Vụ tai nạn kinh hoàng giữa tàu hỏa và ôtô khách chiều ngày 30-3 tại huyện Thường Tín (Hà Nội) làm 9 người tử vong đã một lần nữa dấy lên hồi chuông cảnh báo về những điểm đen đang hình thành tại các điểm giao cắt đường sắt và đường bộ
Hiện trường vụ tai nạn thảm khốc chiều 30-3 - Ảnh ANH QUANG
“Hiện nay, theo Luật Đường sắt và điều lệ đường ngang vẫn chưa có chế tài xử phạt lái xe cố tình vượt đèn biển báo tự động khi có tàu đến,” ông Phạm Văn Bình, Trưởng ban An toàn giao thông Đường sắt Việt Nam trao đổi với phóng viên vào sáng nay, 31-3.
* Gần đây liên tiếp xảy ra các vụ tai nạn nghiêm trọng giữa tàu hỏa và ôtô. Theo ông nguyên nhân do đâu?
- Ông Phạm Văn Bình: Luật Đường sắt và Giao thông đường bộ đã quy định: "Người điều khiển phương tiện đường bộ đi qua đường sắt thì phải chấp hành tín hiệu của gác chắn. Nếu không có gác chắn thì phải chấp hành tín hiệu của đường ngang. Trong trường hợp không có các tín hiệu trên thì phải quan sát tàu hỏa ở cả hai phía và phải chịu trách nhiệm về an toàn của bản thân và người khác."
Thế nhưng, các tài xế ôtô hiện nay khi qua đường ngang dân sinh giao cắt với đường sắt thường không quan sát. Nhiều khi nhìn thấy tàu đang đến nhưng vẫn cố tình vượt qua nên mới dẫn tới tai nạn. Theo tôi, tình trạng lái xe uống rượu bia, phóng nhanh vượt ẩu cùng với ý thức tham gia giao thông quá kém là những nguyên nhân chính dẫn đến tai nạn giao thông kinh hoàng.
* Tại các đường ngang hợp pháp, ngành đường sắt luôn bố trí gác chắn, một số những đường ngang chỉ có hệ thống đèn báo tín hiệu. Ông có ý kiến gì về vấn đề này?
- Ông Phạm Văn Bình: Hiện nay các biển báo của ngành đường sắt và thiết bị cảnh báo tự động chúng tôi đảm bảo hoạt động gần như 100%. Ngoài việc kiểm tra thường xuyên chúng tôi có thiết bị giám sát, khi có bất kỳ hư hỏng gì đều được phát hiện và sửa chữa kịp thời.
Hiện Đường sắt Việt Nam chia làm 5 tuyến chính, tổng chiều dài 3.172km trong đó đường sắt chính tuyến là 2.682km đi qua 33 tỉnh thành thì có 1.542 đường ngang có điểm giao cắt, rào chắn hợp pháp và 4.725 đường ngang bất hợp pháp.
Tại mỗi đường ngang hợp pháp có 2 người gác, 3 ca là 6 người và thêm 3 đến 4 người thay ca nghỉ. Bình quân một gác chắn có tới 10 người. Như vậy, tính trong hơn tổng số hơn 6.000 đường ngang chúng ta cần tới 6 vạn người trong khi toàn bộ nhân viên của tổng công ty mới có hơn 4 vạn.
Đường ngang nào mà cũng bố trí và đặt barie thì thật là vô lý. Với hơn 4.000 đường ngang bất hợp pháp hiện nay thì không thể cảnh giới hết. Mong muốn của chúng tôi là các ban ngành địa phương cùng phối hợp.
Theo phân tích các vụ tai nạn giao thông đường sắt của Cục Đường sắt Việt Nam trong năm 2010 cho thấy, trong tổng số 451 vụ tai nạn giao thông đường sắt có 13% số vụ xảy ra tại các đường ngang hợp pháp, 87% số vụ xảy ra tại các đường ngang dân sinh tự mở trái phép.
Nguyên nhân chủ yếu gây ra tai nạn tại đường ngang chủ yếu do ý thức của người tham gia giao thông tại các điểm giao cắt chưa cao, không chú ý quan sát tàu khi đi qua đường ngang biển báo.
* Vậy sự phối hợp giữa tổng công ty và các địa phương chưa đồng bộ và thống nhất với nhau trong việc giải quyết các đường ngang bất hợp pháp vốn luôn là tiềm ẩn của những tai nạn thương tâm và thường xuyên diễn ra trong thời gian qua?
- Ông Phạm Văn Bình: Chúng tôi đã có các công văn, văn bản đề nghị Bộ Giao thông Vận tải, Tổng cục Đường bộ, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân các tỉnh có đường sắt đi qua phải chỉ đạo dỡ bỏ các đường ngang dân sinh bất hợp pháp. Tuy nhiên, đến bây giờ tại các tỉnh vẫn không thể giải quyết được do người dân tự ý mở để đi nên rất khó dỡ bỏ mặc dù ngành đường sắt đã liên tục yêu cầu các địa phương phải chấp hành theo đúng luật và điều lệ của đường ngang.
* Trước thực trạng đó, ngành đường sắt đã có những biện pháp và kiến nghị gì để hạn chế tai nạn giao thông tại các đường ngang?
- Ông Phạm Văn Bình: Ngành đường sắt đề nghị cơ quan quản lý pháp luật phải có những biện pháp xử lý thật nghiêm những lái xe vi phạm luật lệ an toàn giao thông đường sắt. Hiện nay, theo Luật Đường sắt và điều lệ đường ngang vẫn chưa có chế tài xử phạt lái xe cố tình vượt đèn biển báo tự động khi có tàu đến. Pháp luật chưa xử lý nghiêm nên chưa đủ sức răn đe đối với hành vi vi phạm luật giao thông đường sắt.
Về lâu dài, ngành cần có những giải pháp ưu tiên tuyệt đối xây dựng đường gom và gom, không mở thêm những đường ngang hợp pháp mà không đảm bảo những quy định của đường sắt.
Hiện Chính phủ đã cấp kinh phí để lập lại trật tự an toàn giao thông hành lang đường sắt. Tổng công ty Đường sắt Việt Nam đang tích cực chỉ đạo ưu tiên xây dựng các đường gom và hàng rào ngăn cách, làm các đường dẫn tới các đường ngang có gác chắn để xóa bỏ các đường ngang dân sinh.
* Ông có thể nhìn nhận về đường ngang của ngành đường sắt Việt Nam so với các nước khác trên thế giới?
- Ông Phạm Văn Bình: Không có đường sắt nước nào như Việt Nam bởi cứ cách một đoạn lại có một đường ngang dân sinh tự mở bất hợp pháp. Tôi đi qua Trung Quốc trên một hành trình tàu dài 3.000km chỉ có một số đường ngang nhưng đạt tiêu chuẩn và khoa học.
Bên cạnh đó, theo quy định, giao cắt tại đường sắt và đường bộ đều phải là giao cắt khác mức. Ví dụ, nếu đường xây sau đường sắt thì phải làm cầu vượt và ngược lại. Tính ra như thế thì Việt Nam có quá nhiều điểm và khó có thể dẹp bỏ. Theo tôi, nếu đường ngang dân sinh còn thì tai nạn vẫn còn xảy ra.
- Xin cảm ơn ông.
Theo SƠN BÁCH - MẠNH HÙNG
Tìm kiếm Blog này
Thứ Tư, 30 tháng 3, 2011
Xử kín xử hở
Chỉ còn một tuần nữa là đến ngày nhà nước Việt Nam đưa tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ ra tòa để truy tố ông với tội danh tuyên truyền nhằm lật đổ chính quyền.
Mặc dù chính quyền tuyên bố với báo chí đây là “phiên tòa xét xử công khai”, nhưng đến nay thân nhân của tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ vẫn chưa nhận được giấy mời dự phiên tòa. Vợ ông Vũ bà Nguyễn Thị Dương Hà đã nhiều lần gửi giấy đến cho ông Nguyễn Hữu Chính, Chánh tòa Hình Sự Hà Nội và cũng là chủ tọa phiên tòa ông Vũ; bà Hà yêu cầu tòa thực thi đúng quyền lợi bị cáo khi để thân nhân họ tham dự. Nhưng ông Nguyễn Hữu Chính một mực làm ngơ trước đề nghị của bà Dương Hà.
Nhìn lại những vụ án mà tòa Việt Nam kêu là xét xử công khai, thì điều ngạc nhiên là khi mở cửa phòng xét xử đã đầy ắp người ở đâu đến trước. Những người khác muốn tham dự đều bị cảnh sát từ chối với lý do phòng giam đã “chật chỗ”.
Còn những người có mặt tại tòa sẵn đó thì sao? Thường họ là những đảng viên về hưu, cựu chiến binh được huy động đến tòa ngồi để chiếm chỗ. Những người này đều được chỉ định từ trước và tất nhiên có thù lao để ngồi đóng vai khán giả trong tòa.
Vì “không đủ chỗ” như vậy, các phóng viên quốc tế dù đến sớm cách mấy cũng phải ngồi phòng riêng để theo dõi phiên tòa qua màn hình trực tiếp. Điều đặc biệt là đến phần chủ tọa chất vấn, viện kiểm sát luận tội thì âm thanh và hình ảnh rõ nét. Nhưng đến phần bị cáo, luật sư tranh luận, phản bác thì âm thanh và hình ảnh nhiễu không nghe được gì. Điều này xảy ra ở những phiên tòa cụ thể như vụ Linh mục Nguyễn Văn Lý, nhóm giáo dân Thái Hà, nhóm những nhà đấu tranh dân chủ Hải Phòng… và nhiều vụ án có tính chất tương tự.
Bưng bít bên ngoài xã hội đã đành. Bên trong một tòa án đã được be bờ đến thế mà hy vọng cuối cùng của bị cáo được nói lời biện hộ cũng bị bưng bít nốt. Khi quá sợ công lý và sự thật lộ mặt ra, chủ tọa phiên tòa còn làm thay cả viện kiểm sát trong khâu buộc tội bị cáo. Và khi 2 vai nhập một như thế thì lấy đâu ra phần tranh luận công bằng. Cứ mỗi lần đuối lý, chủ tọa lại dùng quyền của mình cắt ngang, không cho bị cáo giải bày tiếp, hay lại quay sang chất vấn về một tội khác nhằm đánh lạc hướng vấn đề mình đuối lý. Tại nhiều phiên tòa chủ tọa sẵng giọng hỏi luôn mồm: “bị cáo thấy tội chưa, bị cáo nhận tội chưa, tội bị cáo là thế đấy”. Còn viện kiểm sát chỉ ngồi vểnh râu nhàn nhã vì mọi sự được chủ tọa làm hộ hết rồi.
Hầu hết thời gian của tòa là để đọc cáo trạng. Các cáo trạng đều dài lê thê, bao luôn hầu hết các tình tiết điều tra. Với nhiều điều bị cáo buộc như thế nhưng khi tới phần tranh luận thì chỉ mươi phút là đã xong hết như đã nói ở trên. Dường như tố tụng ở Việt Nam ta, ăn nhau là ở cái cáo trạng. Và cáo trạng hay kết luận thì do cơ quan điều tra đã làm hộ hết cho tòa. Vì vậy, công việc duy nhất của tòa là đóng kịch, đọc lê thê cho hết thì giờ, và kết thúc cho nhanh những bản án định sẵn do phía công an “đề nghị”.
Ngay chính nhiều nhân viên của tòa án Việt Nam còn ngao ngán cho nghề nghiệp của mình khi nói: “Ở Việt Nam, Bộ Chính Trị là to nhất, đứng trên cả pháp luật. Mà ở đấy có mấy ông công an. Còn bên tòa án thì có được ông nào ngồi trong Bộ Chính Trị đâu. Thế thì lấy đâu ra sức mạnh độc lập của tòa án?”
Riêng các vụ án liên quan đến loại trọng tội như xâm phạm an ninh quốc gia, tuyên truyền chống phá chế độ, lật đổ chính quyền, tức những vụ phức tạp cần phải tranh luận chi tiết về bằng chứng, động cơ, hành động, mức thiệt hại, v.v…, thì các phiên tòa xử các vụ án ấy lại càng ngắn. Có khi chỉ vài tiếng đồng hồ, mà trong đó phần giới thiệu thủ tục, nhân thân, cáo trạng chiếm hết ¾ thời gian rồi. Và đó cũng là bằng chứng cho thấy những bản án đã được định sẵn từ trước. Vì chẳng có tòa án đúng nghĩa nào trên thế giới có thể kết luận về tội trong vòng dăm ba phút tranh luận như thế nổi, dù chỉ là những tội nhỏ như vi phạm luật giao thông.
Trong vụ án tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ sắp tới, sẽ có đến 5 luật sư tham gia. Bản thân ông Vũ cũng là một tiến sĩ luật, có trình độ lý luận chặt chẽ và khoa học. Với một phiên tòa công bằng và với tội danh lớn như thế, ít nhất phần tranh luận không thể dưới một tuần lễ để làm rõ từng luận điểm. Nhưng cho đến nay, chưa có luật sư nào nghĩ rằng phiên tòa sẽ kéo dài quá một ngày.
Với mỗi lần biến tòa án thành trò hề như thế, lãnh đạo Đảng và nhà nước lại tiếp tục đánh rớt lớp phần cuối cùng trên khuôn mặt đang lở từng mảng, để lộ ra thứ bản chất dối trá và đê tiện ngày càng rõ.
Người dân đang xôn xao: dù XỬ KÍN như vụ các quan chức mua dâm ở Hà Giang, hay XỬ HỞ như đối với tiếng nói lương tâm Cù Huy Hà Vũ, lãnh đạo Đảng đều đang rất “hở hang” về bản chất của họ trước mắt toàn dân và thế giới.
