trong có vài tháng đã có 8 chi nhánh và phòng giao dịch ngân hàng. Tầng một của hai toà nhà 18 T1 và 18 T2, sát nhau tại khu đô thị Trung Hoà - Nhân Chính, cũng có mặt tới 5 ngân hàng thương mại.
Không chỉ là chi phí, mà các ngân hàng còn phải tranh địa điểm với nhau. Có ngân hàng vừa thoả thuận với chủ nhà xong, chưa kịp nhận tiền đặt cọc thì đã có ngân hàng khác đến thuê với giá cao hơn. Thậm chí, đã nhận đặt cọc rồi, chủ nhà còn trả lại tiền, chịu phạt để được ký với đối tác khác giá cao hơn.
Ngoài ra là hàng loạt thách thức khác, như: công nghệ, quản trị điều hành, đặc biệt là quản trị rủi ro, đa dạng hoá nghiệp vụ kinh doanh, chất lượng và uy tín của dịch vụ, thu hút khách hàng... Chỉ riêng việc xây dựng hệ thống core-banking (ngân hàng lõi) cho một ngân hàng thương mại đã tốn khoảng 4 triệu USD.
Chuyện giành giật về nhân sự, cạnh tranh về phát triển mạng lưới, thuê địa điểm đẹp, tưởng đã là những rào cản khó vượt qua. Chưa hết, tháng 10 năm 2008, Ngân hàng Nhà nước chắp bút cho Chính phủ ra quyết định mới về điều kiện thành lập ngân hàng thương mại.
Theo đó, vốn điều lệ của một ngân hàng TMCP mới sẽ không dưới 3.000 tỷ đồng, cao gấp 3 lần quy định cũ. Ngoài ra, mỗi ngân hàng phải có ít nhất 100 cổ đông, trong đó mỗi DN là cổ đông sáng lập phải có ít nhất 500 tỷ đồng vốn chủ sở hữu và phải đảm bảo làm ăn có lãi trong vòng 3 năm liên tiếp trước khi xin thành lập ngân hàng.
Trước rào cản lớn như vậy, hầu hết các Ban chuẩn bị thành lập ngân hàng đều bỏ cuộc. Một cán bộ Ngân hàng Nhà nước cho biết, tính đến tháng 8/2008, cơ quan này đã nhận được tổng cộng 37 bộ hồ sơ xin thành lập mới ngân hàng TMCP. Trong số các hồ sơ trên, chỉ có Liên Việt và Tiên Phong được chấp nhận thành lập và đã đi vào hoạt động.
Ít lâu sau, Bảo Việt Bank cũng được Thủ tướng chấp thuận. Số còn lại đang nằm ở Ngân hàng Nhà nước chờ cấp phép bỗng dưng trở thành mớ giấy lộn. Không ít người dở khóc dở cười chỉ vì đã trót bỏ ra hàng trăm tỷ đồng cho công tác chuẩn bị.
Đây được coi là cách chết thứ nhất.
Cũng như các công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại cũng sống trong cảnh đìu hiu của thị trường tài chính. Khủng hoảng tài chính toàn cầu chưa kịp phục hồi lại bị bồi thêm chuyện động đất ở Nhật, rồi chuyện nổ nhà máy điện hạt nhân, nghe mà hãi.
Trước những tin dữ đó, đầu tư khu vực tư nhân giảm vẫn chưa khá lên, tiêu dùng nội địa và quốc tế phục hồi chậm. Nhà nước thắt chặt tín dụng, thắt chặt giao dịch vàng, ngoại hối. Cạnh tranh hàng nhập khẩu tăng mạnh, niềm tin của nhà đầu tư yếu...
Điều này đang báo hiệu một cách chết thứ ba: chết từ từ. Giá cổ phiếu của các ngân hàng thương mại giảm có lý do từ bệnh tật này. Theo Vietnam Credit 2009, công ty chuyên về xếp hạng tín nhiệm, có hơn chục ngân hàng thương mại phải xếp hạng CCC, nghĩa là, doanh nghiệp có mức độ rủi ro cao, nếu điều kiện bất lợi thì ít khả năng thực hiện được các cam kết tài chính của mình.
(Mời bạn đón đọc kỳ 3: Cuộc chơi bất động sản)
Cuộc chơi chứng khoán
Tác giả: PHAN THẾ HẢI
(VEF.VN) - Thị trường chứng khoán không bao giờ đứng yên, được mất chỉ là con số tương đối. Sau khi xuống thấp hết cỡ, sẽ bắt đầu một chu kỳ mới cao hơn. Với thị trường chứng khoán, sự giảm thấp liên tục trong bốn năm qua đã thực sự rơi xuống đáy hay chưa vẫn là câu hỏi bỏ ngỏ.
Bạn tôi, sau một phần tư thế kỷ lăn lộn xứ trời Tây, có khoản tiền kha khá, muốn về nước đầu tư. Gặp nhau hắn hỏi: Theo ông, giờ nên đầu tư vào đâu?
Đây không phải lần đầu tiên tôi nghe câu hỏi này. Đầu tư vào đâu vẫn là vấn đề thu hút sự quan tâm của những ai có tiền nhàn rỗi. Khoan hãy sốt ruột. Chuyện đổ tiền vào đâu không chỉ nói dăm câu ba điều, nếu không muốn sa lầy vào hiệu ứng đám đông. Hãy bình tĩnh suy ngẫm một chút để có cái nhìn tổng thể thị trường Việt Nam.
Chuyện bỏ tiền vào đâu nếu chỉ "lướt sóng","đánh quả", khỏi bàn nhiều. Nếu có ý định nghiêm túc để đồng tiền sinh lợi một cách bền vững ta hãy lướt qua một số kênh thông dụng đã và đang được coi là nóng ở các nước đang phát triển. Với Việt Nam cũng không là ngoại lệ.
Ra đời vào ngày 20/7/2000, với việc chính thức khai trương Trung tâm GDCK TP.HCM và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000, có thể nói, với Việt Nam, chứng khoán vẫn là thị trường non trẻ. Hơn 10 năm qua, dẫu có lúc thăng trầm khác nhau nhưng chứng khoán luôn luôn là một kênh đầu tư thu hút sự quan tâm của nhiều người.
Cuối năm 2006, đầu 2007, thị trường chứng khoán Việt Nam thăng hoa. Vn-Index tăng liên tục, liên tục như diều gặp gió, đạt 1.170 điểm (ngày 12/3/2007). Các công ty chứng khoán tha hồ hốt bạc. Mộng mơ như người viết bài này, la cà ở mấy công ty cổ phần, mua bán OTC, cũng kiếm bộn tiền, đủ tậu bốn bánh, lượn lờ ra vẻ đại gia.
Có sàn chứng khoán là có cơ hội để bốc. Phong trào thành lập công ty chứng khoán nhờ đó mà bùng lên như cháy rừng. Không chỉ các đại gia, tiểu gia cũng đôn đáo làm hồ sơ, gửi lên Ủy ban Chứng khoán quốc gia xin thành lập công ty. Thời kỳ này thật khó quên, bởi lúc đó tôi ngồi nhà viết sách chứng khoán, rồi được một số trung tâm mời giảng dạy về món này, cũng kiếm được một số món kha khá.
Một trong những câu chuyện tốn không ít giấy mực báo chí, cũng là chuyện mà tôi thường kể lúc lên lớp là chuyện của Thiên Việt.
Thiên Việt được thành lập theo Giấy phép công ty chứng khoán số 36/UBCK-GPHĐKD Ủy ban CK cấp 25/12/2006. Vốn điều lệ 43 tỷ. Thời chứng khoán được giá, cứ tăng vốn điều lệ, bán cổ phiếu ra ngoài, được năm sáu chấm, một lãi bốn năm lần, ngon ơ.
Đặc biệt, nếu như công ty nào có bắt chân bắt tay với mấy đối tác nước ngoài, Nhật Bản chẳng hạn, Mỹ, Anh càng tốt, thì cổ phiếu cứ thế tăng ào ào. Vậy nên, Chủ tịch Công ty CP Chứng khoán Thiên Việt mới nghĩ ra trò ký kết với đối tác nước ngoài. Lần này ông ta chọn Goldman Sachs. Công ty này được coi là trùm sò tài chính ở phố Wall ở bên kia bán cầu.
Tin được Thiên Việt hé lộ chỉ là: Goldman Sachs và Thiên Việt đã thoả thuận trong bản hợp tác và đã được ký bởi lãnh đạo của hai công ty. Goldman Sachs và Thiên Việt có hợp đồng ký làm việc hợp tác trên nhiều lĩnh vực. Rằng, "Goldman Sachs đã tin tưởng vào năng lực của Công ty CP Chứng khoán Thiên Việt và chọn Thiên Việt làm đối tác nội địa để thực hiện các dự án cụ thể tại Việt Nam"...
Từ đó, Thiên Việt cứ vô tư xin tăng vốn điều lệ. Đợt 1, tăng từ 43 tỷ đồng lên 86 tỷ đồng, theo Quyết định số 67/UBCK-GP ngày 24/8/2007. Cũng năm đó, chỉ bốn tháng sau, ngày 5/12, công ty này lại được Ủy ban Chứng khoán đồng ý cho tăng vốn điều lệ lên 430 tỷ đồng.
Có giấy phép, có đăng ký kinh doanh, những ai sở hữu cổ phiếu phổ thông công ty này cứ thế bán ra thị trường tự do. Có người mua đến 12 chấm. Tức tăng gấp 12 lần mệnh giá. Nghe mà vãi cả linh hồn.
Thử hình dung, bạn có 100 tỷ đồng CP phổ thông, bán ra, lãi gấp 10 lần, vị chi được ngàn tỷ. Trên thế giới, không có nơi nào, kinh doanh lãi đến như vậy. Vì thế, nhà nhà xin thành lập Cty chứng khoán, người người xin thành lập công ty chứng khoán. Trên bàn của Ủy ban Chứng kóoán lúc nào cũng có dăm bảy bộ hồ sơ xin thành lập. Mỗi công ty chứng khoán ra đời phải chi phí mất một số tỷ tiền tư vấn và lobby. Có người chỉ nhờ việc tư vấn thành lập công ty chứng khoán mà giàu lên như bắt được vàng.
Cứ có giấy phép, khắc có người bỏ vốn cho anh kinh doanh. Thiên hạ hồi đó sao hào phóng thế không biết. Rồi nhà nước siết chặt việc thành lập công ty chứng khoán. Hàng chục bộ hồ sơ đang nằm ở Ủy ban Chứng khoán trở thành mớ giấy lộn. Bạn tôi, chủ tịch một tập đoàn cũng nộp hồ sơ, cũng chịu chung số phận đó buông một câu đầy tiếc rẻ: Thế là lỡ mất một cơ hội.
Tuy nhiên đó chỉ là câu chuyện của năm 2007. Còn hôm nay, câu chuyện lại quay ngoắt 180 độ. Khác với phong trào chạy đua xin giấy phép, hơn năm qua, các công ty chứng khoán chật vật để tồn tại. Năm 2010 có 20 công ty chứng khoán công bố lỗ. Thậm chí có công ty thâm thủng nặng, có nguy cơ phá sản.
Công ty CK Kim Long là một trong số những doanh nhiệp như thế. Trong báo cáo kết quả kinh doanh 2010 trình ĐHCĐ vào ngày 19/3, HĐQT Công ty này khẳng định trong khi phí giao dịch có xu hướng ngày càng giảm thì chi phí hoạt động của công ty có xu hướng tăng do phải tăng chi phí về mặt bằng, mở rộng mạng lưới, nghiên cứu và phát triển dịch vụ, đầu tư, vận hành và phát triển hệ thống công nghệ thông tin, nhân lực...
Trong đó, chi phí cho hoạt động môi giới chiếm tỷ trọng lớn cho công ty thua lỗ trong năm 2010.
Điều này cũng được minh chứng qua báo cáo tài chính năm 2010 của các công ty chứng khoán, trong khi lợi nhuận từ môi giới của đa phần các công ty đều giảm mạnh so với 2009 thì chi phí phục vụ cho các hoạt động lại tăng mạnh. Thêm vào đó, thị trường không mấy sáng sủa khiến cho lợi nhuận thu được từ tự doanh là không đáng kể. Chính những nguyên nhân trên khiến cho nhiều công ty chứng khoán khép lại năm cũ với lợi nhuận âm.
Sang năm 2011, với một số phiên tăng điểm đầu năm, chứng khoán những tưởng đã vượt qua thử thách, nhưng những thông tin vĩ mô đã khiến cho sự lạc quan của nhà đầu tư về thị trường bị dập tắt. Tỷ giá, lạm phát, lãi suất, giá điện, xăng tăng, thông tin siết tín dụng vào chứng khoán đã đẩy chỉ số chứng khoán về sát mốc 450 điểm, mốc thấp nhất kể từ ngày 1/12/2010. Đồng thời giá trị giao dịch trên sàn TP.HCM có lúc chỉ còn khoảng 500 tỷ đồng, bằng một nửa so với các phiên bình thường trong năm 2010.
Sáng sớm, lướt qua một vòng các sàn giao dịch ở Hà Nội, thấy vắng như chùa Bà Đanh. Dẫu nhiều công ty chứng khoán đã đóng cửa bớt phòng giao dịch, thậm chí cả chi nhánh ở các tỉnh lẻ. Các cổ đông nắm giữ cổ phiếu của các công ty thi nhau chào bán qua sàn OTC. Giá rớt thê thảm. Thậm chí có cổ phiếu giá chỉ bằng 0,5 mệnh giá. Với giá đó, nếu không có gì thay đổi, chuyện phá sản chỉ còn là vấn đề thời gian.
Hoạt động của các công ty chứng khoán được coi là bức tranh sinh động nhất phản ánh thực trạng của những người chơi chứng khoán. Như đã nói ở trên, vào thời kỳ cao điểm của năm 2007, chỉ số VN- Index đạt 1.170 điểm (ngày 12/3) thì kết thúc phiên giao dịch ngày 18/03/2011, chỉ số này là 461 điểm, mất 709 điểm. Sự mất điểm đó đã diễn ra gần như liên tục trong bốn năm qua. Tuy nhiên, trước đó mấy năm, thị trường này đã có những bước tăng ngoạn mục để leo lên đỉnh ngày 12/3/2007.
Thị trường không bao giờ đứng yên, được mất chỉ là con số tương đối. Sau khi xuống thấp hết cỡ, sẽ bắt đầu một chu kỳ mới cao hơn. Với thị trường chứng khoán, sự giảm thấp liên tục trong bốn năm qua đã thực sự rơi xuống đáy hay chưa vẫn là câu hỏi bỏ ngỏ. Chúng ta sẽ bàn đến trong những phần sau.
(Kỳ sau: Cuộc chơi ngân hàng)
(VEF.VN) - Thị trường chứng khoán không bao giờ đứng yên, được mất chỉ là con số tương đối. Sau khi xuống thấp hết cỡ, sẽ bắt đầu một chu kỳ mới cao hơn. Với thị trường chứng khoán, sự giảm thấp liên tục trong bốn năm qua đã thực sự rơi xuống đáy hay chưa vẫn là câu hỏi bỏ ngỏ.
Bạn tôi, sau một phần tư thế kỷ lăn lộn xứ trời Tây, có khoản tiền kha khá, muốn về nước đầu tư. Gặp nhau hắn hỏi: Theo ông, giờ nên đầu tư vào đâu?
Đây không phải lần đầu tiên tôi nghe câu hỏi này. Đầu tư vào đâu vẫn là vấn đề thu hút sự quan tâm của những ai có tiền nhàn rỗi. Khoan hãy sốt ruột. Chuyện đổ tiền vào đâu không chỉ nói dăm câu ba điều, nếu không muốn sa lầy vào hiệu ứng đám đông. Hãy bình tĩnh suy ngẫm một chút để có cái nhìn tổng thể thị trường Việt Nam.
Chuyện bỏ tiền vào đâu nếu chỉ "lướt sóng","đánh quả", khỏi bàn nhiều. Nếu có ý định nghiêm túc để đồng tiền sinh lợi một cách bền vững ta hãy lướt qua một số kênh thông dụng đã và đang được coi là nóng ở các nước đang phát triển. Với Việt Nam cũng không là ngoại lệ.
Ra đời vào ngày 20/7/2000, với việc chính thức khai trương Trung tâm GDCK TP.HCM và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000, có thể nói, với Việt Nam, chứng khoán vẫn là thị trường non trẻ. Hơn 10 năm qua, dẫu có lúc thăng trầm khác nhau nhưng chứng khoán luôn luôn là một kênh đầu tư thu hút sự quan tâm của nhiều người.
Cuối năm 2006, đầu 2007, thị trường chứng khoán Việt Nam thăng hoa. Vn-Index tăng liên tục, liên tục như diều gặp gió, đạt 1.170 điểm (ngày 12/3/2007). Các công ty chứng khoán tha hồ hốt bạc. Mộng mơ như người viết bài này, la cà ở mấy công ty cổ phần, mua bán OTC, cũng kiếm bộn tiền, đủ tậu bốn bánh, lượn lờ ra vẻ đại gia.
Có sàn chứng khoán là có cơ hội để bốc. Phong trào thành lập công ty chứng khoán nhờ đó mà bùng lên như cháy rừng. Không chỉ các đại gia, tiểu gia cũng đôn đáo làm hồ sơ, gửi lên Ủy ban Chứng khoán quốc gia xin thành lập công ty. Thời kỳ này thật khó quên, bởi lúc đó tôi ngồi nhà viết sách chứng khoán, rồi được một số trung tâm mời giảng dạy về món này, cũng kiếm được một số món kha khá.
Một trong những câu chuyện tốn không ít giấy mực báo chí, cũng là chuyện mà tôi thường kể lúc lên lớp là chuyện của Thiên Việt.
Thiên Việt được thành lập theo Giấy phép công ty chứng khoán số 36/UBCK-GPHĐKD Ủy ban CK cấp 25/12/2006. Vốn điều lệ 43 tỷ. Thời chứng khoán được giá, cứ tăng vốn điều lệ, bán cổ phiếu ra ngoài, được năm sáu chấm, một lãi bốn năm lần, ngon ơ.
Đặc biệt, nếu như công ty nào có bắt chân bắt tay với mấy đối tác nước ngoài, Nhật Bản chẳng hạn, Mỹ, Anh càng tốt, thì cổ phiếu cứ thế tăng ào ào. Vậy nên, Chủ tịch Công ty CP Chứng khoán Thiên Việt mới nghĩ ra trò ký kết với đối tác nước ngoài. Lần này ông ta chọn Goldman Sachs. Công ty này được coi là trùm sò tài chính ở phố Wall ở bên kia bán cầu.
Tin được Thiên Việt hé lộ chỉ là: Goldman Sachs và Thiên Việt đã thoả thuận trong bản hợp tác và đã được ký bởi lãnh đạo của hai công ty. Goldman Sachs và Thiên Việt có hợp đồng ký làm việc hợp tác trên nhiều lĩnh vực. Rằng, "Goldman Sachs đã tin tưởng vào năng lực của Công ty CP Chứng khoán Thiên Việt và chọn Thiên Việt làm đối tác nội địa để thực hiện các dự án cụ thể tại Việt Nam"...
Từ đó, Thiên Việt cứ vô tư xin tăng vốn điều lệ. Đợt 1, tăng từ 43 tỷ đồng lên 86 tỷ đồng, theo Quyết định số 67/UBCK-GP ngày 24/8/2007. Cũng năm đó, chỉ bốn tháng sau, ngày 5/12, công ty này lại được Ủy ban Chứng khoán đồng ý cho tăng vốn điều lệ lên 430 tỷ đồng.
Có giấy phép, có đăng ký kinh doanh, những ai sở hữu cổ phiếu phổ thông công ty này cứ thế bán ra thị trường tự do. Có người mua đến 12 chấm. Tức tăng gấp 12 lần mệnh giá. Nghe mà vãi cả linh hồn.
Thử hình dung, bạn có 100 tỷ đồng CP phổ thông, bán ra, lãi gấp 10 lần, vị chi được ngàn tỷ. Trên thế giới, không có nơi nào, kinh doanh lãi đến như vậy. Vì thế, nhà nhà xin thành lập Cty chứng khoán, người người xin thành lập công ty chứng khoán. Trên bàn của Ủy ban Chứng kóoán lúc nào cũng có dăm bảy bộ hồ sơ xin thành lập. Mỗi công ty chứng khoán ra đời phải chi phí mất một số tỷ tiền tư vấn và lobby. Có người chỉ nhờ việc tư vấn thành lập công ty chứng khoán mà giàu lên như bắt được vàng.
Cứ có giấy phép, khắc có người bỏ vốn cho anh kinh doanh. Thiên hạ hồi đó sao hào phóng thế không biết. Rồi nhà nước siết chặt việc thành lập công ty chứng khoán. Hàng chục bộ hồ sơ đang nằm ở Ủy ban Chứng khoán trở thành mớ giấy lộn. Bạn tôi, chủ tịch một tập đoàn cũng nộp hồ sơ, cũng chịu chung số phận đó buông một câu đầy tiếc rẻ: Thế là lỡ mất một cơ hội.
Tuy nhiên đó chỉ là câu chuyện của năm 2007. Còn hôm nay, câu chuyện lại quay ngoắt 180 độ. Khác với phong trào chạy đua xin giấy phép, hơn năm qua, các công ty chứng khoán chật vật để tồn tại. Năm 2010 có 20 công ty chứng khoán công bố lỗ. Thậm chí có công ty thâm thủng nặng, có nguy cơ phá sản.
Công ty CK Kim Long là một trong số những doanh nhiệp như thế. Trong báo cáo kết quả kinh doanh 2010 trình ĐHCĐ vào ngày 19/3, HĐQT Công ty này khẳng định trong khi phí giao dịch có xu hướng ngày càng giảm thì chi phí hoạt động của công ty có xu hướng tăng do phải tăng chi phí về mặt bằng, mở rộng mạng lưới, nghiên cứu và phát triển dịch vụ, đầu tư, vận hành và phát triển hệ thống công nghệ thông tin, nhân lực...
Trong đó, chi phí cho hoạt động môi giới chiếm tỷ trọng lớn cho công ty thua lỗ trong năm 2010.
Điều này cũng được minh chứng qua báo cáo tài chính năm 2010 của các công ty chứng khoán, trong khi lợi nhuận từ môi giới của đa phần các công ty đều giảm mạnh so với 2009 thì chi phí phục vụ cho các hoạt động lại tăng mạnh. Thêm vào đó, thị trường không mấy sáng sủa khiến cho lợi nhuận thu được từ tự doanh là không đáng kể. Chính những nguyên nhân trên khiến cho nhiều công ty chứng khoán khép lại năm cũ với lợi nhuận âm.
Sang năm 2011, với một số phiên tăng điểm đầu năm, chứng khoán những tưởng đã vượt qua thử thách, nhưng những thông tin vĩ mô đã khiến cho sự lạc quan của nhà đầu tư về thị trường bị dập tắt. Tỷ giá, lạm phát, lãi suất, giá điện, xăng tăng, thông tin siết tín dụng vào chứng khoán đã đẩy chỉ số chứng khoán về sát mốc 450 điểm, mốc thấp nhất kể từ ngày 1/12/2010. Đồng thời giá trị giao dịch trên sàn TP.HCM có lúc chỉ còn khoảng 500 tỷ đồng, bằng một nửa so với các phiên bình thường trong năm 2010.
Sáng sớm, lướt qua một vòng các sàn giao dịch ở Hà Nội, thấy vắng như chùa Bà Đanh. Dẫu nhiều công ty chứng khoán đã đóng cửa bớt phòng giao dịch, thậm chí cả chi nhánh ở các tỉnh lẻ. Các cổ đông nắm giữ cổ phiếu của các công ty thi nhau chào bán qua sàn OTC. Giá rớt thê thảm. Thậm chí có cổ phiếu giá chỉ bằng 0,5 mệnh giá. Với giá đó, nếu không có gì thay đổi, chuyện phá sản chỉ còn là vấn đề thời gian.
Hoạt động của các công ty chứng khoán được coi là bức tranh sinh động nhất phản ánh thực trạng của những người chơi chứng khoán. Như đã nói ở trên, vào thời kỳ cao điểm của năm 2007, chỉ số VN- Index đạt 1.170 điểm (ngày 12/3) thì kết thúc phiên giao dịch ngày 18/03/2011, chỉ số này là 461 điểm, mất 709 điểm. Sự mất điểm đó đã diễn ra gần như liên tục trong bốn năm qua. Tuy nhiên, trước đó mấy năm, thị trường này đã có những bước tăng ngoạn mục để leo lên đỉnh ngày 12/3/2007.
Thị trường không bao giờ đứng yên, được mất chỉ là con số tương đối. Sau khi xuống thấp hết cỡ, sẽ bắt đầu một chu kỳ mới cao hơn. Với thị trường chứng khoán, sự giảm thấp liên tục trong bốn năm qua đã thực sự rơi xuống đáy hay chưa vẫn là câu hỏi bỏ ngỏ. Chúng ta sẽ bàn đến trong những phần sau.
(Kỳ sau: Cuộc chơi ngân hàng)
Cuộc chơi BĐS: Cứ "ôm" là giàu?
Tác giả: PHAN THẾ HẢI
{VEF.VN) - Những tưởng, với tốc độ leo thang của giá nhà đất, chỉ cần ôm đất là trở nên giàu có, nhưng chuyện không đơn giản như vậy. Cứ mỗi lần đóng băng là có chừng đó số người lao đao, phá sản, thậm chí nhảy lầu.
Khi cuộc chơi chứng khoán và cuộc chơi ngân hàng nở rộ, cũng là lúc mà hai loại hình này ồ ạt mở chi nhánh, thuê văn phòng. Đây được coi là cơ hội vàng cho những nhà kinh doanh và đầu cơ bất động sản.
Trước hết, những người sở hữu bất động sản có vị trí đẹp bỗng dưng có cơ hội mát mặt theo mưa. Rồi nữa, những tay mới trúng mánh hào phóng vung tiền tậu nhà tậu đất, khiến thị trường bất động sản đang đóng băng bỗng bừng tỉnh.
Đầu năm 2008, thị trường nhà đất đang mơ ngủ bỗng sốt phừng phừng như cháy giếng dầu. Cũng may, cơn sốt kéo dài chưa được bao nhiêu bỗng bị tắt lụi khi nghe tin Lehman Brothers sụp đổ (15/9/2008), chính thức phát hoả cho cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Cuối năm 2008, thị trường nhà đất đóng băng trở lại.
Kể từ khi Luật đất đai được Quốc hội khoá IX thông qua tại kỳ họp thứ ba ngày 14/7/1993, đến nay, tính ra chưa đầy hai chục năm nhưng thị trường bất động sản đã trải qua 4 cơn sốt giá.
Sau mỗi cơn sốt, thị trường bất động sản lại tái lập mặt bằng giá mới, cao hơn mặt bằng cũ. Cứ mỗi lần sốt, có hàng ngàn người sở hữu đất hân hoan. Họ hốt bạc, đổi xe sang nhờ đất.
Là nước đang phát triển, đông dân, tốc độ đô thị hoá diễn ra nhanh chóng, dân cư liên tục tăng, đất đai đang là thứ tài nguyên ngày càng trở nên quý hiếm. Chuyện giá cả nhà đất tăng theo đà đó không có gì đáng bàn. Những tưởng, với tốc độ leo thang của giá nhà đất, chỉ cần ôm đất là trở nên giàu có, nhưng chuyện không đơn giản như vậy. Cứ mỗi lần đóng băng là có chừng đó số người lao đao, phá sản, thậm chí nhảy lầu.
Người dân, nhà đầu tư có tiền vẫn đổ xô nhòm ngó đất đai, chung cư (ảnh tapchidiaoc)
Người viết bài này đã phải ôm hận khi giữ quá nhiều đất vào đầu năm 2008. Vốn của mình chỉ một phần, phần còn lại phải huy động qua các kênh khác nhau. Bỗng thị trường đìu hiu, bán chẳng ai mua. Mang giấy tờ đến ngân hàng cầm cố thì được định giá rẻ như bèo, thủ tục vay mượn đòi hỏi phải có đề án kinh doanh, phức tạp vô cùng. Trong khi các con nợ đòi riết, đành phải bán tháo, tán gia bại sản.
Dùng từ phá sản e không sát, chính xác hơn là sự khánh kiệt đến tận cùng. Khi mỗi ngày đều phải nghe dăm cuộc điện thoại đòi nợ mới thấy hết vị đắng cuộc đời. Cũng may, trường hợp như mình không phải là độc nhất vô nhị. Trước đó đã có vài tấm gương tày liếp thua tan thua nát ở chiến trường này. Ngẫm lại một chút để lấy niềm kiêu hãnh theo phép thắng lợi tinh thần của AQ tiên sinh.
Trước hết phải kể đến "đại ca" Tăng Minh Phụng. Giờ đây, ông đã về với cõi âm được ngót chục năm. Ông ra đi ở tuổi 46, đến 17/7 năm nay là ngày giỗ thứ 8, nghĩ mà không cầm nổi nước mắt.
Khởi nghiệp bằng nghề gia công hàng may mặc xuất khẩu, nhờ chăm chỉ, cần cù, không rượu chè, ham chơi, chẳng mấy chốc Minh Phụng trở thành một đại gia trong ngành này.
Từ một phân xưởng, Minh Phụng liên tục mở rộng sản xuất, chiếm lĩnh thị trường, tên tuổi cứ thế nổi lên, nổi lên như cồn. Đầu những năm 90 của thế kỷ trước, sản phẩm của công ty may Minh Phụng hầu như làm chủ thị trường Đông Âu, Liên Xô. Những ai ở các quốc gia đó, mà được công ty Minh Phụng chọn làm đại lý, đều thắng lớn.
Trước năm 1997, tập đoàn của Minh Phụng có 15 phân xưởng sản xuất gồm 10 phân xưởng may, 1 phân xưởng đồ nhựa gia dụng, 1 phân xưởng dệt, 1 phân xưởng bao bì, 1 phân xưởng thiết kế ngành may và 1 phân xưởng thiết kế mẫu mã đồ nhựa với nhân lực hơn 10.000 người. Giá như chỉ dừng lại ở đó, Minh Phụng có thả phanh thì 100 năm sau cũng không tiêu hết tiền.
Nhưng oái oăm thay, ông lại nhảy vào bất động sản.
Minh Phụng nuôi tham vọng xây những khách sạn hiện đại, những khu resort cao cấp ở Vũng Tàu, Đà Lạt, Nha Trang và cả những showroom thời trang khổng lồ ở Sài Gòn. Xuất khẩu hàng may mặc, được bao nhiêu tiền, Minh Phụng đổ vào đất bấy nhiêu. Mỗi nơi, ông đều tậu được hàng chục hec ta.
Tiền đổ vào đất là tiền ngoài sổ sách, tiền lobby, tiền bôi trơn mà trong hệ thống định khoản của Bộ Tài chính không có danh mục ấy. Muốn có tiền, nguồn thu từ xuất khẩu hàng dệt may không đủ, Minh Phụng phải vay. Dùng một pháp nhân không đủ, phải dùng nhiều pháp nhân... Cứ thế, nợ nần tăng dần, thị trường bất động sản đóng băng, đất chưa mang lại nguồn thu, nợ quá hạn, lãi quá hạn chồng chất, ngân hàng đến siết nợ... Minh Phụng từ một ngôi sao đang lên, cứ thế lụi dần, lụi dần rồi chìm xuống đáy sâu thăm thẳm.
Minh Phụng bị truy tố tội lừa đảo với tổng số tiền nợ các ngân hàng thương mại gần 6.000 tỷ đồng và 32,6 triệu USD... Ông bị bắt giam ngày 24/03/1997 và sau đó bị kết án tử hình.
Những tòa này là niềm mơ ước của nhiều người dân không có sở hữu nhà, đất.
Một nhân vật thứ hai dẫu không phải dựa cột như Minh Phụng nhưng cũng không kém phần cay đắng ở thị trường nhà đất, đó là Lã Thị Kim Oanh. Bà nguyên là Giám đốc Công ty Tiếp thị Bộ NN&PTNT. Những ai làm báo thời những năm 2000 đều không lạ gì bà. Nhờ sự năng động của bà, dự án Khu triển lãm nông nghiệp Việt Nam mới được cấp đất và do Công ty Tiếp thị làm chủ đầu tư.
Tuy nhiên, cũng như trong bất cứ dự án đầu tư nào của Nhà nước, người ta chỉ thừa nhận những khoản chi phí có hoá đơn, chứng từ theo định mức của Nhà nước. Nhưng nếu chỉ chừng đó thôi, thì khi nộp hồ sơ lên các cơ quan chức năng, bạn có thể yên tâm đợi cho đến kỷ niệm 2.000 năm Thăng Long chưa chắc đã được phê duyệt.
Ngoài dự án đó, bà Oanh còn xúc tiến nhiều dự án đất đai khác như khu nhà ở Lạc Long Quân, khu đất ở công viên Đống Đa; Dự án KCN Kim Hoa (Vĩnh Phúc)... Mỗi dự án lấy đất đều phải chi phí ngoài sổ sách một số tỷ đồng. Ở đời, khi trồng lúa chưa đến vụ gặt thì đã chết đói bên bờ ruộng. Tiến độ chậm của các dự án, sự lỏng lẻo trong các khoản chi tiêu là lý do mà bà phải ra toà với tội danh cũ như cái hũ: Tham ô.