Mặc dù chính quyền tuyên bố với báo chí đây là “phiên tòa xét xử công khai”, nhưng đến nay thân nhân của tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ vẫn chưa nhận được giấy mời dự phiên tòa. Vợ ông Vũ bà Nguyễn Thị Dương Hà đã nhiều lần gửi giấy đến cho ông Nguyễn Hữu Chính, Chánh tòa Hình Sự Hà Nội và cũng là chủ tọa phiên tòa ông Vũ; bà Hà yêu cầu tòa thực thi đúng quyền lợi bị cáo khi để thân nhân họ tham dự. Nhưng ông Nguyễn Hữu Chính một mực làm ngơ trước đề nghị của bà Dương Hà.
Nhìn lại những vụ án mà tòa Việt Nam kêu là xét xử công khai, thì điều ngạc nhiên là khi mở cửa phòng xét xử đã đầy ắp người ở đâu đến trước. Những người khác muốn tham dự đều bị cảnh sát từ chối với lý do phòng giam đã “chật chỗ”.
Còn những người có mặt tại tòa sẵn đó thì sao? Thường họ là những đảng viên về hưu, cựu chiến binh được huy động đến tòa ngồi để chiếm chỗ. Những người này đều được chỉ định từ trước và tất nhiên có thù lao để ngồi đóng vai khán giả trong tòa.
Vì “không đủ chỗ” như vậy, các phóng viên quốc tế dù đến sớm cách mấy cũng phải ngồi phòng riêng để theo dõi phiên tòa qua màn hình trực tiếp. Điều đặc biệt là đến phần chủ tọa chất vấn, viện kiểm sát luận tội thì âm thanh và hình ảnh rõ nét. Nhưng đến phần bị cáo, luật sư tranh luận, phản bác thì âm thanh và hình ảnh nhiễu không nghe được gì. Điều này xảy ra ở những phiên tòa cụ thể như vụ Linh mục Nguyễn Văn Lý, nhóm giáo dân Thái Hà, nhóm những nhà đấu tranh dân chủ Hải Phòng… và nhiều vụ án có tính chất tương tự.
Bưng bít bên ngoài xã hội đã đành. Bên trong một tòa án đã được be bờ đến thế mà hy vọng cuối cùng của bị cáo được nói lời biện hộ cũng bị bưng bít nốt. Khi quá sợ công lý và sự thật lộ mặt ra, chủ tọa phiên tòa còn làm thay cả viện kiểm sát trong khâu buộc tội bị cáo. Và khi 2 vai nhập một như thế thì lấy đâu ra phần tranh luận công bằng. Cứ mỗi lần đuối lý, chủ tọa lại dùng quyền của mình cắt ngang, không cho bị cáo giải bày tiếp, hay lại quay sang chất vấn về một tội khác nhằm đánh lạc hướng vấn đề mình đuối lý. Tại nhiều phiên tòa chủ tọa sẵng giọng hỏi luôn mồm: “bị cáo thấy tội chưa, bị cáo nhận tội chưa, tội bị cáo là thế đấy”. Còn viện kiểm sát chỉ ngồi vểnh râu nhàn nhã vì mọi sự được chủ tọa làm hộ hết rồi.
Hầu hết thời gian của tòa là để đọc cáo trạng. Các cáo trạng đều dài lê thê, bao luôn hầu hết các tình tiết điều tra. Với nhiều điều bị cáo buộc như thế nhưng khi tới phần tranh luận thì chỉ mươi phút là đã xong hết như đã nói ở trên. Dường như tố tụng ở Việt Nam ta, ăn nhau là ở cái cáo trạng. Và cáo trạng hay kết luận thì do cơ quan điều tra đã làm hộ hết cho tòa. Vì vậy, công việc duy nhất của tòa là đóng kịch, đọc lê thê cho hết thì giờ, và kết thúc cho nhanh những bản án định sẵn do phía công an “đề nghị”.
Ngay chính nhiều nhân viên của tòa án Việt Nam còn ngao ngán cho nghề nghiệp của mình khi nói: “Ở Việt Nam, Bộ Chính Trị là to nhất, đứng trên cả pháp luật. Mà ở đấy có mấy ông công an. Còn bên tòa án thì có được ông nào ngồi trong Bộ Chính Trị đâu. Thế thì lấy đâu ra sức mạnh độc lập của tòa án?”
Riêng các vụ án liên quan đến loại trọng tội như xâm phạm an ninh quốc gia, tuyên truyền chống phá chế độ, lật đổ chính quyền, tức những vụ phức tạp cần phải tranh luận chi tiết về bằng chứng, động cơ, hành động, mức thiệt hại, v.v…, thì các phiên tòa xử các vụ án ấy lại càng ngắn. Có khi chỉ vài tiếng đồng hồ, mà trong đó phần giới thiệu thủ tục, nhân thân, cáo trạng chiếm hết ¾ thời gian rồi. Và đó cũng là bằng chứng cho thấy những bản án đã được định sẵn từ trước. Vì chẳng có tòa án đúng nghĩa nào trên thế giới có thể kết luận về tội trong vòng dăm ba phút tranh luận như thế nổi, dù chỉ là những tội nhỏ như vi phạm luật giao thông.
Trong vụ án tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ sắp tới, sẽ có đến 5 luật sư tham gia. Bản thân ông Vũ cũng là một tiến sĩ luật, có trình độ lý luận chặt chẽ và khoa học. Với một phiên tòa công bằng và với tội danh lớn như thế, ít nhất phần tranh luận không thể dưới một tuần lễ để làm rõ từng luận điểm. Nhưng cho đến nay, chưa có luật sư nào nghĩ rằng phiên tòa sẽ kéo dài quá một ngày.
Với mỗi lần biến tòa án thành trò hề như thế, lãnh đạo Đảng và nhà nước lại tiếp tục đánh rớt lớp phần cuối cùng trên khuôn mặt đang lở từng mảng, để lộ ra thứ bản chất dối trá và đê tiện ngày càng rõ.
Người dân đang xôn xao: dù XỬ KÍN như vụ các quan chức mua dâm ở Hà Giang, hay XỬ HỞ như đối với tiếng nói lương tâm Cù Huy Hà Vũ, lãnh đạo Đảng đều đang rất “hở hang” về bản chất của họ trước mắt toàn dân và thế giới.
LỊCH SỮ ĐÃ SANG TRANG: ĐẤT NƯỚC RỒI SẼ KHÔNG CÒN NHỮNG THÁNG NGÀY ĐEN TỐI
Tô Định làm Thái Thú quận Giao Chỉ
Năm Kiến Vũ thứ mười, tức năm Giáp Ngọ 34 sau Tây Lịch, vua Hán là Quang Vũ Đế cử Tô Định làm Thái Thú quận Giao Chỉ. Năm 40, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, đuổi Tô Định ra khỏi thành Luy Lâu, gây nền tự chủ cho dân Việt trên địa giới cũ của các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố.
Nền tự chủ ấy chưa được bao lâu, tháng Chạp năm Kiến Vũ thứ 17, tức tháng 1 năm 42 sau Tây lịch, Hán Quang Vũ cử Mã Viện Nam chinh, đánh lấy lại đất Giao Châu.
Mã Viện là một đại danh tướng của Đông Hán, được mệnh danh là Phục Ba tướng quân, tức là Tướng quân hàng phục sóng dữ. Năm ấy Mã Viện đã 70 tuổi, vừa dẹp xong cuộc nổi loạn của Lý Quảng ở Hoãn Thành, thuộc tỉnh An Huy, Trung Quốc ngày nay. Mã Viện có hai phó tướng Lưu Long và Đoàn Chí. Họ Đoàn phụ trách thủy quân. Mã Viện mang một vạn quân lấy ở các quận Trường Sa, Linh Lăng, Quế Dương và Thương Ngô; từ Hồ Nam xuôi xuống Lưỡng Quảng. Tại những vùng chưa thuộc ảnh hưởng của Hai Bà Trưng, Mã Viện tuyển thêm một vạn hai ngàn quân bộ rồi hội binh với thủy quân của Đoàn Chí tại Hợp Phố, tức vùng bán đảo đối diện đảo Hải Nam bây giờ. Mã Viện theo đường thủy tiến vào Quảng Yên, theo sông Thái Bình tiến vào Trung Châu.
Quân Đông Hán đông hơn về số lượng, thiện chiến hơn, lại được chỉ huy bởi một danh tướng đã có gần nửa thế kỷ cầm quân. Trong khi đó, quân Nam tuy lòng yêu nước có thừa, nhưng số lượng đã ít, lại là quân ô hợp. Đánh nhau nhiều trận cho đến tháng 4 năm 43. Quân Nam và quân Đông Hán giao chiến với nhau một trận lớn tại hồ Lãng Bạc.
Nam quân thua trận, Hai Bà lui về Cẩm Khê. Theo sử nước ta thì Hai Bà tự trầm ở Hát Giang.
Mã Viện lập lại nền đô hộ ở Giao Châu, lại dựng một cột đồng to, cho khắc mấy chữ: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”. Tức cột đồng gãy thì Giao Chỉ sẽ bị diệt.
*
Năm Bính Tuất 1406, Minh Thành Tổ hạ chiếu đánh nước ta, lúc ấy do nhà Hồ cai trị đã được sáu năm. Thành Quốc Công Chu Năng được phong làm Đại tướng, Tán Bình Hầu Trương Phụ và Tây Bình Hầu Mộc Thạnh làm tả, hữu phó tướng. Phong Thành Hầu Lý Bân, Vân Dương Bá Trần Húc làm tả, hữu tham tướng, chia quân làm hai đạo tiến sang nước ta.
Khi đến Long Châu, Quảng Tây thì Chu Năng bị bệnh chết. Trương Phụ lên thay, theo lối Bằng Tường, từ Quảng Tây đánh vào ải Nam Quan. Mộc Thạnh đi ngã Vân Nam, đánh vào Phú Lĩnh, xuôi theo sông Thao mà xuống, họp cùng Trương Phụ tại Bạch Hạc, Vĩnh Yên. Tháng Chạp năm Bính Tuất 1406, Trương Phụ đánh thành Đa Bang. Trương Phụ cùng Đốc tướng Trần Duệ đánh mặt Đông Nam, đều dùng thang vân thê để leo thành. Thành vỡ, quân Minh tiến xuống Đông Đô, tức Hà Nội ngày nay.
Tháng 3 năm Đinh Hợi 1407, Mộc Thạnh đem quân thủy lục tiến xuống Mộc Phàm giang, hạ trại hai bên bờ sông. Tả Tướng quốc Hồ Nguyên Trừng, là con thứ của Hồ Quý Ly đem 300 chiến thuyền đánh vào Mộc Phàm, bị quân Minh tập công từ hai phía phải rút lui về cửa Muộn Hải, thuộc huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định bây giờ, hợp với hai tướng Hồ Đô, Hồ Xạ đào hào đắp lũy, tính kế phòng thủ lâu dài.
Hồ Nguyên Trừng rước Thái Thượng Hoàng Hồ Quý Ly và vua Hồ Hán Thương ở Tây Đô ra Hoàng Giang, mở một trận phản công lớn vào Hàm Tử. Thủy lục của Hồ Nguyên Trừng lúc ấy có 7 vạn. Hồ Xạ, Trần Đĩnh đánh vào bờ phía Nam, Đỗ Nhân Giám, Trần Khắc Trang đánh vào bờ phía Bắc. Thủy quân do Đỗ Mãn, Hồ Vấn chỉ huy.
Quân Minh để quân Nam vào sâu trong trận mới ra đánh. Quân Nam đại bại. An phủ sứ Bắc Giang là Nguyễn Hy Chu bị bắt và bị Trương Phụ chém. Thượng Hoàng Hồ Quý Ly và Hán Thương chạy ra bể lui về Thanh Hóa. Quân Minh đuổi theo rất gấp. Quý Ly lại chạy vào Nghệ An. Tháng 5 năm ấy (1407) Quý Ly và Hán Thương đến cửa Kỳ La, nay thuộc huyện Kỳ Anh tỉnh Nghệ An.
Trương Phụ sai Mộc Thạnh đi đường bộ, Liễu Thăng đi đường thủy vây bắt được Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương, Tả Tướng Quốc Hồ Nguyên Trừng, Hữu Tướng Quốc Hồ Quý Tỳ, em ruột Hồ Quý Ly cùng nhiều đại thần. Tất cả bị giải về Kim Lăng, Trung Hoa.
*
Cũng năm Đinh Hợi 1407, Giản Định Vương Trần Quỹ, con thứ vua Trần Nghệ Tông
phất cờ khởi nghĩa, được Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân theo phò tá, lòng người theo về. Tháng Chạp năm Mậu Tý 1408, Giản Định Đế từ Hóa Châu tiến ra phía Bắc. Tướng Minh đang cai trị nước ta là Lữ Nghị cấp báo về Kim Lăng. Minh Thành Tổ phái Mộc Thạnh đem 4 vạn quân từ Vân Nam sang cứu viện. Giản Định Đế muốn thừa cơ đánh thẳng ra Đông Đô, còn Đặng Tất lại chủ trương đợi quân các nơi về đông đủ rồi hãy tấn công. Vua tôi bất hòa, Giản Định Đế nghe lời dèm pha giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân, lòng người chán nản.
Con Đặng Tất là Đặng Dung và con Nguyễn Cảnh Chân là Nguyễn Cảnh Dị đem quân bản bộ bỏ Giản Định Đế về Hà Tĩnh lập cháu vua Nghệ Tông là Trần Quý Khoách lên ngôi, hiệu là Trùng Quang. Quý Khoách sai Nguyễn Súy bắt Giản Định Đế đưa về tôn làm Thái Thượng Hoàng để thống nhất hai đạo quân kháng chiến.
Trương Phụ lại đem viện binh từ Trung Hoa sang. Quân kháng chiến sức yếu, thua nhiều trận phải lui về phía Nam. Tháng 6 năm Quý Tỵ 1413, quân Minh chiếm Nghệ An, tháng 9 đến Hóa Châu. Quân kháng chiến phản công được vài trận nhưng cuối năm ấy, Quý Khoách cùng các tướng đều bị bắt. Còn Giản Định bị bắt trước đó đã giải về Kim Lăng.
Trương Phụ cho giải Trùng Quang Đế Quý Khoách, Nguyễn Suý, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị về Yên Kinh, Trung Quốc. Dọc đường, vua Trùng Quang nhảy xuống biển tự vận, còn các Tướng kia cũng tử tiết cả.
Tháng Tư năm 43, tháng Năm năm 1407, tháng Mười Một năm 1413 đều là những năm tháng đen tối của đất nước. Trong những năm tháng ấy, đất nước rơi vào tay giặc; lãnh đạo đất nước kẻ tự sát, người bị bắt, bị giết; dân tộc lầm than.
Nhưng lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc đã nhiều lần chứng minh rằng những giờ phút đen tối ấy rồi sẽ qua đi, bởi dân tộc Việt Nam là một dân tộc bất khuất và không chấp nhận bị ngoại bang thống trị. Bà Trưng mất thì đến Bà Triệu, đến Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương. Triệu Việt Vương mất lại có Mai Hắc Đế và Bố Cái Đại Vương, họ Khúc và cuối cùng là Ngô Quyền giành lấy độc lập.
Nhà Hồ vừa bị tiêu diệt thì đến Giản Định Đế, Trùng Quang Đế của nhà Hậu Trần. Nhà Hậu Trần dứt thì chỉ năm năm sau, Bình Định Vương dấy nghĩa ở đất Lam Sơn, mười năm kháng chiến gian khổ để nước nhà độc lập hơn bốn trăm năm.
Mã Viện đã đánh dấu chiến công của mình ở phương Nam bằng cách dựng lên một cột đồng và ngạo nghễ khắc vào đó một lời nguyền, đe dọa diệt chủng: Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt. Cây cột đồng ấy không bao lâu đã bị chôn vùi dưới những viên đá được ném đi bởi lòng căm hờn của những người bị trị; tuy sức yếu nhưng không thiếu tinh thần quật khởi.
Năm Vĩnh Tộ thứ 10, đời vua Lê Thần Tông (1619-1643), Giang Văn Minh quê ở Đường Lâm đỗ Thám Hoa. Năm Dương Hòa thứ 3, cũng đời vua Lê Thần Tông, ông được cử đi sứ sang nhà Minh để nạp đồ tiến cống. Truớc mắt bá quan văn võ và sứ thần các tiểu quốc khác; để thử tài sứ thần nước Việt, vua nhà Minh đã trịch thượng ra câu đối:
Đồng trụ chí kim đài dĩ lục
(Cột đồng đến nay rêu đã xanh)
Sứ thần Việt quốc ngạo nghễ đối lại:
Đằng giang tự cổ huyết do hồng.
(Sông Đằng từ xưa máu còn đỏ)
Câu đối của sứ thần Giang Văn Minh vừa đanh thép vừa tràn đầy tinh thần tự hào dân tộc, nhắc lại ba lần máu nhuộm Đằng Giang: Ngô Vương Quyền giết Hoàng Thao, phá quân Nam Hán, Lê Hoàn diệt quân Tống năm 981 và Hưng Đạo Đại Vương phá Nguyên năm 1288. Mất mặt, vua Minh nổi giận đã làm một chuyện tàn ác là ra lệnh mổ bụng Giang Văn Minh để xem gan sứ Việt bao lớn. Rồi cho khâm liệm và trả di hài về nước.
Vua Lê Thần Tông vô cùng thương tiếc đã thân hành làm lễ tế với lời điếu:
“Sứ bất nhục quân mệnh, khả thi vị thiên cổ anh hùng”.
(Tức là: Đi sứ không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là bậc anh hùng ngàn thuở).
Có một sự trùng hợp lạ lùng: Giang Văn Minh quê ở Đường Lâm cũng lại là quê của Ngô Vương Quyền, người đã lập chiến công đầu tiên trên Bạch Đằng Giang với lời thơ hùng tráng của Phạm Sư Mạnh đời Trần:
Hung hung Bạch Đằng đào,
Tưởng tượng Ngô Vương thuyền
(Bạch Đằng cuồn cuộn sóng trào
Tưởng thuyền Ngô Chúa hôm nào trên sông).
*
Cuộc đô hộ của nhà Minh đối với nước Việt kéo dài 20 năm, nhưng thực sự chỉ có 5 năm hơi yên ổn từ 1413 cho đến năm 1418 là năm mà Bình Định Vương xướng nghĩa. Giặc dù mạnh cũng khó ngồi yên ổn đặt ách cai trị lên đất nước Việt bởi vì:
Nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng văn hiến đã lâu.
Cõi bờ cương vực đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc lập
Cùng Hán, Đuờng, Tống, Nguyên hùng cứ một phương.
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Nhưng hào kiệt đời nào cũng có…”
(Bình Ngô đại cáo)
Hoàn cảnh của miền Nam sau 1975 có hơi khác hơn một chút. Miền Nam đã thực sự bị xâm chiếm và đặt lên một ách cai trị hết sức hà khắc bởi chính những người cộng sản cùng màu da, cùng dòng máu. Tám mươi bốn triệu dân cả nước bây giờ tuy không phải chịu cảnh bị ngoại nhân trực tiếp đô hộ như thời Đông Hán, thời Minh, nhưng bị đô hộ bởi một giai cấp bóc lột, phi nhân là đảng Cộng Sản. Cho đến giờ này, những quyền tự do căn bản nhất của tám mươi bốn triệu người dân chỉ có trên giấy tờ và các ống loa tuyên truyền của đảng. Các quyền tự do căn bản nhất ấy đối với người dân chỉ là những giấc mơ chưa với tới.
Có người sẽ hỏi: Các người đã tranh đấu, đã kêu gào ba mươi sáu năm nay mà chế độ Cộng sản Việt Nam có sụp đổ đâu?
Xin thưa rằng chưa. Chưa chứ chẳng phải là sẽ không bao giờ! Nếu những người dân Đông Âu cứ chấp nhận rằng chế độ Cộng sản Đông Âu sẽ không bao giờ sụp đổ; không có cuộc đấu tranh ở Ba Lan, không có những đợt sóng ngầm ở Đông Đức, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi, Bảo Gia Lợi… Nếu thế giới cũng nghĩ như vậy và cũng ngồi yên thì Cộng Sản Đông Âu sẽ không nối nhau sụp đổ trong năm 1989.
Nếu đầu năm nay 2011, người người dân của các nước Bắc Phi, Trung Đông cũng chủ bại kêu gọi không nên xuống đường hưởng ứng cuộc Cách Mạng Hoa Lài, thì đâu có chuyện những tên độc tài của các nước như Tunisia, Ai Cập… phải rời bỏ ngai vàng và như tên “ác quán mãn doanh” Kadhafi của Lybia đang trên bước đường cùng.
Đó là một tấm gương, xin những ai chủ bại cho rằng cuộc đấu tranh để giải trừ Cộng Sản ở nước ta hiện nay là lỗi thời hoặc vô vọng. Đó chỉ là những lời xảo ngôn để che dấu tinh thần cầu an, trốn tránh trách nhiệm.
Đố chúng tắc mộc chiết; Nghị đa tắc đê quyết.
Nhiều mọt sẽ làm đổ cây; Nhiều tổ kiến sẽ làm sụp đê!
Trăm suối nhỏ sẽ thành sông lớn. Hàng ngàn sự chống đối đấu tranh, tưởng chừng vô vọng từ mọi phía, góp lại sẽ thành cơn bão lớn đối với Cộng sản Hà Nội.
*
Những năm tháng đen tối của lịch sử đất nước đã qua đi vì chúng ta đã có Trần Bình Trọng thà làm quỷ nước Nam, đã có Trùng Quang Đế, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị tử tiết khi nước mất, có Tổng Đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết theo thành khi thành mất.
Những năm tháng đen tối của đất nước ta hiện nay cũng sẽ qua đi vì năm 1975 chúng ta đã có Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, Phạm Đức Lợi… Và sau năm 1975, chúng ta đã có Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân cùng hàng ngàn anh hùng, liệt sĩ khác mà rồi một ngày không xa lịch sử sẽ tìm đến để ghi tên.
Những năm tháng đen tối hiện nay rồi cũng sẽ qua đi vì hiện nay trong cũng như ngoài nước vẫn còn những người âm thầm hy sinh cho đại cuộc bằng cách này hay cách khác.
Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới…
(Bình Ngô đại cáo).
*
Dân tộc nào, đất nước nào lại chẳng phải trải qua những tháng năm đen tối, đau buồn. Dân tộc và đất nước Việt Nam cũng thế. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đối với chúng ta chẳng bao lâu nữa sẽ trở thành một cái móc lịch sử, một kỷ niệm đau buồn chứ không còn là một vết thương ngày đêm làm tâm can chúng ta nhức nhối, nếu chúng ta đừng ngã lòng.
LÃO MÓC
Năm Kiến Vũ thứ mười, tức năm Giáp Ngọ 34 sau Tây Lịch, vua Hán là Quang Vũ Đế cử Tô Định làm Thái Thú quận Giao Chỉ. Năm 40, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, đuổi Tô Định ra khỏi thành Luy Lâu, gây nền tự chủ cho dân Việt trên địa giới cũ của các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố.
Nền tự chủ ấy chưa được bao lâu, tháng Chạp năm Kiến Vũ thứ 17, tức tháng 1 năm 42 sau Tây lịch, Hán Quang Vũ cử Mã Viện Nam chinh, đánh lấy lại đất Giao Châu.
Mã Viện là một đại danh tướng của Đông Hán, được mệnh danh là Phục Ba tướng quân, tức là Tướng quân hàng phục sóng dữ. Năm ấy Mã Viện đã 70 tuổi, vừa dẹp xong cuộc nổi loạn của Lý Quảng ở Hoãn Thành, thuộc tỉnh An Huy, Trung Quốc ngày nay. Mã Viện có hai phó tướng Lưu Long và Đoàn Chí. Họ Đoàn phụ trách thủy quân. Mã Viện mang một vạn quân lấy ở các quận Trường Sa, Linh Lăng, Quế Dương và Thương Ngô; từ Hồ Nam xuôi xuống Lưỡng Quảng. Tại những vùng chưa thuộc ảnh hưởng của Hai Bà Trưng, Mã Viện tuyển thêm một vạn hai ngàn quân bộ rồi hội binh với thủy quân của Đoàn Chí tại Hợp Phố, tức vùng bán đảo đối diện đảo Hải Nam bây giờ. Mã Viện theo đường thủy tiến vào Quảng Yên, theo sông Thái Bình tiến vào Trung Châu.
Quân Đông Hán đông hơn về số lượng, thiện chiến hơn, lại được chỉ huy bởi một danh tướng đã có gần nửa thế kỷ cầm quân. Trong khi đó, quân Nam tuy lòng yêu nước có thừa, nhưng số lượng đã ít, lại là quân ô hợp. Đánh nhau nhiều trận cho đến tháng 4 năm 43. Quân Nam và quân Đông Hán giao chiến với nhau một trận lớn tại hồ Lãng Bạc.
Nam quân thua trận, Hai Bà lui về Cẩm Khê. Theo sử nước ta thì Hai Bà tự trầm ở Hát Giang.
Mã Viện lập lại nền đô hộ ở Giao Châu, lại dựng một cột đồng to, cho khắc mấy chữ: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”. Tức cột đồng gãy thì Giao Chỉ sẽ bị diệt.
*
Năm Bính Tuất 1406, Minh Thành Tổ hạ chiếu đánh nước ta, lúc ấy do nhà Hồ cai trị đã được sáu năm. Thành Quốc Công Chu Năng được phong làm Đại tướng, Tán Bình Hầu Trương Phụ và Tây Bình Hầu Mộc Thạnh làm tả, hữu phó tướng. Phong Thành Hầu Lý Bân, Vân Dương Bá Trần Húc làm tả, hữu tham tướng, chia quân làm hai đạo tiến sang nước ta.
Khi đến Long Châu, Quảng Tây thì Chu Năng bị bệnh chết. Trương Phụ lên thay, theo lối Bằng Tường, từ Quảng Tây đánh vào ải Nam Quan. Mộc Thạnh đi ngã Vân Nam, đánh vào Phú Lĩnh, xuôi theo sông Thao mà xuống, họp cùng Trương Phụ tại Bạch Hạc, Vĩnh Yên. Tháng Chạp năm Bính Tuất 1406, Trương Phụ đánh thành Đa Bang. Trương Phụ cùng Đốc tướng Trần Duệ đánh mặt Đông Nam, đều dùng thang vân thê để leo thành. Thành vỡ, quân Minh tiến xuống Đông Đô, tức Hà Nội ngày nay.
Tháng 3 năm Đinh Hợi 1407, Mộc Thạnh đem quân thủy lục tiến xuống Mộc Phàm giang, hạ trại hai bên bờ sông. Tả Tướng quốc Hồ Nguyên Trừng, là con thứ của Hồ Quý Ly đem 300 chiến thuyền đánh vào Mộc Phàm, bị quân Minh tập công từ hai phía phải rút lui về cửa Muộn Hải, thuộc huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định bây giờ, hợp với hai tướng Hồ Đô, Hồ Xạ đào hào đắp lũy, tính kế phòng thủ lâu dài.
Hồ Nguyên Trừng rước Thái Thượng Hoàng Hồ Quý Ly và vua Hồ Hán Thương ở Tây Đô ra Hoàng Giang, mở một trận phản công lớn vào Hàm Tử. Thủy lục của Hồ Nguyên Trừng lúc ấy có 7 vạn. Hồ Xạ, Trần Đĩnh đánh vào bờ phía Nam, Đỗ Nhân Giám, Trần Khắc Trang đánh vào bờ phía Bắc. Thủy quân do Đỗ Mãn, Hồ Vấn chỉ huy.