Với tổng số 70,99 tỷ đồng và 92.659 USD chi sai nguyên tắc, tại phiên toà phúc thẩm ngày 5/4/2004, Hội đồng xét xử tuyên bố y án sơ thẩm đối với Lã Thị Kim Oanh gồm án tử hình về tội tham ô và 20 năm tù về tội cố ý làm trái (mức án chung là tử hình). Mãi đến tháng 6/2006, Lã Thị Kim Oanh mới được chủ tịch nước ân giảm xuống án chung thân. Hiện bà vẫn đang miệt mài bóc lịch ở Trại giam số 5, Thanh Hóa.
Nhắc lại một vài bài học về thất bại trên thị trường bất động sản để thấy rằng, "mảnh đất" này không chỉ có vinh quang, tiền bạc mà còn có cả mồ hôi, nước mắt, thậm chí cả đổ máu. Nhưng ở đời, chiến trường càng khốc liệt bao nhiêu càng có bấy nhiêu anh hùng toả sáng.
Trong số các đại gia được "vua biết mặt, chúa biết tên", với số tài sản hàng ngàn tỷ, hiên ngang xuất hiện trên sàn chứng khoán, không dưới 70% các đại gia giàu lên nhờ đất. "Chúa đảo" Đào Hồng Tuyển được biết đến như người sở hữu hơn 700ha đất ở đảo Tuần Châu. Ông bầu Đoàn Nguyên Đức của Hoàng Anh Gia Lai có trong tay hàng chục resort cao cấp ở Gia Lai, Đà Lạt, Quy Nhơn... Phạm Nhật Vượng, ông chủ Vincom và Vipearland, cũng đang sở hữu đảo Hòn Tre nổi tiếng ở Nha Trang... Ông Đặng Thành Tâm của Tập đoàn Đầu tư Sài Gòn hiện là chủ của KCN Tân Tạo rộng hơn 200ha ở Sài Gòn...
Đó đều là những con cá kình trên sàn chứng khoán. Còn những tiểu gia giàu lên nhờ mua đất nền, mua đất kẹt để chuyển đổi rồi kiếm dăm ba tỷ tiêu chơi thì nhiều như lá mùa xuân, kể ra không xiết.
Vậy làm thế nào kiếm tiền từ đất, để trở thành tiểu gia, đại gia mà không phải rơi vào thảm cảnh như Minh Phụng hay Lã Thị Kim Oanh? Làm thế nào để sử dụng đồng tiền một cách có hiệu quả nhất vào thời điểm này? Đầu tư vào nhà ở chung cư, vào xây văn phòng hay đầu tư vào đất phân lô bán nền? Đó là vô số những lựa chọn cho các nhà đầu tư bất động sản.
Nếu bạn đọc còn nguồn cảm hứng, xin mời cùng tham gia bàn tiếp chủ đề này hoặc trực tiếp trao đổi với người viết.
{VEF.VN) - Những tưởng, với tốc độ leo thang của giá nhà đất, chỉ cần ôm đất là trở nên giàu có, nhưng chuyện không đơn giản như vậy. Cứ mỗi lần đóng băng là có chừng đó số người lao đao, phá sản, thậm chí nhảy lầu.
Khi cuộc chơi chứng khoán và cuộc chơi ngân hàng nở rộ, cũng là lúc mà hai loại hình này ồ ạt mở chi nhánh, thuê văn phòng. Đây được coi là cơ hội vàng cho những nhà kinh doanh và đầu cơ bất động sản.
Trước hết, những người sở hữu bất động sản có vị trí đẹp bỗng dưng có cơ hội mát mặt theo mưa. Rồi nữa, những tay mới trúng mánh hào phóng vung tiền tậu nhà tậu đất, khiến thị trường bất động sản đang đóng băng bỗng bừng tỉnh.
Đầu năm 2008, thị trường nhà đất đang mơ ngủ bỗng sốt phừng phừng như cháy giếng dầu. Cũng may, cơn sốt kéo dài chưa được bao nhiêu bỗng bị tắt lụi khi nghe tin Lehman Brothers sụp đổ (15/9/2008), chính thức phát hoả cho cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Cuối năm 2008, thị trường nhà đất đóng băng trở lại.
Kể từ khi Luật đất đai được Quốc hội khoá IX thông qua tại kỳ họp thứ ba ngày 14/7/1993, đến nay, tính ra chưa đầy hai chục năm nhưng thị trường bất động sản đã trải qua 4 cơn sốt giá.
Sau mỗi cơn sốt, thị trường bất động sản lại tái lập mặt bằng giá mới, cao hơn mặt bằng cũ. Cứ mỗi lần sốt, có hàng ngàn người sở hữu đất hân hoan. Họ hốt bạc, đổi xe sang nhờ đất.
Là nước đang phát triển, đông dân, tốc độ đô thị hoá diễn ra nhanh chóng, dân cư liên tục tăng, đất đai đang là thứ tài nguyên ngày càng trở nên quý hiếm. Chuyện giá cả nhà đất tăng theo đà đó không có gì đáng bàn. Những tưởng, với tốc độ leo thang của giá nhà đất, chỉ cần ôm đất là trở nên giàu có, nhưng chuyện không đơn giản như vậy. Cứ mỗi lần đóng băng là có chừng đó số người lao đao, phá sản, thậm chí nhảy lầu.
Người dân, nhà đầu tư có tiền vẫn đổ xô nhòm ngó đất đai, chung cư (ảnh tapchidiaoc)
Người viết bài này đã phải ôm hận khi giữ quá nhiều đất vào đầu năm 2008. Vốn của mình chỉ một phần, phần còn lại phải huy động qua các kênh khác nhau. Bỗng thị trường đìu hiu, bán chẳng ai mua. Mang giấy tờ đến ngân hàng cầm cố thì được định giá rẻ như bèo, thủ tục vay mượn đòi hỏi phải có đề án kinh doanh, phức tạp vô cùng. Trong khi các con nợ đòi riết, đành phải bán tháo, tán gia bại sản.
Dùng từ phá sản e không sát, chính xác hơn là sự khánh kiệt đến tận cùng. Khi mỗi ngày đều phải nghe dăm cuộc điện thoại đòi nợ mới thấy hết vị đắng cuộc đời. Cũng may, trường hợp như mình không phải là độc nhất vô nhị. Trước đó đã có vài tấm gương tày liếp thua tan thua nát ở chiến trường này. Ngẫm lại một chút để lấy niềm kiêu hãnh theo phép thắng lợi tinh thần của AQ tiên sinh.
Trước hết phải kể đến "đại ca" Tăng Minh Phụng. Giờ đây, ông đã về với cõi âm được ngót chục năm. Ông ra đi ở tuổi 46, đến 17/7 năm nay là ngày giỗ thứ 8, nghĩ mà không cầm nổi nước mắt.
Khởi nghiệp bằng nghề gia công hàng may mặc xuất khẩu, nhờ chăm chỉ, cần cù, không rượu chè, ham chơi, chẳng mấy chốc Minh Phụng trở thành một đại gia trong ngành này.
Từ một phân xưởng, Minh Phụng liên tục mở rộng sản xuất, chiếm lĩnh thị trường, tên tuổi cứ thế nổi lên, nổi lên như cồn. Đầu những năm 90 của thế kỷ trước, sản phẩm của công ty may Minh Phụng hầu như làm chủ thị trường Đông Âu, Liên Xô. Những ai ở các quốc gia đó, mà được công ty Minh Phụng chọn làm đại lý, đều thắng lớn.
Trước năm 1997, tập đoàn của Minh Phụng có 15 phân xưởng sản xuất gồm 10 phân xưởng may, 1 phân xưởng đồ nhựa gia dụng, 1 phân xưởng dệt, 1 phân xưởng bao bì, 1 phân xưởng thiết kế ngành may và 1 phân xưởng thiết kế mẫu mã đồ nhựa với nhân lực hơn 10.000 người. Giá như chỉ dừng lại ở đó, Minh Phụng có thả phanh thì 100 năm sau cũng không tiêu hết tiền.
Nhưng oái oăm thay, ông lại nhảy vào bất động sản.
Minh Phụng nuôi tham vọng xây những khách sạn hiện đại, những khu resort cao cấp ở Vũng Tàu, Đà Lạt, Nha Trang và cả những showroom thời trang khổng lồ ở Sài Gòn. Xuất khẩu hàng may mặc, được bao nhiêu tiền, Minh Phụng đổ vào đất bấy nhiêu. Mỗi nơi, ông đều tậu được hàng chục hec ta.
Tiền đổ vào đất là tiền ngoài sổ sách, tiền lobby, tiền bôi trơn mà trong hệ thống định khoản của Bộ Tài chính không có danh mục ấy. Muốn có tiền, nguồn thu từ xuất khẩu hàng dệt may không đủ, Minh Phụng phải vay. Dùng một pháp nhân không đủ, phải dùng nhiều pháp nhân... Cứ thế, nợ nần tăng dần, thị trường bất động sản đóng băng, đất chưa mang lại nguồn thu, nợ quá hạn, lãi quá hạn chồng chất, ngân hàng đến siết nợ... Minh Phụng từ một ngôi sao đang lên, cứ thế lụi dần, lụi dần rồi chìm xuống đáy sâu thăm thẳm.
Minh Phụng bị truy tố tội lừa đảo với tổng số tiền nợ các ngân hàng thương mại gần 6.000 tỷ đồng và 32,6 triệu USD... Ông bị bắt giam ngày 24/03/1997 và sau đó bị kết án tử hình.
Những tòa này là niềm mơ ước của nhiều người dân không có sở hữu nhà, đất.
Một nhân vật thứ hai dẫu không phải dựa cột như Minh Phụng nhưng cũng không kém phần cay đắng ở thị trường nhà đất, đó là Lã Thị Kim Oanh. Bà nguyên là Giám đốc Công ty Tiếp thị Bộ NN&PTNT. Những ai làm báo thời những năm 2000 đều không lạ gì bà. Nhờ sự năng động của bà, dự án Khu triển lãm nông nghiệp Việt Nam mới được cấp đất và do Công ty Tiếp thị làm chủ đầu tư.
Tuy nhiên, cũng như trong bất cứ dự án đầu tư nào của Nhà nước, người ta chỉ thừa nhận những khoản chi phí có hoá đơn, chứng từ theo định mức của Nhà nước. Nhưng nếu chỉ chừng đó thôi, thì khi nộp hồ sơ lên các cơ quan chức năng, bạn có thể yên tâm đợi cho đến kỷ niệm 2.000 năm Thăng Long chưa chắc đã được phê duyệt.
Ngoài dự án đó, bà Oanh còn xúc tiến nhiều dự án đất đai khác như khu nhà ở Lạc Long Quân, khu đất ở công viên Đống Đa; Dự án KCN Kim Hoa (Vĩnh Phúc)... Mỗi dự án lấy đất đều phải chi phí ngoài sổ sách một số tỷ đồng. Ở đời, khi trồng lúa chưa đến vụ gặt thì đã chết đói bên bờ ruộng. Tiến độ chậm của các dự án, sự lỏng lẻo trong các khoản chi tiêu là lý do mà bà phải ra toà với tội danh cũ như cái hũ: Tham ô.
Với tổng số 70,99 tỷ đồng và 92.659 USD chi sai nguyên tắc, tại phiên toà phúc thẩm ngày 5/4/2004, Hội đồng xét xử tuyên bố y án sơ thẩm đối với Lã Thị Kim Oanh gồm án tử hình về tội tham ô và 20 năm tù về tội cố ý làm trái (mức án chung là tử hình). Mãi đến tháng 6/2006, Lã Thị Kim Oanh mới được chủ tịch nước ân giảm xuống án chung thân. Hiện bà vẫn đang miệt mài bóc lịch ở Trại giam số 5, Thanh Hóa.
Nhắc lại một vài bài học về thất bại trên thị trường bất động sản để thấy rằng, "mảnh đất" này không chỉ có vinh quang, tiền bạc mà còn có cả mồ hôi, nước mắt, thậm chí cả đổ máu. Nhưng ở đời, chiến trường càng khốc liệt bao nhiêu càng có bấy nhiêu anh hùng toả sáng.
Trong số các đại gia được "vua biết mặt, chúa biết tên", với số tài sản hàng ngàn tỷ, hiên ngang xuất hiện trên sàn chứng khoán, không dưới 70% các đại gia giàu lên nhờ đất. "Chúa đảo" Đào Hồng Tuyển được biết đến như người sở hữu hơn 700ha đất ở đảo Tuần Châu. Ông bầu Đoàn Nguyên Đức của Hoàng Anh Gia Lai có trong tay hàng chục resort cao cấp ở Gia Lai, Đà Lạt, Quy Nhơn... Phạm Nhật Vượng, ông chủ Vincom và Vipearland, cũng đang sở hữu đảo Hòn Tre nổi tiếng ở Nha Trang... Ông Đặng Thành Tâm của Tập đoàn Đầu tư Sài Gòn hiện là chủ của KCN Tân Tạo rộng hơn 200ha ở Sài Gòn...
Đó đều là những con cá kình trên sàn chứng khoán. Còn những tiểu gia giàu lên nhờ mua đất nền, mua đất kẹt để chuyển đổi rồi kiếm dăm ba tỷ tiêu chơi thì nhiều như lá mùa xuân, kể ra không xiết.
Vậy làm thế nào kiếm tiền từ đất, để trở thành tiểu gia, đại gia mà không phải rơi vào thảm cảnh như Minh Phụng hay Lã Thị Kim Oanh? Làm thế nào để sử dụng đồng tiền một cách có hiệu quả nhất vào thời điểm này? Đầu tư vào nhà ở chung cư, vào xây văn phòng hay đầu tư vào đất phân lô bán nền? Đó là vô số những lựa chọn cho các nhà đầu tư bất động sản.
Nếu bạn đọc còn nguồn cảm hứng, xin mời cùng tham gia bàn tiếp chủ đề này hoặc trực tiếp trao đổi với người viết.
Luật pháp CSVN vi phạm tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do thông tin
2.1. Tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do thông tin theo Công Pháp Quốc Tế
Tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do thông tin là những quyền căn bản mọi người được hưởng và được bảo đảm thực thi không bị cản trở bởi bất cứ một thế lực đối kháng nào, được qui định ở điều 18 và 19 của Công Ước Quốc Tế các quyền Dân Sự và Chính Trị cũng như của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền:
Điều 18: (CƯDSCT: Công Ước Quốc Tế những quyền Dân Sự và Chính Trị)
1. Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo. Quyền này bao gồm quyền tự do theo một tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự thờ phụng, hành đạo, nghi lễ hay giảng dạy, hoặc riêng tư hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng.
2. Không ai bị cưỡng bách tước đoạt quyền tự do lựa chọn tôn giáo hay tín ngưỡng.
3. Quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn theo luật, vì nhu cầu bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, đạo lý hay những quyền tự do căn bản của người khác.
4. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam kết tôn trọng quyền của cha mẹ hay người giám hộ trong việc giáo dục các con về tôn giáo hay đạo lý theo tín ngưỡng của họ.
Điều 19: (CƯDSCT)
1. Mọi người đều có quyền giữ vững quan niệm mà không bị ai can thiệp.
2. Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia.
3. Việc hành sử quyền tự do phát biểu quan điểm (ghi ở khoản 2 nói trên) đòi hỏi đương sự phải có những bổn phận và trách nhiệm đặc biệt. Quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu:
a. Tôn trọng những quyền tự do và thanh danh của người khác.
b. Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng hay đạo lý.
Điều 18 (TNQTNQ: Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền) Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo; quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự giảng dạy, hành đạo, thờ phụng và nghi lễ, hoặc riêng mình hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng.
Điều 19 (TNQTNQ) : Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia.
Quyền tự do ngôn luận không những được bảo đảm cho từng cá nhân mà công dân còn có quyền bày tỏ, phổ biến, tư tưởng và quan điểm của mình cho đại chúng mà không bị hạn chế bởi biên giới quốc gia mình đang sinh sống bằng mọi phương tiện như truyền khẩu, ấn phẩm, phim, ảnh, tác phẩm nghệ thuật, truyền thanh, truyền hình, truyền thông điện tử, Internet vv… Ngoài ra mọi công dân được quyền tự do tìm kiếm, thu nhận thông tin từ khắp nơi bằng mọi phương tiện thông tin.
2.2. Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin theo luật pháp CHXHCN Việt Nam
2.2.1. Hiến pháp CSVN
Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã ký kết tham gia Công Ước Quốc Tế về những quyền Dân Sự và Chính Trị qua sự phê chuẩn của Quốc Hội CSVN vào năm 1982. Trong Hiến Pháp năm 1992, các quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do được thông tin được qui định bởi điều 69:
Điều 69 (HP92: Hiến Pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992): Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.
Tuy các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; quyền được thông tin, được hội họp, lập hội, biểu tình được nêu lên trong điều khoản này, nhưng việc thực hiện những quyền tự do căn bản này lại phải lệ thuộc vào pháp luật hiện hành: „theo quy định của pháp luật“.
Thí dụ „tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam“ được qui trong điều 88 bộ luật hình sự hiện hành của nhà nước CSVN:
Điều 88. (bộ luật hình sự) Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:
a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;
b) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân;
c) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm.
Qua điều luật này những lời nói mang nội dung „tuyên truyền truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân“ hoặc có tính cách „Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân“ cũng như việc „Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam“ có thể bị phạt tù „đến hai mươi năm“.
Điều luật được ban hành từ năm 1999 nhưng giới luật gia tại Việt Nam hoàn toàn không hiểu thế nào là „tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân“, những lời nói nào bị kết tội „Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân“ và tài liệu nào, văn hoá phẩm nào „có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam“?
Qua đó điều 88 bộ luật hình sự CSVN dành cho các cơ quan hành pháp và tư pháp chức năng rất lớn là có quyền kết tội người dân một cách tùy tiện.
Mặt khác, quyền được tham gia thảo luận các vấn đề chung của đất nước của người dân được qui định bởi điều 53 Hiến Pháp CHXHCNVN „Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương“. Quyền tham gia thảo luận các vấn đề chung của đất nước bao gồm quyền tìm hiểu căn nguyên của vấn đề hầu có thể đóng góp ý kiến thảo luận để giải quyết vấn đề. Từ những căn nguyên tạo ra vấn đề, những nhược điểm, nhân sự và cơ quan liên quan đến vấn đề được nêu ra và phân tích. Nếu thiếu phần nêu ra và phân tích những nhược điểm, nhân sự hoặc cơ quan gây ra vấn đề thì sự việc không còn mang tính chất „thảo luận các vấn đề“ nữa, mà biến thành „chấp hành các vấn đề“!
Khoản a đìều 88 bộ luật hình sự CSVN kết tội việc phê bình nhà nước là „Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân“ không những vi phạm điều 18 và 19 CƯDSCT mà còn mâu thuẫn với cả điều 53 Hiến Pháp của CSVN.
Khoản c điều 88 kết án việc „Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam“ mâu thuẫn hoàn toàn với điều 69 của Hiến pháp „Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí...“
Điều 146 Hiến Pháp qui định rõ ràng: „Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.“
Điều 69 Hiến pháp kết hợp với điều 88 bộ luật hình sự của nước CHXHCN VN là vi phạm Hiến pháp nước CHXHCNVN và phản Hiến Chương LHQ cùng vi phạm nhân quyền.
Tất cả các điều trong Hiến Pháp CHXHCNVN có cụm từ „… theo quy định của pháp luật“ chiếu theo điều 146 Hiến Pháp là vi hiến.
Tất cả các điều luật, nghị định có cụm từ „Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân“ cũng như các điều luật, nghị định, chỉ thị có cụm từ „Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam“ không những chỉ vi phạm hiến chương LHQ, Công Ước Quốc Tế các Quyền Dân Sự và Chính Trị, mà còn vi phạm chính Hiến Pháp của nước CHXHCNVN.
2.2.2. Luật báo chí
Luật Báo chí qui định báo chí tại CHXHCNVN là „cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội“ phục vụ đường lối, chủ trương và quyền lợi của đảng cộng sản Việt Nam:
Điều 1. Vai trò, chức năng của báo chí
Báo chí ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội ; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội (dưới đây gọi chung là tổ chức) ; là diễn đàn của nhân dân.
Đìều 19, khoản 2 Công Ước Quốc Tế các Quyền Dân Sự và Chính Trị qui định rằng, mọi người đều có quyền tự do bày tỏ và phổ biến tin tức, quan điểm, ý kiến của mình bằng mọi phương tiện truyền thông trong đó có báo chí. Sự qui định báo chí tại Việt Nam„ là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội“ cản trở phổ biến quan điểm, tư tưởng đại chúng không thuộc những tổ chức đảng, nhà nước hay các tổ chức chịu sự ảnh hưởng của đảng CSVN.
Đồng thời điều 6, đoạn 2 qui định nhiệm vụ của báo chí là „Tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước”:
Điều 6. Nhiệm vụ và quyền hạn của báo chí
Báo chí có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây :
1- Thông tin trung thực về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới ;
2- Tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước…
Luật báo chí CSVN không cho phép các tổ chức ngoài phạm vi ảnh hưởng của đảng cộng sản Việt Nam (thí dụ như Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất Việt Nam, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, Giáo Hội Phật Giáo Hoà Hảo, Giáo Hội Cao Đài, Giáo Hội Tin Lành vv…) và mọi công dân phổ biến tư tưởng, suy nghĩ của mình. Qua đó luật báo chí CHXHCNVN vi phạm các điều 18, 19 Công Ước Quốc Tế các Quyền Dân Sự và Chính Trị và Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.
2.2.3. Luật Xuất Bản
Chiếu theo điều 11 của luật Xuất bản tại nước CHXHCNVN đối tượng được phép thành lập nhà Xuất bản gồm các cơ quan nhà nước, cơ sở của đảng cộng sản Việt Nam và các tổ chức chịu ảnh hưởng đảng cộng sản Việt Nam.
Điều 11. Đối tượng được thành lập nhà xuất bản
Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội và các tổ chức khác do Chính phủ quy định được thành lập nhà xuất bản.
Nhà xuất bản tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện hoặc đơn vị sự nghiệp có thu.
Cũng như luật báo chí luật xuất bản của CSVN không cho phép những tổ chức và công dân ngoài tầm ảnh hưởng của đảng cộng sản Việt Nam thành lập nhà xuất bản. Do đó người dân không được thực hiện quyền tự do ngôn luận. Đồng thời, báo chí và nhà xuất bản do các tổ chức đảng, nhà nước và các tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản Việt Nam điều hành và quản lý nên người dân không có điều kiện đọc và phổ biến các tin tức khách quan trung thực.
2.3. Tóm tắt
Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí không những không được tôn trọng tại CHXHCNVN mà còn bị chà đạp có hệ thống bởi những điều luật chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau.
Luật pháp nước CHXHCNVN vi phạm điều 18 và 19 của Công Ước Quốc Tế về Các Quyền Dân Sự và Chính trị và Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.
2.4 Mười trường hợp tiêu biểu vi phạm tự do ngôn luận, tự do báo chí trong thời gian gần đây
Trường hợp 1: Không cho phép báo chí và nhà xuất bản tư nhân hoạt động
Tại Việt Nam không có tờ báo hay nhà xuất bản tư nhân hay độc lập nào. Các tôn giáo như Phật Giáo với hàng chục triệu tín đồ, Công Giáo, Phật Giáo Hoà Hảo mỗi tôn giáo với 8 triệu tín đồ, Tin Lành, Cao Đài vv… đều không có quyền xuất bản báo chí hay sách, ngay cả sách kinh.
Trường hợp 2: Kết án 2 nhà báo vì đưa tin tham nhũng
Ông Nguyễn văn Hải, 33 tuổi, phóng viên tờ Tuổi Trẻ và ông Nguyễn Việt Chiến, 56 tuổi, phóng viên báo Thanh Niên bị bắt giam ngày 12.05.2008 với tội danh “lợi dụng chức vụ – quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Hai nhà báo này đã phanh phui vụ tham nhũng lớn tại bộ giao thông-vận tải là vụ PMU18 làm ảnh hưởng tiêu cực đến chế độ và lãnh đạo CSVN.
Trong phiên toà ngày 15/10/2008 hai ông bị kêu án 2 năm tù về tội “lợi dụng quyền tự do, dân chủ” trong lúc hành nghề với loạt bài tố giác tham nhũng hàng triệu đô la trong dự án PMU 18. Nhà báo Nguyễn Việt Chiến khẳng định việc lấy tin từ cơ quan điều tra là hợp pháp. Ông phủ nhận hoàn toàn mọi cáo buộc của viện kiểm sát, cương quyết cho rằng mình chỉ làm nhiệm vụ thông tin như nghề nghiệp quy định. Những tin ông viết đều được chính thiếu tướng Phạm Xuân Quắc cung cấp và đều được ghi băng (đã trình tòa). Do thái độ cứng rắn của ông, nhà báo Nguyễn Việt Chiến đã bị kết án 2 năm tù giam. Nhà báo Nguyễn văn Hải bị kết án 2 năm tù không giam.
Trường hợp 3: Kỹ Sư Đỗ Nam Hải
Điạ chỉ: 441 Nguyễn Kiệm – Phường 9 – Quận Phú Nhuận – Sài Gòn – Việt Nam.
Kỹ Sư Đỗ Nam Hải học tại Úc về ngành Tiền tệ – Tín dụng. Tháng 1/2002 anh trở về nước và làm việc tại một ngân hàng thương mại.
Từ tháng 6/2000 đến tháng 8/2001 lấy bút hiệu Phương Nam anh Đỗ Nam Hải viết 5 bài chính luận tại Úc đề nghị thực hiện một cuộc Trưng Cầu Dân Ý, để nhân dân Việt Nam được thực hiện Quyền dân tộc tự quyết của mình là lựa chọn thể chế chính trị độc đảng hay đa đảng.
Tháng 8/2004 trong khi đang làm việc tại ngân hàng bị 1 nhóm gồm 5 sỹ quan công an thuộc Bộ công an Việt Nam đến gặp và mời đi làm việc để thẩm vấn về những bài anh viết tại Úc. Sau đó bị giữ lại 50 tiếng mà không hề có lệnh tạm giữ.
Tháng 2/2005 bị công an chỉ đạo cho ban lãnh đạo ngân hàng, nơi anh đang làm việc chấm dứt Hợp Đồng Lao Động giữa anh với ngân hàng này. Hành động đó không những hoàn toàn trái Công Ước Quốc Tế về các Quyền Dân Sự và Chính Trị, Công Ước Quốc Tế về các Quyền Kinh Tế và Xã HộI mà còn trái với Luật lao động hiện hành của nước CHXHCN Việt Nam.
Trường hợp 4: Luật sư Lê Thị Công Nhân và Luật sư Nguyễn văn Đài
Ngày 06.03.2007 luật sư Lê thị Công Nhân và Luật sư Nguyễn văn Đài bị bắt tại Hà Nội. Các cơ quan tuyên truyền của nhà cầm quyền CSVN đã tường trình như sau về nguyên nhân bắt giam hai vị luật sư nhân quyền này: “Đài và Công Nhân có hành vi xuyên tạc chủ trương chính sách của nhà nước về dân chủ, nhân quyền” VKSND Hà Nội xác định, lợi dụng việc hành nghề luật sư, Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân sử dụng Văn phòng Thiên Ân để thực hiện hành vi tuyên truyền, chống nhà nước. Lê Thị Công Nhân tham gia khối 8406 và là phát ngôn viên của “đảng Việt Nam thăng tiến”. Khám nơi ở của Lê Thị Công Nhân và Nguyễn Văn Đài, lực lượng chức năng thu gần 150 đầu tài liệu. Trong số này có một số sách, bán nguyệt san, tập san bị cấm lưu hành. Tài liệu “tuyên ngôn tự do dân chủ cho Việt Nam” của khối 8406 hay tài liệu kêu gọi tẩy chay bầu cử Quốc hội khóa 12 cũng được tìm thấy. Từ tháng 12/2006, Nguyễn Văn Đài tuyên truyền thành lập “đảng dân chủ thế kỷ 21″, “đảng Việt Nam thăng tiến”, “khối 8406″. Học viên tham dự lớp học do Đài mở được phát tài liệu, tiền, hứa tài trợ đi du học nước ngoài, tạo việc làm.”
Theo bản “cáo trạng” số 28/CT của Viện Kiểm sát Nhân dân thành phố Hà Nội đưa ra tại phiên xử thì các bị cáo “đã có hành vi tàng trữ các tài liệu có nội dung xuyên tạc lịch sử dân tộc, bôi nhọ chế độ xã hội do đảng Cộng sản lãnh đạo, vu cáo xuyên tạc chính sách của Nhà nước đối với tổ chức Công đoàn và giai cấp công nhân Việt Nam”
Ngày 11.05.2007 một phiên toà ngắn ngủi tại Hà Nội kết án Ls Lê thị Công Nhân 4 năm tù và 4 năm quản chế, luật sư Nguyễn văn Đài 5 năm tù ở và 5 năm quản chế về „tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam“ theo điều 88 của bộ luật hình sự nước CHXHCNVN.
Phiên toà phúc thẩm vào tháng 11 năm 2007 bản án đã được hạ xuống còn 3 năm tù và 3 năm quản chế cho luật sư Lê thị Công Nhân và 4 năm tù ở và 4 năm quản chế cho luật sư Nguyễn văn Đài.
Nhận xét của luật sư Trần Lâm về việc phiên toà xét xử hai luật sư Lê thị Công Nhân và Nguyễn văn Đài như sau: “… Sai lầm của truy tố xét xử, điều tra là nói có những tài liệu này, lời nói này nên có tội mà không hề có trích dẫn, không hề có biện luận …”
Trường hợp 5: Bán Nguyệt San “Tự Do Ngôn Luận”, Linh mục Nguyễn văn Lý
Ngày 30/03/2007 tại toà án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, linh mục Nguyễn Văn Lý, người khởi xướng và thực hiện Bán Nguyệt San “Tự Do Ngôn Luận” bị kết án 8 năm tù ở và 5 năm quản chế về „tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam“ theo điều 88 của bộ luật hình sự nước CHXHCNVN trong phiên toà ngắn ngủi.
Bán Nguyệt San Tự Do Ngôn Luận , công trình tập thể của nhiều thành viên Khối 8406 với Chủ nhiệm là Linh mục Chân Tín, Ban Biên tập gồm có Linh mục Nguyễn Văn Lý, Linh mục Phan Văn Lợi, Luật sư Nguyễn Văn Đài, Ký giả Nguyễn Khắc Toàn và một số cộng sự viên khác.
Bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận ra đời ngày 08/04/2006, nhằm thông tin những tin tức trung thực đến người dân trong nước và vận động công dân đóng góp ý kiến giải quyết những khó khăn mọi mặt (luật pháp, tôn giáo, chính trị, xã hội vv…) của đất nước hiện nay mà đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam do cấu trúc độc tài của họ không thể giải quyết được. Đến nay Bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận đã phát hành được 64 số báo mặc dù với hoàn cảnh cực kỳ khó khăn kể từ 15/04/2006 đến nay (số 64 ra ngày 01/12/2008, tổng cộng đã được 2 năm 8 tháng rưỡi), Người chủ xướng Bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận LM Nguyễn Văn Lý và Ls Nguyển Văn Đài, cộng tác viên trong ban biên tập, đều đang bị cộng sản cầm tù. Người thay thế chủ động là LM Phan Văn Lợi cũng bị nhà cầm quyền cộng sản VN quản chế theo dõi, đấu tố trước công chúng, mạ lỵ, đe dọa trừng phạt vv… Nhiều cộng sự viên khắp cả nước cũng bị cản trở trong việc phát hành, độc giả của tờ báo cũng bị sách nhiễu cấm cản. Tất cả nhằm triệt hạ cơ quan tranh đấu cho quyền được thông tin trung thực, được phát biểu thẳng thắn, được trình bày rõ ràng về những vấn đề quan trọng của đất nước Việt Nam dưới chế độ cộng sản độc tài hiện nay.
( không khác thời kỳ 1954 của Hồ sơ vụ án Nhân Văn Giai Phẩm bị truy tố và bắt giam )
Trường hợp 6: Bác sĩ Nguyễn Đan Quế
Ngày 19-7-2004 Bs Nguyễn Đan Quế bị kết án 30 tháng tù dưới tội danh “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước’’. Được biết bác sĩ Nguyễn Đan Quế bị bắt hôm 17.03.2003 tại Sài gòn vì trước đó vài ngày ông đã phổ biến một bài viết trên Internet chỉ trích tình trạng thiếu tự do thông tin tại Việt Nam.
Năm 1991, Bs Nguyễn Đan Quế cũng đã bị giới hữu trách Hà nội tuyên án tù 20 năm vì công khai kêu gọi tổ chức bầu cử tự do và thiết lập hệ thống chính trị đa đảng.