Quân Minh để quân Nam vào sâu trong trận mới ra đánh. Quân Nam đại bại. An phủ sứ Bắc Giang là Nguyễn Hy Chu bị bắt và bị Trương Phụ chém. Thượng Hoàng Hồ Quý Ly và Hán Thương chạy ra bể lui về Thanh Hóa. Quân Minh đuổi theo rất gấp. Quý Ly lại chạy vào Nghệ An. Tháng 5 năm ấy (1407) Quý Ly và Hán Thương đến cửa Kỳ La, nay thuộc huyện Kỳ Anh tỉnh Nghệ An.
Trương Phụ sai Mộc Thạnh đi đường bộ, Liễu Thăng đi đường thủy vây bắt được Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương, Tả Tướng Quốc Hồ Nguyên Trừng, Hữu Tướng Quốc Hồ Quý Tỳ, em ruột Hồ Quý Ly cùng nhiều đại thần. Tất cả bị giải về Kim Lăng, Trung Hoa.
*
Cũng năm Đinh Hợi 1407, Giản Định Vương Trần Quỹ, con thứ vua Trần Nghệ Tông
phất cờ khởi nghĩa, được Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân theo phò tá, lòng người theo về. Tháng Chạp năm Mậu Tý 1408, Giản Định Đế từ Hóa Châu tiến ra phía Bắc. Tướng Minh đang cai trị nước ta là Lữ Nghị cấp báo về Kim Lăng. Minh Thành Tổ phái Mộc Thạnh đem 4 vạn quân từ Vân Nam sang cứu viện. Giản Định Đế muốn thừa cơ đánh thẳng ra Đông Đô, còn Đặng Tất lại chủ trương đợi quân các nơi về đông đủ rồi hãy tấn công. Vua tôi bất hòa, Giản Định Đế nghe lời dèm pha giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân, lòng người chán nản.
Con Đặng Tất là Đặng Dung và con Nguyễn Cảnh Chân là Nguyễn Cảnh Dị đem quân bản bộ bỏ Giản Định Đế về Hà Tĩnh lập cháu vua Nghệ Tông là Trần Quý Khoách lên ngôi, hiệu là Trùng Quang. Quý Khoách sai Nguyễn Súy bắt Giản Định Đế đưa về tôn làm Thái Thượng Hoàng để thống nhất hai đạo quân kháng chiến.
Trương Phụ lại đem viện binh từ Trung Hoa sang. Quân kháng chiến sức yếu, thua nhiều trận phải lui về phía Nam. Tháng 6 năm Quý Tỵ 1413, quân Minh chiếm Nghệ An, tháng 9 đến Hóa Châu. Quân kháng chiến phản công được vài trận nhưng cuối năm ấy, Quý Khoách cùng các tướng đều bị bắt. Còn Giản Định bị bắt trước đó đã giải về Kim Lăng.
Trương Phụ cho giải Trùng Quang Đế Quý Khoách, Nguyễn Suý, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị về Yên Kinh, Trung Quốc. Dọc đường, vua Trùng Quang nhảy xuống biển tự vận, còn các Tướng kia cũng tử tiết cả.
Tháng Tư năm 43, tháng Năm năm 1407, tháng Mười Một năm 1413 đều là những năm tháng đen tối của đất nước. Trong những năm tháng ấy, đất nước rơi vào tay giặc; lãnh đạo đất nước kẻ tự sát, người bị bắt, bị giết; dân tộc lầm than.
Nhưng lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc đã nhiều lần chứng minh rằng những giờ phút đen tối ấy rồi sẽ qua đi, bởi dân tộc Việt Nam là một dân tộc bất khuất và không chấp nhận bị ngoại bang thống trị. Bà Trưng mất thì đến Bà Triệu, đến Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương. Triệu Việt Vương mất lại có Mai Hắc Đế và Bố Cái Đại Vương, họ Khúc và cuối cùng là Ngô Quyền giành lấy độc lập.
Nhà Hồ vừa bị tiêu diệt thì đến Giản Định Đế, Trùng Quang Đế của nhà Hậu Trần. Nhà Hậu Trần dứt thì chỉ năm năm sau, Bình Định Vương dấy nghĩa ở đất Lam Sơn, mười năm kháng chiến gian khổ để nước nhà độc lập hơn bốn trăm năm.
Mã Viện đã đánh dấu chiến công của mình ở phương Nam bằng cách dựng lên một cột đồng và ngạo nghễ khắc vào đó một lời nguyền, đe dọa diệt chủng: Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt. Cây cột đồng ấy không bao lâu đã bị chôn vùi dưới những viên đá được ném đi bởi lòng căm hờn của những người bị trị; tuy sức yếu nhưng không thiếu tinh thần quật khởi.
Năm Vĩnh Tộ thứ 10, đời vua Lê Thần Tông (1619-1643), Giang Văn Minh quê ở Đường Lâm đỗ Thám Hoa. Năm Dương Hòa thứ 3, cũng đời vua Lê Thần Tông, ông được cử đi sứ sang nhà Minh để nạp đồ tiến cống. Truớc mắt bá quan văn võ và sứ thần các tiểu quốc khác; để thử tài sứ thần nước Việt, vua nhà Minh đã trịch thượng ra câu đối:
Đồng trụ chí kim đài dĩ lục
(Cột đồng đến nay rêu đã xanh)
Sứ thần Việt quốc ngạo nghễ đối lại:
Đằng giang tự cổ huyết do hồng.
(Sông Đằng từ xưa máu còn đỏ)
Câu đối của sứ thần Giang Văn Minh vừa đanh thép vừa tràn đầy tinh thần tự hào dân tộc, nhắc lại ba lần máu nhuộm Đằng Giang: Ngô Vương Quyền giết Hoàng Thao, phá quân Nam Hán, Lê Hoàn diệt quân Tống năm 981 và Hưng Đạo Đại Vương phá Nguyên năm 1288. Mất mặt, vua Minh nổi giận đã làm một chuyện tàn ác là ra lệnh mổ bụng Giang Văn Minh để xem gan sứ Việt bao lớn. Rồi cho khâm liệm và trả di hài về nước.
Vua Lê Thần Tông vô cùng thương tiếc đã thân hành làm lễ tế với lời điếu:
“Sứ bất nhục quân mệnh, khả thi vị thiên cổ anh hùng”.
(Tức là: Đi sứ không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là bậc anh hùng ngàn thuở).
Có một sự trùng hợp lạ lùng: Giang Văn Minh quê ở Đường Lâm cũng lại là quê của Ngô Vương Quyền, người đã lập chiến công đầu tiên trên Bạch Đằng Giang với lời thơ hùng tráng của Phạm Sư Mạnh đời Trần:
Hung hung Bạch Đằng đào,
Tưởng tượng Ngô Vương thuyền
(Bạch Đằng cuồn cuộn sóng trào
Tưởng thuyền Ngô Chúa hôm nào trên sông).
*
Cuộc đô hộ của nhà Minh đối với nước Việt kéo dài 20 năm, nhưng thực sự chỉ có 5 năm hơi yên ổn từ 1413 cho đến năm 1418 là năm mà Bình Định Vương xướng nghĩa. Giặc dù mạnh cũng khó ngồi yên ổn đặt ách cai trị lên đất nước Việt bởi vì:
Nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng văn hiến đã lâu.
Cõi bờ cương vực đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc lập
Cùng Hán, Đuờng, Tống, Nguyên hùng cứ một phương.
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Nhưng hào kiệt đời nào cũng có…”
(Bình Ngô đại cáo)
Hoàn cảnh của miền Nam sau 1975 có hơi khác hơn một chút. Miền Nam đã thực sự bị xâm chiếm và đặt lên một ách cai trị hết sức hà khắc bởi chính những người cộng sản cùng màu da, cùng dòng máu. Tám mươi bốn triệu dân cả nước bây giờ tuy không phải chịu cảnh bị ngoại nhân trực tiếp đô hộ như thời Đông Hán, thời Minh, nhưng bị đô hộ bởi một giai cấp bóc lột, phi nhân là đảng Cộng Sản. Cho đến giờ này, những quyền tự do căn bản nhất của tám mươi bốn triệu người dân chỉ có trên giấy tờ và các ống loa tuyên truyền của đảng. Các quyền tự do căn bản nhất ấy đối với người dân chỉ là những giấc mơ chưa với tới.
Có người sẽ hỏi: Các người đã tranh đấu, đã kêu gào ba mươi sáu năm nay mà chế độ Cộng sản Việt Nam có sụp đổ đâu?
Xin thưa rằng chưa. Chưa chứ chẳng phải là sẽ không bao giờ! Nếu những người dân Đông Âu cứ chấp nhận rằng chế độ Cộng sản Đông Âu sẽ không bao giờ sụp đổ; không có cuộc đấu tranh ở Ba Lan, không có những đợt sóng ngầm ở Đông Đức, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi, Bảo Gia Lợi… Nếu thế giới cũng nghĩ như vậy và cũng ngồi yên thì Cộng Sản Đông Âu sẽ không nối nhau sụp đổ trong năm 1989.
Nếu đầu năm nay 2011, người người dân của các nước Bắc Phi, Trung Đông cũng chủ bại kêu gọi không nên xuống đường hưởng ứng cuộc Cách Mạng Hoa Lài, thì đâu có chuyện những tên độc tài của các nước như Tunisia, Ai Cập… phải rời bỏ ngai vàng và như tên “ác quán mãn doanh” Kadhafi của Lybia đang trên bước đường cùng.
Đó là một tấm gương, xin những ai chủ bại cho rằng cuộc đấu tranh để giải trừ Cộng Sản ở nước ta hiện nay là lỗi thời hoặc vô vọng. Đó chỉ là những lời xảo ngôn để che dấu tinh thần cầu an, trốn tránh trách nhiệm.
Đố chúng tắc mộc chiết; Nghị đa tắc đê quyết.
Nhiều mọt sẽ làm đổ cây; Nhiều tổ kiến sẽ làm sụp đê!
Trăm suối nhỏ sẽ thành sông lớn. Hàng ngàn sự chống đối đấu tranh, tưởng chừng vô vọng từ mọi phía, góp lại sẽ thành cơn bão lớn đối với Cộng sản Hà Nội.
*
Những năm tháng đen tối của lịch sử đất nước đã qua đi vì chúng ta đã có Trần Bình Trọng thà làm quỷ nước Nam, đã có Trùng Quang Đế, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị tử tiết khi nước mất, có Tổng Đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết theo thành khi thành mất.
Những năm tháng đen tối của đất nước ta hiện nay cũng sẽ qua đi vì năm 1975 chúng ta đã có Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, Phạm Đức Lợi… Và sau năm 1975, chúng ta đã có Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân cùng hàng ngàn anh hùng, liệt sĩ khác mà rồi một ngày không xa lịch sử sẽ tìm đến để ghi tên.
Những năm tháng đen tối hiện nay rồi cũng sẽ qua đi vì hiện nay trong cũng như ngoài nước vẫn còn những người âm thầm hy sinh cho đại cuộc bằng cách này hay cách khác.
Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới…
(Bình Ngô đại cáo).
*
Dân tộc nào, đất nước nào lại chẳng phải trải qua những tháng năm đen tối, đau buồn. Dân tộc và đất nước Việt Nam cũng thế. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đối với chúng ta chẳng bao lâu nữa sẽ trở thành một cái móc lịch sử, một kỷ niệm đau buồn chứ không còn là một vết thương ngày đêm làm tâm can chúng ta nhức nhối, nếu chúng ta đừng ngã lòng.
LÃO MÓC
Lãnh đạo csVN và nghi án Bao…cu !
Nếu lấy nhân cách con người để làm thước đo thì rõ ràng ’14 ông quan lớn’ trong BCT đứng chưa tới cái lai quần xà lỏn của ông Tiến sĩ Luật này , đem Tri thức mà so lại càng tệ hơn , có lẻ vì thế mà các cụ lãnh đạo csVN không dám đối thoại cùng ông . Trong chế độ cộng sản thì từ tên cắc ké cho tới các quan có số má trong triều đình đầu đất tên nào cũng không thích nghe Ý kiến đối lập và chúng rất sợ những Trí thức không thuộc loại ‘cục cứt’ có xuất xứ từ trường đảng . Hồng hơn chuyên là vậy . đảng không thích ai thắc mắc kiểu Cuốc hội : Ồ ! sao bé không lắc…
Ông Tiến Sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ là ân nhân của tầng lớp dân oan đã đành , Ông còn là tấm gương cho Tuổi trẻ và cũng là lời nhắc nhở nhẹ nhàng cho những ai còn quan tâm đến đất nước khốn cùng này bởi sự lãnh đạo ‘tài tình’ của đảng. Ông đã nêu đích danh tên lưu manh TT Nguyễn tấn Dũng , Chỉ thẳng mặt tên khủng bố tin tặc tướng Vũ hải Triều . Nói thẳng nói thật nói hết lòng chứ không xách mé xa gần thì rõ ràng ông không biết sợ là gì , đơn giản những điều ông góp ý hay chỉ trích cả guồng máy cai trị của đảng đều dựa trên Pháp luật của chính đảng cộng sản , lại nói quá đúng nên cả lũ các cụ im re như cái khe không nước chảy vào mùa khô hạn . Điều đó không phải là sự liều lĩnh hay ngông cuồng theo cách nói của trên dưới 700 tờ báo chùi trong nước . Ông Tiến Sĩ Luật rất chính chắn khi yêu tầng lớp dân nghèo thấp cổ bé miệng và cứng cựa lúc phải đối đầu với các cụ tự phát , buộc đảng phải chơi trò hạ tiện vì chẳng đủ bản lĩnh để có thể đối thoại cùng ông . Một con người bình thường nhưng không tầm thường như các cụ , là thành luỹ cho tầng lớp khốn cùng trong xã hội nạn nhân của các cụ
Kể từ đảng quăng thân vào khách sạn làm cuộc cách mạng để tìm cho bằng được vật chứng là hai cái bao Cu…Condom Made in các cụ nổi tiếng từ dạo đó . Huế , Saigon , Hà nội giờ đây hễ ai nhắc tới bao Cu là thiên hạ liên tưởng đến 14 cụ ‘Bao công’ ba đình , nói ngắn gọn là đảng cộng sản và nghi án bao,,,Cu . Năm châu bốn bể chắc cũng không hiểu nỗi Việt Nam đang xảy ra cái gì mà mấy ông lãnh đạo csVN cứ chơi trò trốn tìm với mấy cái áo mưa…đã mặc rồi trong khi người dân đang gồng mình để chống cái thằng vật giá leo thẳng lên mâm cơm của người nghèo để giành giật từng miếng thịt miếng cá của tầng lớp khốn cùng trong xã hội .
Cả nước Việt Nam cùng loài người Văn minh trên thế giới đang nhìn vào nghi án của các cụ . Trí thức , Tuổi trẻ và mọi tầng lớp trong Xã hội đều đang hướng về Công Lý – Sự thật cho LS Cù Huy Hà Vũ cùng các Tù nhân lương tâm đang bị giam cầm cách bất công . Họ có thể xuống đường bất cứ lúc nào nếu đảng ngoan cố dựa vào bạo lực và sức mạnh của vũ khí mua bằng tiền dân thì thật xuẩn ngốc . Khi dân nỗi trận lôi đình là điều khó tưởng tượng nổi , nói cho dễ hiểu là coi chửng ‘Má đảng nhìn không ra’.
nguoithathoc1959
Ông Tiến Sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ là ân nhân của tầng lớp dân oan đã đành , Ông còn là tấm gương cho Tuổi trẻ và cũng là lời nhắc nhở nhẹ nhàng cho những ai còn quan tâm đến đất nước khốn cùng này bởi sự lãnh đạo ‘tài tình’ của đảng. Ông đã nêu đích danh tên lưu manh TT Nguyễn tấn Dũng , Chỉ thẳng mặt tên khủng bố tin tặc tướng Vũ hải Triều . Nói thẳng nói thật nói hết lòng chứ không xách mé xa gần thì rõ ràng ông không biết sợ là gì , đơn giản những điều ông góp ý hay chỉ trích cả guồng máy cai trị của đảng đều dựa trên Pháp luật của chính đảng cộng sản , lại nói quá đúng nên cả lũ các cụ im re như cái khe không nước chảy vào mùa khô hạn . Điều đó không phải là sự liều lĩnh hay ngông cuồng theo cách nói của trên dưới 700 tờ báo chùi trong nước . Ông Tiến Sĩ Luật rất chính chắn khi yêu tầng lớp dân nghèo thấp cổ bé miệng và cứng cựa lúc phải đối đầu với các cụ tự phát , buộc đảng phải chơi trò hạ tiện vì chẳng đủ bản lĩnh để có thể đối thoại cùng ông . Một con người bình thường nhưng không tầm thường như các cụ , là thành luỹ cho tầng lớp khốn cùng trong xã hội nạn nhân của các cụ
Kể từ đảng quăng thân vào khách sạn làm cuộc cách mạng để tìm cho bằng được vật chứng là hai cái bao Cu…Condom Made in các cụ nổi tiếng từ dạo đó . Huế , Saigon , Hà nội giờ đây hễ ai nhắc tới bao Cu là thiên hạ liên tưởng đến 14 cụ ‘Bao công’ ba đình , nói ngắn gọn là đảng cộng sản và nghi án bao,,,Cu . Năm châu bốn bể chắc cũng không hiểu nỗi Việt Nam đang xảy ra cái gì mà mấy ông lãnh đạo csVN cứ chơi trò trốn tìm với mấy cái áo mưa…đã mặc rồi trong khi người dân đang gồng mình để chống cái thằng vật giá leo thẳng lên mâm cơm của người nghèo để giành giật từng miếng thịt miếng cá của tầng lớp khốn cùng trong xã hội .
Cả nước Việt Nam cùng loài người Văn minh trên thế giới đang nhìn vào nghi án của các cụ . Trí thức , Tuổi trẻ và mọi tầng lớp trong Xã hội đều đang hướng về Công Lý – Sự thật cho LS Cù Huy Hà Vũ cùng các Tù nhân lương tâm đang bị giam cầm cách bất công . Họ có thể xuống đường bất cứ lúc nào nếu đảng ngoan cố dựa vào bạo lực và sức mạnh của vũ khí mua bằng tiền dân thì thật xuẩn ngốc . Khi dân nỗi trận lôi đình là điều khó tưởng tượng nổi , nói cho dễ hiểu là coi chửng ‘Má đảng nhìn không ra’.
nguoithathoc1959
Phạm Viết Đào: Con nợ Vinashin được mổ xẻ hôm 26/3/2011 thế nào? (bài 4)
Nguồn: Blog Phạm Viết Đào
Hai Xe Ôm.
Bài 4: CT QUỐC HỘI NGUYỄN PHÚ TRỌNG CÓ GIỐNG TRƯƠNG DỰC ĐỨC TRONG TRẬN ĐƯƠNG DƯƠNG-TRÀNG BẢN ?
Loạt bài có liên quan:
Bài 1: “CON NỢ “ VINASHIN ĐƯỢC MỔ XẺ TẠI QUỐC HỘI HÔM NAY (26/3) THẾ NÀO ?
Bài 2: CÁC KHUYẾT TẬT CỦA CHÍNH PHỦ ĐƯỢC MỔ XẺ TẠI PHIÊN HỌP QUỐC HỘI 26/3/2011
Bài 3: CÁC VỊ “TƯ LỆNH” CỦA CHÍNH PHỦ “ NỔ” ĐỂ PHÁ VÂY TRẬN 26/3 THẾ NÀO ?
Ông Nguyễn Phú Trọng, hiện là Chủ tịch Quốc Hội, Tân Tổng Bí thư...
Lại nói, Triệu Tử Long khi xưa, sau khi xông pha trong vòng vây của trăm vạn quân Tào để tìm cứu ấu chúa A Đẩu; Câu chuyện thật cảm động khi mà Cam phu nhân tự gieo mình xuống giếng chết, để cho Triệu Vân rảnh tay mang mang “ấu chúa” về, kể đây cũng là một tấm gương liệt nữ hy sinh cho chồng, cho con, cho sự nghiệp lớn của nhà Thục Hán về sau…Sở dĩ Triệu Vân phải xông pha tên đạn đi cứu ấu chúa là do Lưu Bị khôn, đã bỏ của, bỏ dân, bỏ vợ con… mà chạy thoát thân một mình..
Còn ngày nay nhá, vụ Vinashin đổ bể rầm trời như thế mà chả có đứa đếch nào chịu giơ đầu ra chịu báng ? Nếu Triệu Tử Long chạy đến cầu Tràng Bản, bị quân Tào đuổi riết sau lưng xem chừng nguy cấp lắm. May thay lúc đó Triệu Tử Long thì Trương Dực Đức xuất hiện, Triệu Tử Long sung sướng như chết đuối vớ được cọc khẩn khoản: Dực Đức cứu ta với. Dực Đức quát lớn: Tử Long cứ việc qua cầu, để quân Tào đấy cho ta chống cự…
Tử Long mang ấu chúa qua cầu rồi thì quân Tào ập đến thấy Trương Dực Đức râu hùm, hàm én, mắt tròn xoe tay lăm lăm bát xà mâu cưỡi ngựa đứng trên cầu một mình; thấy lạ, quân Tào không tướng nào dám xông lên, đành dừng lại dàn hàng chữ nhất chờ chủ tướng Tào Tháo đến để quyết định: tiếp tục xông lên truy kích Lưu Bị hay thôi…
Thấy quân tướng dừng lại trước cầu Tràng Bản, Tào Tháo cùng tả hữu xông đến hỏi nguyên cớ làm sao mà dừng lại ? Quân tướng chỉ Trương Phi đang đứng trên cầu. Thấy Tào Tháo đến, Trương Dực Đức trợn mắt quát to: Ta là Trương Dực Đức người nước Yên đây, có ai dám quyết sống mái với ta không ?
Trương Dực Đức quát to ba lần, tiếng quát của Dực Đức vang động làm cho 2 tướng Tào hoảng quá đứt ruột mà rơi xuống ngựa chết; thấy thế Tào Tháo cũng hoảng liền quay ngựa tháo chạy…Thấy Tào Tháo bỏ chạy, quân Tào cũng tán loạn chạy theo. Thấy Tào Tháo và quân Tào bỏ chạy, do thân cô thế cô nên Dực Đức không dám đuổi theo mà chỉ lấy gươm chặt phá cầu Trường Bản để ngăn không cho quân Tào đuổi theo. Hành động này của Dực Đức sau đó đã bị Lưu Bị chê là “ vũ dũng vô mưu”; nếu chặt cầu tức là chứng tỏ sợ, thấy sợ tất nhiên quân Tào sẽ quay lại đuổi…
Chuyện Trương Dực Đức đứng trên cầu Tràng Bản thời Tam Quốc, chỉ quát một tiếng mà làm đứt ruột mấy tỳ tướng yếu bóng vía của Tào Tháo, khiến cho quân Tào tán loạn chạy sao giống với tình thế đã xảy ra tại phiên họp bế mạc của Quốc hội vừa qua…Trong phiên họp ngày 26/3 hàng chục ý kiến của các đại biểu Quốc hội ào ạt tấn công, truy vấn Chính phủ gay gắt khiến cho các tướng của Chính phủ chạy dày, “nổ” loạn xạ, “nổ” rất hăng nhưng chỉ là “ nổ “ vu vơ, chỉ thiên để lấy le là chính chứ có chống trả được gì đâu, phản công được gì đâu…
Chính vào lúc nguy cấp đó, vị thống soái tối cao, Chủ tịch Nguyễn Phú Trọng mới ra chiêu, ông tuyên bố một câu xanh rờn: Thủ tướng điều hành công việc rất năng động, quyết liệt; Câu nói này của Chủ tịch sao giống với câu quát làm rụng rời trăm vạn quân Tào của Trương Dực Đức tại cầu Tràng Bản khi xưa…
Nếu quân Tào khi xưa tưởng chỉ gắng lên một chút là có thể tóm được cha con Lưu Bị, thế nhưng nào ngờ gặp phải tay Trương Dực Đức, chỉ quát một tiếng khiến cho quân Tào tán loạn. Còn trong kỳ học Quốc hội vừa qua, chỉ một nhận xét của Chủ tịch Quốc hội như trên về Thủ tướng là ngay lập tức hóa giải, vô hiệu toàn bộ nộ khí cũng như những đòn tiến công vũ bão của đội quân Quốc hội…
Khi xưa, khi bỏ chạy được mấy chục dặm rồi, Tào Tháo còn lấy tay sờ lên đầu hỏi tả hữu: Đầu ta còn không ? Còn trong kỳ họp Quốc hội vừa qua, bế mạc ra về, nghe nói cũng có vị đại biểu, bắt đầu tỉnh đòn, đã vò đầu bứt tai phàn nàn với vợ con: Mình hăng máu tấn công Chính phủ như thế, không biết sắp tới cái ghế của mình còn không ???
Khi xưa bằng uy lực cá nhân của một danh tướng, Trương Phi đã quát lui được trăm vạn quân Tào; Còn ngày nay thì Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng với uy quyền Chủ tịch cộng uy quyền của Tân Tổng Bí thư nên không cần phải quát, ông chỉ cần một câu nói nhẹ nhàng thôi mà đã lập tức làm thúc thủ bao nhiêu “ võ tướng “ của độ quân Quốc hội…Có thể nói đây là một độc chiêu, một đòn cao thủ của Chủ tịch Quốc hội, của Tân Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng…
Bởi theo dư luận vỉa hè thì: trước khi tiến hành Đại hội Đảng, trong Ban chấp hành Trung ương khóa X có 2 ứng cử viên sáng giá chạy đua vào chức Tổng Bí thư, nghe nói có những cuộc bỏ phiếu ông Nguyễn Tấn Dũng còn cao phiếu hơn ông Nguyễn Phú Trọng; Chuyện này không biết thực hư ra làm sao…Thành ra việc đắc cử vào vị trí Tổng Bí thư của ông Nguyễn Phú Trọng đã chắc gì tâm phục khẩu phục được ông Nguyễn Tấn Dũng…
Khi xưa trong cuộc đấu tranh giành quyền lực thời phong kiến, bên ta cũng như bên Tàu thường có các miếng võ sau đây: ném vào đất chết để mà sống… Khi thấy đối thủ chưa chịu thần phục mình, lập tức lừa miếng cho quân đẩy đối thủ xuống bùn; đợi cho đối thủ ngắc ngứ lúc đó mới tự giơ tay vớt lên, lấy khăn lau mặt mũi cho đối thủ và ném cho cái quần, cái áo gì đó đễ đỡ bất phần trơ…Thế là đối thủ tâm phục, khẩu phục nhận là đại ca ngay lập tức…
Nhớ trận Tào Tháo bắt sống Lã Bố, Trương Liêu, biết Trương Liêu là một dũng tướng lại là người trung nghĩa, Tào Tháo muốn dụ hàng. Tào Tháo cho cả Vân Trường, một bạn chí cốt của Trương Liêu ra dụ nhưng Liêu đâu có chịu hàng, thậm chí còn chửi Tào Tháo như tát nước vào mặt. Đợi đến khi Tháo quát tả hữu lôi Trương Liêu ra chém, chuẩn bị khai đao, lúc đó Tháo mới tự tay ra cởi trói cho Trương Liêu, lúc đó Liêu mới chịu hàng ?!