Trường hợp 7: Nữ đạo diễn Song Chi
Nữ đạo diễn Song Chi bị khước từ hợp đồng với hãng phim truyền hình TFS thuộc đài truyền hình HTV (TP.HCM) vì đã các bài viết thẳng thắn thể hiện quan điểm trên trang Web, tham gia biểu tình chống Trung Quốc lấn chiếm Hoàng Sa-Trường Sa.Trong cuộc phỏng vấn với đài phát thanh RFA ngày 10/5/008, Song Chi đã cho biết như sau:
“Ngày mùng 2 vừa qua thì tôi có lên gặp ông Nguyễn Việt Hùng – Giám Đốc hãng phim TFS, ông Nguyễn Việt Hùng có thông báo cho tôi biết rằng là bên an ninh họ đến làm việc với Tổng Giám Đốc Đài và Ban Giám Đốc của hãng phim, đề nghị là không mời đạo diễn Song Chi cộng tác nữa vì lý do như họ nói là “có vấn đề về chính trị, có viết bài gửi các trang web bên ngoài, trả lời báo đài và có những mối quan hệ với những phần tử phức tạp về chính trị”.
Trường hợp 8: Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do
a/ Nhà báo tự do Nguyễn Văn Hải, thường được biết đến qua bút hiệu Hoàng Hải và Điếu Cầy, sinh năm 1953, nguyên quán Hải Phòng. Ông thành lập Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do, quy tụ các cây bút tình nguyện viết về thực trạng xã hội Việt Nam hiện tại và phản ánh tâm tư, nguyện vọng của người dân và lên tiếng tranh đấu cho họ, những người bị thiệt hại do chính sách trưng dụng đất đai, nhà cửa và đối xử bất công của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam. Ông thành lập hai trang mạng: một mang tên “Dân Báo”, đăng tải phóng sự và bài viết do những thành viên của Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do thực hiện; và mạng thứ hai mang tên “Điếu cày”, ghi lại những suy nghĩ cá nhân về thực trạng xã hội Việt Nam hiện tại và sưu tập những bài viết đáng chú ý về Việt Nam.
Ông thuong xuyen bi công an liên tục quấy nhiễu bằng cách triệu tập đến đồn công an làm việc, bất chấp giờ giấc sinh hoạt bình thường của một công dân tự do, hòng tạo áp lực và khủng bố tinh thần để ông, buộc ông chấm dứt các hoạt động xã hội và đấu tranh của mình. Ông bị bắt ngày 19/4/2008 và bị đưa ra tòa về tội danh ngụy tạo “trốn thuế”. Ông bị tuyên án 2 năm rưỡi tù giam vào ngày 10-9-2008. Nhiều cơ quan nhân quyền quốc tế và Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam đã lên tiếng phản đối, nhất là Hội Nhà Báo Không Biên Giới đã đòi Hà Nội phải trả tự do cho Ông.
b/ Cùng với Ông Nguyễn Văn Hải, Nữ nhà báo Dương Thị Xuân là thành viên của “Câu lạc bộ nhà báo Tự do” tại Thủ đô, chị đã từng bị công an Hà Nội bắt bớ, giam giữ phi pháp và bị đánh đập nhiều lần trong các đồn bốt của cảnh sát tại giữa thủ đô trong mấy năm qua kể từ khi chị tham gia Phong trào đấu tranh cùng nhiêù anh chị em dân chủ cho đồng bào dân oan các tỉnh. Chị cũng đã từng bị công an Hà Nội tổ chức tông xe máy trên đường Thanh Niên bên hồ Trúc Bạch và Hồ Tây hồi giữa năm 2006 nhằm ngăn chặn chị tham gia vào Phong trào đấu tranh đòi dân chủ hoá đất nước .Đặc biệt, vào hồi đầu tháng 8/2006 chị đã bị bắt giữ, khám nhà, bị tịch thu khám máy vi tính, máy liên lạc, bị thẩm vấn nhiều ngày trên phòng điều tra an ninh của sở công an Hà Nội tại 87 phố Trần Hưng Đạo khi tham gia sáng lập tờ báo đấu tranh cho Dân chủ, Nhân quyền, Công lý mang tên Tập San Tự Do Dân Chủ do nhà văn Hoàng Tiến và nhà báo Nguyễn Khắc Toàn khởi xướng.
Trường hợp 9: Cách chức Tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết
Ngày 27/10/2008 Uỷ Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc VN, đã công bố cách chức Ông Lý Tiến Dũng (Tổng Biên Tập) và ông Đặng Ngọc (Phó Tổng Biên Tập) với lý do “vi phạm luật báo chí”.
Được biết báo Đại Đoàn Kết vừa qua đã cho đăng tải nhiều bài viết mà các báo khác không dám đăng được mô tả là trái chiều với quan điểm của Đảng và Nhà nước như:
- lá thư của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp gởi các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước trình bày quan điểm ngược lại về chủ trương phá bỏ Hội Trường Ba Đình và xây dựng trụ sở Quốc Hội trên khu di tích Hoàng Thành Thăng Long,
- bài tham luận ‘Cần phải xoá bỏ bao cấp về chính trị’ của linh mục Nguyễn Thiện Cẩm (Uỷ Viên Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc VN, phó chủ nhiệm Uỷ Ban đoàn kết công giáo) ,
- một số bài của nhà báo Thái Duy và Hữu Nguyên đưa nhiều ý kiến về tình trạng chính trị bức xúc ở VN.
Trường hợp 10: Đánh đập nhà báo Ben Stocking (AP) trong lúc đang hành nghề
Hôm 19/9/2008 ông Ben Stocking, trưởng đại diện của hãng Associated Press tại Hà Nội, đã bị ‘đấm, bóp cổ và đập vào đầu’ khi đưa tin về cuộc cầu nguyện của giáo dân ở khu vực Tòa Khâm sứ cũ. Công an CSVN đã bắt ông Stocking về đồn công an 2 tiếng đồng hồ mặc dù đầu ông bị chảy máu. Công an CSVN đã bắt ông Stocking về đồn công an 2 tiếng đồng hồ và đánh ông đến chảy máu đầu. Sau đó ông đã tới bác sĩ điều trị và được khâu 4 mũi kim.
Còn vô số trường hợp vi phạm khác về vi phạm tự do ngôn luận và báo chí như đối với LM Phan văn Lợi, TT Thích Thiện Minh, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Lê Trí Tuệ, Giáo sư Nguyễn Chính Kết ( 2006) Giáo sư Hoàng Minh Chính, Ls Lê Quốc Quân, Nguyễn Xuân Nghĩa, Phạm Quế Dương, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế (2004), Cụ Lê Quang Liêm, Vũ Hùng, Cô Phạm Thanh Nghiên, Ký giả Nguyễn Vũ Bình, Luật sư Lê Chí Quang, Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, Ký giả Nguyễn Khắc Toàn (2003), Phạm Bá Hải, Trương Quốc Huy,Trần Thiên Lộc, Nguyễn Ngọc Quang, Ks Bạch Ngọc Dương. Chị Phương Thy, Ms Nguyễn Hồng Quang, Cô Quỳnh Trâm, Anh Trần Quốc Hiền, Ms Phạm Ngọc Thạch., luật sư Nguyễn thị Thùy Trang, nhà văn Trần khải Thanh thuỷ, Hồ thị Bích Khương,Phan Thanh Hải,Lê Thanh Tùng, Lương Văn Sinh, Phạm thị Ứng, Ngô Mai H, Vũ Hoàng Hải, Bùi Chat, Quốc Dung, Uyên Vũ, Anh Bằng, Lê Hào, Đức Hội,Tạ Phong Tan, Đào Văn Thuỵ, Nguyễn Phương Anh, Nguyễn Trung Lĩnh, Phạm Văn Trội, Nguyễn Đức Chính, Ngô Quỳnh,Trần văn Thạch,Trần Đức Thạch ,Nguyễn văn Tuc, nhà văn Hoàng Tiến, vũ cao Quận, LM Chân tín, LM Nguyễn Hữu Giải, Trần Khuê, Bùi Minh Quốc, Hà Sĩ Phu, Hoà thượng Thích Không Tánh, Nguyễn bá Đăng,Trương quốc Tuấn, Lưu thị thu Duyên, Lưu thị thu Trang, Lê thị Kim Thu,Nguyễn Ngọc Quang,Phạm bá Hải,Vũ Hoàng Hải .Dương thị Xuân,Lê Xuân Kính, Phan Thanh Hải,Nguyễn Văn Bình, Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn hải chiến, Nguyễn văn Hải, Bùi kim Thành vv…
Và người ta có thể liệt kê được hàng triệu vi phạm khác, nếu những quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí được tôn trọng tại Việt Nam.
Tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do thông tin là những quyền căn bản mọi người được hưởng và được bảo đảm thực thi không bị cản trở bởi bất cứ một thế lực đối kháng nào, được qui định ở điều 18 và 19 của Công Ước Quốc Tế các quyền Dân Sự và Chính Trị cũng như của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền:
Điều 18: (CƯDSCT: Công Ước Quốc Tế những quyền Dân Sự và Chính Trị)
1. Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo. Quyền này bao gồm quyền tự do theo một tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự thờ phụng, hành đạo, nghi lễ hay giảng dạy, hoặc riêng tư hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng.
2. Không ai bị cưỡng bách tước đoạt quyền tự do lựa chọn tôn giáo hay tín ngưỡng.
3. Quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn theo luật, vì nhu cầu bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, đạo lý hay những quyền tự do căn bản của người khác.
4. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam kết tôn trọng quyền của cha mẹ hay người giám hộ trong việc giáo dục các con về tôn giáo hay đạo lý theo tín ngưỡng của họ.
Điều 19: (CƯDSCT)
1. Mọi người đều có quyền giữ vững quan niệm mà không bị ai can thiệp.
2. Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia.
3. Việc hành sử quyền tự do phát biểu quan điểm (ghi ở khoản 2 nói trên) đòi hỏi đương sự phải có những bổn phận và trách nhiệm đặc biệt. Quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu:
a. Tôn trọng những quyền tự do và thanh danh của người khác.
b. Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng hay đạo lý.
Điều 18 (TNQTNQ: Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền) Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo; quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự giảng dạy, hành đạo, thờ phụng và nghi lễ, hoặc riêng mình hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng.
Điều 19 (TNQTNQ) : Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia.
Quyền tự do ngôn luận không những được bảo đảm cho từng cá nhân mà công dân còn có quyền bày tỏ, phổ biến, tư tưởng và quan điểm của mình cho đại chúng mà không bị hạn chế bởi biên giới quốc gia mình đang sinh sống bằng mọi phương tiện như truyền khẩu, ấn phẩm, phim, ảnh, tác phẩm nghệ thuật, truyền thanh, truyền hình, truyền thông điện tử, Internet vv… Ngoài ra mọi công dân được quyền tự do tìm kiếm, thu nhận thông tin từ khắp nơi bằng mọi phương tiện thông tin.
2.2. Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin theo luật pháp CHXHCN Việt Nam
2.2.1. Hiến pháp CSVN
Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã ký kết tham gia Công Ước Quốc Tế về những quyền Dân Sự và Chính Trị qua sự phê chuẩn của Quốc Hội CSVN vào năm 1982. Trong Hiến Pháp năm 1992, các quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do được thông tin được qui định bởi điều 69:
Điều 69 (HP92: Hiến Pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992): Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.
Tuy các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; quyền được thông tin, được hội họp, lập hội, biểu tình được nêu lên trong điều khoản này, nhưng việc thực hiện những quyền tự do căn bản này lại phải lệ thuộc vào pháp luật hiện hành: „theo quy định của pháp luật“.
Thí dụ „tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam“ được qui trong điều 88 bộ luật hình sự hiện hành của nhà nước CSVN:
Điều 88. (bộ luật hình sự) Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:
a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;
b) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân;
c) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm.
Qua điều luật này những lời nói mang nội dung „tuyên truyền truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân“ hoặc có tính cách „Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân“ cũng như việc „Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam“ có thể bị phạt tù „đến hai mươi năm“.
Điều luật được ban hành từ năm 1999 nhưng giới luật gia tại Việt Nam hoàn toàn không hiểu thế nào là „tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân“, những lời nói nào bị kết tội „Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân“ và tài liệu nào, văn hoá phẩm nào „có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam“?
Qua đó điều 88 bộ luật hình sự CSVN dành cho các cơ quan hành pháp và tư pháp chức năng rất lớn là có quyền kết tội người dân một cách tùy tiện.
Mặt khác, quyền được tham gia thảo luận các vấn đề chung của đất nước của người dân được qui định bởi điều 53 Hiến Pháp CHXHCNVN „Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương“. Quyền tham gia thảo luận các vấn đề chung của đất nước bao gồm quyền tìm hiểu căn nguyên của vấn đề hầu có thể đóng góp ý kiến thảo luận để giải quyết vấn đề. Từ những căn nguyên tạo ra vấn đề, những nhược điểm, nhân sự và cơ quan liên quan đến vấn đề được nêu ra và phân tích. Nếu thiếu phần nêu ra và phân tích những nhược điểm, nhân sự hoặc cơ quan gây ra vấn đề thì sự việc không còn mang tính chất „thảo luận các vấn đề“ nữa, mà biến thành „chấp hành các vấn đề“!
Khoản a đìều 88 bộ luật hình sự CSVN kết tội việc phê bình nhà nước là „Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân“ không những vi phạm điều 18 và 19 CƯDSCT mà còn mâu thuẫn với cả điều 53 Hiến Pháp của CSVN.
Khoản c điều 88 kết án việc „Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam“ mâu thuẫn hoàn toàn với điều 69 của Hiến pháp „Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí...“
Điều 146 Hiến Pháp qui định rõ ràng: „Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.“
Điều 69 Hiến pháp kết hợp với điều 88 bộ luật hình sự của nước CHXHCN VN là vi phạm Hiến pháp nước CHXHCNVN và phản Hiến Chương LHQ cùng vi phạm nhân quyền.
Tất cả các điều trong Hiến Pháp CHXHCNVN có cụm từ „… theo quy định của pháp luật“ chiếu theo điều 146 Hiến Pháp là vi hiến.
Tất cả các điều luật, nghị định có cụm từ „Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân“ cũng như các điều luật, nghị định, chỉ thị có cụm từ „Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam“ không những chỉ vi phạm hiến chương LHQ, Công Ước Quốc Tế các Quyền Dân Sự và Chính Trị, mà còn vi phạm chính Hiến Pháp của nước CHXHCNVN.
2.2.2. Luật báo chí
Luật Báo chí qui định báo chí tại CHXHCNVN là „cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội“ phục vụ đường lối, chủ trương và quyền lợi của đảng cộng sản Việt Nam:
Điều 1. Vai trò, chức năng của báo chí
Báo chí ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội ; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội (dưới đây gọi chung là tổ chức) ; là diễn đàn của nhân dân.
Đìều 19, khoản 2 Công Ước Quốc Tế các Quyền Dân Sự và Chính Trị qui định rằng, mọi người đều có quyền tự do bày tỏ và phổ biến tin tức, quan điểm, ý kiến của mình bằng mọi phương tiện truyền thông trong đó có báo chí. Sự qui định báo chí tại Việt Nam„ là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội“ cản trở phổ biến quan điểm, tư tưởng đại chúng không thuộc những tổ chức đảng, nhà nước hay các tổ chức chịu sự ảnh hưởng của đảng CSVN.
Đồng thời điều 6, đoạn 2 qui định nhiệm vụ của báo chí là „Tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước”:
Điều 6. Nhiệm vụ và quyền hạn của báo chí
Báo chí có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây :
1- Thông tin trung thực về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới ;
2- Tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước…
Luật báo chí CSVN không cho phép các tổ chức ngoài phạm vi ảnh hưởng của đảng cộng sản Việt Nam (thí dụ như Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất Việt Nam, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, Giáo Hội Phật Giáo Hoà Hảo, Giáo Hội Cao Đài, Giáo Hội Tin Lành vv…) và mọi công dân phổ biến tư tưởng, suy nghĩ của mình. Qua đó luật báo chí CHXHCNVN vi phạm các điều 18, 19 Công Ước Quốc Tế các Quyền Dân Sự và Chính Trị và Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.
2.2.3. Luật Xuất Bản
Chiếu theo điều 11 của luật Xuất bản tại nước CHXHCNVN đối tượng được phép thành lập nhà Xuất bản gồm các cơ quan nhà nước, cơ sở của đảng cộng sản Việt Nam và các tổ chức chịu ảnh hưởng đảng cộng sản Việt Nam.
Điều 11. Đối tượng được thành lập nhà xuất bản
Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội và các tổ chức khác do Chính phủ quy định được thành lập nhà xuất bản.
Nhà xuất bản tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện hoặc đơn vị sự nghiệp có thu.
Cũng như luật báo chí luật xuất bản của CSVN không cho phép những tổ chức và công dân ngoài tầm ảnh hưởng của đảng cộng sản Việt Nam thành lập nhà xuất bản. Do đó người dân không được thực hiện quyền tự do ngôn luận. Đồng thời, báo chí và nhà xuất bản do các tổ chức đảng, nhà nước và các tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản Việt Nam điều hành và quản lý nên người dân không có điều kiện đọc và phổ biến các tin tức khách quan trung thực.
2.3. Tóm tắt
Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí không những không được tôn trọng tại CHXHCNVN mà còn bị chà đạp có hệ thống bởi những điều luật chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau.
Luật pháp nước CHXHCNVN vi phạm điều 18 và 19 của Công Ước Quốc Tế về Các Quyền Dân Sự và Chính trị và Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.
2.4 Mười trường hợp tiêu biểu vi phạm tự do ngôn luận, tự do báo chí trong thời gian gần đây
Trường hợp 1: Không cho phép báo chí và nhà xuất bản tư nhân hoạt động
Tại Việt Nam không có tờ báo hay nhà xuất bản tư nhân hay độc lập nào. Các tôn giáo như Phật Giáo với hàng chục triệu tín đồ, Công Giáo, Phật Giáo Hoà Hảo mỗi tôn giáo với 8 triệu tín đồ, Tin Lành, Cao Đài vv… đều không có quyền xuất bản báo chí hay sách, ngay cả sách kinh.
Trường hợp 2: Kết án 2 nhà báo vì đưa tin tham nhũng
Ông Nguyễn văn Hải, 33 tuổi, phóng viên tờ Tuổi Trẻ và ông Nguyễn Việt Chiến, 56 tuổi, phóng viên báo Thanh Niên bị bắt giam ngày 12.05.2008 với tội danh “lợi dụng chức vụ – quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Hai nhà báo này đã phanh phui vụ tham nhũng lớn tại bộ giao thông-vận tải là vụ PMU18 làm ảnh hưởng tiêu cực đến chế độ và lãnh đạo CSVN.
Trong phiên toà ngày 15/10/2008 hai ông bị kêu án 2 năm tù về tội “lợi dụng quyền tự do, dân chủ” trong lúc hành nghề với loạt bài tố giác tham nhũng hàng triệu đô la trong dự án PMU 18. Nhà báo Nguyễn Việt Chiến khẳng định việc lấy tin từ cơ quan điều tra là hợp pháp. Ông phủ nhận hoàn toàn mọi cáo buộc của viện kiểm sát, cương quyết cho rằng mình chỉ làm nhiệm vụ thông tin như nghề nghiệp quy định. Những tin ông viết đều được chính thiếu tướng Phạm Xuân Quắc cung cấp và đều được ghi băng (đã trình tòa). Do thái độ cứng rắn của ông, nhà báo Nguyễn Việt Chiến đã bị kết án 2 năm tù giam. Nhà báo Nguyễn văn Hải bị kết án 2 năm tù không giam.
Trường hợp 3: Kỹ Sư Đỗ Nam Hải
Điạ chỉ: 441 Nguyễn Kiệm – Phường 9 – Quận Phú Nhuận – Sài Gòn – Việt Nam.
Kỹ Sư Đỗ Nam Hải học tại Úc về ngành Tiền tệ – Tín dụng. Tháng 1/2002 anh trở về nước và làm việc tại một ngân hàng thương mại.
Từ tháng 6/2000 đến tháng 8/2001 lấy bút hiệu Phương Nam anh Đỗ Nam Hải viết 5 bài chính luận tại Úc đề nghị thực hiện một cuộc Trưng Cầu Dân Ý, để nhân dân Việt Nam được thực hiện Quyền dân tộc tự quyết của mình là lựa chọn thể chế chính trị độc đảng hay đa đảng.
Tháng 8/2004 trong khi đang làm việc tại ngân hàng bị 1 nhóm gồm 5 sỹ quan công an thuộc Bộ công an Việt Nam đến gặp và mời đi làm việc để thẩm vấn về những bài anh viết tại Úc. Sau đó bị giữ lại 50 tiếng mà không hề có lệnh tạm giữ.
Tháng 2/2005 bị công an chỉ đạo cho ban lãnh đạo ngân hàng, nơi anh đang làm việc chấm dứt Hợp Đồng Lao Động giữa anh với ngân hàng này. Hành động đó không những hoàn toàn trái Công Ước Quốc Tế về các Quyền Dân Sự và Chính Trị, Công Ước Quốc Tế về các Quyền Kinh Tế và Xã HộI mà còn trái với Luật lao động hiện hành của nước CHXHCN Việt Nam.
Trường hợp 4: Luật sư Lê Thị Công Nhân và Luật sư Nguyễn văn Đài
Ngày 06.03.2007 luật sư Lê thị Công Nhân và Luật sư Nguyễn văn Đài bị bắt tại Hà Nội. Các cơ quan tuyên truyền của nhà cầm quyền CSVN đã tường trình như sau về nguyên nhân bắt giam hai vị luật sư nhân quyền này: “Đài và Công Nhân có hành vi xuyên tạc chủ trương chính sách của nhà nước về dân chủ, nhân quyền” VKSND Hà Nội xác định, lợi dụng việc hành nghề luật sư, Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân sử dụng Văn phòng Thiên Ân để thực hiện hành vi tuyên truyền, chống nhà nước. Lê Thị Công Nhân tham gia khối 8406 và là phát ngôn viên của “đảng Việt Nam thăng tiến”. Khám nơi ở của Lê Thị Công Nhân và Nguyễn Văn Đài, lực lượng chức năng thu gần 150 đầu tài liệu. Trong số này có một số sách, bán nguyệt san, tập san bị cấm lưu hành. Tài liệu “tuyên ngôn tự do dân chủ cho Việt Nam” của khối 8406 hay tài liệu kêu gọi tẩy chay bầu cử Quốc hội khóa 12 cũng được tìm thấy. Từ tháng 12/2006, Nguyễn Văn Đài tuyên truyền thành lập “đảng dân chủ thế kỷ 21″, “đảng Việt Nam thăng tiến”, “khối 8406″. Học viên tham dự lớp học do Đài mở được phát tài liệu, tiền, hứa tài trợ đi du học nước ngoài, tạo việc làm.”
Theo bản “cáo trạng” số 28/CT của Viện Kiểm sát Nhân dân thành phố Hà Nội đưa ra tại phiên xử thì các bị cáo “đã có hành vi tàng trữ các tài liệu có nội dung xuyên tạc lịch sử dân tộc, bôi nhọ chế độ xã hội do đảng Cộng sản lãnh đạo, vu cáo xuyên tạc chính sách của Nhà nước đối với tổ chức Công đoàn và giai cấp công nhân Việt Nam”
Ngày 11.05.2007 một phiên toà ngắn ngủi tại Hà Nội kết án Ls Lê thị Công Nhân 4 năm tù và 4 năm quản chế, luật sư Nguyễn văn Đài 5 năm tù ở và 5 năm quản chế về „tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam“ theo điều 88 của bộ luật hình sự nước CHXHCNVN.
Phiên toà phúc thẩm vào tháng 11 năm 2007 bản án đã được hạ xuống còn 3 năm tù và 3 năm quản chế cho luật sư Lê thị Công Nhân và 4 năm tù ở và 4 năm quản chế cho luật sư Nguyễn văn Đài.
Nhận xét của luật sư Trần Lâm về việc phiên toà xét xử hai luật sư Lê thị Công Nhân và Nguyễn văn Đài như sau: “… Sai lầm của truy tố xét xử, điều tra là nói có những tài liệu này, lời nói này nên có tội mà không hề có trích dẫn, không hề có biện luận …”
Trường hợp 5: Bán Nguyệt San “Tự Do Ngôn Luận”, Linh mục Nguyễn văn Lý
Ngày 30/03/2007 tại toà án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, linh mục Nguyễn Văn Lý, người khởi xướng và thực hiện Bán Nguyệt San “Tự Do Ngôn Luận” bị kết án 8 năm tù ở và 5 năm quản chế về „tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam“ theo điều 88 của bộ luật hình sự nước CHXHCNVN trong phiên toà ngắn ngủi.
Bán Nguyệt San Tự Do Ngôn Luận , công trình tập thể của nhiều thành viên Khối 8406 với Chủ nhiệm là Linh mục Chân Tín, Ban Biên tập gồm có Linh mục Nguyễn Văn Lý, Linh mục Phan Văn Lợi, Luật sư Nguyễn Văn Đài, Ký giả Nguyễn Khắc Toàn và một số cộng sự viên khác.
Bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận ra đời ngày 08/04/2006, nhằm thông tin những tin tức trung thực đến người dân trong nước và vận động công dân đóng góp ý kiến giải quyết những khó khăn mọi mặt (luật pháp, tôn giáo, chính trị, xã hội vv…) của đất nước hiện nay mà đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam do cấu trúc độc tài của họ không thể giải quyết được. Đến nay Bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận đã phát hành được 64 số báo mặc dù với hoàn cảnh cực kỳ khó khăn kể từ 15/04/2006 đến nay (số 64 ra ngày 01/12/2008, tổng cộng đã được 2 năm 8 tháng rưỡi), Người chủ xướng Bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận LM Nguyễn Văn Lý và Ls Nguyển Văn Đài, cộng tác viên trong ban biên tập, đều đang bị cộng sản cầm tù. Người thay thế chủ động là LM Phan Văn Lợi cũng bị nhà cầm quyền cộng sản VN quản chế theo dõi, đấu tố trước công chúng, mạ lỵ, đe dọa trừng phạt vv… Nhiều cộng sự viên khắp cả nước cũng bị cản trở trong việc phát hành, độc giả của tờ báo cũng bị sách nhiễu cấm cản. Tất cả nhằm triệt hạ cơ quan tranh đấu cho quyền được thông tin trung thực, được phát biểu thẳng thắn, được trình bày rõ ràng về những vấn đề quan trọng của đất nước Việt Nam dưới chế độ cộng sản độc tài hiện nay.
( không khác thời kỳ 1954 của Hồ sơ vụ án Nhân Văn Giai Phẩm bị truy tố và bắt giam )
Trường hợp 6: Bác sĩ Nguyễn Đan Quế
Ngày 19-7-2004 Bs Nguyễn Đan Quế bị kết án 30 tháng tù dưới tội danh “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước’’. Được biết bác sĩ Nguyễn Đan Quế bị bắt hôm 17.03.2003 tại Sài gòn vì trước đó vài ngày ông đã phổ biến một bài viết trên Internet chỉ trích tình trạng thiếu tự do thông tin tại Việt Nam.
Năm 1991, Bs Nguyễn Đan Quế cũng đã bị giới hữu trách Hà nội tuyên án tù 20 năm vì công khai kêu gọi tổ chức bầu cử tự do và thiết lập hệ thống chính trị đa đảng.
Trường hợp 7: Nữ đạo diễn Song Chi
Nữ đạo diễn Song Chi bị khước từ hợp đồng với hãng phim truyền hình TFS thuộc đài truyền hình HTV (TP.HCM) vì đã các bài viết thẳng thắn thể hiện quan điểm trên trang Web, tham gia biểu tình chống Trung Quốc lấn chiếm Hoàng Sa-Trường Sa.Trong cuộc phỏng vấn với đài phát thanh RFA ngày 10/5/008, Song Chi đã cho biết như sau:
“Ngày mùng 2 vừa qua thì tôi có lên gặp ông Nguyễn Việt Hùng – Giám Đốc hãng phim TFS, ông Nguyễn Việt Hùng có thông báo cho tôi biết rằng là bên an ninh họ đến làm việc với Tổng Giám Đốc Đài và Ban Giám Đốc của hãng phim, đề nghị là không mời đạo diễn Song Chi cộng tác nữa vì lý do như họ nói là “có vấn đề về chính trị, có viết bài gửi các trang web bên ngoài, trả lời báo đài và có những mối quan hệ với những phần tử phức tạp về chính trị”.
Trường hợp 8: Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do
a/ Nhà báo tự do Nguyễn Văn Hải, thường được biết đến qua bút hiệu Hoàng Hải và Điếu Cầy, sinh năm 1953, nguyên quán Hải Phòng. Ông thành lập Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do, quy tụ các cây bút tình nguyện viết về thực trạng xã hội Việt Nam hiện tại và phản ánh tâm tư, nguyện vọng của người dân và lên tiếng tranh đấu cho họ, những người bị thiệt hại do chính sách trưng dụng đất đai, nhà cửa và đối xử bất công của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam. Ông thành lập hai trang mạng: một mang tên “Dân Báo”, đăng tải phóng sự và bài viết do những thành viên của Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do thực hiện; và mạng thứ hai mang tên “Điếu cày”, ghi lại những suy nghĩ cá nhân về thực trạng xã hội Việt Nam hiện tại và sưu tập những bài viết đáng chú ý về Việt Nam.
Ông thuong xuyen bi công an liên tục quấy nhiễu bằng cách triệu tập đến đồn công an làm việc, bất chấp giờ giấc sinh hoạt bình thường của một công dân tự do, hòng tạo áp lực và khủng bố tinh thần để ông, buộc ông chấm dứt các hoạt động xã hội và đấu tranh của mình. Ông bị bắt ngày 19/4/2008 và bị đưa ra tòa về tội danh ngụy tạo “trốn thuế”. Ông bị tuyên án 2 năm rưỡi tù giam vào ngày 10-9-2008. Nhiều cơ quan nhân quyền quốc tế và Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam đã lên tiếng phản đối, nhất là Hội Nhà Báo Không Biên Giới đã đòi Hà Nội phải trả tự do cho Ông.
b/ Cùng với Ông Nguyễn Văn Hải, Nữ nhà báo Dương Thị Xuân là thành viên của “Câu lạc bộ nhà báo Tự do” tại Thủ đô, chị đã từng bị công an Hà Nội bắt bớ, giam giữ phi pháp và bị đánh đập nhiều lần trong các đồn bốt của cảnh sát tại giữa thủ đô trong mấy năm qua kể từ khi chị tham gia Phong trào đấu tranh cùng nhiêù anh chị em dân chủ cho đồng bào dân oan các tỉnh. Chị cũng đã từng bị công an Hà Nội tổ chức tông xe máy trên đường Thanh Niên bên hồ Trúc Bạch và Hồ Tây hồi giữa năm 2006 nhằm ngăn chặn chị tham gia vào Phong trào đấu tranh đòi dân chủ hoá đất nước .Đặc biệt, vào hồi đầu tháng 8/2006 chị đã bị bắt giữ, khám nhà, bị tịch thu khám máy vi tính, máy liên lạc, bị thẩm vấn nhiều ngày trên phòng điều tra an ninh của sở công an Hà Nội tại 87 phố Trần Hưng Đạo khi tham gia sáng lập tờ báo đấu tranh cho Dân chủ, Nhân quyền, Công lý mang tên Tập San Tự Do Dân Chủ do nhà văn Hoàng Tiến và nhà báo Nguyễn Khắc Toàn khởi xướng.
Trường hợp 9: Cách chức Tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết
Ngày 27/10/2008 Uỷ Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc VN, đã công bố cách chức Ông Lý Tiến Dũng (Tổng Biên Tập) và ông Đặng Ngọc (Phó Tổng Biên Tập) với lý do “vi phạm luật báo chí”.
Được biết báo Đại Đoàn Kết vừa qua đã cho đăng tải nhiều bài viết mà các báo khác không dám đăng được mô tả là trái chiều với quan điểm của Đảng và Nhà nước như:
- lá thư của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp gởi các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước trình bày quan điểm ngược lại về chủ trương phá bỏ Hội Trường Ba Đình và xây dựng trụ sở Quốc Hội trên khu di tích Hoàng Thành Thăng Long,
- bài tham luận ‘Cần phải xoá bỏ bao cấp về chính trị’ của linh mục Nguyễn Thiện Cẩm (Uỷ Viên Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc VN, phó chủ nhiệm Uỷ Ban đoàn kết công giáo) ,
- một số bài của nhà báo Thái Duy và Hữu Nguyên đưa nhiều ý kiến về tình trạng chính trị bức xúc ở VN.
Trường hợp 10: Đánh đập nhà báo Ben Stocking (AP) trong lúc đang hành nghề
Hôm 19/9/2008 ông Ben Stocking, trưởng đại diện của hãng Associated Press tại Hà Nội, đã bị ‘đấm, bóp cổ và đập vào đầu’ khi đưa tin về cuộc cầu nguyện của giáo dân ở khu vực Tòa Khâm sứ cũ. Công an CSVN đã bắt ông Stocking về đồn công an 2 tiếng đồng hồ mặc dù đầu ông bị chảy máu. Công an CSVN đã bắt ông Stocking về đồn công an 2 tiếng đồng hồ và đánh ông đến chảy máu đầu. Sau đó ông đã tới bác sĩ điều trị và được khâu 4 mũi kim.