Lời phủ dụ của Chủ tịch Quốc hội kiêm Tân Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa qua trong phiên bế mạc, (sau phiên họp ngày 26/3 ngày các đại biểu chất vấn sát ván Chính phủ), câu: Thủ tướng điều hành năng động và quyết liệt… sao mà giống với việc Tào Tháo tự tay cởi trói để dụ hàng Trương Liêu ?
Như vậy, hành động này của chủ soái Nguyễn Phú Trọng đã lợi dụng thế quân để tăng uy quyền và vị thế của mình vừa mới giành được quả là cao thủ.
Trong chính trường đôi khi cũng phải sử dụng tới mẹo vặt để tranh đoạt quyền uy cũng là lẽ đời. Chỉ lưu ý các vị: sát cánh với nhau, tăng vây cánh cho nhau để rồi cho chìm xuồng cái vụ Vinashin là điều mà lòng dân oán giận lắm đấy.
Với cái lối cơ cấu uy quyền như thế, rất dễ đẻ ra thêm nhiều vụ Vinashin nữa ?! Thật lấy làm lo cho tiền hàng, xã tắc lắm ru…
H.X.Ô.
Hai Xe Ôm.
Bài 4: CT QUỐC HỘI NGUYỄN PHÚ TRỌNG CÓ GIỐNG TRƯƠNG DỰC ĐỨC TRONG TRẬN ĐƯƠNG DƯƠNG-TRÀNG BẢN ?
Loạt bài có liên quan:
Bài 1: “CON NỢ “ VINASHIN ĐƯỢC MỔ XẺ TẠI QUỐC HỘI HÔM NAY (26/3) THẾ NÀO ?
Bài 2: CÁC KHUYẾT TẬT CỦA CHÍNH PHỦ ĐƯỢC MỔ XẺ TẠI PHIÊN HỌP QUỐC HỘI 26/3/2011
Bài 3: CÁC VỊ “TƯ LỆNH” CỦA CHÍNH PHỦ “ NỔ” ĐỂ PHÁ VÂY TRẬN 26/3 THẾ NÀO ?
Ông Nguyễn Phú Trọng, hiện là Chủ tịch Quốc Hội, Tân Tổng Bí thư...
Lại nói, Triệu Tử Long khi xưa, sau khi xông pha trong vòng vây của trăm vạn quân Tào để tìm cứu ấu chúa A Đẩu; Câu chuyện thật cảm động khi mà Cam phu nhân tự gieo mình xuống giếng chết, để cho Triệu Vân rảnh tay mang mang “ấu chúa” về, kể đây cũng là một tấm gương liệt nữ hy sinh cho chồng, cho con, cho sự nghiệp lớn của nhà Thục Hán về sau…Sở dĩ Triệu Vân phải xông pha tên đạn đi cứu ấu chúa là do Lưu Bị khôn, đã bỏ của, bỏ dân, bỏ vợ con… mà chạy thoát thân một mình..
Còn ngày nay nhá, vụ Vinashin đổ bể rầm trời như thế mà chả có đứa đếch nào chịu giơ đầu ra chịu báng ? Nếu Triệu Tử Long chạy đến cầu Tràng Bản, bị quân Tào đuổi riết sau lưng xem chừng nguy cấp lắm. May thay lúc đó Triệu Tử Long thì Trương Dực Đức xuất hiện, Triệu Tử Long sung sướng như chết đuối vớ được cọc khẩn khoản: Dực Đức cứu ta với. Dực Đức quát lớn: Tử Long cứ việc qua cầu, để quân Tào đấy cho ta chống cự…
Tử Long mang ấu chúa qua cầu rồi thì quân Tào ập đến thấy Trương Dực Đức râu hùm, hàm én, mắt tròn xoe tay lăm lăm bát xà mâu cưỡi ngựa đứng trên cầu một mình; thấy lạ, quân Tào không tướng nào dám xông lên, đành dừng lại dàn hàng chữ nhất chờ chủ tướng Tào Tháo đến để quyết định: tiếp tục xông lên truy kích Lưu Bị hay thôi…
Thấy quân tướng dừng lại trước cầu Tràng Bản, Tào Tháo cùng tả hữu xông đến hỏi nguyên cớ làm sao mà dừng lại ? Quân tướng chỉ Trương Phi đang đứng trên cầu. Thấy Tào Tháo đến, Trương Dực Đức trợn mắt quát to: Ta là Trương Dực Đức người nước Yên đây, có ai dám quyết sống mái với ta không ?
Trương Dực Đức quát to ba lần, tiếng quát của Dực Đức vang động làm cho 2 tướng Tào hoảng quá đứt ruột mà rơi xuống ngựa chết; thấy thế Tào Tháo cũng hoảng liền quay ngựa tháo chạy…Thấy Tào Tháo bỏ chạy, quân Tào cũng tán loạn chạy theo. Thấy Tào Tháo và quân Tào bỏ chạy, do thân cô thế cô nên Dực Đức không dám đuổi theo mà chỉ lấy gươm chặt phá cầu Trường Bản để ngăn không cho quân Tào đuổi theo. Hành động này của Dực Đức sau đó đã bị Lưu Bị chê là “ vũ dũng vô mưu”; nếu chặt cầu tức là chứng tỏ sợ, thấy sợ tất nhiên quân Tào sẽ quay lại đuổi…
Chuyện Trương Dực Đức đứng trên cầu Tràng Bản thời Tam Quốc, chỉ quát một tiếng mà làm đứt ruột mấy tỳ tướng yếu bóng vía của Tào Tháo, khiến cho quân Tào tán loạn chạy sao giống với tình thế đã xảy ra tại phiên họp bế mạc của Quốc hội vừa qua…Trong phiên họp ngày 26/3 hàng chục ý kiến của các đại biểu Quốc hội ào ạt tấn công, truy vấn Chính phủ gay gắt khiến cho các tướng của Chính phủ chạy dày, “nổ” loạn xạ, “nổ” rất hăng nhưng chỉ là “ nổ “ vu vơ, chỉ thiên để lấy le là chính chứ có chống trả được gì đâu, phản công được gì đâu…
Chính vào lúc nguy cấp đó, vị thống soái tối cao, Chủ tịch Nguyễn Phú Trọng mới ra chiêu, ông tuyên bố một câu xanh rờn: Thủ tướng điều hành công việc rất năng động, quyết liệt; Câu nói này của Chủ tịch sao giống với câu quát làm rụng rời trăm vạn quân Tào của Trương Dực Đức tại cầu Tràng Bản khi xưa…
Nếu quân Tào khi xưa tưởng chỉ gắng lên một chút là có thể tóm được cha con Lưu Bị, thế nhưng nào ngờ gặp phải tay Trương Dực Đức, chỉ quát một tiếng khiến cho quân Tào tán loạn. Còn trong kỳ học Quốc hội vừa qua, chỉ một nhận xét của Chủ tịch Quốc hội như trên về Thủ tướng là ngay lập tức hóa giải, vô hiệu toàn bộ nộ khí cũng như những đòn tiến công vũ bão của đội quân Quốc hội…
Khi xưa, khi bỏ chạy được mấy chục dặm rồi, Tào Tháo còn lấy tay sờ lên đầu hỏi tả hữu: Đầu ta còn không ? Còn trong kỳ họp Quốc hội vừa qua, bế mạc ra về, nghe nói cũng có vị đại biểu, bắt đầu tỉnh đòn, đã vò đầu bứt tai phàn nàn với vợ con: Mình hăng máu tấn công Chính phủ như thế, không biết sắp tới cái ghế của mình còn không ???
Khi xưa bằng uy lực cá nhân của một danh tướng, Trương Phi đã quát lui được trăm vạn quân Tào; Còn ngày nay thì Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng với uy quyền Chủ tịch cộng uy quyền của Tân Tổng Bí thư nên không cần phải quát, ông chỉ cần một câu nói nhẹ nhàng thôi mà đã lập tức làm thúc thủ bao nhiêu “ võ tướng “ của độ quân Quốc hội…Có thể nói đây là một độc chiêu, một đòn cao thủ của Chủ tịch Quốc hội, của Tân Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng…
Bởi theo dư luận vỉa hè thì: trước khi tiến hành Đại hội Đảng, trong Ban chấp hành Trung ương khóa X có 2 ứng cử viên sáng giá chạy đua vào chức Tổng Bí thư, nghe nói có những cuộc bỏ phiếu ông Nguyễn Tấn Dũng còn cao phiếu hơn ông Nguyễn Phú Trọng; Chuyện này không biết thực hư ra làm sao…Thành ra việc đắc cử vào vị trí Tổng Bí thư của ông Nguyễn Phú Trọng đã chắc gì tâm phục khẩu phục được ông Nguyễn Tấn Dũng…
Khi xưa trong cuộc đấu tranh giành quyền lực thời phong kiến, bên ta cũng như bên Tàu thường có các miếng võ sau đây: ném vào đất chết để mà sống… Khi thấy đối thủ chưa chịu thần phục mình, lập tức lừa miếng cho quân đẩy đối thủ xuống bùn; đợi cho đối thủ ngắc ngứ lúc đó mới tự giơ tay vớt lên, lấy khăn lau mặt mũi cho đối thủ và ném cho cái quần, cái áo gì đó đễ đỡ bất phần trơ…Thế là đối thủ tâm phục, khẩu phục nhận là đại ca ngay lập tức…
Nhớ trận Tào Tháo bắt sống Lã Bố, Trương Liêu, biết Trương Liêu là một dũng tướng lại là người trung nghĩa, Tào Tháo muốn dụ hàng. Tào Tháo cho cả Vân Trường, một bạn chí cốt của Trương Liêu ra dụ nhưng Liêu đâu có chịu hàng, thậm chí còn chửi Tào Tháo như tát nước vào mặt. Đợi đến khi Tháo quát tả hữu lôi Trương Liêu ra chém, chuẩn bị khai đao, lúc đó Tháo mới tự tay ra cởi trói cho Trương Liêu, lúc đó Liêu mới chịu hàng ?!
Lời phủ dụ của Chủ tịch Quốc hội kiêm Tân Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa qua trong phiên bế mạc, (sau phiên họp ngày 26/3 ngày các đại biểu chất vấn sát ván Chính phủ), câu: Thủ tướng điều hành năng động và quyết liệt… sao mà giống với việc Tào Tháo tự tay cởi trói để dụ hàng Trương Liêu ?
Như vậy, hành động này của chủ soái Nguyễn Phú Trọng đã lợi dụng thế quân để tăng uy quyền và vị thế của mình vừa mới giành được quả là cao thủ.
Trong chính trường đôi khi cũng phải sử dụng tới mẹo vặt để tranh đoạt quyền uy cũng là lẽ đời. Chỉ lưu ý các vị: sát cánh với nhau, tăng vây cánh cho nhau để rồi cho chìm xuồng cái vụ Vinashin là điều mà lòng dân oán giận lắm đấy.
Với cái lối cơ cấu uy quyền như thế, rất dễ đẻ ra thêm nhiều vụ Vinashin nữa ?! Thật lấy làm lo cho tiền hàng, xã tắc lắm ru…
H.X.Ô.
Phạm Viết Đào: Con nợ Vinashin được mổ xẻ hôm 26/3/2011 thế nào? (bài 3)
Nguồn: Blog Phạm Viết Đào
Bài 3: CÁC VỊ “TƯ LỆNH” CỦA CHÍNH PHỦ “ NỔ” ĐỂ PHÁ VÂY TRẬN 26/3 THẾ NÀO ?
Do sự xuất hiện một vài vấn đề sốt dẻo, nên loạt bài tường thuật và bình luận về hoạt động chất vấn Chính phủ và trả lời chất vấn tại phiên họp Quốc hội ngày 26/3 mới đưa được 2 bài, Bài 1: “ CON NỢ “ VINASHIN ĐƯỢC MỔ XẺ TẠI QUỐC HỘI HÔM NAY ( 26/3 ) THẾ NÀO ?; Bài 2: CÁC KHUYẾT TẬT CỦA CHÍNH PHỦ ĐƯỢC MỔ XẺ TẠI PHIÊN HỌP QUỐC HỘI 26/3/2011 tạm dừng; Hôm nay, xin đưa tiếp bài thứ 3 và ngày mai dự kiến đưa bài thứ 4, là bài cuối cùng bình về phiên họp ngày 26/3 có tiêu đề:
Bài 4: CT QUỐC HỘI NGUYỄN PHÚ TRỌNG CÓ GIỐNG TRƯƠNG DỰC ĐỨC TRONG TRẬN ĐƯƠNG DƯƠNG-TRÀNG BẢN ?
Bài 3:
CÁC VỊ “TƯ LỆNH” CỦA CHÍNH PHỦ “ NỔ” ĐỂ PHÁ VÂY TRẬN 26/3 THẾ NÀO ?