Còn vô số trường hợp vi phạm khác về vi phạm tự do ngôn luận và báo chí như đối với LM Phan văn Lợi, TT Thích Thiện Minh, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Lê Trí Tuệ, Giáo sư Nguyễn Chính Kết ( 2006) Giáo sư Hoàng Minh Chính, Ls Lê Quốc Quân, Nguyễn Xuân Nghĩa, Phạm Quế Dương, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế (2004), Cụ Lê Quang Liêm, Vũ Hùng, Cô Phạm Thanh Nghiên, Ký giả Nguyễn Vũ Bình, Luật sư Lê Chí Quang, Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, Ký giả Nguyễn Khắc Toàn (2003), Phạm Bá Hải, Trương Quốc Huy,Trần Thiên Lộc, Nguyễn Ngọc Quang, Ks Bạch Ngọc Dương. Chị Phương Thy, Ms Nguyễn Hồng Quang, Cô Quỳnh Trâm, Anh Trần Quốc Hiền, Ms Phạm Ngọc Thạch., luật sư Nguyễn thị Thùy Trang, nhà văn Trần khải Thanh thuỷ, Hồ thị Bích Khương,Phan Thanh Hải,Lê Thanh Tùng, Lương Văn Sinh, Phạm thị Ứng, Ngô Mai H, Vũ Hoàng Hải, Bùi Chat, Quốc Dung, Uyên Vũ, Anh Bằng, Lê Hào, Đức Hội,Tạ Phong Tan, Đào Văn Thuỵ, Nguyễn Phương Anh, Nguyễn Trung Lĩnh, Phạm Văn Trội, Nguyễn Đức Chính, Ngô Quỳnh,Trần văn Thạch,Trần Đức Thạch ,Nguyễn văn Tuc, nhà văn Hoàng Tiến, vũ cao Quận, LM Chân tín, LM Nguyễn Hữu Giải, Trần Khuê, Bùi Minh Quốc, Hà Sĩ Phu, Hoà thượng Thích Không Tánh, Nguyễn bá Đăng,Trương quốc Tuấn, Lưu thị thu Duyên, Lưu thị thu Trang, Lê thị Kim Thu,Nguyễn Ngọc Quang,Phạm bá Hải,Vũ Hoàng Hải .Dương thị Xuân,Lê Xuân Kính, Phan Thanh Hải,Nguyễn Văn Bình, Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn hải chiến, Nguyễn văn Hải, Bùi kim Thành vv…
Và người ta có thể liệt kê được hàng triệu vi phạm khác, nếu những quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí được tôn trọng tại Việt Nam.
CSVN Xóa Tội Cho Vinashin: Mất 4.4 Tỉ Đô, Khỏi Kỷ Luật
Bị đánh chết vì nghi trộm gà
Trộm một con gà, sẽ bị tù… nhưng trộm 4.4 tỉ đôla vẫn bình an. Chuyện chỉ xảy ra tại Việt Nam: làm mất tiền của dân tới 4.4 tỉ đôla, nhưng không ai phải kỷ luật. Đó là kết quả “Vụ Vinashin: Bộ Chính trị quyết định không xử lý kỷ luật,” theo bản tin báo Dân Trí.
Đó không phải là quyết định của một cá nhân, mà là quyết định của tập thể, theo báo này:
“Căn cứ kết quả kiểm phiếu và theo quy định của Điều lệ Đảng, Bộ Chính trị đã quyết định không xử lý kỷ luật đối với các tập thể và cá nhân, yêu cầu nghiêm túc rút kinh nghiệm, tiếp tục chỉ đạo tái cơ cấu Vinashin.”
Bản tin nói là “Có thiếu sót nhưng đã nghiêm túc kiểm điểm…”
“Tuy nhiên, với chức năng là chủ sở hữu và chức năng quản lý nhà nước đối với Vinashin, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, một số thành viên Chính phủ đã có những thiếu sót khuyết điểm.
Bộ Chính trị đã thảo luận, cân nhắc kỹ trên nhiều mặt và bỏ phiếu việc thi hành kỷ luật đối với tập thể và cá nhân các đồng chí có liên quan. Căn cứ kết quả kiểm phiếu và theo quy định của Điều lệ Đảng, Bộ Chính trị đã quyết định không xử lý kỷ luật đối với các tập thể và cá nhân.”
Bản tin không ghi số tiền thất thoát của Vinashin, nhưng các bản tin năm trước cho biết có 4.4 tỉ đôla bị thiệt hại khi tập đoàn công nghiệp Vinashin ngập chìm vì nợ.
Đài RFI ghi nhận:
“Vào lúc 10 cựu lãnh đạo của tập đoàn Vinashin bị điều tra, khởi tố, trong số này có 7 người bị bắt tạm giam, chờ ngày ra tòa, thì ông Nguyễn Sinh Hùng tuyên bố không một ai trong chính phủ phải chịu trách nhiệm trong việc để cho Vinashin, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chính phủ, bị thua lỗ nghiêm trọng về tài chính, lên tới 4,4 tỷ đô la, tương đương 4,5% tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam trong năm 2009…
…Tháng 11 năm ngoái, Quốc hội Việt Nam đã đề nghị chính phủ làm rõ vụ Vinashin. Thậm chí, một số đại biểu Quốc hội Việt Nam đã đề nghị bỏ phiếu tín nhiệm chính phủ và thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Tuy nhiên, những đề nghị này không được đáp ứng…
…Đầu năm nay, Vinashin đã không thể thanh toán được một khoản nợ đáo hạn 60 triệu đô la. Nhiều cơ quan thẩm định tài chính quốc tế đã hạ điểm tín nhiệm đối với Việt Nam vì cho rằng vụ Vinashian thể hiện rõ sự yếu kém mang tính cơ cấu của nền kinh tế và đây cũng là một nhân tố rủi ro đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam.”
Trộm một con gà, sẽ bị tù… nhưng trộm 4.4 tỉ đôla vẫn bình an. Chuyện chỉ xảy ra tại Việt Nam: làm mất tiền của dân tới 4.4 tỉ đôla, nhưng không ai phải kỷ luật. Đó là kết quả “Vụ Vinashin: Bộ Chính trị quyết định không xử lý kỷ luật,” theo bản tin báo Dân Trí.
Đó không phải là quyết định của một cá nhân, mà là quyết định của tập thể, theo báo này:
“Căn cứ kết quả kiểm phiếu và theo quy định của Điều lệ Đảng, Bộ Chính trị đã quyết định không xử lý kỷ luật đối với các tập thể và cá nhân, yêu cầu nghiêm túc rút kinh nghiệm, tiếp tục chỉ đạo tái cơ cấu Vinashin.”
Bản tin nói là “Có thiếu sót nhưng đã nghiêm túc kiểm điểm…”
“Tuy nhiên, với chức năng là chủ sở hữu và chức năng quản lý nhà nước đối với Vinashin, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, một số thành viên Chính phủ đã có những thiếu sót khuyết điểm.
Bộ Chính trị đã thảo luận, cân nhắc kỹ trên nhiều mặt và bỏ phiếu việc thi hành kỷ luật đối với tập thể và cá nhân các đồng chí có liên quan. Căn cứ kết quả kiểm phiếu và theo quy định của Điều lệ Đảng, Bộ Chính trị đã quyết định không xử lý kỷ luật đối với các tập thể và cá nhân.”
Bản tin không ghi số tiền thất thoát của Vinashin, nhưng các bản tin năm trước cho biết có 4.4 tỉ đôla bị thiệt hại khi tập đoàn công nghiệp Vinashin ngập chìm vì nợ.
Đài RFI ghi nhận:
“Vào lúc 10 cựu lãnh đạo của tập đoàn Vinashin bị điều tra, khởi tố, trong số này có 7 người bị bắt tạm giam, chờ ngày ra tòa, thì ông Nguyễn Sinh Hùng tuyên bố không một ai trong chính phủ phải chịu trách nhiệm trong việc để cho Vinashin, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chính phủ, bị thua lỗ nghiêm trọng về tài chính, lên tới 4,4 tỷ đô la, tương đương 4,5% tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam trong năm 2009…
…Tháng 11 năm ngoái, Quốc hội Việt Nam đã đề nghị chính phủ làm rõ vụ Vinashin. Thậm chí, một số đại biểu Quốc hội Việt Nam đã đề nghị bỏ phiếu tín nhiệm chính phủ và thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Tuy nhiên, những đề nghị này không được đáp ứng…
…Đầu năm nay, Vinashin đã không thể thanh toán được một khoản nợ đáo hạn 60 triệu đô la. Nhiều cơ quan thẩm định tài chính quốc tế đã hạ điểm tín nhiệm đối với Việt Nam vì cho rằng vụ Vinashian thể hiện rõ sự yếu kém mang tính cơ cấu của nền kinh tế và đây cũng là một nhân tố rủi ro đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam.”
KÍNH GỬI THẦY NGUYỄN MINH THUYẾT
BÙI HOÀNG TÁM:
Hoa sen. Ảnh: Trần Bích.
Kính tặng thầy Nguyễn Minh Thuyết
Về thôi thầy ơi!
Về sống với nhân dân, nhưng người thật lòng kính trọng thầy bởi thầy thật lòng yêu quý họ và hi sinh vì họ.
Về thôi thầy ơi!
Về với những cuộc đời lam lũ, nghèo nàn trong những căn nhà tăm tối nhưng tấm lòng hồn hậu và tâm hồn trong sáng.
Về thôi thầy ơi!
Về với sinh viên, với thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước dậy họ biết sống làm người, đổi thay đất nước.
Em với thầy là nghĩa thày trò nhưng tình anh em. Nhấc điện thoại là có thể a lố, à lồ với nhau nhưng em vẫn muốn viết lá thư này gửi đến thầy bởi lẽ em mừng cho thầy lắm lắm. Mừng đến mức chỉ muốn hét thật to lên cho mọi người cùng chia sẻ: May thế thầy ơi!
Em muốn hét to lên “May thế thày ơi!” là bởi kỳ họp Quốc hội trước, thầy đã đề nghị bỏ phiếu tín nhiệm Thủ tướng xung quanh vụ Vinasin (giờ đã có kết luận không kỉ luật ai cả) em đã rất lo lắng cho số phận của thầy. Em lo đến mức dịp tết vừa rồi, đến đền thờ cụ Chu Văn An (ở Hà Nội), em đã thầm cầu Cụ phù hộ độ trì cho thầy. Em còn xin Cụ đưa đường, chỉ lối mách nước cho thầy vượt qua hoạn nạn bởi em thấy sử cũ chép lại rằng thời đó “Các gian thần kéo bè kết đảng lũng đoạn triều chính… Dụ Tông ham chơi bời luời chính sự, quyền thần nhiều kẻ làm trái phép nước, An khuyên can, [Dụ Tông] không nghe, bèn dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần, đều là những kẻ quyền thế được vua yêu. Người bấy giờ gọi là "Thất trảm sớ". Sớ dâng lên nhưng không được trả lời, ông liền treo mũ về quê. Ông thích núi Chí Linh, bèn đến ở đấy”. Sử gia Ngô Sĩ Liên bàn về Trần Dụ Tông trong sách Đại Việt sử ký toàn thư như sau[1]: Vua biết tôn trọng thầy dạy (tức Chu Văn An), nhưng lại không bàn việc nước với thầy. Vì thế bậc hiền năng không nên để chỉ làm vì. Chu An đi rồi, không còn ai bảo ban vua đạo hay lẽ phải nữa. Đó thực là "không tin bậc nhân hiền thì nước trống rỗng như không có người" vậy.
Chao ôi, thời phong kiến suy đồi, Cụ Chu dâng đến thất trảm sớ đòi chém đầu 7 người quyền thế mà tính mệnh vẫn an toàn để còn được treo mũ về quê thì xem ra Cụ Chu may mắn lắm và thời ấy cũng còn tươi sáng lắm. Nay, thầy cũng được an toàn để về dạy học thì làm sao mà em không thể hét lên: May thế thầy ơi!
Về thôi thầy ơi! Hãy về sống với nhân dân, những người thật lòng kính trọng thầy bởi thầy thật lòng yêu quý họ và hi sinh vì họ.
Về thôi thầy ơi! Về với những cuộc đời lam lũ, nghèo nàn trong những căn nhà tăm tối nhưng tấm lòng hồn hậu và tâm hồn trong sáng.
Về thôi thầy ơi! Về với sinh viên, với thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước dậy họ biết sống làm người, đổi thay đất nước.
Có thể thầy và cả em nữa chẳng được chứng kiến ngày đất nước Việt Nam hùng mạnh “sánh vai với các cường quốc năm châu” như mong muốn của Bác Hồ kính yêu nhưng cần hi vọng thầy ạ. Bởi chúng ta là những người lạc quan và luôn tin tưởng ở tương lai như câu nói của Nhà văn Nam Cao cách đây 70 năm, rằng: Chúng ta đã hi vọng, đã thất vọng nhưng mãi mãi vẫn còn hi vọng.
Về thôi thầy ơi!
Bùi Hoàng Tám
Nguồn: Trần Nhương.com
Hoa sen. Ảnh: Trần Bích.
Kính tặng thầy Nguyễn Minh Thuyết
Về thôi thầy ơi!
Về sống với nhân dân, nhưng người thật lòng kính trọng thầy bởi thầy thật lòng yêu quý họ và hi sinh vì họ.
Về thôi thầy ơi!
Về với những cuộc đời lam lũ, nghèo nàn trong những căn nhà tăm tối nhưng tấm lòng hồn hậu và tâm hồn trong sáng.
Về thôi thầy ơi!
Về với sinh viên, với thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước dậy họ biết sống làm người, đổi thay đất nước.
Em với thầy là nghĩa thày trò nhưng tình anh em. Nhấc điện thoại là có thể a lố, à lồ với nhau nhưng em vẫn muốn viết lá thư này gửi đến thầy bởi lẽ em mừng cho thầy lắm lắm. Mừng đến mức chỉ muốn hét thật to lên cho mọi người cùng chia sẻ: May thế thầy ơi!
Em muốn hét to lên “May thế thày ơi!” là bởi kỳ họp Quốc hội trước, thầy đã đề nghị bỏ phiếu tín nhiệm Thủ tướng xung quanh vụ Vinasin (giờ đã có kết luận không kỉ luật ai cả) em đã rất lo lắng cho số phận của thầy. Em lo đến mức dịp tết vừa rồi, đến đền thờ cụ Chu Văn An (ở Hà Nội), em đã thầm cầu Cụ phù hộ độ trì cho thầy. Em còn xin Cụ đưa đường, chỉ lối mách nước cho thầy vượt qua hoạn nạn bởi em thấy sử cũ chép lại rằng thời đó “Các gian thần kéo bè kết đảng lũng đoạn triều chính… Dụ Tông ham chơi bời luời chính sự, quyền thần nhiều kẻ làm trái phép nước, An khuyên can, [Dụ Tông] không nghe, bèn dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần, đều là những kẻ quyền thế được vua yêu. Người bấy giờ gọi là "Thất trảm sớ". Sớ dâng lên nhưng không được trả lời, ông liền treo mũ về quê. Ông thích núi Chí Linh, bèn đến ở đấy”. Sử gia Ngô Sĩ Liên bàn về Trần Dụ Tông trong sách Đại Việt sử ký toàn thư như sau[1]: Vua biết tôn trọng thầy dạy (tức Chu Văn An), nhưng lại không bàn việc nước với thầy. Vì thế bậc hiền năng không nên để chỉ làm vì. Chu An đi rồi, không còn ai bảo ban vua đạo hay lẽ phải nữa. Đó thực là "không tin bậc nhân hiền thì nước trống rỗng như không có người" vậy.
Chao ôi, thời phong kiến suy đồi, Cụ Chu dâng đến thất trảm sớ đòi chém đầu 7 người quyền thế mà tính mệnh vẫn an toàn để còn được treo mũ về quê thì xem ra Cụ Chu may mắn lắm và thời ấy cũng còn tươi sáng lắm. Nay, thầy cũng được an toàn để về dạy học thì làm sao mà em không thể hét lên: May thế thầy ơi!
Về thôi thầy ơi! Hãy về sống với nhân dân, những người thật lòng kính trọng thầy bởi thầy thật lòng yêu quý họ và hi sinh vì họ.
Về thôi thầy ơi! Về với những cuộc đời lam lũ, nghèo nàn trong những căn nhà tăm tối nhưng tấm lòng hồn hậu và tâm hồn trong sáng.
Về thôi thầy ơi! Về với sinh viên, với thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước dậy họ biết sống làm người, đổi thay đất nước.
Có thể thầy và cả em nữa chẳng được chứng kiến ngày đất nước Việt Nam hùng mạnh “sánh vai với các cường quốc năm châu” như mong muốn của Bác Hồ kính yêu nhưng cần hi vọng thầy ạ. Bởi chúng ta là những người lạc quan và luôn tin tưởng ở tương lai như câu nói của Nhà văn Nam Cao cách đây 70 năm, rằng: Chúng ta đã hi vọng, đã thất vọng nhưng mãi mãi vẫn còn hi vọng.
Về thôi thầy ơi!
Bùi Hoàng Tám
Nguồn: Trần Nhương.com
Phủi tay 4 tỷ đôla
Posted on Tháng Ba 23, 2011 by truongthondlb1
“Thất vọng, đau đớn bởi vì gần một trăm ngàn tỷ của dân mà giống như bọt bèo vậy không ai chịu trách nhiệm cả. Trong khi tôi ra ăn trộm một chiếc xe đạp ngoài đường là bị tống giam liền nhưng một trăm ngàn tỷ của dân thì chẳng ai chịu trách nhiệm cả. Theo tôi nghĩ thì điều đó là một tuyên bố vô trách nhiệm. Hỏi bất kỳ người nào thì sự bất mãn là đều có hết. Không ai đồng tình với quyết định đó cả nhưng xã hội này phải chấp nhận thôi bởi vì người ta khẳng định như vậy mà dân không có cơ sở thì phải thua thôi!” - Giáo sư Hà Văn Thịnh, Đại Học Huế.
Vinashin sai phạm chưa đến mức kỷ luật?
Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok - Bộ Chính trị đã quyết định không xử lý kỷ luật đối với các tập thể, cá nhân trong Chính phủ có liên quan đến những sai phạm của Vinashin.
Photo courtesy of Vinashin – Tàu vận tải biển do tập đoàn Vinashin đóng trước đây.
Trong phiên họp cuối cùng của quốc hội khóa 12 Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cho biết, Bộ Chính trị đã quyết định không xử lý kỷ luật đối với các tập thể, cá nhân trong Chính phủ có liên quan đến những sai phạm của Vinashin. Dư luận trước quyết định này ra sao?
Chính phủ nâng đỡ mọi cách
Khi nhắc đến Vinashin người ta thường hình dung một tập đoàn kinh tế nhà nước khổng lồ có vốn kinh doanh hàng tỷ đô la và công nhân làm việc cho nó lên đến hàng chục ngàn người.
Tập đoàn Vinashin trên danh nghĩa là kinh doanh đóng tàu và các lĩnh vực hàng hải, tuy nhiên trong thời gian trước ngày sụp đổ, tập đoàn này đã kinh doanh tràn lan sang các ngành khác không đúng chức năng của nó. Tập đoàn Vinashin được chỉ đạo trực tiếp từ văn phòng thủ tướng chính phủ và những đơn vay vốn của nó thường được dễ dàng thông qua bất kể đồng tiền mà nó nhận có được nó xử dụng đúng mục đích hay không.
Chính phủ đã nâng đỡ tập đoàn này bằng mọi cách trong đó có bán trái phiếu ra ngoại quốc để cung cấp cho Vinashin 750 triệu đô la vào những ngày cuối cùng trước khi nó sụp đổ. Số tiền này sau đó được Ban quản trị chi vào mục đích gì, cho ai vẫn là câu hỏi nằm trên bàn giấy Thủ tướng Chính phủ. Không những thế chính phủ còn yêu cầu các ngân hàng khoanh nợ cho Vinashin, những món nợ quá hạn bị chính phủ âm thầm ra lệnh làm ngơ không công khai trước dư luận vì sợ ảnh hưởng giây chuyền. Những hành động này trái với pháp luật và đã thúc đẩy thêm hàng loạt sai phạm khác khiến con tàu Vinashin không còn phương hướng.
Vinashin được cấp đất một cách hào phóng trên mọi miền đất nước, Từ Quảng Ninh đến Cà Mau không nơi nào là không có đất của Vinashin và cứ mỗi lần tập đoàn này lên tiếng yêu cầu thì hình như không một ai có thể cản trở.
Tính từ năm 2006 cho đến cuối năm 2009 chính phủ đã chỉ thị giao cho Vinashin quản trị một nguồn vốn lên đến gần 4 tỷ Mỹ kim. Số vốn vay ưu đãi này nhằm giúp cho tập đoàn lấy lại ưu thế của một tập đoàn mũi nhọn kinh tế quốc gia nhưng sau một thời gian ngắn số tiền này đã bị chi vào những nơi không được xem là sản xuất. Với 200 công ty con ra đời và các dự án như nhiệt điện, thủy điện, xi măng, thép, bảo hiểm cùng với các khu nghỉ mát, triển lãm nói chung không dính gì tới các dự án mà tập đoàn này xin kinh doanh.
Tuy đồng vốn mà Vinashin có được không sử dụng đúng với chức năng của tập đoàn nhưng mọi sai phạm đều bị bỏ qua một cách khó hiểu.
Trụ sở Tập đoàn Vinashin tại Hà Nội. AFP PHOTO.
Thật ra việc bổ nhiệm tất cả những vị trí quan trọng nhất của Vinashin đều do Thủ tướng trực tiếp chỉ định, từ Giám đốc điều hành cho tới Ban quản trị Tập đoàn đều do nhà nước chỉ định do đó nếu cấp dưới lạm quyền hay có những biểu hiện sai trái thì trách nhiệm trước nhất phải là người bổ nhiệm những vị trí này.
Ông Hà Văn Hiền chủ nhiệm ủy ban kinh tế của Quốc hội trong một lần trả lời phỏng vấn của báo chí trước câu hỏi, sự việc ở Vinashin đã được cảnh báo nhưng vẫn để kéo dài mà đến khi xử lý thì hậu quả cũng khá nặng nề, liệu có phải là do bao che hay không, ông Hà Văn Hiền cho rằng: “Vấn đề là do quản lý chưa chặt chẽ và bản thân Vinashin thì báo cáo sai sự thật, quản lý cũng chưa tốt dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, quy trình ra quyết định đầu tư không chuẩn… Rồi có cả vấn đề bố trí cán bộ trong doanh nghiệp dẫn đến khó khăn của Vinashin.”
Câu trả lời của một đại biểu quốc hội không thể làm dư luận thỏa mãn vì trước đó khá lâu, Ủy ban thanh tra chính phủ đã nhiều lần tổ chức thanh tra kiểm toán tập đoàn này nhưng vẫn không làm sao có thể tiếp cận được những con số chính xác vì các quan chức của tập đoàn không cung cấp đầy đủ theo như yêu cầu.
Bà Phạm Chi Lan, nguyên cố vấn Văn phòng Thủ tướng cho biết nhận xét của bà về trách nhiệm của những viên chức có liên quan như sau:
“Những viên chức liên quan ở các bộ các ngành khác nhau mà được nhà nước giao cho việc giám sát Vinashin mặt này mặt khác cũng phải có trách nhiệm liên đới, vì ít nhất họ không thực hiện đúng trách nhiệm giám sát của họ để dẫn đến đổ vỡ như vậy. Nếu có một hệ thống giám sát tốt hơn, nghiêm ngặt hơn thì có lẽ nó cũng không đến nỗi quá tệ như đến lúc Vinashin bị phát hiện là sụp đổ và nhà nước phải thừa nhận. Cho đến bây giờ thanh tra nhà nước vẫn đang chờ Vinashin giải trình một số việc và vì vậy tơi nghĩ việc điều tra cho đến cùng để kết luận trách nhiệm những người liên quan đến Vinashin vẫn chưa xong. Phải chờ thanh tra nhà nước, kiểm toán nhà nước rối sau đó mới tính đến trách nhiệm của những người liên quan như thế nào.”
14 lần bị nhà nước thanh tra?
Ông Tổng thanh tra Chính phủ Trần Văn Truyền cho biết từ năm 2005 đã có ít nhất 14 lần Vinashin bị nhà nước thanh tra và tìm ra rất nhiều sai phạm, thế nhưng tập đoàn này vẫn ung dung tiếp tục kinh doanh lổ lã và tiếp tục báo cáo láo là có lời lên cấp cao hơn.
Nếu nhà nước hay các cơ quan chủ quản nói rằng không biết trước sự thất bại không thể cứu vãn của Vinashin là không đúng với sự thật. Sai phạm của Vinashin không do một người mà làm ra được. Ngay cả một nhóm người của Ban quản trị tập đoàn cũng khó thể tạo sự lổ lã to lớn như vậy. Kết quả này phải được nhìn nhận là từ lỗi của cả hệ thống. Hệ thống ban phát quá nhiều đặc quyền cho một tập đoàn thiếu sự đầu tư chất xám vào kinh doanh nên sự thất bại là điều có thể tiên đoán.
Chính phủ bổ nhiệm ông Phạm Thanh Bình là một người chỉ có kinh nghiệm trong ngành đóng tàu nhưng lại quản lý những số tiền to tát phân phát vào những khu vực kinh doanh mà ông ta không hề có kiến thức thì sự thất bại là chắc chắn.
Vậy cuối cùng thì trách nhiệm về ai?
Vinashin hạ thủy một chiếc tàu trước đây. Photo courtesy of Vinashin.
Thủ tướng chính phủ là người trực tiếp trách nhiệm cho những lần ông đặt bút ký vào các văn bản cho phép Vinashin được vay những món tiền kết sù. Thế nhưng khi tập đoàn này không kinh doanh đúng như mục đích thì Thủ tướng thiếu theo dõi và chỉ đạo để tập đoàn này ngày càng sa vào vũng lầy. Thay vì ra lệnh cho tập đoàn phải tuân hành mọi phán quyết của thanh tra chính phủ thì Thủ tướng lại tiếp tục cho tập đoàn này một khoản trái phiếu quá lớn mà không theo dõi số tiền này sẽ được thực hiện vào mục đích gì.
Vào kỳ họp thứ 8 cuối năm 2010, tại phiên chất vấn Thủ tướng Chính phủ trước những câu hỏi về xử lý trách nhiệm các cá nhân, tập thể liên quan đến vụ Vinashin, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định sẽ sớm xem xét và báo cáo với Quốc hội.
Cũng trong kỳ họp này, Đại biểu Nguyễn Minh Thuyết đã thẳng thắng đề nghị với Quốc hội tạm ngưng chức vụ của Thủ tướng để việc điều tra Vinashin được công khai và minh bạch.
Trong bản báo cáo đọc trước quốc hội lần họp thứ 9 của khóa 12 vào ngày 21 tháng 3 vừa qua Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng xác định với chức năng là chủ sở hữu và quản lý nhà nước với tập đoàn Vinashin, thì chính phủ, Thủ tướng và một số thành viên Chính phủ đã có những thiếu sót, khuyết điểm.
Ông Hùng cũng nói rằng Bộ Chính trị đã thảo luận, và bỏ phiếu việc thi hành kỷ luật với các tập thể, cá nhân liên quan. Bộ Chính trị cuối cùng đã quyết định không xử lý kỷ luật với các tập thể, cá nhân liên quan.
Trước thông tin này, Giáo sư Hà Văn Thịnh giảng dạy tại Đại Học Huế tỏ ra hết sức thất vọng và cả đau đớn nữa ông nói:
“Thất vọng, đau đớn bởi vì gần một trăm ngàn tỷ của dân mà giống như bọt bèo vậy không ai chịu trách nhiệm cả. Trong khi tôi ra ăn trộm một chiếc xe đạp ngoài đường là bị tống giam liền nhưng một trăm ngàn tỷ của dân thì chẳng ai chịu trách nhiệm cả. Theo tôi nghĩ thì điều đó là một tuyên bố vô trách nhiệm. Hỏi bất kỳ người nào thì sự bất mãn là đều có hết. Không ai đồng tình với quyết định đó cả nhưng xã hội này phải chấp nhận thôi bởi vì người ta khẳng định như vậy mà dân không có cơ sở thì phải thua thôi!”
Dư luận đồng tình rằmg trách nhiệm của Thủ tướng dù ít hay nhiều cũng đã tiếp phần cho sự sụp đổ của Vinashin. Nếu ông cho điều tra tập đoàn này sớm hơn và cương quyết hơn thì kết quả sẽ không phải là 4 tỷ Mỹ Kim mất trắng.
Món nợ mà Vinashin còn mang chính là trách nhiệm của người ký nó.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/politburo-vinashin-violations-not-serious-ml-03222011122203.html
“Thất vọng, đau đớn bởi vì gần một trăm ngàn tỷ của dân mà giống như bọt bèo vậy không ai chịu trách nhiệm cả. Trong khi tôi ra ăn trộm một chiếc xe đạp ngoài đường là bị tống giam liền nhưng một trăm ngàn tỷ của dân thì chẳng ai chịu trách nhiệm cả. Theo tôi nghĩ thì điều đó là một tuyên bố vô trách nhiệm. Hỏi bất kỳ người nào thì sự bất mãn là đều có hết. Không ai đồng tình với quyết định đó cả nhưng xã hội này phải chấp nhận thôi bởi vì người ta khẳng định như vậy mà dân không có cơ sở thì phải thua thôi!” - Giáo sư Hà Văn Thịnh, Đại Học Huế.
Vinashin sai phạm chưa đến mức kỷ luật?
Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok - Bộ Chính trị đã quyết định không xử lý kỷ luật đối với các tập thể, cá nhân trong Chính phủ có liên quan đến những sai phạm của Vinashin.
Photo courtesy of Vinashin – Tàu vận tải biển do tập đoàn Vinashin đóng trước đây.
Trong phiên họp cuối cùng của quốc hội khóa 12 Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cho biết, Bộ Chính trị đã quyết định không xử lý kỷ luật đối với các tập thể, cá nhân trong Chính phủ có liên quan đến những sai phạm của Vinashin. Dư luận trước quyết định này ra sao?
Chính phủ nâng đỡ mọi cách
Khi nhắc đến Vinashin người ta thường hình dung một tập đoàn kinh tế nhà nước khổng lồ có vốn kinh doanh hàng tỷ đô la và công nhân làm việc cho nó lên đến hàng chục ngàn người.
Tập đoàn Vinashin trên danh nghĩa là kinh doanh đóng tàu và các lĩnh vực hàng hải, tuy nhiên trong thời gian trước ngày sụp đổ, tập đoàn này đã kinh doanh tràn lan sang các ngành khác không đúng chức năng của nó. Tập đoàn Vinashin được chỉ đạo trực tiếp từ văn phòng thủ tướng chính phủ và những đơn vay vốn của nó thường được dễ dàng thông qua bất kể đồng tiền mà nó nhận có được nó xử dụng đúng mục đích hay không.
Chính phủ đã nâng đỡ tập đoàn này bằng mọi cách trong đó có bán trái phiếu ra ngoại quốc để cung cấp cho Vinashin 750 triệu đô la vào những ngày cuối cùng trước khi nó sụp đổ. Số tiền này sau đó được Ban quản trị chi vào mục đích gì, cho ai vẫn là câu hỏi nằm trên bàn giấy Thủ tướng Chính phủ. Không những thế chính phủ còn yêu cầu các ngân hàng khoanh nợ cho Vinashin, những món nợ quá hạn bị chính phủ âm thầm ra lệnh làm ngơ không công khai trước dư luận vì sợ ảnh hưởng giây chuyền. Những hành động này trái với pháp luật và đã thúc đẩy thêm hàng loạt sai phạm khác khiến con tàu Vinashin không còn phương hướng.
Vinashin được cấp đất một cách hào phóng trên mọi miền đất nước, Từ Quảng Ninh đến Cà Mau không nơi nào là không có đất của Vinashin và cứ mỗi lần tập đoàn này lên tiếng yêu cầu thì hình như không một ai có thể cản trở.
Tính từ năm 2006 cho đến cuối năm 2009 chính phủ đã chỉ thị giao cho Vinashin quản trị một nguồn vốn lên đến gần 4 tỷ Mỹ kim. Số vốn vay ưu đãi này nhằm giúp cho tập đoàn lấy lại ưu thế của một tập đoàn mũi nhọn kinh tế quốc gia nhưng sau một thời gian ngắn số tiền này đã bị chi vào những nơi không được xem là sản xuất. Với 200 công ty con ra đời và các dự án như nhiệt điện, thủy điện, xi măng, thép, bảo hiểm cùng với các khu nghỉ mát, triển lãm nói chung không dính gì tới các dự án mà tập đoàn này xin kinh doanh.
Tuy đồng vốn mà Vinashin có được không sử dụng đúng với chức năng của tập đoàn nhưng mọi sai phạm đều bị bỏ qua một cách khó hiểu.
Trụ sở Tập đoàn Vinashin tại Hà Nội. AFP PHOTO.
Thật ra việc bổ nhiệm tất cả những vị trí quan trọng nhất của Vinashin đều do Thủ tướng trực tiếp chỉ định, từ Giám đốc điều hành cho tới Ban quản trị Tập đoàn đều do nhà nước chỉ định do đó nếu cấp dưới lạm quyền hay có những biểu hiện sai trái thì trách nhiệm trước nhất phải là người bổ nhiệm những vị trí này.