Bình luận nhanh của Blog Phamvietdaonv:
Như quý vị đã đọc 2 kỳ trước đây, phiên họp chất vấn của các đại biểu Quốc hội đối với Chính phủ diễn ra ngày 26/3 vừa quan sao mà giống với trận quân Tào kéo vào chiếm Kinh Châu, đuổi đánh Lưu Bị thời Tam Quốc…
Lưu Bị mất Kinh Châu khác chi Chính phủ thua bại trọng vụ Vinashin? Có điểm khác, Lưu Bị khi xưa do binh mọn, tướng ít, thành Tân Dã tạm bợ nhưng với sự quân sư của Gia Cát Lượng, Lưu Bị cũng đã tạo được một vài cuộc giao chiến oai hùng. Đó là trận hỏa công đốt thành Tân Dã, trận rút lui chiến lược, bảo toàn lực lượng với cái kết cục Đương Dương-Tràng Bản…Trong trận chiến đó: một Triệu Tử Long xông pha trong đám trăm vạn quân Tào như vào chỗ không người; một Quan Vũ xuất hiện ứng cứu đúng lúc; Một Trương Dực Đức quát một tiếng khiến cho quân Tào khiếp vía, tán loạn…
Trong trận 26/3 vừa qua, khí thế của đội quân Quốc hội ào ạt xông lên khác chi trăm vạn quân Tào năm xưa; còn về phía đội quân Chính phủ với sự xuất tướng tới 7 vị nhưng xem chừng chỉ có được nữ tướng Kim Ngân cũng tung ra được vài đường gươm hao hao Triệu Tử Long năm xưa…Còn các vị tướng ông là hèn, bỏ trốn, tránh đòn, mạnh ai nấy chạy thục mạng nhưng lại “ nổ “ rất kêu…
Các vị chủ yếu vẫn “ nổ “ chỉ thiên, nổ vu vơ cốt có tiếng súng, còn trúng vào đâu không cần biết và cũng chả ai đi kiểm tra…Về trận ra quân này, đáng lẽ ra phải có một bài bình phân tích đến nơi đến chốn, vì thời gia quá bận, vả lại Chủ blog cũng muốn nhường đất cho các “ hậu duệ “ của Mao Tôn Cương có đất mà dũng võ…
Xin đưa lại toàn bộ diễn biến của trận ra quân này của các “soái” trong đội quân Chính phủ:
1/Nguyễn Văn Giàu - Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước đã triển khai thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ ngày 24 tháng 2 năm 2011 và trong Nghị quyết 11 thì yêu cầu Ngân hàng Nhà nước triển khai thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng và đặc biệt là kiểm soát hai chỉ tiêu, chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng của năm 2011 so với năm 2010 không vượt quá 20%, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán năm 2011 so với năm 2010 tăng khoảng 15-16%. Các nội dung khác Ngân hàng nhà nước đã có các văn bản chỉ đạo và các văn bản phối hợp với Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố để triển khai nhiệm vụ đã quy định tại Nghị quyết số 11 của Chính phủ.
Xin báo cáo thêm phần về triển khai cụ thể, trong Nghị quyết số 11 yêu cầu vốn tín dụng năm nay tập trung ưu tiên cho khu vực sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp nhỏ và vừa. Mới đây Thủ tướng cũng chỉ đạo tập trung giải quyết vấn đề cho vay của ngân hàng chính sách để hỗ trợ và đảm bảo vấn đề an sinh xã hội. Báo cáo Quốc hội, số tăng trưởng tín dụng năm nay dưới 25%, dự kiến tín dụng cả năm sẽ tăng khoảng 460.000 tỷ, theo thiết kế của Ngân hàng nhà nước đang triển khai thì tất cả số tăng trưởng tín dụng năm nay tập trung cho các mục tiêu ưu tiên, còn các mục tiêu khác, nhất là các đối tượng phi sản xuất gồm cho vay tiêu dùng, cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay bất động sản gần như không tăng. Do tăng trưởng tín dụng tập trung vào đối tượng ưu tiên cho sản xuất nên cơ cấu tín dụng phi sản xuất giảm, dự kiến từ 18,7% so với tổng dư nợ, so với cuối năm 2010 sẽ còn 16% trong tổng dư nợ cuối năm 2011. Hồi nãy cũng có một số đại biểu phát biểu rằng sợ chúng ta điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ sẽ làm khó khăn cho vốn để đáp ứng cho nền kinh tế. Tôi xin báo cáo lại, về thiết kế điều hành năm nay vốn tăng tuyệt đối tương đương với năm ngoái. Tức là năm ngoái chúng ta tăng trưởng tín dụng cũng gần 470 nghìn tỷ thì năm nay tăng trưởng tín dụng dự kiến cũng khoảng 460 nghìn tỷ. Tôi cũng chia sẻ và cũng tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội. Trong gần 3 tháng đầu năm vốn tín dụng tăng trưởng trên nền kinh tế có chậm lại nó cũng có khó khăn. Tuy nhiên, đến ngày 07/3 vừa qua Thủ tướng cùng với các Phó Thủ tướng chủ trì họp giao ban trực tuyến với Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố về cơ bản đến nay chưa có vướng mắc lớn. Tuy nhiên, chúng tôi tiếp thu ý kiến này, chúng tôi tiếp tục chỉ đạo trên toàn hệ thống để nếu có khó khăn thì tháo gỡ ngay.
Vấn đề thứ hai, về thị trường ngoại tệ. Như nhiều ý kiến phát biểu, như chúng ta đã biết nếu từ năm 2008 trở về trước thì cán cân tổng thể của chúng ta thặng dư. Bước sang năm 2009 cán cân thanh toán tổng thể quốc tế của chúng ta thâm hụt lên tới 8, 8 tỷ. Năm 2010 với sự nỗ lực của các ngành, các cấp chúng ta đã giảm thâm hụt cán cân tổng thể này rất lớn. Đến cuối năm 2010 cán cân của chúng ta thâm hụt chỉ còn có 3,07 tỷ. Từ 8,8 tỷ chúng ta đã giảm được gần 5,8 tỷ, chỉ còn 3,07 tỷ. Dự kiến cán cân tổng thể thanh toán kinh tế của chúng ta năm 2011 thặng dư lớn. Nếu theo kế hoạch cũ là Chính phủ điều hành nhập siêu dưới 18% so với kim ngạch xuất khẩu. Lúc đó chúng tôi cùng với các ngành xây dựng cán cân thặng dư là 700 triệu. Nhưng bây giờ Thủ tướng yêu cầu các bộ, các ngành tập trung giảm nhập siêu, dự kiến điều hành dưới 16% thì năm nay cán cân của chúng ta có thể thặng dư trên 2 tỷ.
Có nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội, cũng như ý kiến của Ủy ban kinh tế thì trong thời gian vừa qua cân đối cung cầu ngoại tệ chúng ta gặp khó khăn, cung không đủ cầu. Phần này là phần cơ bản. Tất nhiên nhiều lần Thủ tướng nhắc nhở trong quản lý việc phối hợp giữa bộ, ngành trong đó nòng cốt là Ngân hàng nhà nước chưa chặt chẽ. Thời gian gần đây chúng tôi đã phối hợp với các ngành, đặc biệt là các ngành quản lý thị trường. Vừa qua theo Nghị quyết 11 Thủ tướng đã chỉ đạo Bộ Công an, phối hợp với Ủy ban nhân dân địa phương tăng cường quản lý thị trường.
Vừa rồi nhiều ý kiến trên báo chí cho rằng chúng ta quản lý mạnh mẽ trên thị trường tự do mà chúng ta không mở ra kịp để đáp ứng nhu cầu hợp lý của bà con. Về mạng lưới được hoạt động thu đổi ngoại tệ, cũng như mua, bán ngoại tệ đến nay, đặc biệt là 2 địa bàn lớn là Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, theo chúng tôi mạng lưới ngân hàng đã mở rộng đảm bảo phục vụ được cho dân. Tại địa bàn Hà Nội, đến nay có 1689 điểm hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng. Ngoài ra còn 44 đại lý thu đổi ngoại tệ ủy nhiệm từ các tổ chức tín dụng. Mạng lưới này rất dày đặc.
Ở Thành phố Hồ Chí Minh có 1329 điểm của hệ thống các tổ chức tín dụng và có 59 đại lý bàn thu đổi ngoại tệ được ủy nhiệm từ các tổ chức tín dụng. Thời gian vừa qua sau khi quản lý chặt chẽ, nhất là tăng cường kiểm tra với công an thì thị trường tự do khép lại và đây cũng do diễn biến từ cung cầu, đến nay về cơ bản giá của thị trường tự do với giá công bố của Ngân hàng Nhà nước tương đối tiến gần nhau. Thời gian vừa qua các ngân hàng đã thông báo và tạo điều kiện để bán một phần ngoại tệ tiền mặt cho các đối tượng có nhu cầu đi nước ngoài.
Nhân đây cũng báo cáo với Quốc hội, theo thông lệ chung đến nay các thẻ quốc tế hoạt động ở Việt Nam chúng tôi đang triển khai hoạt động rất tốt. Hầu hết cán bộ hay nhân dân đi công tác, đi học tập, đi chữa bệnh và cả đi du lịch hiện nay cơ bản sử dụng thẻ, tuy nhiên tính phòng xa của bà con Việt Nam mình muốn mang một ít tiền mặt để phòng bất trắc. Chúng tôi kiểm tra trong thời gian vừa qua hầu hết các tổ chức tín dụng hướng dẫn việc này đối với bà con có nhu cầu đi nước ngoài tương đối kỹ lưỡng và hầu hết những người có nhu cầu đều đến mở thẻ hoạt động.
Vấn đề thứ ba là vấn đề vàng, từ năm 1990 chúng ta cho phép đúc vàng miếng, trong hơn 20 năm vàng miếng phát triển rất nhanh. Lúc đầu chỉ thực hiện như tập quán lâu đời của bà con chúng ta là tích trữ vàng nhưng dần dần phát triển lên và nó trở thành một phương tiện thanh toán. Như chúng ta biết cái nhà này bán bao nhiêu cây, miếng đất này là bao nhiêu cây v.v.., trở thành phương tiện thanh toán. Đồng thời kèm theo đấy nó phát sinh thêm đầu cơ giá vàng làm giá vàng trong nước xáo trộn và có lúc tách rời giá thế giới mà nó có biến động rất mạnh. Từ đó chúng tôi có đề xuất với Chính phủ là chúng ta tiến tới sẽ ban hành nghị định quản lý kinh doanh vàng, trong đó chúng ta cũng đưa ra lộ trình tiến tới quản lý chặt chẽ vàng miếng. Tuy nhiên, trong Nghị quyết 11 nói rất rõ, trong này có nội dung là tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do. Đây là một lộ trình chúng tôi sẽ xây dựng để hợp lý, phù hợp với điều kiện Việt Nam. Một số thông tin cho rằng ban hành Nghị quyết 11 là cấm đoán việc lưu thông vàng miếng là làm tổn thất tài sản của nhân dân. Tôi khẳng định việc đó không có. Chúng ta sẽ triển khai thế nào phù hợp để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của công dân chúng ta. Xin hết.
2/Vũ Văn Ninh - Bộ trưởng Bộ Tài chính
Qua ý kiến phát biểu của đại biểu Quốc hội trên Hội trường rất quan tâm đến vấn đề rất lớn như chỉ số lạm phát tăng cao của năm 2010, đầu năm 2011, mới có 3 tháng đã tăng hơn 60%, đây là vấn đề rất bức xúc của dư luận xã hội và sự quan tâm của nhân dân cũng như của Chính phủ. Tôi xin phát biểu làm rõ thêm một số thông tin:
Chỉ số giá của năm 2010 và những tháng đầu năm 2011 tăng tương đối cao có rất nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, đặc biệt là từ cuối năm 2010, đầu năm 2011 tình hình kinh tế trong nước và thế giới có những biến động rất phức tạp. Trên thế giới kinh tế năm 2010 đã phục hồi nhưng cũng vẫn rất chậm chạp và không đồng đều. Năm 2011 thì dự báo có khả năng phục hồi tăng trưởng chậm hơn năm 2010: năm 2010 là 3,6 và năm 2011 dự kiến tăng 3,3.
Về giá cả, giá cả hàng hóa thế giới tăng rất cao trong năm 2010, giá hàng hóa nói chung tăng bình quân trên thế giới 32,3% so với năm 2009. Trong đó nguyên liệu công nghiệp tăng 41,8%. Dầu thô tăng 28,4% và giá lương thực thực phẩm tăng 37,4%. Năm 2010 đã tổng kết như vậy tất cả các quốc gia trên thế giới đều lạm phát tăng rất cao trong đó Châu Âu tăng từ gấp 2 đến 2,5 lần so với kế hoạch mục tiêu đặt ra, Trung Quốc tăng hơn 2 lần và Ấn Độ tăng hơn 2 lần.
Tình hình ba tháng đầu năm vẫn diễn biến trong tình hình phức tạp và giá vẫn tiếp tục tăng cả lương thực, nguyên nhiên vật liệu đều tăng. Ví dụ lương thực vẫn tăng 4,3% và năng lượng xăng, dầu tăng từ 15 dến 20%, tức là tăng tương đối nhanh, đặc biệt sau khi khủng hoảng ở Trung Đông, Châu Phi, rồi thiên tai lũ lụt và động đất ở Nhật Bản thì tác động với giá dầu rất lớn. Giá cả thế giới tăng thì có tác động đến giá cả trong nước ở hai mặt, mặt bất lợi thì do chúng tôi nhập khẩu lớn và nhập siêu lớn trong đó 70 đến 75% nhập nguyên nhiên vật liệu và trong nhập siêu này chúng ta nhập siêu từ Trung Quốc rất cao, có những thời điểm nhập siêu từ Trung Quốc tới 95%. Từ đó nó cũng có tác động giá trong nước tăng lên kéo theo làm cho đời sống và người lao động, cán bộ công nhân viên rất khó khăn.
Thứ hai, nó cũng có một khía cạnh là có lợi cho nền kinh tế vì chúng ta cũng là một nền kinh tế xuất khẩu lớn trong đó đặc biệt xuất khẩu hàng nông sản, lâm sản, thủy hải sản và xuất khẩu như dầu thô, cà phê, cao su, gạo. Tất cả những mặt hàng này vừa rồi đều tăng giá, chúng ta cũng được lợi. Đồng thời một bộ phận người dân sản xuất các mặt hàng này cũng thu được lợi hơn. Tuy nhiên gây nhiều tâm trạng xã hội phải lo lắng, đặc biệt những người làm công ăn lương và những người có thu nhập thấp, người nghèo.
Thứ hai, bản thân cân đối kinh tế vĩ mô ở trong nước cũng chưa vững chắc và dễ bị tổn thương, chất lượng của nền kinh tế chưa cao, cạnh tranh còn yếu, giá cả của các sản phẩm hàng hóa của chúng ta, đặc biệt cạnh tranh với Trung Quốc rất bất lợi. Nhập siêu vẫn còn lớn, ví dụ như xăng dầu trước năm 2009 chúng ta phải nhập 100%, bây giờ chúng ta nhập khoảng 70% sau khi có nhà máy lọc dầu Dung Quất. Tuy là đã giảm từ 29,3% năm 2007 xuống 28,8% năm 2008, xuống 22,5% năm 2009 và xuống 17,5% năm 2010 nhưng vẫn còn rất cao, con số tuyệt đối cũng khá cao.