Ông Hà Văn Hiền chủ nhiệm ủy ban kinh tế của Quốc hội trong một lần trả lời phỏng vấn của báo chí trước câu hỏi, sự việc ở Vinashin đã được cảnh báo nhưng vẫn để kéo dài mà đến khi xử lý thì hậu quả cũng khá nặng nề, liệu có phải là do bao che hay không, ông Hà Văn Hiền cho rằng: “Vấn đề là do quản lý chưa chặt chẽ và bản thân Vinashin thì báo cáo sai sự thật, quản lý cũng chưa tốt dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, quy trình ra quyết định đầu tư không chuẩn… Rồi có cả vấn đề bố trí cán bộ trong doanh nghiệp dẫn đến khó khăn của Vinashin.”
Câu trả lời của một đại biểu quốc hội không thể làm dư luận thỏa mãn vì trước đó khá lâu, Ủy ban thanh tra chính phủ đã nhiều lần tổ chức thanh tra kiểm toán tập đoàn này nhưng vẫn không làm sao có thể tiếp cận được những con số chính xác vì các quan chức của tập đoàn không cung cấp đầy đủ theo như yêu cầu.
Bà Phạm Chi Lan, nguyên cố vấn Văn phòng Thủ tướng cho biết nhận xét của bà về trách nhiệm của những viên chức có liên quan như sau:
“Những viên chức liên quan ở các bộ các ngành khác nhau mà được nhà nước giao cho việc giám sát Vinashin mặt này mặt khác cũng phải có trách nhiệm liên đới, vì ít nhất họ không thực hiện đúng trách nhiệm giám sát của họ để dẫn đến đổ vỡ như vậy. Nếu có một hệ thống giám sát tốt hơn, nghiêm ngặt hơn thì có lẽ nó cũng không đến nỗi quá tệ như đến lúc Vinashin bị phát hiện là sụp đổ và nhà nước phải thừa nhận. Cho đến bây giờ thanh tra nhà nước vẫn đang chờ Vinashin giải trình một số việc và vì vậy tơi nghĩ việc điều tra cho đến cùng để kết luận trách nhiệm những người liên quan đến Vinashin vẫn chưa xong. Phải chờ thanh tra nhà nước, kiểm toán nhà nước rối sau đó mới tính đến trách nhiệm của những người liên quan như thế nào.”
14 lần bị nhà nước thanh tra?
Ông Tổng thanh tra Chính phủ Trần Văn Truyền cho biết từ năm 2005 đã có ít nhất 14 lần Vinashin bị nhà nước thanh tra và tìm ra rất nhiều sai phạm, thế nhưng tập đoàn này vẫn ung dung tiếp tục kinh doanh lổ lã và tiếp tục báo cáo láo là có lời lên cấp cao hơn.
Nếu nhà nước hay các cơ quan chủ quản nói rằng không biết trước sự thất bại không thể cứu vãn của Vinashin là không đúng với sự thật. Sai phạm của Vinashin không do một người mà làm ra được. Ngay cả một nhóm người của Ban quản trị tập đoàn cũng khó thể tạo sự lổ lã to lớn như vậy. Kết quả này phải được nhìn nhận là từ lỗi của cả hệ thống. Hệ thống ban phát quá nhiều đặc quyền cho một tập đoàn thiếu sự đầu tư chất xám vào kinh doanh nên sự thất bại là điều có thể tiên đoán.
Chính phủ bổ nhiệm ông Phạm Thanh Bình là một người chỉ có kinh nghiệm trong ngành đóng tàu nhưng lại quản lý những số tiền to tát phân phát vào những khu vực kinh doanh mà ông ta không hề có kiến thức thì sự thất bại là chắc chắn.
Vậy cuối cùng thì trách nhiệm về ai?
Vinashin hạ thủy một chiếc tàu trước đây. Photo courtesy of Vinashin.
Thủ tướng chính phủ là người trực tiếp trách nhiệm cho những lần ông đặt bút ký vào các văn bản cho phép Vinashin được vay những món tiền kết sù. Thế nhưng khi tập đoàn này không kinh doanh đúng như mục đích thì Thủ tướng thiếu theo dõi và chỉ đạo để tập đoàn này ngày càng sa vào vũng lầy. Thay vì ra lệnh cho tập đoàn phải tuân hành mọi phán quyết của thanh tra chính phủ thì Thủ tướng lại tiếp tục cho tập đoàn này một khoản trái phiếu quá lớn mà không theo dõi số tiền này sẽ được thực hiện vào mục đích gì.
Vào kỳ họp thứ 8 cuối năm 2010, tại phiên chất vấn Thủ tướng Chính phủ trước những câu hỏi về xử lý trách nhiệm các cá nhân, tập thể liên quan đến vụ Vinashin, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định sẽ sớm xem xét và báo cáo với Quốc hội.
Cũng trong kỳ họp này, Đại biểu Nguyễn Minh Thuyết đã thẳng thắng đề nghị với Quốc hội tạm ngưng chức vụ của Thủ tướng để việc điều tra Vinashin được công khai và minh bạch.
Trong bản báo cáo đọc trước quốc hội lần họp thứ 9 của khóa 12 vào ngày 21 tháng 3 vừa qua Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng xác định với chức năng là chủ sở hữu và quản lý nhà nước với tập đoàn Vinashin, thì chính phủ, Thủ tướng và một số thành viên Chính phủ đã có những thiếu sót, khuyết điểm.
Ông Hùng cũng nói rằng Bộ Chính trị đã thảo luận, và bỏ phiếu việc thi hành kỷ luật với các tập thể, cá nhân liên quan. Bộ Chính trị cuối cùng đã quyết định không xử lý kỷ luật với các tập thể, cá nhân liên quan.
Trước thông tin này, Giáo sư Hà Văn Thịnh giảng dạy tại Đại Học Huế tỏ ra hết sức thất vọng và cả đau đớn nữa ông nói:
“Thất vọng, đau đớn bởi vì gần một trăm ngàn tỷ của dân mà giống như bọt bèo vậy không ai chịu trách nhiệm cả. Trong khi tôi ra ăn trộm một chiếc xe đạp ngoài đường là bị tống giam liền nhưng một trăm ngàn tỷ của dân thì chẳng ai chịu trách nhiệm cả. Theo tôi nghĩ thì điều đó là một tuyên bố vô trách nhiệm. Hỏi bất kỳ người nào thì sự bất mãn là đều có hết. Không ai đồng tình với quyết định đó cả nhưng xã hội này phải chấp nhận thôi bởi vì người ta khẳng định như vậy mà dân không có cơ sở thì phải thua thôi!”
Dư luận đồng tình rằmg trách nhiệm của Thủ tướng dù ít hay nhiều cũng đã tiếp phần cho sự sụp đổ của Vinashin. Nếu ông cho điều tra tập đoàn này sớm hơn và cương quyết hơn thì kết quả sẽ không phải là 4 tỷ Mỹ Kim mất trắng.
Món nợ mà Vinashin còn mang chính là trách nhiệm của người ký nó.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/politburo-vinashin-violations-not-serious-ml-03222011122203.html
Việt Nam cần xét lại chính sách phát triển điện hạt nhân
Posted by truongthondlb1
Việt Nam đã dự trù sẽ xây tổng cộng đến 8 nhà máy hạt nhân và theo lịch trình dự kiến, đến năm 2031, toàn bộ 8 nhà máy này sẽ đi vào hoạt động . Nhà máy đầu tiên do Nga xây dựng tại tỉnh Ninh Thuận sẽ được khởi công vào năm 2014 và dự kiến sẽ hoà vào lưới điện quốc gia vào năm 2020. Việt Nam cũng dự định hợp tác với Nhật để xây hai lò phản ứng hạt nhân khác.
Sau những sự cố tại các nhà máy hạt nhân ở Fukushima, trong khi nhiều quốc gia đang xét lại chính sách phát triển năng lượng nguyên tử, từ bỏ hoặc giảm các kế hoạch xây nhà máy điện hạt nhân, thì tại Việt Nam, các giới chức đặc trách năng lượng tuyên bố là những sự cố tại Fukushima sẽ không ảnh hưởng gì đến việc phát triển điện nguyên tử của nước này.
Tuy vậy, dư luận ở Việt Nam không khỏi lo âu về nguy cơ xảy ra những tai nạn hạt nhân tương tự như ở Fukushima. Tuy rằng Việt Nam không thường xuyên bị động đất như ở Nhật, nhưng tại tỉnh Ninh Thuận, nơi sẽ xây nhà máy hạt nhân đầu tiên, hiện tượng động đất hay sóng thần là chuyện có thể xảy ra, tuy rằng với cường độ thấp hơn.
Khu vực lò phản ứng số 3 ở Fukushima ngày 21/3/11. Sự cố ở các nhà máy hạt nhân tại đây buộc Việt Nam phải xét lại chính sách phát triển điện nguyên tử. Reuters
Tiến sĩ Vương Hữu Tấn,Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, tại cuộc họp báo do Bộ Khoa học – Công nghệ tổ chức ngày 16/3 đã bảo đảm rằng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam sẽ sử dụng công nghệ của Nga thuộc thế hệ lò phản ứng thứ 3. Theo ông Vương Hữu Tấn, công nghệ này được coi là hiện đại nhất hiện nay, áp dụng nguyên lý an toàn thụ động rất tốt, có tích nước sẵn trong lò. Nếu xảy ra sự cố tương tự như ở NM Fukushima thì NM Ninh Thuận sẽ tự động giải nhiệt bằng các cơ chế tự nhiên.
Về phần tiến sĩ Ngô Đặng Nhân, Cục trưởng Cục An toàn bức xạ hạt nhân, thì cho rằng, Fukushima cho Việt Nam bài học về ứng phó sự cố trong tình trạng khẩn cấp. Theo ông Nhân, Nhật Bản ứng phó sự cố rất bài bản là do đã tổ chức diễn tập thường xuyên. Cho nên, trong thời gian tới, Cục An toàn bức xạ hạt nhân sẽ hướng dẫn các tỉnh có kế hoạch ứng phó sự cố, đặc biệt là các tỉnh gần với các nhà máy điện hạt nhân đang và sắp xây dựng.
Nhưng các chuyên gia như giáo sư Phạm Duy Hiển, nguyên Viện trưởng Viện nguyên tử Đà Lạt, thì nghĩ rằng, qua sự kiện Fukushima, Việt Nam cần phải suy nghĩ lại kế hoạch phát triển điện hạt nhân và trong bối cảnh còn thìếu rất nhiều chuyên gia, không nên xây đến 8 nhà máy hạt nhân, mà trước mắt chỉ nên làm một hoặc hai nhà máy, để vừa làm vừa học hỏi, vừa rút kinh nghiệm, vừa xây dựng đội ngủ chuyên gia. Sau đây mời quý vị theo dõi bài phỏng vấn với Giáo sư Phạm Duy Hiển:
RFI : Kính thưa Giáo sư Phạm Duy Hiển, trước hết theo giáo sư, nếu bỏ sang một bên yếu tố Nhật Bản là quốx gia thường xảy ra động đất, những sự cố như ở các nhà máy hạt nhân Fukushima có thể được dự báo trước hay không ?
Giáo sư Phạm Duy Hiển : Qua những gì đã xảy ra, có thể nói là Nhật Bản có một công nghệ hạt nhân rất tiên tiến, đội ngũ chuyên gia của họ cũng rất tiên tiến, nhưng quy mô tai nạn quá lớn. Rõ ràng là con người không thể tính hết mọi chuyện và nhất là đối với điện hạt nhân. Tất nhiên, xác suất xảy ra không phải là thường xuyên, do đó người ta có thể không để ý. Chỉ đến khi xảy ra như thế này, người ta mới bắt đầu thấy là con người chưa tính hết mọi việc.
Nghiên cứu của các nước thường nói là lò phản ứng có thể chịu được động đất cấp này, cấp khác, nhưng chịu được đến cấp 9 thì hơi khó. Trên thực tế, người ta phải đo gia tốc của mặt nền, để căn cứ vào đó tính toán sức chịu đựng của lò. Cũng có người nói rằng sự cố vừa rồi là vẫn nằm trong giới hạn, nhưng tôi nghĩ động đất cấp 9 là rất khó lường và rất nhiều máy móc, thiết bị, nhà cửa bên trong không thể tính hết được.
Cái thứ hai quan trọng hơn đó là động đất lần này lại đi với sóng thần và sóng thần cũng dữ tợn không ngờ được. Thật ra, khi có động đất thì lò tự động dừng. Vấn đề là do không tải nhiệt được, nên các thanh nhiên liệu nóng lên. Thông thường có một máy phát điện diesel ở ngoài để thay thế cho nguồn điện bị mất, nhưng không ngờ là máy diesel đó lại bị ngập nước. Thật ra người Nhật cũng dự trù chuyện ngập nước, nên đã xây đê chắn ở phía biển. Nhưng không ngờ là sóng thần quá mạnh, nên nước ào vào, làm hỏng hết gian nhà chứa tuốc bin. Sau 13 tiếng đồng hồ, người ta đưa được tuốc bin mới đến, thì lại không đấu được vào, vì cầu dao chổ đó cũng bị ngập nước. Như vậy, cho dù có tính đến các thảm hoạ thiên nhiên, người ta cũng không thể lường trước hết được.
Ở Việt Nam cũng có người nghĩ rằng sau này làm lò phản ứng hạt nhân thế hệ thứ 3 thì chắc là có thể tránh khỏi những chuyện ấy. Lò phản ứng thế hệ 3 đúng là hiện đại hơn, tiên tiến hơn, nhưng đó là nói về cái đoạn làm sao dập được phản ứng dây chuyền trong lò. Tai nạn ở Fukushima không phải là ở cái đoạn ấy mà là ở cái đoạn sau, tức là khi lò đã dừng rồi, nhưng lại không tải nhiệt các thanh phóng xạ được.
Nếu con người cứ nghĩ rằng máy móc thiết bị bao giờ cũng tốt, thì thiên nhiên cũng có những điều không ai lường trước được. Không tính được hết những chuyện xảy ra đã đành rồi, nhưng mà khi nó đã xảy ra, thì người này làm việc này, người kia làm việc kia, hệ thống ứng phó ra sao, cũng khó mà tính hết được.
RFI : Tức là trong điện hạt nhân thì không có sự an toàn tuyệt đối ?
Giáo sư Phạm Duy Hiển : Thế 3 hay thế hệ nào cũng vậy và nhất là nếu cứ nghĩ vậy, máy móc, thiết bị của những thế hệ đó ngày càng tinh vi và con người trở nên lệ thuộc vào máy móc. Tư duy đó rất không đúng.
RFI : Sự cố ở Fukushima buộc cả thế giới phải rà soát lại mức độ an toàn của các nhà máy hạt nhân và dầu sao nó cũng ảnh hưởng đến kế hoạch phát triển điện nguyên tử tại những nước như Việt Nam. Chúng ta phải suy nghĩ lại chính sách phát triển hạt nhân như thế nào ?
Giáo sư Phạm Duy Hiển : Không cứ gì Việt Nam, các nước khác cũng phải xem xét lại. Từng nhà khoa học tham gia vào chuyện này, cũng có những cái trước đây không ngờ được, thì bây giờ cũng phải suy nghĩ lại. Cách đây khoảng một, hai năm, khi thảo luận về điện hạt nhân ở Việt Nam, hầu hết những người có trách nhiệm cấp dưới cũng như cấp cao vẫn nghĩ rằng là điện hạt nhân rất an toàn. Ai mà nói nó không an toàn thì người ta không chịu. Họ cứ nghe những chuyện như là xác xuất không an toàn là cực thấp, nghĩ rằng sẽ không bao giờ xảy ra. Bây giờ thì nó xảy ra đấy !
Mô hình nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận
Cho nên, từng người, từng tập thể, cả chính phủ, chắc rồi cũng sẽ xem xét lại và phải xét lại trên khái niệm là không có cái gì an toàn tuyệt đối. Nhất là cả con người, cả bộ máy, cả hạ tầng cơ sở phải đồng bộ. Nếu không tương thích được với mức độ nghiêm trọng của điện hạt nhân thì không làm được.
Tôi không dám nói với anh là có nên làm điện hạt nhân hay không, vì đằng nào cũng đã có quyết định rồi, nhưng qua sự cố ở Fukushima, cần phải chấn chỉnh lại như thế nào? Theo tôi, cái quan trọng nhất ở Việt Nam vẫn là con người, là tổ chức. Nhưng trước khi có con người và tổ chức tốt thì tư duy phải đúng. Đã làm điện hạt nhân, tức là làm chuyện nghiêm túc nhất, thì không bao giờ được xem nhà máy hạt nhân giống như là một nhà máy đóng giày hay một nhà máy nào khác, hoặc là khi nào cần thì có thể mua như là mua một xe ôtô.
Cách đây hai, ba năm không ai thấy chuyện đó, bây giờ rất hay là người ta thấy chuyện đó. Không nhất thiết là thấy rồi thì sẽ sợ không làm. Điều này còn tùy thuộc vào xu hướng của thế giới. Có những nước kiên quyết dừng, nhưng cũng có những nước nhất quyết vẫn làm. Cho nên, tôi không thể khẳng định được là Việt Nam rồi đây sẽ như thế nào. Nhưng rất may là ( xin lỗi, tôi xin đóng ngoặc kép chữ « may » ) sự kiện vừa rồi ở Nhật buộc người ta phải suy nghĩ lại.
RFI : Việt Nam đã dự trù xây đến 8 nhà máy hạt nhân. Theo giáo sư, sau sự cố vừa rồi ở Fukushima, liệu chúng ta có nên giảm bớt số lượng nhà máy này ?
Giáo sư Phạm Duy Hiển : Ngay từ đầu tôi đã nói là không thể làm liều lĩnh như vậy được. Tất cả những cái anh là phải dựa trên cơ sở là không phải cứ có tiền là muốn làm gị cũng được, nhưng còn bao nhiêu thứ khác nữa. Tất nhìên, ngoài vấn đề tiền còn có vấn đề tri thức về điện hạt nhân của Việt Nam, tức là phải có một đội ngũ chuyên gia. Qua sự kiện vừa rồi ở Nhật Bản, tất cả mọi người đều thấy là những người rất giỏi, rất nghiêm túc, có kinh nghiệm rất nhiều, thì mới xử lý được những sự cố như vậy. Còn nếu tất cả đều ởm ờ như nhau thì làm sao được ? Cái khó nhất đối với Việt Nam, đó là không có cái đội ngũ đấy. Trong thời gian qua, Việt Nam đã rất lúng túng trong việc xây dựng đội ngũ chuyên gia.
Ngay từ đầu tôi đã nói rằng : làm từ từ, làm đến đâu, học hỏi đến đấy, tích lũy kinh nghiệm đến đấy, xây dựng đội ngũ đến đấy, chắc rồi hãy làm tiếp, trên tinh thần là không phải giống như ta mua một món đồ về dùng, hoặc trên tinh thần là không phải để cho người ngoại quốc chỉ huy tất cả, mà ngưòi Việt Nam phải tự làm. Như thế thì sẽ thấy là tốc độ làm như thế là không được. Hoặc tập trung nhiều nhà máy vào Ninh Thuận là không được. Nếu xảy ra sự cố như đối với sáu lò ở Fukushima vừa rồi, thì Việt Nam xử lý ra sao? Nó không đơn giản như người ta tưởng. Tôi cứ nghĩ giỏi lắm là năm 2020 làm lò phản ứng thứ nhất và 5 năm sau mới làm lò thứ nhì. Tôi không tin là có thể làm với tốc độ nhanh hơn được, nhất là Việt Nam vẫn còn rất lúng túng trong việc xây dựng đội ngũ nhân lực trình độ cao. Tôi nhìn quanh nhìn quất thì chưa thấy anh nào thuộc thế hệ 40, 50 tuổi rồi sẽ trở thành những chuyên gia tốt về hạt nhân.
RFI : Xin cám ơn giáo sư Phạm Duy Hiển, nguyên Viện trưởng Viện Nguyên tử Đà Lạt.
Thanh Phương – RFI
Việt Nam đã dự trù sẽ xây tổng cộng đến 8 nhà máy hạt nhân và theo lịch trình dự kiến, đến năm 2031, toàn bộ 8 nhà máy này sẽ đi vào hoạt động . Nhà máy đầu tiên do Nga xây dựng tại tỉnh Ninh Thuận sẽ được khởi công vào năm 2014 và dự kiến sẽ hoà vào lưới điện quốc gia vào năm 2020. Việt Nam cũng dự định hợp tác với Nhật để xây hai lò phản ứng hạt nhân khác.
Sau những sự cố tại các nhà máy hạt nhân ở Fukushima, trong khi nhiều quốc gia đang xét lại chính sách phát triển năng lượng nguyên tử, từ bỏ hoặc giảm các kế hoạch xây nhà máy điện hạt nhân, thì tại Việt Nam, các giới chức đặc trách năng lượng tuyên bố là những sự cố tại Fukushima sẽ không ảnh hưởng gì đến việc phát triển điện nguyên tử của nước này.
Tuy vậy, dư luận ở Việt Nam không khỏi lo âu về nguy cơ xảy ra những tai nạn hạt nhân tương tự như ở Fukushima. Tuy rằng Việt Nam không thường xuyên bị động đất như ở Nhật, nhưng tại tỉnh Ninh Thuận, nơi sẽ xây nhà máy hạt nhân đầu tiên, hiện tượng động đất hay sóng thần là chuyện có thể xảy ra, tuy rằng với cường độ thấp hơn.
Khu vực lò phản ứng số 3 ở Fukushima ngày 21/3/11. Sự cố ở các nhà máy hạt nhân tại đây buộc Việt Nam phải xét lại chính sách phát triển điện nguyên tử. Reuters
Tiến sĩ Vương Hữu Tấn,Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, tại cuộc họp báo do Bộ Khoa học – Công nghệ tổ chức ngày 16/3 đã bảo đảm rằng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam sẽ sử dụng công nghệ của Nga thuộc thế hệ lò phản ứng thứ 3. Theo ông Vương Hữu Tấn, công nghệ này được coi là hiện đại nhất hiện nay, áp dụng nguyên lý an toàn thụ động rất tốt, có tích nước sẵn trong lò. Nếu xảy ra sự cố tương tự như ở NM Fukushima thì NM Ninh Thuận sẽ tự động giải nhiệt bằng các cơ chế tự nhiên.
Về phần tiến sĩ Ngô Đặng Nhân, Cục trưởng Cục An toàn bức xạ hạt nhân, thì cho rằng, Fukushima cho Việt Nam bài học về ứng phó sự cố trong tình trạng khẩn cấp. Theo ông Nhân, Nhật Bản ứng phó sự cố rất bài bản là do đã tổ chức diễn tập thường xuyên. Cho nên, trong thời gian tới, Cục An toàn bức xạ hạt nhân sẽ hướng dẫn các tỉnh có kế hoạch ứng phó sự cố, đặc biệt là các tỉnh gần với các nhà máy điện hạt nhân đang và sắp xây dựng.
Nhưng các chuyên gia như giáo sư Phạm Duy Hiển, nguyên Viện trưởng Viện nguyên tử Đà Lạt, thì nghĩ rằng, qua sự kiện Fukushima, Việt Nam cần phải suy nghĩ lại kế hoạch phát triển điện hạt nhân và trong bối cảnh còn thìếu rất nhiều chuyên gia, không nên xây đến 8 nhà máy hạt nhân, mà trước mắt chỉ nên làm một hoặc hai nhà máy, để vừa làm vừa học hỏi, vừa rút kinh nghiệm, vừa xây dựng đội ngủ chuyên gia. Sau đây mời quý vị theo dõi bài phỏng vấn với Giáo sư Phạm Duy Hiển:
RFI : Kính thưa Giáo sư Phạm Duy Hiển, trước hết theo giáo sư, nếu bỏ sang một bên yếu tố Nhật Bản là quốx gia thường xảy ra động đất, những sự cố như ở các nhà máy hạt nhân Fukushima có thể được dự báo trước hay không ?
Giáo sư Phạm Duy Hiển : Qua những gì đã xảy ra, có thể nói là Nhật Bản có một công nghệ hạt nhân rất tiên tiến, đội ngũ chuyên gia của họ cũng rất tiên tiến, nhưng quy mô tai nạn quá lớn. Rõ ràng là con người không thể tính hết mọi chuyện và nhất là đối với điện hạt nhân. Tất nhiên, xác suất xảy ra không phải là thường xuyên, do đó người ta có thể không để ý. Chỉ đến khi xảy ra như thế này, người ta mới bắt đầu thấy là con người chưa tính hết mọi việc.
Nghiên cứu của các nước thường nói là lò phản ứng có thể chịu được động đất cấp này, cấp khác, nhưng chịu được đến cấp 9 thì hơi khó. Trên thực tế, người ta phải đo gia tốc của mặt nền, để căn cứ vào đó tính toán sức chịu đựng của lò. Cũng có người nói rằng sự cố vừa rồi là vẫn nằm trong giới hạn, nhưng tôi nghĩ động đất cấp 9 là rất khó lường và rất nhiều máy móc, thiết bị, nhà cửa bên trong không thể tính hết được.
Cái thứ hai quan trọng hơn đó là động đất lần này lại đi với sóng thần và sóng thần cũng dữ tợn không ngờ được. Thật ra, khi có động đất thì lò tự động dừng. Vấn đề là do không tải nhiệt được, nên các thanh nhiên liệu nóng lên. Thông thường có một máy phát điện diesel ở ngoài để thay thế cho nguồn điện bị mất, nhưng không ngờ là máy diesel đó lại bị ngập nước. Thật ra người Nhật cũng dự trù chuyện ngập nước, nên đã xây đê chắn ở phía biển. Nhưng không ngờ là sóng thần quá mạnh, nên nước ào vào, làm hỏng hết gian nhà chứa tuốc bin. Sau 13 tiếng đồng hồ, người ta đưa được tuốc bin mới đến, thì lại không đấu được vào, vì cầu dao chổ đó cũng bị ngập nước. Như vậy, cho dù có tính đến các thảm hoạ thiên nhiên, người ta cũng không thể lường trước hết được.
Ở Việt Nam cũng có người nghĩ rằng sau này làm lò phản ứng hạt nhân thế hệ thứ 3 thì chắc là có thể tránh khỏi những chuyện ấy. Lò phản ứng thế hệ 3 đúng là hiện đại hơn, tiên tiến hơn, nhưng đó là nói về cái đoạn làm sao dập được phản ứng dây chuyền trong lò. Tai nạn ở Fukushima không phải là ở cái đoạn ấy mà là ở cái đoạn sau, tức là khi lò đã dừng rồi, nhưng lại không tải nhiệt các thanh phóng xạ được.
Nếu con người cứ nghĩ rằng máy móc thiết bị bao giờ cũng tốt, thì thiên nhiên cũng có những điều không ai lường trước được. Không tính được hết những chuyện xảy ra đã đành rồi, nhưng mà khi nó đã xảy ra, thì người này làm việc này, người kia làm việc kia, hệ thống ứng phó ra sao, cũng khó mà tính hết được.
RFI : Tức là trong điện hạt nhân thì không có sự an toàn tuyệt đối ?
Giáo sư Phạm Duy Hiển : Thế 3 hay thế hệ nào cũng vậy và nhất là nếu cứ nghĩ vậy, máy móc, thiết bị của những thế hệ đó ngày càng tinh vi và con người trở nên lệ thuộc vào máy móc. Tư duy đó rất không đúng.
RFI : Sự cố ở Fukushima buộc cả thế giới phải rà soát lại mức độ an toàn của các nhà máy hạt nhân và dầu sao nó cũng ảnh hưởng đến kế hoạch phát triển điện nguyên tử tại những nước như Việt Nam. Chúng ta phải suy nghĩ lại chính sách phát triển hạt nhân như thế nào ?
Giáo sư Phạm Duy Hiển : Không cứ gì Việt Nam, các nước khác cũng phải xem xét lại. Từng nhà khoa học tham gia vào chuyện này, cũng có những cái trước đây không ngờ được, thì bây giờ cũng phải suy nghĩ lại. Cách đây khoảng một, hai năm, khi thảo luận về điện hạt nhân ở Việt Nam, hầu hết những người có trách nhiệm cấp dưới cũng như cấp cao vẫn nghĩ rằng là điện hạt nhân rất an toàn. Ai mà nói nó không an toàn thì người ta không chịu. Họ cứ nghe những chuyện như là xác xuất không an toàn là cực thấp, nghĩ rằng sẽ không bao giờ xảy ra. Bây giờ thì nó xảy ra đấy !
Mô hình nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận
Cho nên, từng người, từng tập thể, cả chính phủ, chắc rồi cũng sẽ xem xét lại và phải xét lại trên khái niệm là không có cái gì an toàn tuyệt đối. Nhất là cả con người, cả bộ máy, cả hạ tầng cơ sở phải đồng bộ. Nếu không tương thích được với mức độ nghiêm trọng của điện hạt nhân thì không làm được.
Tôi không dám nói với anh là có nên làm điện hạt nhân hay không, vì đằng nào cũng đã có quyết định rồi, nhưng qua sự cố ở Fukushima, cần phải chấn chỉnh lại như thế nào? Theo tôi, cái quan trọng nhất ở Việt Nam vẫn là con người, là tổ chức. Nhưng trước khi có con người và tổ chức tốt thì tư duy phải đúng. Đã làm điện hạt nhân, tức là làm chuyện nghiêm túc nhất, thì không bao giờ được xem nhà máy hạt nhân giống như là một nhà máy đóng giày hay một nhà máy nào khác, hoặc là khi nào cần thì có thể mua như là mua một xe ôtô.
Cách đây hai, ba năm không ai thấy chuyện đó, bây giờ rất hay là người ta thấy chuyện đó. Không nhất thiết là thấy rồi thì sẽ sợ không làm. Điều này còn tùy thuộc vào xu hướng của thế giới. Có những nước kiên quyết dừng, nhưng cũng có những nước nhất quyết vẫn làm. Cho nên, tôi không thể khẳng định được là Việt Nam rồi đây sẽ như thế nào. Nhưng rất may là ( xin lỗi, tôi xin đóng ngoặc kép chữ « may » ) sự kiện vừa rồi ở Nhật buộc người ta phải suy nghĩ lại.
RFI : Việt Nam đã dự trù xây đến 8 nhà máy hạt nhân. Theo giáo sư, sau sự cố vừa rồi ở Fukushima, liệu chúng ta có nên giảm bớt số lượng nhà máy này ?
Giáo sư Phạm Duy Hiển : Ngay từ đầu tôi đã nói là không thể làm liều lĩnh như vậy được. Tất cả những cái anh là phải dựa trên cơ sở là không phải cứ có tiền là muốn làm gị cũng được, nhưng còn bao nhiêu thứ khác nữa. Tất nhìên, ngoài vấn đề tiền còn có vấn đề tri thức về điện hạt nhân của Việt Nam, tức là phải có một đội ngũ chuyên gia. Qua sự kiện vừa rồi ở Nhật Bản, tất cả mọi người đều thấy là những người rất giỏi, rất nghiêm túc, có kinh nghiệm rất nhiều, thì mới xử lý được những sự cố như vậy. Còn nếu tất cả đều ởm ờ như nhau thì làm sao được ? Cái khó nhất đối với Việt Nam, đó là không có cái đội ngũ đấy. Trong thời gian qua, Việt Nam đã rất lúng túng trong việc xây dựng đội ngũ chuyên gia.
Ngay từ đầu tôi đã nói rằng : làm từ từ, làm đến đâu, học hỏi đến đấy, tích lũy kinh nghiệm đến đấy, xây dựng đội ngũ đến đấy, chắc rồi hãy làm tiếp, trên tinh thần là không phải giống như ta mua một món đồ về dùng, hoặc trên tinh thần là không phải để cho người ngoại quốc chỉ huy tất cả, mà ngưòi Việt Nam phải tự làm. Như thế thì sẽ thấy là tốc độ làm như thế là không được. Hoặc tập trung nhiều nhà máy vào Ninh Thuận là không được. Nếu xảy ra sự cố như đối với sáu lò ở Fukushima vừa rồi, thì Việt Nam xử lý ra sao? Nó không đơn giản như người ta tưởng. Tôi cứ nghĩ giỏi lắm là năm 2020 làm lò phản ứng thứ nhất và 5 năm sau mới làm lò thứ nhì. Tôi không tin là có thể làm với tốc độ nhanh hơn được, nhất là Việt Nam vẫn còn rất lúng túng trong việc xây dựng đội ngũ nhân lực trình độ cao. Tôi nhìn quanh nhìn quất thì chưa thấy anh nào thuộc thế hệ 40, 50 tuổi rồi sẽ trở thành những chuyên gia tốt về hạt nhân.
RFI : Xin cám ơn giáo sư Phạm Duy Hiển, nguyên Viện trưởng Viện Nguyên tử Đà Lạt.
Thanh Phương – RFI
Bao giờ người công dân mới bình đẳng trước pháp luật?
Posted by truongthondlb1
Hôm thứ hai ngày 21 tháng Ba vừa rồi, Toà Án Nhân Dân Hà Nội thông báo phiên toà xử TS Luật Cù Huy Hà Vũ về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCNVN” dự kiến vào ngày 24 tháng này sẽ được hoãn tới tháng sau
Theo giới truyền thông trong nước cho biết phiên xử sẽ diễn ra vào mùng 4 tháng tư. Giới hữu trách không giải thích lý do dời thời điểm xét xử.
Tiếng Thở Dài Của Thánh
Cũng hôm thứ Hai, Blogger Người Buôn Gió vừa từ nhà ông Cù Huy Hà Vũ trở về cho biết:
Blogger Người Buôn Gió: Tại nhà anh Cù Huy Hà Vũ và Chị Nguyễn Thị Dương Hà có rất nhiều người mang hoa đến tặng. Trên 1 trong những lẵng hoa ấy có đề chữ “Tổ Quốc và Nhân dân ở bên cạnh anh chị”. Thì công an kéo đến rất đông, bảo rằng những chữ ấy phản cảm, và đề nghị cất đi không thì họ tịch thu. Nhưng chị Dương Hà – vợ anh Hà Vũ – đáp là tịch thu thì phải lập biên bản. Công an nói là không cần lập biên bản gì cả. Rồi hộ xông vào bê hết các lẵng hoa ấy mang đi luôn.
Trong khi đó, có lẽ cảm xúc trước tình cảnh oan khiên của TS Cù Huy Hà Vũ nói riêng và dân oan nói chung, Blogger Người Nổi Tiếng thấy “ngậm ngùi thân phận con người dường như ở vào 1 bước đường cùng, không có 1 lối thoát, như thân phận con kiến trong câu ca dao thuở nào:
Con kiến mà leo cành đa,
Leo phải cành cụt leo ra leo vào.
Con kiến leo phải cành đào,
Leo phải cành cụt leo vào leo ra”.
Qua bài tựa đề “Tiếng Thở Dài Của Thánh”, Blogger Người Nổi Tiếng tâm sự tiếp rằng “những người dân thấy đúng hay sai cũng không có phiên toà nào giải quyết cho họ. Công lý ở đâu ? Pháp luật ở đâu ? Phải chăng nỗi bi phẫn đó chỉ có thể vạch lên trời xanh để viết ?”.
“Tiếng Thờ Dài Của Thánh” ấy xem chừng như cũng trong chiều hướng như 1 triết gia Trung Hoa thời Chiến Quốc, là Trang Tử, than rằng “ Mắt phải nhìn thấy những điều không muốn nhìn, tai phải nghe thấy những điều không muốn nghe, sao không khỏi khốn cùng ?”; cũng tựa như Uy viễn Tướng Công Nguyễn Công Trứ thuở hàn vi từng chứng kiến cảnh “Nghe như chọc ruột tai làm điếc, giận dẫu căm gan miệng mĩm cười”.
“những người dân thấy đúng hay sai cũng không có phiên toà nào giải quyết cho họ. Công lý ở đâu ? Pháp luật ở đâu ? Phải chăng nỗi bi phẫn đó chỉ có thể vạch lên trời xanh để viết ?”.
Người Nổi Tiếng
Nhưng, thưa qúy vị, blogger Bùi Minh Quốc lại khẳng định rằng lần này “con kiến đã bắt đầu không cam chịu thân phận con kiến nữa”.
Qua bài “Cù Huy Hà Vũ và Mặt Trận Pháp Lý”, blogger Bùi Minh Quốc nhận xét:
Với việc phát đơn kiện Thủ tướng – người đứng đầu hệ thống hành pháp – luật gia Cù Huy Hà Vũ đã chủ động tấn công vào cái bản chất kinh niên của một hệ thống nói một đằng làm một nẻo, kiên quyết đòi nhà chức trách phải tuân thủ nguyên tắc “mọi công dân bình đẳng trước pháp luật” đã ghi trong Hiến pháp, bất cứ ai, hễ vi phạm pháp luật thì dù là Thủ tướng, cũng phải bị kiện, cũng phải ra tòa. Tôi nghĩ Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ thừa hiểu biết và đủ trải nghiệm để lường trước rằng vụ kiện này sẽ còn lâu mới tới hồi kết.
Và anh cũng biết rõ tình trạng nói một đằng làm một nẻo bấy lâu vừa là một căn bệnh lại vừa là một thủ đọan đường cùng của cái thế lực quen chà đạp công lý, chuyên dùng để che đậy và ghì giữ bạo quyền lại chính là chỗ yếu chí tử của nó. Bấy lâu nó vẫn đinh ninh rằng có thể duy trì muôn năm lối hành xử “nói dzậy mà không phải dzậy”, thì nay dù cố lì lợm tự bưng tai bịt mắt đến mấy cũng không thể không thấy một tình hình mới này:
Với việc phát đơn kiện Thủ tướng – người đứng đầu hệ thống hành pháp – luật gia Cù Huy Hà Vũ đã chủ động tấn công vào cái bản chất kinh niên của một hệ thống nói một đằng làm một nẻo, kiên quyết đòi nhà chức trách phải tuân thủ nguyên tắc
Bùi Minh Quốc
con kiến đã bắt đầu không cam chịu thân phận con kiến nữa! Và thực ra đâu phải con kiến, đây là một con người. Khi đã có một con người không cam chịu thân phận con kiến nữa thì sẽ có ba người không cam chịu. Ba sẽ thành chín, chín sẽ thành tám mốt, cứ thế tự nhân lên, một thành mười, mười thành trăm, trăm thành nghìn, nghìn thành triệu, đấy là sức mạnh tự nhân lên tự lan tỏa của lẽ phải,của ý chí kiên quyết tự mình đứng lên giành lấy tự do và công lý.
Giọt nước tràn ly
Giữa lúc ngày càng có nhiều thỉnh nguyện thư của những người quen biết và không quen biết TS Cù Huy Hà Vũ được gởi tới giới lãnh đạo Đảng và Nhà nước VN, Toà Án Nhân dân TP Hà Nội cùng các cơ quan liên hệ yêu cầu giải oan và trả tự do tức khắc cho TS Hà Vũ, thì nhiều trang mạng nhật ký, kể cả blog Nguyễn Trọng Tạo, blog Dân chủ-Nhân quyền Cho VN, cũng phổ biến “Đơn Xin Trả Tự Do Cho Ông Cù Huy Hà Vũ”, qua đó tác giả là cựu chiến binh Nguyễn Tường Thuỵ, khẳng định:
Ông Cù Huy Hà Vũ là một người yêu nước, yêu dân tộc. Những bài viết hoặc trả lời phỏng vấn của ông đều xuất phát từ tình yêu Tổ quốc, yêu dân tộc và đầy trách nhiệm đối với vận mệnh của non sông đất nước. Qua những bài viết của ông và những gì ông làm, nhiều người đã hiểu thêm được quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân mà pháp luật qui định, hiểu như thế nào là sống và làm việc theo pháp luật. Ông đã có những việc làm rất hữu ích trong tiến trình xây dựng một chế độ pháp trị mà không phải bất cứ công dân nào cũng có được tinh thần và hiểu biết ấy. Về “tội” của ông, chẳng qua ông đã nói ra những điều mà nhiều người khác nghĩ tới nhưng vì lý do nào đó mà không (hoặc chưa) lên tiếng mà thôi.
Ông Cù Huy Hà Vũ là một người yêu nước, yêu dân tộc. Những bài viết hoặc trả lời phỏng vấn của ông đều xuất phát từ tình yêu Tổ quốc, yêu dân tộc và đầy trách nhiệm đối với vận mệnh của non sông đất nước.
Nguyễn Tường Thuỵ
Qua Blog Dân chủ-Nhân quyền cho VN, tác giả Hà Thạch có cái nhìn “giọt nước tràn ly” khi TS Cù Huy Hà Vũ sẵn sàng tham gia vụ án Cồn Dầu trước đây khiến giới cầm quyền VN lo sợ có 1 sự liên kết giữa nhà trí thức Cù Huy Hà Vũ – cố vấn luật cho Nhóm Bôxit VN – với giới công giáo.
Tác giả Hà Thạch từng “ theo dõi bước chân của Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ trong cuộc đấu tranh cho công bằng xã hội, cho an ninh quốc phòng, cho môi trường xã hội trong sạch hơn; từ những lá đơn ông kiện Thủ tướng liên quan tới vụ bôxit, cho tới các bài trả lời phỏng vấn của ông với các hãng thông tấn quốc tế, với việc ông không tham gia bất kỳ đảng phái nào, chính quyền Hà Nội, dù bực tức, nhưng cũng ngậm bồ hòn làm ngọt, bởi nếu bắt ông sẽ chẳng có lợi gì cho chế độ”. Nhưng, tác giả khẳng định:
Có thể nói rằng tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ bị bắt và bị cáo buộc oan, một phần là do những phản kháng đúng đắn, hợp pháp của ông trước hiện tượng bán nước, “rước voi giày mả tổ”, tàn phá môi trường, đe dọa an ninh quốc gia của giới lãnh đạo chóp bu của đảng cộng sản, một phần là do ông đã can đảm đứng về phía những người nghèo cùng khổ, những dân oan, nhất là đã can đảm đứng về phía những người Công giáo đang quyết tâm đòi lại những quyền lợi chính đáng của họ.
không những nhóm được nhà nước CHXHCNVN gọi là ‘các thế lực thù nghịch’ lên tiếng bênh vực TS Cù Huy Hà Vũ, mà ngay cả nhiều thành phần dân chúng trong nước cũng cảm thông và muốn bênh vực cho ông. Rất nhiều người, kể cả đảng viên, quan chức đã gọi điện, gửi thư, đơn đến Văn Phòng Luật CHHV khẳng định ông hoàn toàn vô tội, và bênh vực ông.
Người Buôn Gió
Trong khi đó, blogger Người Buôn Gió cũng lưu ý rằng không những nhóm được nhà nước CHXHCNVN gọi là ‘các thế lực thù nghịch’ lên tiếng bênh vực TS Cù Huy Hà Vũ, mà ngay cả nhiều thành phần dân chúng trong nước cũng cảm thông và muốn bênh vực cho ông. Rất nhiều người, kể cả đảng viên, quan chức đã gọi điện, gửi thư, đơn đến Văn Phòng Luật CHHV khẳng định ông hoàn toàn vô tội, và bênh vực ông. Blogger Người Buôn Gió “có thể thấy rõ hành động của ông mang đậm một tinh thần yêu nước, xuất phát từ một công dân có trách nhiệm với dân tộc và tổ quốc”. Blogger Người Buôn Gió cho biết:
Blogger Người Buôn Gió: Anh Cù Huy Hà Vũ chỉ phát biểu những gì trên tinh thần lợi ích của dân tộc và đất nước, phát biểu 1 cách thắng thắn, hoàn toàn không có 1 tý tội danh nào cả. Mà việc làm vì lợi ích cho dân tộc, đất nước của anh ấy rất đáng hoan nghênh.
Blogger Người Buôn gió nhân tiện cảnh báo rằng “Nếu CHHV nhận bản án nhiều năm, thì đây là những hạt giống cho một cuộc thay đổi thực sự trong thời gian không xa mà chính những người tuyên án đã gieo mầm. Không những thế, sự bất bình với lẽ công bằng của xã hội sẽ còn lan rộng tới ngay cả những hàng ngũ những người mà ta quen gọi là gia đình cách mạng hay những người ít nhiều đã đóng góp cho chế độ này”.
Qua Blog Dân Làm Báo, tác giả Người Đức Thọ viết “Thư Gởi TS Cù Huy Hà Vũ”, tâm sự rằng:
Anh có “ra sao” đi nữa, cái tinh thần Cù Huy Hà Vũ vẫn còn đó; không ai lấy đi được vì nó đã hòa vào con tim của 85 triệu đồng bào. Anh đã nói, anh đã đòi những điều Dân Việt hôm nay muốn nói, muốn đòi nhưng không thể nói, không dám đòi. Nhiệm vụ Anh đã hoàn thành.
Dân làm báo
Người ta sẽ điệu anh đứng trước vành móng ngựa của cái gọi là Toà Án Nhân Dân. Dư luận trong và ngoài nước, theo tôi, phần đông đang chờ xem không phải công lý, nhưng chờ xem thêm một trò hề của hệ thống tư pháp xã hội chủ nghĩa tự bêu “dân chủ gấp triệu lần”. Vì vậy ở đây, tôi không cầu gì cho anh được “đèn trời soi xét”.
…Tôi cũng sẽ chẳng ngạc nhiên nếu như khi xem tin của báo đảng và nhà nước, thấy những loạt bài viết về Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ nhận tội và xin toà án khoan hồng.
Với mưu ma cũng phải chào, trước quỷ cũng chịu thua, mọi chuyện dưới chế độ đương hành (dân) không có việc gì mà không thể xảy ra cho anh; đàng khác, dân gian từ xưa đã chẳng có câu “anh hùng lúc sa cơ” rồi đó sao…Giá như Anh có “ra sao” đi nữa, cái tinh thần Cù Huy Hà Vũ vẫn còn đó; không ai lấy đi được vì nó đã hòa vào con tim của 85 triệu đồng bào. Anh đã nói, anh đã đòi những điều Dân Việt hôm nay muốn nói, muốn đòi nhưng không thể nói, không dám đòi. Nhiệm vụ Anh đã hoàn thành.
Qua bài “Vì sao tôi gọi Cù Huy Hà Vũ là anh hùng?”, Blogger Hà Sĩ Phu trích dẫn lời Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh rằng “Những băn khoăn, những ưu tư của Vũ cũng là những băn khoăn và ưu tư của mọi người. Mọi người đều nghĩ, còn Vũ thì đã nói ra được những điều đó. Vũ không nói, thì người khác cũng nói. Vì đó là những điều hiện thời mọi người lo lắng cho đất nước”. Theo Blogger Hà Sĩ Phu, “Cầm tù một người nói lên tiếng nói chung của đất nước thì khác nào cầm tù chính đất nước”.
Blogger Hà Sĩ Phu cũng trích lời Luật sư Trần Đình Triển “… cho rằng lịch sử rồi sẽ xét để khẳng định rằng anh Vũ đúng…”. Và TS Hà Sĩ Phu kết luận là “ Trong tương lai chân lý sẽ thuộc về những người như Cù Huy Hà Vũ, thì giam giữ anh chính là giam giữ tương lai”.
Cảm ơn qúy vị vừa theo dõi Mục Điểm Blog hôm nay. Xin hẹn quý vị tuần sau.
Thanh Quang, phóng viên RFA
Hôm thứ hai ngày 21 tháng Ba vừa rồi, Toà Án Nhân Dân Hà Nội thông báo phiên toà xử TS Luật Cù Huy Hà Vũ về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCNVN” dự kiến vào ngày 24 tháng này sẽ được hoãn tới tháng sau
Theo giới truyền thông trong nước cho biết phiên xử sẽ diễn ra vào mùng 4 tháng tư. Giới hữu trách không giải thích lý do dời thời điểm xét xử.
Tiếng Thở Dài Của Thánh
Cũng hôm thứ Hai, Blogger Người Buôn Gió vừa từ nhà ông Cù Huy Hà Vũ trở về cho biết:
Blogger Người Buôn Gió: Tại nhà anh Cù Huy Hà Vũ và Chị Nguyễn Thị Dương Hà có rất nhiều người mang hoa đến tặng. Trên 1 trong những lẵng hoa ấy có đề chữ “Tổ Quốc và Nhân dân ở bên cạnh anh chị”. Thì công an kéo đến rất đông, bảo rằng những chữ ấy phản cảm, và đề nghị cất đi không thì họ tịch thu. Nhưng chị Dương Hà – vợ anh Hà Vũ – đáp là tịch thu thì phải lập biên bản. Công an nói là không cần lập biên bản gì cả. Rồi hộ xông vào bê hết các lẵng hoa ấy mang đi luôn.
Trong khi đó, có lẽ cảm xúc trước tình cảnh oan khiên của TS Cù Huy Hà Vũ nói riêng và dân oan nói chung, Blogger Người Nổi Tiếng thấy “ngậm ngùi thân phận con người dường như ở vào 1 bước đường cùng, không có 1 lối thoát, như thân phận con kiến trong câu ca dao thuở nào:
Con kiến mà leo cành đa,
Leo phải cành cụt leo ra leo vào.
Con kiến leo phải cành đào,
Leo phải cành cụt leo vào leo ra”.
Qua bài tựa đề “Tiếng Thở Dài Của Thánh”, Blogger Người Nổi Tiếng tâm sự tiếp rằng “những người dân thấy đúng hay sai cũng không có phiên toà nào giải quyết cho họ. Công lý ở đâu ? Pháp luật ở đâu ? Phải chăng nỗi bi phẫn đó chỉ có thể vạch lên trời xanh để viết ?”.
“Tiếng Thờ Dài Của Thánh” ấy xem chừng như cũng trong chiều hướng như 1 triết gia Trung Hoa thời Chiến Quốc, là Trang Tử, than rằng “ Mắt phải nhìn thấy những điều không muốn nhìn, tai phải nghe thấy những điều không muốn nghe, sao không khỏi khốn cùng ?”; cũng tựa như Uy viễn Tướng Công Nguyễn Công Trứ thuở hàn vi từng chứng kiến cảnh “Nghe như chọc ruột tai làm điếc, giận dẫu căm gan miệng mĩm cười”.
“những người dân thấy đúng hay sai cũng không có phiên toà nào giải quyết cho họ. Công lý ở đâu ? Pháp luật ở đâu ? Phải chăng nỗi bi phẫn đó chỉ có thể vạch lên trời xanh để viết ?”.
Người Nổi Tiếng
Nhưng, thưa qúy vị, blogger Bùi Minh Quốc lại khẳng định rằng lần này “con kiến đã bắt đầu không cam chịu thân phận con kiến nữa”.
Qua bài “Cù Huy Hà Vũ và Mặt Trận Pháp Lý”, blogger Bùi Minh Quốc nhận xét:
Với việc phát đơn kiện Thủ tướng – người đứng đầu hệ thống hành pháp – luật gia Cù Huy Hà Vũ đã chủ động tấn công vào cái bản chất kinh niên của một hệ thống nói một đằng làm một nẻo, kiên quyết đòi nhà chức trách phải tuân thủ nguyên tắc “mọi công dân bình đẳng trước pháp luật” đã ghi trong Hiến pháp, bất cứ ai, hễ vi phạm pháp luật thì dù là Thủ tướng, cũng phải bị kiện, cũng phải ra tòa. Tôi nghĩ Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ thừa hiểu biết và đủ trải nghiệm để lường trước rằng vụ kiện này sẽ còn lâu mới tới hồi kết.
Và anh cũng biết rõ tình trạng nói một đằng làm một nẻo bấy lâu vừa là một căn bệnh lại vừa là một thủ đọan đường cùng của cái thế lực quen chà đạp công lý, chuyên dùng để che đậy và ghì giữ bạo quyền lại chính là chỗ yếu chí tử của nó. Bấy lâu nó vẫn đinh ninh rằng có thể duy trì muôn năm lối hành xử “nói dzậy mà không phải dzậy”, thì nay dù cố lì lợm tự bưng tai bịt mắt đến mấy cũng không thể không thấy một tình hình mới này:
Với việc phát đơn kiện Thủ tướng – người đứng đầu hệ thống hành pháp – luật gia Cù Huy Hà Vũ đã chủ động tấn công vào cái bản chất kinh niên của một hệ thống nói một đằng làm một nẻo, kiên quyết đòi nhà chức trách phải tuân thủ nguyên tắc
Bùi Minh Quốc
con kiến đã bắt đầu không cam chịu thân phận con kiến nữa! Và thực ra đâu phải con kiến, đây là một con người. Khi đã có một con người không cam chịu thân phận con kiến nữa thì sẽ có ba người không cam chịu. Ba sẽ thành chín, chín sẽ thành tám mốt, cứ thế tự nhân lên, một thành mười, mười thành trăm, trăm thành nghìn, nghìn thành triệu, đấy là sức mạnh tự nhân lên tự lan tỏa của lẽ phải,của ý chí kiên quyết tự mình đứng lên giành lấy tự do và công lý.
Giọt nước tràn ly
Giữa lúc ngày càng có nhiều thỉnh nguyện thư của những người quen biết và không quen biết TS Cù Huy Hà Vũ được gởi tới giới lãnh đạo Đảng và Nhà nước VN, Toà Án Nhân dân TP Hà Nội cùng các cơ quan liên hệ yêu cầu giải oan và trả tự do tức khắc cho TS Hà Vũ, thì nhiều trang mạng nhật ký, kể cả blog Nguyễn Trọng Tạo, blog Dân chủ-Nhân quyền Cho VN, cũng phổ biến “Đơn Xin Trả Tự Do Cho Ông Cù Huy Hà Vũ”, qua đó tác giả là cựu chiến binh Nguyễn Tường Thuỵ, khẳng định:
Ông Cù Huy Hà Vũ là một người yêu nước, yêu dân tộc. Những bài viết hoặc trả lời phỏng vấn của ông đều xuất phát từ tình yêu Tổ quốc, yêu dân tộc và đầy trách nhiệm đối với vận mệnh của non sông đất nước. Qua những bài viết của ông và những gì ông làm, nhiều người đã hiểu thêm được quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân mà pháp luật qui định, hiểu như thế nào là sống và làm việc theo pháp luật. Ông đã có những việc làm rất hữu ích trong tiến trình xây dựng một chế độ pháp trị mà không phải bất cứ công dân nào cũng có được tinh thần và hiểu biết ấy. Về “tội” của ông, chẳng qua ông đã nói ra những điều mà nhiều người khác nghĩ tới nhưng vì lý do nào đó mà không (hoặc chưa) lên tiếng mà thôi.
Ông Cù Huy Hà Vũ là một người yêu nước, yêu dân tộc. Những bài viết hoặc trả lời phỏng vấn của ông đều xuất phát từ tình yêu Tổ quốc, yêu dân tộc và đầy trách nhiệm đối với vận mệnh của non sông đất nước.
Nguyễn Tường Thuỵ
Qua Blog Dân chủ-Nhân quyền cho VN, tác giả Hà Thạch có cái nhìn “giọt nước tràn ly” khi TS Cù Huy Hà Vũ sẵn sàng tham gia vụ án Cồn Dầu trước đây khiến giới cầm quyền VN lo sợ có 1 sự liên kết giữa nhà trí thức Cù Huy Hà Vũ – cố vấn luật cho Nhóm Bôxit VN – với giới công giáo.
Tác giả Hà Thạch từng “ theo dõi bước chân của Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ trong cuộc đấu tranh cho công bằng xã hội, cho an ninh quốc phòng, cho môi trường xã hội trong sạch hơn; từ những lá đơn ông kiện Thủ tướng liên quan tới vụ bôxit, cho tới các bài trả lời phỏng vấn của ông với các hãng thông tấn quốc tế, với việc ông không tham gia bất kỳ đảng phái nào, chính quyền Hà Nội, dù bực tức, nhưng cũng ngậm bồ hòn làm ngọt, bởi nếu bắt ông sẽ chẳng có lợi gì cho chế độ”. Nhưng, tác giả khẳng định:
Có thể nói rằng tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ bị bắt và bị cáo buộc oan, một phần là do những phản kháng đúng đắn, hợp pháp của ông trước hiện tượng bán nước, “rước voi giày mả tổ”, tàn phá môi trường, đe dọa an ninh quốc gia của giới lãnh đạo chóp bu của đảng cộng sản, một phần là do ông đã can đảm đứng về phía những người nghèo cùng khổ, những dân oan, nhất là đã can đảm đứng về phía những người Công giáo đang quyết tâm đòi lại những quyền lợi chính đáng của họ.
không những nhóm được nhà nước CHXHCNVN gọi là ‘các thế lực thù nghịch’ lên tiếng bênh vực TS Cù Huy Hà Vũ, mà ngay cả nhiều thành phần dân chúng trong nước cũng cảm thông và muốn bênh vực cho ông. Rất nhiều người, kể cả đảng viên, quan chức đã gọi điện, gửi thư, đơn đến Văn Phòng Luật CHHV khẳng định ông hoàn toàn vô tội, và bênh vực ông.
Người Buôn Gió
Trong khi đó, blogger Người Buôn Gió cũng lưu ý rằng không những nhóm được nhà nước CHXHCNVN gọi là ‘các thế lực thù nghịch’ lên tiếng bênh vực TS Cù Huy Hà Vũ, mà ngay cả nhiều thành phần dân chúng trong nước cũng cảm thông và muốn bênh vực cho ông. Rất nhiều người, kể cả đảng viên, quan chức đã gọi điện, gửi thư, đơn đến Văn Phòng Luật CHHV khẳng định ông hoàn toàn vô tội, và bênh vực ông. Blogger Người Buôn Gió “có thể thấy rõ hành động của ông mang đậm một tinh thần yêu nước, xuất phát từ một công dân có trách nhiệm với dân tộc và tổ quốc”. Blogger Người Buôn Gió cho biết:
Blogger Người Buôn Gió: Anh Cù Huy Hà Vũ chỉ phát biểu những gì trên tinh thần lợi ích của dân tộc và đất nước, phát biểu 1 cách thắng thắn, hoàn toàn không có 1 tý tội danh nào cả. Mà việc làm vì lợi ích cho dân tộc, đất nước của anh ấy rất đáng hoan nghênh.
Blogger Người Buôn gió nhân tiện cảnh báo rằng “Nếu CHHV nhận bản án nhiều năm, thì đây là những hạt giống cho một cuộc thay đổi thực sự trong thời gian không xa mà chính những người tuyên án đã gieo mầm. Không những thế, sự bất bình với lẽ công bằng của xã hội sẽ còn lan rộng tới ngay cả những hàng ngũ những người mà ta quen gọi là gia đình cách mạng hay những người ít nhiều đã đóng góp cho chế độ này”.
Qua Blog Dân Làm Báo, tác giả Người Đức Thọ viết “Thư Gởi TS Cù Huy Hà Vũ”, tâm sự rằng:
Anh có “ra sao” đi nữa, cái tinh thần Cù Huy Hà Vũ vẫn còn đó; không ai lấy đi được vì nó đã hòa vào con tim của 85 triệu đồng bào. Anh đã nói, anh đã đòi những điều Dân Việt hôm nay muốn nói, muốn đòi nhưng không thể nói, không dám đòi. Nhiệm vụ Anh đã hoàn thành.
Dân làm báo
Người ta sẽ điệu anh đứng trước vành móng ngựa của cái gọi là Toà Án Nhân Dân. Dư luận trong và ngoài nước, theo tôi, phần đông đang chờ xem không phải công lý, nhưng chờ xem thêm một trò hề của hệ thống tư pháp xã hội chủ nghĩa tự bêu “dân chủ gấp triệu lần”. Vì vậy ở đây, tôi không cầu gì cho anh được “đèn trời soi xét”.
…Tôi cũng sẽ chẳng ngạc nhiên nếu như khi xem tin của báo đảng và nhà nước, thấy những loạt bài viết về Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ nhận tội và xin toà án khoan hồng.
Với mưu ma cũng phải chào, trước quỷ cũng chịu thua, mọi chuyện dưới chế độ đương hành (dân) không có việc gì mà không thể xảy ra cho anh; đàng khác, dân gian từ xưa đã chẳng có câu “anh hùng lúc sa cơ” rồi đó sao…Giá như Anh có “ra sao” đi nữa, cái tinh thần Cù Huy Hà Vũ vẫn còn đó; không ai lấy đi được vì nó đã hòa vào con tim của 85 triệu đồng bào. Anh đã nói, anh đã đòi những điều Dân Việt hôm nay muốn nói, muốn đòi nhưng không thể nói, không dám đòi. Nhiệm vụ Anh đã hoàn thành.
Qua bài “Vì sao tôi gọi Cù Huy Hà Vũ là anh hùng?”, Blogger Hà Sĩ Phu trích dẫn lời Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh rằng “Những băn khoăn, những ưu tư của Vũ cũng là những băn khoăn và ưu tư của mọi người. Mọi người đều nghĩ, còn Vũ thì đã nói ra được những điều đó. Vũ không nói, thì người khác cũng nói. Vì đó là những điều hiện thời mọi người lo lắng cho đất nước”. Theo Blogger Hà Sĩ Phu, “Cầm tù một người nói lên tiếng nói chung của đất nước thì khác nào cầm tù chính đất nước”.
Blogger Hà Sĩ Phu cũng trích lời Luật sư Trần Đình Triển “… cho rằng lịch sử rồi sẽ xét để khẳng định rằng anh Vũ đúng…”. Và TS Hà Sĩ Phu kết luận là “ Trong tương lai chân lý sẽ thuộc về những người như Cù Huy Hà Vũ, thì giam giữ anh chính là giam giữ tương lai”.
Cảm ơn qúy vị vừa theo dõi Mục Điểm Blog hôm nay. Xin hẹn quý vị tuần sau.
Thanh Quang, phóng viên RFA
Thích… Tivi
Posted by truongthondlb1
Văn Công Hùng – Mình nhớ có lần gần trăm quan khách và nhà báo đã ngồi nghiêm ngắn trong phòng họp mà cuộc họp vẫn chưa thể bắt đầu, lý do chỉ vì… chưa có nhà đài truyền hình. Mình phải rút máy gọi cho chú quay phim của truyền hình: Anh lạy chú, chú đến đi cho cuộc họp bắt đầu…
Lại có lần cánh tivi đến quá trễ nên cuộc họp cứ phải bắt đầu dù BTC cứ thon thót nhìn ra cửa hội trường. Rồi tivi cũng đến, các quan chức giãn hết mặt ra, vuốt lại cổ áo, đổi tư thế ngồi, và một sự kiện hài hước xuất hiện: Vị quan chức trước đó đã đọc báo cáo rồi được… mời lên đọc lại??? Câu “Phi tivi bất thành hội nghị” nó trở thành châm ngôn cho các nhà tổ chức hội nghị từ trung ương đến địa phương.
Thế nên không lạ mấy hôm nay tivi rất hay chiếu các cảnh các cơ quan trung ương… ủng hộ Nhật Bản. Nhiều ít gì không biết, cứ phải là một cái thùng, trên là phông, và các quan chức thứ tự cầm phong bì lên bỏ vào đó. Có bác còn cẩn thận trước khi bỏ ngó vào ống kính cười cười xem nó có quay mình không, khi biết chắc chắn “nó” đang chĩa vào mình mới an tâm thả phong bì vào thùng.
Nhớ cái hồi Huế lụt lút bum tất cả, chị em tiểu thương chợ Bến Thành tự giác lặng lẽ ôm mấy cái thùng các tông đi từng sạp hàng quyên góp ủng hộ, sau rồi thành phong trào, không cần ôm nữa mà chỉ để ở một chỗ nào đó thế mà tiền ùn ùn đến, cánh truyền hình thấy thế mới đến quay đưa tin.
Thực ra thì cũng cần đưa vài cái tin các bác lãnh đạo quyên góp để dân noi gương, nhưng như thế không có nghĩa là ban ngành nào cũng phải mời tivi đến rồi mới quyên góp. Trung ương thì tivi trung ương, tỉnh thì tivi tỉnh, huyện thì tivi huyện, huhu…
Lại nhớ cái hồi cầu Cần Thơ sập, tình hình nước sôi lửa bỏng, cứu người hơn cứu hỏa. Hà Nội viện trợ cho Cần Thơ cái máy thở để cấp cứu, thế mà họ cũng phải chăng một cái băng rôn, cũng mời tivi… quay cảnh tặng và bắt tay, thay vì chở thẳng nó vào và cho vận hành ngay, lúc quay bắt tay và trao tặng ấy có khi đã mấy người nguy kịch.
Lại có vị lãnh đạo đi kiểm tra lũ lụt, tình hình rất căng, thế mà cũng phải có một câu khẩu hiệu chào mừng ở trên để… quay tivi.
Dân mình hay lắm, có câu: Lên tivi. Hôm qua em mới thấy bác lên Tivi. Hôm nay con em được lên tivi…
Tôi thì gọi đấy là hội chứng thích… tivi. Bên cạnh các vị chân tu khả kính Thích Giác Ngộ, Thích Thiện Tâm (những cái tên tôi vụt nghĩ gắn với Thích)… nay xuất hiện thêm một danh mới: thích… tivi…
Vậy nên cũng thông cảm cho cô Lượm, chắc cũng không thoát khỏi cái… máu thích của dân mình mà dại dột lên tivi để giờ đang bị đòn hội đồng?
Văn Công Hùng
http://vanconghung.blogspot.com/2011/03/thich-tivi.html
Văn Công Hùng – Mình nhớ có lần gần trăm quan khách và nhà báo đã ngồi nghiêm ngắn trong phòng họp mà cuộc họp vẫn chưa thể bắt đầu, lý do chỉ vì… chưa có nhà đài truyền hình. Mình phải rút máy gọi cho chú quay phim của truyền hình: Anh lạy chú, chú đến đi cho cuộc họp bắt đầu…
Lại có lần cánh tivi đến quá trễ nên cuộc họp cứ phải bắt đầu dù BTC cứ thon thót nhìn ra cửa hội trường. Rồi tivi cũng đến, các quan chức giãn hết mặt ra, vuốt lại cổ áo, đổi tư thế ngồi, và một sự kiện hài hước xuất hiện: Vị quan chức trước đó đã đọc báo cáo rồi được… mời lên đọc lại??? Câu “Phi tivi bất thành hội nghị” nó trở thành châm ngôn cho các nhà tổ chức hội nghị từ trung ương đến địa phương.
Thế nên không lạ mấy hôm nay tivi rất hay chiếu các cảnh các cơ quan trung ương… ủng hộ Nhật Bản. Nhiều ít gì không biết, cứ phải là một cái thùng, trên là phông, và các quan chức thứ tự cầm phong bì lên bỏ vào đó. Có bác còn cẩn thận trước khi bỏ ngó vào ống kính cười cười xem nó có quay mình không, khi biết chắc chắn “nó” đang chĩa vào mình mới an tâm thả phong bì vào thùng.
Nhớ cái hồi Huế lụt lút bum tất cả, chị em tiểu thương chợ Bến Thành tự giác lặng lẽ ôm mấy cái thùng các tông đi từng sạp hàng quyên góp ủng hộ, sau rồi thành phong trào, không cần ôm nữa mà chỉ để ở một chỗ nào đó thế mà tiền ùn ùn đến, cánh truyền hình thấy thế mới đến quay đưa tin.
Thực ra thì cũng cần đưa vài cái tin các bác lãnh đạo quyên góp để dân noi gương, nhưng như thế không có nghĩa là ban ngành nào cũng phải mời tivi đến rồi mới quyên góp. Trung ương thì tivi trung ương, tỉnh thì tivi tỉnh, huyện thì tivi huyện, huhu…
Lại nhớ cái hồi cầu Cần Thơ sập, tình hình nước sôi lửa bỏng, cứu người hơn cứu hỏa. Hà Nội viện trợ cho Cần Thơ cái máy thở để cấp cứu, thế mà họ cũng phải chăng một cái băng rôn, cũng mời tivi… quay cảnh tặng và bắt tay, thay vì chở thẳng nó vào và cho vận hành ngay, lúc quay bắt tay và trao tặng ấy có khi đã mấy người nguy kịch.
Lại có vị lãnh đạo đi kiểm tra lũ lụt, tình hình rất căng, thế mà cũng phải có một câu khẩu hiệu chào mừng ở trên để… quay tivi.
Dân mình hay lắm, có câu: Lên tivi. Hôm qua em mới thấy bác lên Tivi. Hôm nay con em được lên tivi…
Tôi thì gọi đấy là hội chứng thích… tivi. Bên cạnh các vị chân tu khả kính Thích Giác Ngộ, Thích Thiện Tâm (những cái tên tôi vụt nghĩ gắn với Thích)… nay xuất hiện thêm một danh mới: thích… tivi…
Vậy nên cũng thông cảm cho cô Lượm, chắc cũng không thoát khỏi cái… máu thích của dân mình mà dại dột lên tivi để giờ đang bị đòn hội đồng?
Văn Công Hùng
http://vanconghung.blogspot.com/2011/03/thich-tivi.html
Đảng đã làm gì cho ta
Poste by truongthondlb1
Người Yêu Nước – Hiện nay có rất nhiều người phản động hoặc là bất bình với nhà nước đã ra sức nói xấu bôi nhọ đảng cộng sản vĩ đại của chúng ta. Họ đã lợi dụng những điểm chưa tốt để ra sức nói xấu mà những mặt tốt thì không bao giờ nói đến. Sau đây tôi xin nói tới những thành tựu mà đảng cộng sản của chúng ta đã làm được cho dân chúng Việt Nam.
1. Đưa con gái Việt Nam thành 1 biểu tượng trên toàn thế giới với phương châm đưa con gái Việt Nam đến tận giường của bạn : bây giờ con gái Việt Nam đã trở thành mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam sang các nước như Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ ..v.v. với ưu thế hàng ngon bổ rẻ, chẳng thế mà có anh nông dân Trung Quốc sang đây mất có tí tiền mà được vợ như ý khoe ầm ầm lên đấy à. Mặt hàng này hồi trước xuất khẩu chủ yếu cho anh hai ở bển về nhưng hiện nay giá cả đã cạnh tranh nên đã đến tay những người nông dân nghèo khó ở các nước láng giềng. Tiếp theo con gái Việt Nam ở nước ngoài bây giờ sang nước ngoài làm nghề vui lòng khách đến vừa lòng khach đi đang rất hot và giá cả luôn đứng đầu top so với chị em nước khác cùng làm nghề này ( vì ưu điểm trắng xinh nhiệt tình chịu thương chịu khó ). Nói chung con gái Việt Nam bây giờ đã trở thành 1 biểu tượng toàn cầu hóa
2. Xuất khẩu lao động : Lao động Việt Nam bây giờ đã xuất khẩu sang rất nhiều nước và được các doanh nghiệp trên toàn thế giới tin tưởng vì tính cần cù chịu khó và quan trọng nhất là lương cực thấp mà năng suất lao động không thua kém gì đồng nghiệp bên nước bạn. Lao động Việt Nam rất yêu nghề chẳng thế mà nhiều người làm việc lương không đủ sống vẫn hết lòng ca ngợi công ơn của đảng và chính phủ đó à. Nhờ có đảng và chính phủ mà chúng ta đã đào tạo được những con người làm việc luôn có tinh thần lao động là vinh quang, hết lòng vì công việc, đặc biệt tiền lương không đòi hoit
3. Còn về cuộc sống tinh thần đảng đã cho chúng ta 1 cuộc sống tinh thần dồi dào phong phú thậm chí còn có thể nói là bội thực để giảm stress sau những ngày lao động cực nhọc vất vả. Đấy chúng ta có thể nói những cuộc thi hoa hậu, siêu mẫu, miss teen để chúng ta có thể ngắm nhìn no nê những chân dài miên man, những bộ ngực khủng bố mà muốn ngắm bình thường chúng ta phải mất rất nhiều tiền đến những quán bar, vũ trường. Rồi đến lễ hội hoa, lễ hội ẩm thực, 1000 năm Thăng Long Hà nội người ta chen nhau gẫy cả chân mà đi xem đấy thôi, mấy ông phản động cứ rêu ra là tốn tiền mà không hiểu rằng tiền không thành vấn đề vấn đề là phải vui. Ca nhạc thì sáng tác những bài hát cách mạng yêu nước để cho dân chúng yêu nước nhiều hơn đâu cứ như mấy bọn nước ngoài không được dạy suốt ngày ra rả nói xấu tổ quốc chưa làm gì mà đã đòi hưởng thụ
4. Đào tạo những con người văn võ toàn tài
_ Về văn : đấy bây giờ ra ngoài đường, lên trên mạng trên các forum thấy người Việt Nam chúng ta chửi nhau ầm ầm từ ngữ vô cùng phong phú không được dạy văn giỏi mà chửi được như thế à
_ Về võ : clip võ thuật của chúng ta xuất hiện ầm ầm trên mạng thậm chí chị em phụ nữ chiếm chủ yếu nha toàn những phim nổi tiếng như nữ sinh lào cai đánh nhau lột áo, đánh nhau xé áo có thua gì phim chưởng của china đâu. Học võ giỏi thì phải có thực hành chứ
5. Hóa học : môn này chúng ta cực giỏi nha không cần phải bằng cấp này, bằng cấp nọ chúng ta vẫn sáng chế được chất bảo quản để cho thức ăn tươi lâu ngoài chợ bán đầy kia kìa hết phở hooc môn rồi lại chất bảo quản thịt, thuốc trừ sâu ..v.v. Thế mà bọn nước ngoài chẳng cho cái giải nobel gì đúng là bọn này mù hết rồi
*
Kết luận : Mấy bố cứ cho là mình giỏi chê đảng thế này thế nọ mà không biết rằng hiện nay dân ta vẫn hăng say lao động làm cho đất nước ngày càng giầu mạnh sánh vai các cường quốc năm châu ( sánh vai được chưa ý nhỉ ). Đảng xấu xa thế này thế nọ mà mọi người vẫn luôn cười tươi nhờ ơn đảng ơn chính phủ đấy à.Nói chung theo tôi đảng là number one và tôi vẫn luôn luôn tin tưởng tự hào vì những gì đảng đã làm cho chúng ta.
Người Yêu Nước
http://vn.360plus.yahoo.com/nguoiyeunuoc1986/article?mid=8
Người Yêu Nước – Hiện nay có rất nhiều người phản động hoặc là bất bình với nhà nước đã ra sức nói xấu bôi nhọ đảng cộng sản vĩ đại của chúng ta. Họ đã lợi dụng những điểm chưa tốt để ra sức nói xấu mà những mặt tốt thì không bao giờ nói đến. Sau đây tôi xin nói tới những thành tựu mà đảng cộng sản của chúng ta đã làm được cho dân chúng Việt Nam.
1. Đưa con gái Việt Nam thành 1 biểu tượng trên toàn thế giới với phương châm đưa con gái Việt Nam đến tận giường của bạn : bây giờ con gái Việt Nam đã trở thành mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam sang các nước như Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ ..v.v. với ưu thế hàng ngon bổ rẻ, chẳng thế mà có anh nông dân Trung Quốc sang đây mất có tí tiền mà được vợ như ý khoe ầm ầm lên đấy à. Mặt hàng này hồi trước xuất khẩu chủ yếu cho anh hai ở bển về nhưng hiện nay giá cả đã cạnh tranh nên đã đến tay những người nông dân nghèo khó ở các nước láng giềng. Tiếp theo con gái Việt Nam ở nước ngoài bây giờ sang nước ngoài làm nghề vui lòng khách đến vừa lòng khach đi đang rất hot và giá cả luôn đứng đầu top so với chị em nước khác cùng làm nghề này ( vì ưu điểm trắng xinh nhiệt tình chịu thương chịu khó ). Nói chung con gái Việt Nam bây giờ đã trở thành 1 biểu tượng toàn cầu hóa
2. Xuất khẩu lao động : Lao động Việt Nam bây giờ đã xuất khẩu sang rất nhiều nước và được các doanh nghiệp trên toàn thế giới tin tưởng vì tính cần cù chịu khó và quan trọng nhất là lương cực thấp mà năng suất lao động không thua kém gì đồng nghiệp bên nước bạn. Lao động Việt Nam rất yêu nghề chẳng thế mà nhiều người làm việc lương không đủ sống vẫn hết lòng ca ngợi công ơn của đảng và chính phủ đó à. Nhờ có đảng và chính phủ mà chúng ta đã đào tạo được những con người làm việc luôn có tinh thần lao động là vinh quang, hết lòng vì công việc, đặc biệt tiền lương không đòi hoit
3. Còn về cuộc sống tinh thần đảng đã cho chúng ta 1 cuộc sống tinh thần dồi dào phong phú thậm chí còn có thể nói là bội thực để giảm stress sau những ngày lao động cực nhọc vất vả. Đấy chúng ta có thể nói những cuộc thi hoa hậu, siêu mẫu, miss teen để chúng ta có thể ngắm nhìn no nê những chân dài miên man, những bộ ngực khủng bố mà muốn ngắm bình thường chúng ta phải mất rất nhiều tiền đến những quán bar, vũ trường. Rồi đến lễ hội hoa, lễ hội ẩm thực, 1000 năm Thăng Long Hà nội người ta chen nhau gẫy cả chân mà đi xem đấy thôi, mấy ông phản động cứ rêu ra là tốn tiền mà không hiểu rằng tiền không thành vấn đề vấn đề là phải vui. Ca nhạc thì sáng tác những bài hát cách mạng yêu nước để cho dân chúng yêu nước nhiều hơn đâu cứ như mấy bọn nước ngoài không được dạy suốt ngày ra rả nói xấu tổ quốc chưa làm gì mà đã đòi hưởng thụ
4. Đào tạo những con người văn võ toàn tài
_ Về văn : đấy bây giờ ra ngoài đường, lên trên mạng trên các forum thấy người Việt Nam chúng ta chửi nhau ầm ầm từ ngữ vô cùng phong phú không được dạy văn giỏi mà chửi được như thế à
_ Về võ : clip võ thuật của chúng ta xuất hiện ầm ầm trên mạng thậm chí chị em phụ nữ chiếm chủ yếu nha toàn những phim nổi tiếng như nữ sinh lào cai đánh nhau lột áo, đánh nhau xé áo có thua gì phim chưởng của china đâu. Học võ giỏi thì phải có thực hành chứ
5. Hóa học : môn này chúng ta cực giỏi nha không cần phải bằng cấp này, bằng cấp nọ chúng ta vẫn sáng chế được chất bảo quản để cho thức ăn tươi lâu ngoài chợ bán đầy kia kìa hết phở hooc môn rồi lại chất bảo quản thịt, thuốc trừ sâu ..v.v. Thế mà bọn nước ngoài chẳng cho cái giải nobel gì đúng là bọn này mù hết rồi
*
Kết luận : Mấy bố cứ cho là mình giỏi chê đảng thế này thế nọ mà không biết rằng hiện nay dân ta vẫn hăng say lao động làm cho đất nước ngày càng giầu mạnh sánh vai các cường quốc năm châu ( sánh vai được chưa ý nhỉ ). Đảng xấu xa thế này thế nọ mà mọi người vẫn luôn cười tươi nhờ ơn đảng ơn chính phủ đấy à.Nói chung theo tôi đảng là number one và tôi vẫn luôn luôn tin tưởng tự hào vì những gì đảng đã làm cho chúng ta.
Người Yêu Nước
http://vn.360plus.yahoo.com/nguoiyeunuoc1986/article?mid=8
Nổi dậy là tất yếu, nhưng bao giờ?
Posted by truongthondlb1
Chúng ta có thể khẳng định rằng bất cứ một người Việt Nam nào – ngoại trừ những người cộng sản đang nắm quyền và đang trục lợi – đều muốn lật đổ chế độ độc tài toàn trị phi nhân, vô đạo đức đang dày xéo nhân dân ta. Nói rộng ra hơn, ngay cả đảng viên cộng sản nào mà còn có lương tri đều không hài lòng với sự bất công quá khủng khiếp, tham nhũng quá trắng trợn cũng muốn hạ bệ tập đoàn cầm quyền này. Bởi vì, nếu tình trạng này kéo dài thì tương lai con cái của đảng viên sẽ bị tác hại.
Đứng trên phương diện quy luật mà nói, nơi nào có áp bức; nơi đó có nổi dậy. Nơi nào có căm thù, nơi đó có đấu tranh. Ngay như con giun là sinh vật mềm nhũn không có một thứ khí giới gì để tự vệ mà khi bị xéo quá cũng quằn. Sách xưa dạy: “Thuận Thiên khả tồn; nghịch thiên khả vong” (hợp với lòng Trời thì còn; nghịch với lòng Trời thì mất. Lòng Trời tức là lòng dân). Lịch sử loài người chưa hề ghi lại một triều đại suy đồi nào, một thể chế bất nhân tàn ác nào có thể muôn năm trường trị. Vì vậy, căn cứ trên quy luật, lời dạy của người xưa và sự kiện lịch sử, nếu bị áp bức, tất nhiên quần chúng sẽ nổi dậy vì bản năng sinh tồn. Việt Nam sẽ không thể đi ra ngoài định luật đó. Nổi dậy là tất yếu.
Nếu so sánh sự đàn áp, khủng bố của nền độc tài tại các quốc gia Hồi giáo vùng Trung Đông với chính sách cai trị tàn ác độc địa của cộng sản Việt Nam trong cải cách ruộng đất, trong vụ Nhân văn Giai Phẩm, Xét lại chống đảng, giết lương dân trong Tết Mậu Thân 1968, đánh tư sản mại bản sau ngày “giải phóng”, đày dân lên vùng kinh tế mới, tập trung cải tạo quân cán chính Miền Nam, lùa dân ra biển đi tìm tự do, chiếm dụng đất đai dân oan … thì sự ngược đãi của các lãnh đạo Trung Đông chưa thấm thía vào đâu. Tại sao quần chúng các nước Trung Đông nổi dậy lật đổ chế độ độc tài mà nhân dân Việt Nam lại cam chịu sống dưới ách chuyên chính ghê gớm? Tại sao một thanh niên bán hàng rong ở Tunisie phẫn uất vì bị nhân viên an ninh ngược đãi, đã tự thiêu làm bùng lên ngọn lửa đấu tranh, mà ở Việt Nam cũng đã có nhiều người bị đánh đập, bị tra tấn, bị bỏ mạng nơi lao tù, có người phẫn uất tự thiêu mà dân chúng cứ an nhiên sinh hoạt bình thường như không hề có điều gì xảy ra?
Karl Marx và Friedrich Engels là hai nhà tư tưởng lập ngôn, lập thuyết viết ra chủ nghĩa cộng sản, có lẽ vì hai ông xúc động trước cảnh cùng khổ của giới công nhân thợ thuyền bị giới chủ nhân tư bản bóc lột. Hai ông hô hào những người lao động bị bóc lột vùng lên đánh đổ bọn tư bản. Marx đánh động lương tri loài người bằng câu nói bất hủ: “Chỉ có loài cầm thú mới quay lưng lại với nỗi khốn cùng của đồng loại để chỉ biết lo chăm sóc cho bộ lông của chúng”. Nhưng nếu không có Lénine đem cái lý thuyết của hai ông tổ cộng sản ra thực hiện thì những tư tưởng cách mạng của hai ông sẽ ngủ yên trong hàng vạn trang sách được lưu trữ trong thư viện. Bằng cớ là sự tiên đoán của Marx rằng cuộc cách mạng cộng sản sẽ xảy ra tại các quốc gia kỹ nghệ tiên tiến mà giới công nhân bị bóc lột, đã không diễn ra. Nhờ tài tổ chức lắm thủ đoạn, Lénine đã cướp được thời cơ giành chính quyền về tay mình tại Nga, một quốc gia chưa phát triển kỹ nghệ, đa số quần chúng nông dân. Vì thế Lénine đã nhắc đi nhắc lại câu nói: “Tổ chức, tổ chức, tổ chức! Không có tổ chức là không có gì cả!” để dạy dỗ cán bộ của mình. Mục tiêu đấu tranh của Lénine là cướp chính quyền để dựng lên chế độ chuyên chính vô sản của Karl Marx. Câu khẩu hiệu: “Cứu cánh biện minh phương tiện” là phương châm hành động phải sử dụng bất cứ thủ đoạn nào dù tàn ác, phi nhân đến đâu để đạt mục tiêu: Cướp Chính Quyền!
Cộng sản Việt Nam là đồ đệ trung thành của Lénine, triệt để vâng theo lời dạy của Lénine để cướp chính quyền. Sở dĩ năm 1945, cộng sản cướp được chính quyền vì cán bộ của họ được rèn luyện các kỹ thuật đấu tranh học được từ Lénine; trong khi các đảng phái quốc gia như Đại Việt, Quốc Dân Đảng, Cao Đài, Hòa Hảo có đông cán bộ hơn nhưng đã bị cộng sản hớt tay trên, vì người quốc gia chỉ được trang bị tấm lòng yêu nước mà không có kỹ thuật và thủ đoạn giành chính quyền. Khi cướp được chính quyền vào trong tay, việc đầu tiên mà người cộng sản thi hành là dùng mọi phương cách triệt tiêu tất cả các tổ chức tôn giáo, văn hóa, xã hội … Tất cả các tổ chức quần chúng đều bị nhốt trong cái gọi là Mặt Trận Tổ Quốc. Bất cứ ai lên tiếng đòi hỏi công bằng, công lý, chứ chưa kể đến thành lập tổ chức, đều bị cộng sản đập tan không thương tiếc, dù người đó là một đảng viên thuần thành có thiện chí góp ý xây dựng Đảng. Trần Độ, Nguyễn Hộ, Hoàng Minh Chính … là thí dụ rõ nhất.
Lénine biết lợi dụng giáo lý của Marx để bành trướng Đế quốc Đỏ cho nước Nga bằng con đường sản xuất cách mạng dưới chiêu bài “giải phóng dân tộc” các quốc gia bị thực dân đô hộ. Mao Trạch Đông học được kỹ thuật đấu tranh của Lénine để xây dựng tổ chức. Nhờ đó, Mao trạch Đông đã thành công giống như xưa kia Tần Thủy Hoàng gồm thâu lục quốc. Mao Trạch Đông được dân Tầu ngưỡng mộ, chiêm bái là vì ông ta đã xóa cho dân Tầu cái nhục bị Tây Phương đối xử như chó. Người Anh từng treo tấm bảng “Cấm Chó và người Tầu” ở nơi dành riêng cho người Anh.
Ông Hồ Chí Minh khi đọc bản đề cương cộng sản của Lénine có chủ trương giải phóng các dân tộc bị trị thì nhảy dựng lên vì sung sướng. Ông Hồ không ý thức rằng chẳng có dân tộc nào thương dân tộc khác. “Giải phóng dân tộc” chỉ là chiêu bài để che dấu một ý đồ bành trướng bất chính, giống như xưa kia Nhà Thanh sang xâm chiếm nước ta thì giương cao khẩu hiệu “Phù Lê Diệt Trịnh” vậy. Tuyên thệ trung thành với đảng quốc tế; kết nghĩa huynh đệ “môi hở rằng lạnh” với ngoại quốc mà mình là nước vừa nhỏ, vừa yếu thì chỉ làm đàn em phục tùng Anh Hai, anh Ba mà thôi!
Ông Hồ dùng máu xương nhân dân Việt Nam để thi hành chủ trương “giải phóng dân tộc” của Lénine, đánh đuổi xong Thực Dân Pháp, liền dựng lên một bộ máy cai trị chuyên chế rập khuôn theo mô hình Nhà Nước của Liên Xô, của Trung Cộng. Dưới bàn tay cai trị của ông Hồ, người dân Việt Nam khốn khổ hơn thời kỳ bị Thực dân Pháp đô hộ gấp triệu lần. Ông Hồ khéo sử dụng những lời dạy của người xưa như: “Trung với nước, hiếu với dân” nhưng không cho ai biết trung với nước nào. “Hiếu với dân” cái kiểu gì mà “đào tận gốc, trốc tận rễ” những thành phần giai cấp đã nuôi dưỡng, cưu mang ông đưa “cách mạng” đến thành công? Cái vô nhân tính của ông Hồ, cái chủ trương diệt trí thức của ông Hồ đã đào tạo nên một đội ngũ lãnh đạo vừa ngu dốt, vừa hung ác, kiêu ngạo, tham quyền, lưu manh!
Tại sao các nước Đông Âu – chư hầu của Liên Xô – nổi dậy phá bỏ xích xiềng cộng sản, khi Tổng Bí thư Mikhail Gorbachev đưa ra chủ trương “glasnost và perestroika”, mà Đảng Cộng sản Việt Nam không noi gương làm theo? Tại vì các nước Đông Âu bị Hồng quân Liên Xô xâm chiếm sau Đệ Nhị Thế chiến và bị áp đặt chủ nghĩa cộng sản. Vì hoàn cảnh bắt buộc, các Nhà Nước Đông Âu phải miễn cưỡng rập khuôn theo mô hình Nhà Nước Liên Xô. Do đó mới có lãnh tụ dám chống lại Liên Xô như Alexander Dubcek của Tiệp, Imre Nagy của Hungary. Còn Việt Nam không bị Liên Xô xâm chiếm, các nhà cách mạng Việt Nam sang Nga, tình nguyện gia nhập đảng cộng sản Nga, rồi tuân theo mệnh lệnh của đảng trưởng núp dưới chiêu bài “giải phóng dân tộc” để có lý do rước chủ nghĩa cộng sản về thờ và và đẩy đất nước mình làm chư hầu cho Liên Xô (tức là làm đầy tớ chủ nghĩa cộng sản). Khi Liên Xô sụp đổ, người đầy tớ trung thành bỏ chủ cũ để đi làm đầy tớ cho chủ mới: Trung Cộng.
Việt Nam đã bị Trung Cộng mang đại quân sang dạy cho những bài học đích đáng: Máu chảy thành sông; xương chất thành núi! Trong cuốn bạch thư của Trung Cộng hài tội lãnh đạo cộng sản Việt Nam bằng những lời lẽ miệt thị hết sức thậm tệ. Có thể nói rằng chưa có một ông chủ nào có thái độ đối xử với tôi tớ tàn nhẫn và ngạo mạn đến như thế! Nhưng các môn đồ của ông Hồ Chí Minh đã mất hết tính tự trọng, tính liêm sỉ. Lãnh đạo cộng sản Việt Nam kế tục sự nghiệp của ông Hồ đã áp dụng triệt để phương châm: “Cứu Cánh Biện Minh Phương Tiện”. Cứu cánh của cộng sản ngày nay là giữ chính quyền. Dùng phương tiện đàn áp dưới mọi hình thức, dù tàn ác đến đâu, để giữ chính quyền. Chịu nhục bất cứ giá nào cũng là để giữ chính quyền. Vì bản chất của cộng sản Việt Nam là loài ký sinh của chủ nghĩa yêu nước (chữ của ông Hà Sĩ Phu); chứ không phải thực sự đấu tranh vì nước vì dân.
Sở dĩ người viết phải trình bày các chi tiết như trên là để nói lên ý nghĩ của mình về cuộc nổi dậy ở Bắc Phi có tạo phản ứng dây chuyền sang Việt Nam? Nguồn cảm hứng cách mạng chắc chắn là có trong nhân dân ta hiện nay. Nhưng cuộc nổi dậy có nổ ra hay không thì tùy những yếu tố sau đây:
1/ Sự uất ức, căm phẫn của quần chúng lớn đến thế nào đi nữa cũng không thể dẫn đến cách mạng. Vì như đã nói ở trên là phải có tổ chức, có người lãnh đạo để phát động cuộc cách mạng. Nhà Nước Cộng Sản đã tận diệt người nào có uy tín quần chúng và đập tan tất cả các tổ chức vừa mới manh nha. Các nhà độc tài ở Trung Đông cấm đảng đối lập hoạt động, nhưng không ngăn cấm hai tổ chức hệ phái Shiite và Sunni của Hồi Giáo. Vì thế, cuộc nổi dậy ở Bắc Phi không phải là tự phát mà thành.
2/ Giả thuyết rằng có tổ chức đã bí mật thành hình, phát động cuộc nổi dậy thì Đảng Cộng sản sẽ đàn áp thẳng tay, bất chấp biện pháp tàn ác nào, vì mục đích sinh tử của Đảng Cộng Sản là cầm quyền để vơ vét; chứ không phải vì phúc lợi cho nhân dân. Tổng Bí thư Trường Chinh Đặng Xuân Khu đã không dấu giếm khi nói: “Đảng cộng sản đã dùng bạo lực để cướp chính quyền thì đảng cộng sản sẽ dùng bạo lực để giữ chính quyền”. Cuộc nổi dậy của các đảng viên cộng sản từng lập nhiều công trạng trong kháng chiến chống Pháp (chứ không phải quần chúng) ở Thái Bình vào thế kỷ trước đã bị Đảng Cộng sản thẳng tay đàn áp kinh hồn là một bằng chứng rất rõ ràng. Chẳng biết có Công An của một nước nào lại hạ quyết tâm trung thành với chế độ một cách trơ tráo như Công An Cộng sản Việt Nam? Cái băng rôn đỏ chói ghi hàng chữ “Công an nhân dân chỉ biết còn Đảng còn mình!” treo trước Bộ Công An thì rõ ràng họ không cần che dấu nhiệm vụ sống chết với Đảng.
3/ “Nghệ thuật” cầm quyền của cộng sản tinh vi hơn Thực dân ở chỗ họ đã biến người dân bị trị trở thành tín đồ của “chủ nghĩa mặc-kệ-nó”, vô cảm trước mọi cảnh tượng bất công, miễn sao bản thân không bị quấy nhiễu phiền phức là được. Hơn nữa, có một yếu tố khác khiến cho người dân thờ ơ. Đó là người dân không tin vào những lời hứa hẹn cách mạng. Cái gọi là “Cách Mạng Mùa Thu” đánh đuổi Thực dân Pháp để mang lại độc lập tự do hạnh phúc thì cuối cùng chỉ thấy nô lệ Tầu, mất tự do, bất hạnh. Cái gọi là “Cách Mạng Tháng 11/1963” lật đổ Ngô Đình Diệm thì cuối cùng Miền Nam mất vào tay cộng sản. Lại thêm, các nhà hoạt động dân chủ hãy còn quá ít ỏi nên ít được quần chúng biết tới.
4/ Đáng lẽ những “lão thành cách mạng” oán hận ông Hồ đã đánh lừa mình hy sinh xương máu trong cuộc kháng chiến chống Pháp khiến cho hôm nay nhân dân bị khốn khổ, đất nước tan hoang còn hơn cái thời bị nô lệ ngoại bang. Ngược lại, các “Cụ cách mạng” vẫn còn ngưỡng mộ, kính yêu ông Hồ như vị cha già đáng kính thì một mình nhạc sĩ Tô Hải – một người dám công khai hài tội ông Hồ – một con én làm sao đủ sức đánh động quần chúng vùng lên? Các “Cụ cách mạng” có bao giờ mở trang sử nước nhà để tìm hiểu xem có triều đại nào của ta dùng miếng ăn (chính sách hộ khẩu) để hành hạ và làm nhục con người như chế độ cộng sản? Ngay cả hôn quân nổi danh như vua Ngọa triều Lê Long Đỉnh có dám nhẫn tâm giết hại hàng chục vạn người như Hồ Chí Minh đã giết trong cải cách ruộng đất? Tại sao các Cụ còn mãi ca ngợi sự nghiệp “giải phóng dân tộc” của Hồ Chí Minh? Với cái não trạng u ám, mê muội như thế thì làm sao đám con cháu dám đứng lên lật đổ bạo quyền, tức là bộ máy cai trị do ông Hồ lập ra? Các cụ “lão thành cách mạng” vì nhiệt tình yêu nước bị ông Hồ đánh lừa để dựng lên cỗ máy cai trị này, thì nay chính các Cụ phải dùng chính xương máu các Cụ để đập tan bộ máy ấy đi mới phải! Ngồi vỉa hè, quán nước chửi đổng hay viết kiến nghị gửi lãnh tụ Đảng mà cải cách được sao?
*
* *
Nhà báo Nguyễn Minh Cần, nguyên Ủy viên Thường vụ Thành ủy và Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Hà Nội, là người hiểu rõ bản chất lãnh đạo cộng sản Việt Nam hơn ai hết, nên ông đã viết bài “Không ai được đùa với cách mạng và nổi dậy” có đoạn cảnh báo như sau: “Không thể đùa với cách mạng, với nổi dậy. Những người dân chủ phải giữ đầu óc tỉnh táo, sáng suốt, chớ để bị kích động bởi những lời thúc giục của một số người nóng nảy. Cũng cần nhớ rằng kẻ thù của dân chủ muốn tiêu diệt phong trào khi còn trong trứng nước thường cho “nội gián” chui vào các cơ quan lãnh đạo để xúi giục những cuộc nổi dậy “non”. Phải hết sức cảnh giác!”. Tôi chia sẻ nỗi lo lắng rất chính đáng của ông Nguyễn Minh Cần, vì người biết suy nghĩ không ai muốn máu đồng bào mình đổ mà không mang lại kết quả tốt cho Đất Nước.
Nóng lòng lật đổ chế độ độc tài phi nhân chắc chắn ai cũng có. Nhưng muốn thực hiện niềm ao ước đó thì phải có tổ chức. Có tổ chức rồi, cũng còn phải chờ ba yếu tố: Thời, Thế, Cơ. Quốc Dân Đảng phát động cuộc nổi dậy sớm, Đảng trưởng Nguyễn Thái Học và đồng chí đã hy sinh, cơ cấu đảng bị đàn áp. Nếu vụ Thiên An Môn xảy ra sau khi Đông Âu tan rã và Liên Xô sụp đổ, hy vọng thành công chắc chắn cao hơn. Những nhà đấu tranh đa nguyên, dân chủ quốc nội hay hải ngoại đều viết ra những lý thuyết đa nguyên, dân chủ rất xuất sắc. Hiềm một nỗi chúng ta chưa có một nhà tổ chức đại tài, chưa có vị lãnh tụ có uy tín lớn “charismatique” có thể quy tụ những con dân Việt Nam yêu nước thành tổ chức để biến nỗi căm thù thành hành động!
Hoài nghi về lời cảnh báo của ông Nguyễn Minh Cần mà đặt câu hỏi: “Nguyễn Minh Cần: Tòng phạm với CSVN dẹp cơ hội nổi dậy?”, e rằng lời cáo buộc đó là quá đáng. Tôi tin rằng ông Nguyễn Minh Cần không có dụng ý dẹp bỏ cơ hội nổi dậy, mà chỉ có ý nhắc nhở đừng nóng vội mà làm hỏng đại sự. Tôi cũng tin rằng những tuyên ngôn kêu gọi đồng bào trong nước nổi dậy không có khả năng khiến cho cuộc nổi dậy xảy ra! Nếu độc giả lên án nhận định của tôi như đã có tác giả cáo buộc ông Nguyễn Minh Cần thì tôi đành chịu, nhưng phát biểu của tôi căn cứ trên sự kiện đã qua như dưới đây:
1/ Một cô gái nhỏ thó tên là Phạm Thanh Nghiên, cao một thước mốt, cân nặng chỉ 35 kg, quê quán ở Hải Phòng, đã dũng cảm tọa kháng tại gia để phản đối nhà cầm quyền Việt Nam ươn hèn nhượng đất nhượng biển, nhượng đảo cho Trung Cộng. Hòa thượng Quảng Độ kêu gọi toàn dân biểu tình tại gia “bất tuân dân sự” giống như cô Phạm Thanh Nghiên đã làm mà không một ai hưởng ứng, kể cả Phật tử đồng đạo với Ngài. Bày tỏ thái độ phản kháng bằng một hành động ôn hòa, không phải hy sinh xương máu mà một vị Hòa thượng tha thiết kêu gọi, nhưng nào được ai nghe? Huống chi một cuộc xuống đường mà chắc chắn sẽ bị tắm máu thì ai dám hy sinh?
2/ Năm 2008, một nhà hoạt động dân chủ nhờ tôi viết lời kêu gọi đồng bào hải ngoại phản đối sự nhu nhược của nhà cầm quyền trong nước bằng cách không gửi tiền về Việt Nam, không du lịch Việt Nam. Vì từng gửi tiền về Việt Nam giúp thân nhân, giúp anh em dân chủ, tôi đề nghị không yêu cầu đồng bào đừng gửi tiền, mà chỉ yêu cầu bày tỏ thái độ không về Việt Nam trong ba tháng. Chỉ ba tháng thôi để xem lời kêu gọi được đáp ứng như thế nào. Nhà hoạt động dân chủ đồng ý đề nghị. Tôi đã vận dụng lời lẽ tha thiết của mình để viết lời kêu gọi. Nhà hoạt động bỏ tiền thuê ba đài phát thanh đọc ròng rã gần một tháng. Kết qua là “Việt Kiều” vẫn về Việt Nam đông như trẩy hội. Và nhà hoạt động dân chủ ấy hiện nay đang mở văn phòng kinh doanh địa ốc tại Việt Nam!
Đó là lý do tại sao tôi không ký tên vào bản kiến nghị xin nhà cầm quyền ngưng khai thác bauxite do ông Nguyễn Huệ Chi chủ xướng và mới đây tôi không ký vào tuyên ngôn kêu gọi nổi dậy, vì tôi không tin kiến nghị hay tuyên ngôn mà có thể thực hiện điều mình mong muốn!
Cách mạng nhung ở Đông Âu xảy ra là vì lãnh đạo các nước ấy bị bắt buộc làm chư hầu; không giống lãnh đạo Việt Nam tình nguyện làm đầy tớ ngoại bang, hết Liên Xô thì nhảy sang Trung Cộng. Cách mạng nhung ở Liên Xô xảy ra, vì lãnh đạo Gorbachev, Yeltsin yêu nước Nga, nhận thấy chủ trương xuất cảng cách mạng chỉ làm dân Nga khốn đốn, nghèo khổ. Họ muốn xóa bỏ bộ máy cai trị làm cho kinh tế nước Nga lụn bại. Đối với Việt Nam, bất luận đảng viên cộng sản nào yêu nước Việt Nam muốn cải tổ bộ máy (như Trần Xuân Bách), muốn có dân chủ (như Trần Độ) đều bị loại bỏ. Muốn tồn tại để hưởng đặc quyền, đặc lợi thì phải hiền lành, ngoan ngoãn như Đại tướng Võ Nguyên Giáp!
Ông Hồ thề trung thành với chủ nghĩa cộng sản quốc tế, hy sinh nền độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam (tức là phản quốc), dựng lên một bộ máy cai trị với chủ trương “đào tận gốc, trốc tận rễ trí phú địa hào” thì đâu còn có cán bộ có lòng yêu nước, có trí tuệ nào tồn tại? Chỉ có những lãnh đạo đã thôi chức mất quyền mới phát biểu năm ba câu vớt vát một cách vô trách nhiệm như các ông Võ văn Kiệt, Nguyễn văn An, Trần Phương, Vũ Khoan … như để chạy tội; chứ không hề có một ông nào tỏ lời ăn năn, thống hối. Do đó, chừng nào cộng sản Tầu sụp đổ thì cộng sản Việt Nam hết chỗ dựa để làm đầy tớ, mới sụp đổ theo! Hoặc có một ông Tướng Tư lệnh Quân Khu nào đó có sẵn binh lính trong tay bỗng dưng được “mặc khải” trở thành một người yêu nước, biết xấu hổ khi nhìn thấy đất nước càng ngày càng suy thoái, càng nô lệ ngoại bang, thì khởi động làm một cuộc cách mạng khơi mào cho dân chúng vùng lên?
Ngoài ra, tôi không tưởng tượng ra được điều gì khác hơn, vì những người đang cầm quyền vẫn tiếp tục gia tăng đàn áp, vẫn thi hành luật rừng để bỏ tù người đòi quyền làm người. Xin độc giả đừng vội lên án kẻ viết bài này làm nguội lạnh niềm hy vọng của quý vị. Là người rất xót xa với nỗi khốn cùng của đồng bào mình ở quê nhà, hơn ai hết tôi ngày đêm mong mỏi chế độ độc tài toàn trị sớm sụp đổ để dân mình được hưởng không khí tự do như mình.
Những phân tích của tôi trong bài viết là trình bày những bước khó khăn để các nhà hoạt động vì nước, vì dân suy nghĩ, chứ không phải có ý làm nản lòng, làm nhụt ý chí đấu tranh. Những ai còn tha thiết đến vận mệnh nước nhà thì hãy ý thức rằng với tấm lòng không thôi thì chưa đủ, mà cần phải có tổ chức. Dù chúng ta chống Lénine, nhưng ta phải nhìn nhận điều ông ta nói là đúng: “Tổ chức, tổ chức, tổ chức! Không có tổ chức là không có gì cả.”
Vì sự đàn áp của nhà cầm quyền, người trong nước khó lòng xây dựng tổ chức. Còn người Việt tự do ở hải ngoại mà không xây dựng được tổ chức thì mỗi một nhà tranh đấu phải tự hỏi nguyên nhân vì sao. Liệu chúng ta có đủ dũng cảm, đủ tình yêu đồng bào để tự gạt sang một bên lòng vị kỷ, sự tị hiềm đố kỵ hầu tiến hành xây dựng một tổ chức đồng tâm nhất trí có sức mạnh tổng hợp, có tiếng nói chính đáng được thế giới lắng nghe?
Thiết nghĩ rằng những tuyên ngôn, những lời kêu gọi dù tha thiết tới đâu thì chỉ là một bản giao hưởng được tấu lên bằng nhiều nhạc cụ khác nhau mà không có người điều khiển ban nhạc. Sự thật cảnh tượng đấu tranh cho tự do dân chủ hôm nay là như thế. Nói lên sự thật này chắc chắn sẽ làm cho một số người không vui, nhưng né tránh sự thật thì không biết bao giờ sự nổi dậy của đồng bào trong nước mới xảy ra?!
© Bằng Phong Đặng Văn Âu
© Đàn Chim Việt
Chúng ta có thể khẳng định rằng bất cứ một người Việt Nam nào – ngoại trừ những người cộng sản đang nắm quyền và đang trục lợi – đều muốn lật đổ chế độ độc tài toàn trị phi nhân, vô đạo đức đang dày xéo nhân dân ta. Nói rộng ra hơn, ngay cả đảng viên cộng sản nào mà còn có lương tri đều không hài lòng với sự bất công quá khủng khiếp, tham nhũng quá trắng trợn cũng muốn hạ bệ tập đoàn cầm quyền này. Bởi vì, nếu tình trạng này kéo dài thì tương lai con cái của đảng viên sẽ bị tác hại.
Đứng trên phương diện quy luật mà nói, nơi nào có áp bức; nơi đó có nổi dậy. Nơi nào có căm thù, nơi đó có đấu tranh. Ngay như con giun là sinh vật mềm nhũn không có một thứ khí giới gì để tự vệ mà khi bị xéo quá cũng quằn. Sách xưa dạy: “Thuận Thiên khả tồn; nghịch thiên khả vong” (hợp với lòng Trời thì còn; nghịch với lòng Trời thì mất. Lòng Trời tức là lòng dân). Lịch sử loài người chưa hề ghi lại một triều đại suy đồi nào, một thể chế bất nhân tàn ác nào có thể muôn năm trường trị. Vì vậy, căn cứ trên quy luật, lời dạy của người xưa và sự kiện lịch sử, nếu bị áp bức, tất nhiên quần chúng sẽ nổi dậy vì bản năng sinh tồn. Việt Nam sẽ không thể đi ra ngoài định luật đó. Nổi dậy là tất yếu.
Nếu so sánh sự đàn áp, khủng bố của nền độc tài tại các quốc gia Hồi giáo vùng Trung Đông với chính sách cai trị tàn ác độc địa của cộng sản Việt Nam trong cải cách ruộng đất, trong vụ Nhân văn Giai Phẩm, Xét lại chống đảng, giết lương dân trong Tết Mậu Thân 1968, đánh tư sản mại bản sau ngày “giải phóng”, đày dân lên vùng kinh tế mới, tập trung cải tạo quân cán chính Miền Nam, lùa dân ra biển đi tìm tự do, chiếm dụng đất đai dân oan … thì sự ngược đãi của các lãnh đạo Trung Đông chưa thấm thía vào đâu. Tại sao quần chúng các nước Trung Đông nổi dậy lật đổ chế độ độc tài mà nhân dân Việt Nam lại cam chịu sống dưới ách chuyên chính ghê gớm? Tại sao một thanh niên bán hàng rong ở Tunisie phẫn uất vì bị nhân viên an ninh ngược đãi, đã tự thiêu làm bùng lên ngọn lửa đấu tranh, mà ở Việt Nam cũng đã có nhiều người bị đánh đập, bị tra tấn, bị bỏ mạng nơi lao tù, có người phẫn uất tự thiêu mà dân chúng cứ an nhiên sinh hoạt bình thường như không hề có điều gì xảy ra?
Karl Marx và Friedrich Engels là hai nhà tư tưởng lập ngôn, lập thuyết viết ra chủ nghĩa cộng sản, có lẽ vì hai ông xúc động trước cảnh cùng khổ của giới công nhân thợ thuyền bị giới chủ nhân tư bản bóc lột. Hai ông hô hào những người lao động bị bóc lột vùng lên đánh đổ bọn tư bản. Marx đánh động lương tri loài người bằng câu nói bất hủ: “Chỉ có loài cầm thú mới quay lưng lại với nỗi khốn cùng của đồng loại để chỉ biết lo chăm sóc cho bộ lông của chúng”. Nhưng nếu không có Lénine đem cái lý thuyết của hai ông tổ cộng sản ra thực hiện thì những tư tưởng cách mạng của hai ông sẽ ngủ yên trong hàng vạn trang sách được lưu trữ trong thư viện. Bằng cớ là sự tiên đoán của Marx rằng cuộc cách mạng cộng sản sẽ xảy ra tại các quốc gia kỹ nghệ tiên tiến mà giới công nhân bị bóc lột, đã không diễn ra. Nhờ tài tổ chức lắm thủ đoạn, Lénine đã cướp được thời cơ giành chính quyền về tay mình tại Nga, một quốc gia chưa phát triển kỹ nghệ, đa số quần chúng nông dân. Vì thế Lénine đã nhắc đi nhắc lại câu nói: “Tổ chức, tổ chức, tổ chức! Không có tổ chức là không có gì cả!” để dạy dỗ cán bộ của mình. Mục tiêu đấu tranh của Lénine là cướp chính quyền để dựng lên chế độ chuyên chính vô sản của Karl Marx. Câu khẩu hiệu: “Cứu cánh biện minh phương tiện” là phương châm hành động phải sử dụng bất cứ thủ đoạn nào dù tàn ác, phi nhân đến đâu để đạt mục tiêu: Cướp Chính Quyền!
Cộng sản Việt Nam là đồ đệ trung thành của Lénine, triệt để vâng theo lời dạy của Lénine để cướp chính quyền. Sở dĩ năm 1945, cộng sản cướp được chính quyền vì cán bộ của họ được rèn luyện các kỹ thuật đấu tranh học được từ Lénine; trong khi các đảng phái quốc gia như Đại Việt, Quốc Dân Đảng, Cao Đài, Hòa Hảo có đông cán bộ hơn nhưng đã bị cộng sản hớt tay trên, vì người quốc gia chỉ được trang bị tấm lòng yêu nước mà không có kỹ thuật và thủ đoạn giành chính quyền. Khi cướp được chính quyền vào trong tay, việc đầu tiên mà người cộng sản thi hành là dùng mọi phương cách triệt tiêu tất cả các tổ chức tôn giáo, văn hóa, xã hội … Tất cả các tổ chức quần chúng đều bị nhốt trong cái gọi là Mặt Trận Tổ Quốc. Bất cứ ai lên tiếng đòi hỏi công bằng, công lý, chứ chưa kể đến thành lập tổ chức, đều bị cộng sản đập tan không thương tiếc, dù người đó là một đảng viên thuần thành có thiện chí góp ý xây dựng Đảng. Trần Độ, Nguyễn Hộ, Hoàng Minh Chính … là thí dụ rõ nhất.
Lénine biết lợi dụng giáo lý của Marx để bành trướng Đế quốc Đỏ cho nước Nga bằng con đường sản xuất cách mạng dưới chiêu bài “giải phóng dân tộc” các quốc gia bị thực dân đô hộ. Mao Trạch Đông học được kỹ thuật đấu tranh của Lénine để xây dựng tổ chức. Nhờ đó, Mao trạch Đông đã thành công giống như xưa kia Tần Thủy Hoàng gồm thâu lục quốc. Mao Trạch Đông được dân Tầu ngưỡng mộ, chiêm bái là vì ông ta đã xóa cho dân Tầu cái nhục bị Tây Phương đối xử như chó. Người Anh từng treo tấm bảng “Cấm Chó và người Tầu” ở nơi dành riêng cho người Anh.
Ông Hồ Chí Minh khi đọc bản đề cương cộng sản của Lénine có chủ trương giải phóng các dân tộc bị trị thì nhảy dựng lên vì sung sướng. Ông Hồ không ý thức rằng chẳng có dân tộc nào thương dân tộc khác. “Giải phóng dân tộc” chỉ là chiêu bài để che dấu một ý đồ bành trướng bất chính, giống như xưa kia Nhà Thanh sang xâm chiếm nước ta thì giương cao khẩu hiệu “Phù Lê Diệt Trịnh” vậy. Tuyên thệ trung thành với đảng quốc tế; kết nghĩa huynh đệ “môi hở rằng lạnh” với ngoại quốc mà mình là nước vừa nhỏ, vừa yếu thì chỉ làm đàn em phục tùng Anh Hai, anh Ba mà thôi!
Ông Hồ dùng máu xương nhân dân Việt Nam để thi hành chủ trương “giải phóng dân tộc” của Lénine, đánh đuổi xong Thực Dân Pháp, liền dựng lên một bộ máy cai trị chuyên chế rập khuôn theo mô hình Nhà Nước của Liên Xô, của Trung Cộng. Dưới bàn tay cai trị của ông Hồ, người dân Việt Nam khốn khổ hơn thời kỳ bị Thực dân Pháp đô hộ gấp triệu lần. Ông Hồ khéo sử dụng những lời dạy của người xưa như: “Trung với nước, hiếu với dân” nhưng không cho ai biết trung với nước nào. “Hiếu với dân” cái kiểu gì mà “đào tận gốc, trốc tận rễ” những thành phần giai cấp đã nuôi dưỡng, cưu mang ông đưa “cách mạng” đến thành công? Cái vô nhân tính của ông Hồ, cái chủ trương diệt trí thức của ông Hồ đã đào tạo nên một đội ngũ lãnh đạo vừa ngu dốt, vừa hung ác, kiêu ngạo, tham quyền, lưu manh!
Tại sao các nước Đông Âu – chư hầu của Liên Xô – nổi dậy phá bỏ xích xiềng cộng sản, khi Tổng Bí thư Mikhail Gorbachev đưa ra chủ trương “glasnost và perestroika”, mà Đảng Cộng sản Việt Nam không noi gương làm theo? Tại vì các nước Đông Âu bị Hồng quân Liên Xô xâm chiếm sau Đệ Nhị Thế chiến và bị áp đặt chủ nghĩa cộng sản. Vì hoàn cảnh bắt buộc, các Nhà Nước Đông Âu phải miễn cưỡng rập khuôn theo mô hình Nhà Nước Liên Xô. Do đó mới có lãnh tụ dám chống lại Liên Xô như Alexander Dubcek của Tiệp, Imre Nagy của Hungary. Còn Việt Nam không bị Liên Xô xâm chiếm, các nhà cách mạng Việt Nam sang Nga, tình nguyện gia nhập đảng cộng sản Nga, rồi tuân theo mệnh lệnh của đảng trưởng núp dưới chiêu bài “giải phóng dân tộc” để có lý do rước chủ nghĩa cộng sản về thờ và và đẩy đất nước mình làm chư hầu cho Liên Xô (tức là làm đầy tớ chủ nghĩa cộng sản). Khi Liên Xô sụp đổ, người đầy tớ trung thành bỏ chủ cũ để đi làm đầy tớ cho chủ mới: Trung Cộng.
Việt Nam đã bị Trung Cộng mang đại quân sang dạy cho những bài học đích đáng: Máu chảy thành sông; xương chất thành núi! Trong cuốn bạch thư của Trung Cộng hài tội lãnh đạo cộng sản Việt Nam bằng những lời lẽ miệt thị hết sức thậm tệ. Có thể nói rằng chưa có một ông chủ nào có thái độ đối xử với tôi tớ tàn nhẫn và ngạo mạn đến như thế! Nhưng các môn đồ của ông Hồ Chí Minh đã mất hết tính tự trọng, tính liêm sỉ. Lãnh đạo cộng sản Việt Nam kế tục sự nghiệp của ông Hồ đã áp dụng triệt để phương châm: “Cứu Cánh Biện Minh Phương Tiện”. Cứu cánh của cộng sản ngày nay là giữ chính quyền. Dùng phương tiện đàn áp dưới mọi hình thức, dù tàn ác đến đâu, để giữ chính quyền. Chịu nhục bất cứ giá nào cũng là để giữ chính quyền. Vì bản chất của cộng sản Việt Nam là loài ký sinh của chủ nghĩa yêu nước (chữ của ông Hà Sĩ Phu); chứ không phải thực sự đấu tranh vì nước vì dân.
Sở dĩ người viết phải trình bày các chi tiết như trên là để nói lên ý nghĩ của mình về cuộc nổi dậy ở Bắc Phi có tạo phản ứng dây chuyền sang Việt Nam? Nguồn cảm hứng cách mạng chắc chắn là có trong nhân dân ta hiện nay. Nhưng cuộc nổi dậy có nổ ra hay không thì tùy những yếu tố sau đây:
1/ Sự uất ức, căm phẫn của quần chúng lớn đến thế nào đi nữa cũng không thể dẫn đến cách mạng. Vì như đã nói ở trên là phải có tổ chức, có người lãnh đạo để phát động cuộc cách mạng. Nhà Nước Cộng Sản đã tận diệt người nào có uy tín quần chúng và đập tan tất cả các tổ chức vừa mới manh nha. Các nhà độc tài ở Trung Đông cấm đảng đối lập hoạt động, nhưng không ngăn cấm hai tổ chức hệ phái Shiite và Sunni của Hồi Giáo. Vì thế, cuộc nổi dậy ở Bắc Phi không phải là tự phát mà thành.
2/ Giả thuyết rằng có tổ chức đã bí mật thành hình, phát động cuộc nổi dậy thì Đảng Cộng sản sẽ đàn áp thẳng tay, bất chấp biện pháp tàn ác nào, vì mục đích sinh tử của Đảng Cộng Sản là cầm quyền để vơ vét; chứ không phải vì phúc lợi cho nhân dân. Tổng Bí thư Trường Chinh Đặng Xuân Khu đã không dấu giếm khi nói: “Đảng cộng sản đã dùng bạo lực để cướp chính quyền thì đảng cộng sản sẽ dùng bạo lực để giữ chính quyền”. Cuộc nổi dậy của các đảng viên cộng sản từng lập nhiều công trạng trong kháng chiến chống Pháp (chứ không phải quần chúng) ở Thái Bình vào thế kỷ trước đã bị Đảng Cộng sản thẳng tay đàn áp kinh hồn là một bằng chứng rất rõ ràng. Chẳng biết có Công An của một nước nào lại hạ quyết tâm trung thành với chế độ một cách trơ tráo như Công An Cộng sản Việt Nam? Cái băng rôn đỏ chói ghi hàng chữ “Công an nhân dân chỉ biết còn Đảng còn mình!” treo trước Bộ Công An thì rõ ràng họ không cần che dấu nhiệm vụ sống chết với Đảng.
3/ “Nghệ thuật” cầm quyền của cộng sản tinh vi hơn Thực dân ở chỗ họ đã biến người dân bị trị trở thành tín đồ của “chủ nghĩa mặc-kệ-nó”, vô cảm trước mọi cảnh tượng bất công, miễn sao bản thân không bị quấy nhiễu phiền phức là được. Hơn nữa, có một yếu tố khác khiến cho người dân thờ ơ. Đó là người dân không tin vào những lời hứa hẹn cách mạng. Cái gọi là “Cách Mạng Mùa Thu” đánh đuổi Thực dân Pháp để mang lại độc lập tự do hạnh phúc thì cuối cùng chỉ thấy nô lệ Tầu, mất tự do, bất hạnh. Cái gọi là “Cách Mạng Tháng 11/1963” lật đổ Ngô Đình Diệm thì cuối cùng Miền Nam mất vào tay cộng sản. Lại thêm, các nhà hoạt động dân chủ hãy còn quá ít ỏi nên ít được quần chúng biết tới.
4/ Đáng lẽ những “lão thành cách mạng” oán hận ông Hồ đã đánh lừa mình hy sinh xương máu trong cuộc kháng chiến chống Pháp khiến cho hôm nay nhân dân bị khốn khổ, đất nước tan hoang còn hơn cái thời bị nô lệ ngoại bang. Ngược lại, các “Cụ cách mạng” vẫn còn ngưỡng mộ, kính yêu ông Hồ như vị cha già đáng kính thì một mình nhạc sĩ Tô Hải – một người dám công khai hài tội ông Hồ – một con én làm sao đủ sức đánh động quần chúng vùng lên? Các “Cụ cách mạng” có bao giờ mở trang sử nước nhà để tìm hiểu xem có triều đại nào của ta dùng miếng ăn (chính sách hộ khẩu) để hành hạ và làm nhục con người như chế độ cộng sản? Ngay cả hôn quân nổi danh như vua Ngọa triều Lê Long Đỉnh có dám nhẫn tâm giết hại hàng chục vạn người như Hồ Chí Minh đã giết trong cải cách ruộng đất? Tại sao các Cụ còn mãi ca ngợi sự nghiệp “giải phóng dân tộc” của Hồ Chí Minh? Với cái não trạng u ám, mê muội như thế thì làm sao đám con cháu dám đứng lên lật đổ bạo quyền, tức là bộ máy cai trị do ông Hồ lập ra? Các cụ “lão thành cách mạng” vì nhiệt tình yêu nước bị ông Hồ đánh lừa để dựng lên cỗ máy cai trị này, thì nay chính các Cụ phải dùng chính xương máu các Cụ để đập tan bộ máy ấy đi mới phải! Ngồi vỉa hè, quán nước chửi đổng hay viết kiến nghị gửi lãnh tụ Đảng mà cải cách được sao?
*
* *
Nhà báo Nguyễn Minh Cần, nguyên Ủy viên Thường vụ Thành ủy và Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Hà Nội, là người hiểu rõ bản chất lãnh đạo cộng sản Việt Nam hơn ai hết, nên ông đã viết bài “Không ai được đùa với cách mạng và nổi dậy” có đoạn cảnh báo như sau: “Không thể đùa với cách mạng, với nổi dậy. Những người dân chủ phải giữ đầu óc tỉnh táo, sáng suốt, chớ để bị kích động bởi những lời thúc giục của một số người nóng nảy. Cũng cần nhớ rằng kẻ thù của dân chủ muốn tiêu diệt phong trào khi còn trong trứng nước thường cho “nội gián” chui vào các cơ quan lãnh đạo để xúi giục những cuộc nổi dậy “non”. Phải hết sức cảnh giác!”. Tôi chia sẻ nỗi lo lắng rất chính đáng của ông Nguyễn Minh Cần, vì người biết suy nghĩ không ai muốn máu đồng bào mình đổ mà không mang lại kết quả tốt cho Đất Nước.
Nóng lòng lật đổ chế độ độc tài phi nhân chắc chắn ai cũng có. Nhưng muốn thực hiện niềm ao ước đó thì phải có tổ chức. Có tổ chức rồi, cũng còn phải chờ ba yếu tố: Thời, Thế, Cơ. Quốc Dân Đảng phát động cuộc nổi dậy sớm, Đảng trưởng Nguyễn Thái Học và đồng chí đã hy sinh, cơ cấu đảng bị đàn áp. Nếu vụ Thiên An Môn xảy ra sau khi Đông Âu tan rã và Liên Xô sụp đổ, hy vọng thành công chắc chắn cao hơn. Những nhà đấu tranh đa nguyên, dân chủ quốc nội hay hải ngoại đều viết ra những lý thuyết đa nguyên, dân chủ rất xuất sắc. Hiềm một nỗi chúng ta chưa có một nhà tổ chức đại tài, chưa có vị lãnh tụ có uy tín lớn “charismatique” có thể quy tụ những con dân Việt Nam yêu nước thành tổ chức để biến nỗi căm thù thành hành động!
Hoài nghi về lời cảnh báo của ông Nguyễn Minh Cần mà đặt câu hỏi: “Nguyễn Minh Cần: Tòng phạm với CSVN dẹp cơ hội nổi dậy?”, e rằng lời cáo buộc đó là quá đáng. Tôi tin rằng ông Nguyễn Minh Cần không có dụng ý dẹp bỏ cơ hội nổi dậy, mà chỉ có ý nhắc nhở đừng nóng vội mà làm hỏng đại sự. Tôi cũng tin rằng những tuyên ngôn kêu gọi đồng bào trong nước nổi dậy không có khả năng khiến cho cuộc nổi dậy xảy ra! Nếu độc giả lên án nhận định của tôi như đã có tác giả cáo buộc ông Nguyễn Minh Cần thì tôi đành chịu, nhưng phát biểu của tôi căn cứ trên sự kiện đã qua như dưới đây:
1/ Một cô gái nhỏ thó tên là Phạm Thanh Nghiên, cao một thước mốt, cân nặng chỉ 35 kg, quê quán ở Hải Phòng, đã dũng cảm tọa kháng tại gia để phản đối nhà cầm quyền Việt Nam ươn hèn nhượng đất nhượng biển, nhượng đảo cho Trung Cộng. Hòa thượng Quảng Độ kêu gọi toàn dân biểu tình tại gia “bất tuân dân sự” giống như cô Phạm Thanh Nghiên đã làm mà không một ai hưởng ứng, kể cả Phật tử đồng đạo với Ngài. Bày tỏ thái độ phản kháng bằng một hành động ôn hòa, không phải hy sinh xương máu mà một vị Hòa thượng tha thiết kêu gọi, nhưng nào được ai nghe? Huống chi một cuộc xuống đường mà chắc chắn sẽ bị tắm máu thì ai dám hy sinh?
2/ Năm 2008, một nhà hoạt động dân chủ nhờ tôi viết lời kêu gọi đồng bào hải ngoại phản đối sự nhu nhược của nhà cầm quyền trong nước bằng cách không gửi tiền về Việt Nam, không du lịch Việt Nam. Vì từng gửi tiền về Việt Nam giúp thân nhân, giúp anh em dân chủ, tôi đề nghị không yêu cầu đồng bào đừng gửi tiền, mà chỉ yêu cầu bày tỏ thái độ không về Việt Nam trong ba tháng. Chỉ ba tháng thôi để xem lời kêu gọi được đáp ứng như thế nào. Nhà hoạt động dân chủ đồng ý đề nghị. Tôi đã vận dụng lời lẽ tha thiết của mình để viết lời kêu gọi. Nhà hoạt động bỏ tiền thuê ba đài phát thanh đọc ròng rã gần một tháng. Kết qua là “Việt Kiều” vẫn về Việt Nam đông như trẩy hội. Và nhà hoạt động dân chủ ấy hiện nay đang mở văn phòng kinh doanh địa ốc tại Việt Nam!
Đó là lý do tại sao tôi không ký tên vào bản kiến nghị xin nhà cầm quyền ngưng khai thác bauxite do ông Nguyễn Huệ Chi chủ xướng và mới đây tôi không ký vào tuyên ngôn kêu gọi nổi dậy, vì tôi không tin kiến nghị hay tuyên ngôn mà có thể thực hiện điều mình mong muốn!
Cách mạng nhung ở Đông Âu xảy ra là vì lãnh đạo các nước ấy bị bắt buộc làm chư hầu; không giống lãnh đạo Việt Nam tình nguyện làm đầy tớ ngoại bang, hết Liên Xô thì nhảy sang Trung Cộng. Cách mạng nhung ở Liên Xô xảy ra, vì lãnh đạo Gorbachev, Yeltsin yêu nước Nga, nhận thấy chủ trương xuất cảng cách mạng chỉ làm dân Nga khốn đốn, nghèo khổ. Họ muốn xóa bỏ bộ máy cai trị làm cho kinh tế nước Nga lụn bại. Đối với Việt Nam, bất luận đảng viên cộng sản nào yêu nước Việt Nam muốn cải tổ bộ máy (như Trần Xuân Bách), muốn có dân chủ (như Trần Độ) đều bị loại bỏ. Muốn tồn tại để hưởng đặc quyền, đặc lợi thì phải hiền lành, ngoan ngoãn như Đại tướng Võ Nguyên Giáp!
Ông Hồ thề trung thành với chủ nghĩa cộng sản quốc tế, hy sinh nền độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam (tức là phản quốc), dựng lên một bộ máy cai trị với chủ trương “đào tận gốc, trốc tận rễ trí phú địa hào” thì đâu còn có cán bộ có lòng yêu nước, có trí tuệ nào tồn tại? Chỉ có những lãnh đạo đã thôi chức mất quyền mới phát biểu năm ba câu vớt vát một cách vô trách nhiệm như các ông Võ văn Kiệt, Nguyễn văn An, Trần Phương, Vũ Khoan … như để chạy tội; chứ không hề có một ông nào tỏ lời ăn năn, thống hối. Do đó, chừng nào cộng sản Tầu sụp đổ thì cộng sản Việt Nam hết chỗ dựa để làm đầy tớ, mới sụp đổ theo! Hoặc có một ông Tướng Tư lệnh Quân Khu nào đó có sẵn binh lính trong tay bỗng dưng được “mặc khải” trở thành một người yêu nước, biết xấu hổ khi nhìn thấy đất nước càng ngày càng suy thoái, càng nô lệ ngoại bang, thì khởi động làm một cuộc cách mạng khơi mào cho dân chúng vùng lên?
Ngoài ra, tôi không tưởng tượng ra được điều gì khác hơn, vì những người đang cầm quyền vẫn tiếp tục gia tăng đàn áp, vẫn thi hành luật rừng để bỏ tù người đòi quyền làm người. Xin độc giả đừng vội lên án kẻ viết bài này làm nguội lạnh niềm hy vọng của quý vị. Là người rất xót xa với nỗi khốn cùng của đồng bào mình ở quê nhà, hơn ai hết tôi ngày đêm mong mỏi chế độ độc tài toàn trị sớm sụp đổ để dân mình được hưởng không khí tự do như mình.
Những phân tích của tôi trong bài viết là trình bày những bước khó khăn để các nhà hoạt động vì nước, vì dân suy nghĩ, chứ không phải có ý làm nản lòng, làm nhụt ý chí đấu tranh. Những ai còn tha thiết đến vận mệnh nước nhà thì hãy ý thức rằng với tấm lòng không thôi thì chưa đủ, mà cần phải có tổ chức. Dù chúng ta chống Lénine, nhưng ta phải nhìn nhận điều ông ta nói là đúng: “Tổ chức, tổ chức, tổ chức! Không có tổ chức là không có gì cả.”
Vì sự đàn áp của nhà cầm quyền, người trong nước khó lòng xây dựng tổ chức. Còn người Việt tự do ở hải ngoại mà không xây dựng được tổ chức thì mỗi một nhà tranh đấu phải tự hỏi nguyên nhân vì sao. Liệu chúng ta có đủ dũng cảm, đủ tình yêu đồng bào để tự gạt sang một bên lòng vị kỷ, sự tị hiềm đố kỵ hầu tiến hành xây dựng một tổ chức đồng tâm nhất trí có sức mạnh tổng hợp, có tiếng nói chính đáng được thế giới lắng nghe?
Thiết nghĩ rằng những tuyên ngôn, những lời kêu gọi dù tha thiết tới đâu thì chỉ là một bản giao hưởng được tấu lên bằng nhiều nhạc cụ khác nhau mà không có người điều khiển ban nhạc. Sự thật cảnh tượng đấu tranh cho tự do dân chủ hôm nay là như thế. Nói lên sự thật này chắc chắn sẽ làm cho một số người không vui, nhưng né tránh sự thật thì không biết bao giờ sự nổi dậy của đồng bào trong nước mới xảy ra?!
© Bằng Phong Đặng Văn Âu
© Đàn Chim Việt
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)