Việc bội chi và nợ công thì như đại biểu nói cũng đang có xu hướng tăng. Việc giảm bội chi, tăng xuất khẩu, giảm nhập siêu cũng phải có lộ trình và phải bắt nguồn từ chính sản xuất trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Chính đó là quá trình gốc của vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hiện nay chúng ta đang triển khai một cách tích cực nhưng cũng không thể giảm nhanh được.
Thứ ba, áp lực tăng chi vẫn còn rất lớn, nhu cầu đòi hỏi cao cả chi đầu tư và thường xuyên. Ngay tại hội trường này từ sáng đến giờ qua ý kiến phát biểu đã nhiều yêu cầu tăng chi mà cũng thấy rất chính đáng. Hiệu quả đầu tư còn dàn trải, hiệu quả chưa thật cao. Nhiều công trình đang trong quá trình xây dựng chưa phát huy hiệu quả, lại phải đầu tư vào các vùng khó khăn để giải quyết các vấn đề xã hội, có ý nghĩa về xã hội, giải quyết an sinh nhưng phát huy về hiệu quả kinh tế thì thấp làm cho chỉ số ICO tăng cao. Biến động của giá vàng, giá ngoại tệ trong thời gian qua, lãi suất còn cao, cân đối ngoại tệ căng thẳng. Những vấn đề đó tác động lớn đến chỉ số giá.
Thứ hai, một số mặt hàng là đầu vào của sản xuất kinh doanh và đời sống của người dân chưa đi theo giá thị trường đã kìm nén ổn định giá trong mục tiêu ngắn hạn cho nên đến nay đã gây ra bức xúc yêu cầu phải tăng giá, nay phải điều chỉnh và không thể kìm chế được nữa. Ví dụ giá than bán cho điện hiện nay chỉ bán bằng 45-50% giá thị trường, điện thì lỗ lớn, xăng dầu thì nhà nước không thu thuế 10.000 tỷ, sử dụng quỹ bình ổn giá 6.400 tỷ, tức là thực chất bù lỗ 16.400 tỷ nhưng vẫn còn thấp hơn Lào và Campuchia, trước khi điều chỉnh thấp hơn Lào 8.000đ/lít, thấp hơn Campuchia 7.000đ/lít và thấp hơn Trung Quốc 6.200đ/lít. Từ đó dẫn đến việc hạch toán của nền kinh tế cũng còn rất méo mó đầu vào của một số sản phẩm; Thứ hai là bao cấp tràn lan, bao cấp cho cả các nước láng giềng; Thứ ba là sử dụng lãng phí; Thứ tư là không kêu gọi được đầu tư và dẫn đến cung cầu ví dụ như thiếu điện; Thứ năm là cũng xảy ra buôn lậu khá phức tạp.
Thứ ba là quản lý điều hành phối hợp giữa các ngành với các ngành, ngành với địa phương có lúc, có nơi chưa tốt, cân đối cung cầu hàng hóa về cơ bản là đảm bảo, trừ ngoại tệ như lúc nãy đồng chí Thống đốc có nói. Hệ thống phân phối ở một số mặt hàng chưa tốt, nhiều khâu trung gian cho nên cũng làm tác động đến giá. Một số nơi triển khai chưa quyết liệt trong chống buôn lậu, kinh doanh hàng giả, kiểm soát giá cả v.v.... những điều này tác động đến cái chung.
Về biện pháp xử lý sắp tới, vấn đề chung là phải quyết liệt thực hiện Nghị quyết 02 đầu năm và Nghị quyết số 11 của Chính phủ đã đề ra nhằm giảm tổng cầu của nền kinh tế. Trong này chúng tôi xin nhấn mạnh một số ý và cũng xin kiến nghị với một số địa phương như sau:
Thứ nhất là phải đảm bảo cân đối cung cầu hàng hóa, đây là gốc của vấn đề.
Thứ hai là sắp xếp lại hệ thống phân phối, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành để sắp xếp lại hệ thống phân phối.
Ba, kiên trì điều hành giá theo thị trường, chúng ta không thể kìm nén hơn được nữa. Hiện nay điện mới đi được một bước là 24% với mức phải điều chỉnh, có nghĩa chúng ta định đi 4 bước thì mới đi được 1 bước. Như vậy chúng tôi hình dung là nếu chúng ta điều hành giỏi và giá thị trường thế giới biến động vừa phải thì chắc phải hết năm 2012 mới đi theo được thị trường, đây là lộ trình phải cố gắng nếu không thì chắc phải sang năm 2013. Đối với than bán cho điện mới chỉ điều chỉnh 5% trong lần này thôi, như vậy mới bằng 10% mức điều chỉnh cũng sẽ phải ghi theo lộ trình điều chỉnh theo giá điện. Hiện nay chỉ còn có than bán cho điện thôi, còn than bán cho ngành khác cơ bản tương đối đi theo thị trường rồi.
Bốn, về giá xăng dầu, hiện nay nhà nước không thu thuế, thuế xuất khẩu là 20% nhưng đã hạ xuống 0 rồi, xăng dầu vẫn còn lỗ và mới điều chỉnh được 1 phần, so với điều chỉnh ngày 24.03 giá của Việt Nam vẫn thấp hơn Lào, Campuchia là 5.000, 4.000, và 3.200 và vẫn còn buôn lậu. Cần tiếp tục điều hành theo Nghị quyết 84 của Chính phủ và điều hành theo thị trường với tinh thần là nếu tình hình giá thế giới vẫn tiếp tục tăng thì vẫn phải điều chỉnh tăng giá bán lẻ trong nước, giá thế giới giảm thì từng bước khôi phục lại thuế nhập khẩu ở mức hợp lý và xem xét giảm giá bán trong nước. Chúng ta phải kiên trì để năm nay làm sao tiếp tục quay trở lại đi theo thị trường, thực ra giá xăng dầu này từ năm 2009.
Năm, đảm bảo các chính sách an sinh xã hội cho người lao động, cho nhân dân, nhất là người nghèo, người có thu nhập thấp và lương thấp. Thực hiện tốt chính sách đã ban hành, chúng tôi sẽ tích cực rà soát, nghiên cứu để đề xuất thêm những chính sách mới giúp cho người lao động và người nghèo ổn định được cuộc sống, vượt qua khó khăn và tạo sự đồng thuận trong dư luận để thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước. Nhân đây chúng tôi xin đề nghị các địa phương, các bộ phối kết hợp tăng cường sản xuất kinh doanh lưu thông phân phối, chống hàng giả, hàng kém chất lượng và kiểm soát giá cả. Ví dụ đăng ký giá, niêm yết giá trên địa bàn từng địa phương. Báo cáo Quốc hội, đăng ký giá, niêm yết giá và kiểm soát giá phải từng địa phương làm thì mới có hiệu quả. Các Bộ thì không thể làm xuể được những yếu tố này. Nhưng hiện nay chính sách pháp luật đang quy định như vậy, cho nên rất mong muốn các địa phương ra tay và vào cuộc. Hiện nay các địa phương đã ra tay và vào cuộc rất mạnh mẽ, đặc biệt những thành phố lớn Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai rất mạnh mẽ. Có mặt hàng trước khi tăng phải đăng ký giá thì các đồng chí kiểm soát thật chặt chẽ việc đó.
Vấn đề thứ hai, chắt chặt ngân sách. Chúng tôi xin nói ngắn gọn:
Thứ nhất, phải tăng thu, phấn đấu tăng thu không có nghĩa là tăng mức động viên mà phải chống thất thu, chống gian lận thuế, chống buôn lậu để tăng thu. Đặc biệt lần này chúng tôi sẽ tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra ở những doanh nghiệp khai lỗ nhiều, có dấu hiệu chuyển giá. Vừa rồi đã làm được một bước, đã có kinh nghiệm, đợt tới này phải làm mạnh hơn.
Thứ hai là giảm chi và trên cơ sở đó giảm bội chi. Năm 2010 Chính phủ đã đề nghị giảm bội chi từ 6,2% kế hoạch xuống 5,6%. Năm 2011 đề nghị giảm từ 5,3% xuống dưới 5%, đang phấn đấu như vậy.
Về chi thường xuyên không cắt hàng loạt, ví dụ chi có tính chất tiền lương, ví dụ trợ cấp xã hội cho người có công với cách mạng, gia đình thương binh, liệt sỹ thì không giảm. Hai là những chính sách chi về an sinh xã hội thì không giảm mà phải tăng. Còn lại các khoản, ví dụ như hội họp, công tác phí, xăng dầu, điện nước thì phải tiết kiệm. Về đầu tư, vấn đề đầu tư Thủ tướng Chính phủ phân công giao cho Bộ kế hoạch và đầu tư chủ trì, tôi xin nói một ý ngắn gọn như sau. Sắp xếp lại trên 4 kênh:
Thứ nhất là kênh ngân sách Nhà nước.
Thứ hai là kênh trái phiếu Chính phủ.
Thứ ba là kênh tín dụng Nhà nước.
Thứ tư là kênh doanh nghiệp Nhà nước.
Cả 4 kênh này đều phải rà soát và sắp xếp lại và cũng có thể có những khoản phải giảm. Trên tinh thần là tập trung cho các dự án phục vụ nông nghiệp, nông thôn, phục vụ cho an sinh xã hội và những dự án sớm đi vào hoàn thành trong năm 2011 để đi vào sử dụng, sớm mang lại hiệu quả thì sắp xếp lại và điều chuyển cắt giảm và cũng dừng khởi công những công trình xét thấy chưa thật sự cấp bách và chưa mang lại hiệu quả ngay. Trên tinh thần như vậy thì Chính phủ cũng đã có một thông điệp cho các địa phương, các bộ, ngành năm nay không có tạm ứng trừ lũ lụt, trừ những công trình khắc phục hậu quả lũ lụt thiên tai và cũng không cho phép chuyển nguồn nếu chi chưa hết, kể cả năm 2010 sang 2011 và 2011 sang 2012. Trên đây là một số ý kiến, chúng tôi xin báo cáo thêm tình hình và giải pháp của Chính phủ đang triển khai và đang chỉ đạo một cách quyết liệt mong tạo được sự đồng thuận, ủng hộ của Quốc hội để thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã đề ra để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Xin cảm ơn Quốc hội.
3/ Vũ Huy Hoàng - Bộ trưởng Bộ Công thương
Được sự cho phép và gợi ý của Chủ tọa kỳ họp, tôi xin báo cáo với Quốc hội về 2 nội dung liên quan đến vấn đề phát triển điện: Thứ nhất, việc đấu nối các nhà máy điện lẻ vào hệ thống lưới điện quốc gia; Thứ hai, vấn đề đảm bảo nguồn nhiên liệu cho các nhà máy nhiệt điện chạy than.
Vấn đề thứ nhất, trong thời gian vừa qua có tình trạng một số dự án thủy điện nhỏ được xây dựng và hoàn thành, nhưng sau đó chưa thể phát điện lên lưới quốc gia do không có đường dây nối từ nhà máy lên lưới điện quốc gia. Điều này xuất phát từ thực tế, chúng tôi đã có một số dịp trình bày với Quốc hội về quy hoạch điện nói chung của cả nước, trong đó có việc thủy điện. Trong vấn đề quy hoạch điện cũng như quy hoạch thủy điện, có nội dung liên quan đến phát triển nhà máy và phát triển hệ thống lưới điện, ở đây có một thực tế ở một số nơi chúng ta có quy hoạch được phê duyệt đấu nối giữa các nhà máy thủy điện nhỏ với hệ thống lưới quốc gia thì ở đó không xảy ra vấn đề liên quan đến khả năng phát và khả năng đưa lên lưới quốc gia. Tuy nhiên, ở một số địa phương khác thì cũng có tình trạng chúng ta phát triển một số dự án thủy điện nhỏ chưa hoàn toàn theo quy hoạch và vì vậy cho nên bị động trong việc đấu nối giữa nhà máy thủy điện nhỏ đó với lưới điện quốc gia vì hệ thống lưới điện quốc gia được thiết kế để mà đảm bảo việc chuyển tải một công suất nhất định, nếu không có tính toán trước, không có kế hoạch trước thì khi có nhiều nhà máy cùng hòa vào lưới thì lưới điện quốc gia đó và đường dây đó không thể tải nổi. Đây là một thực tế xảy ra ở một số nơi vừa qua và cũng là một bài học kinh nghiệm trong vấn đề làm sao bảo đảm đồng bộ giữa quy hoạch lưới và quy hoạch các nhà máy. Tình hình vừa rồi ví dụ như Kon Tum chúng tôi đã được nghe phản ánh và sau đó đã chỉ đạo Sở Công thương cũng như Tổng công ty điện lực miền Trung và Điện lực Kon Tum nghiên cứu để nâng cấp, nâng công suất đường dây tải điện nối các nhà máy thủy điện nhỏ Kon Tum với lưới điện quốc gia và hiện nay công việc đang được tiến hành.
Xin báo cáo với Quốc hội, chúng tôi đang chỉ đạo ngành điện cũng như các sở điện lực và các Sở công thương đảm bảo tính đồng bộ hơn ở trong vấn đề giữa quy hoạch phát triển nguồn và lưới để chúng ta trong tình hình thiếu điện hiện nay thì có các cơ sở điện phát điện được chúng ta huy động tất cả để góp phần sản xuất và cung ứng điện cho nhu cầu của cả nước.
Vấn đề thứ hai, về phát triển các nhà máy nhiệt điện, vậy thì sử dụng và huy động nguồn nhiên liệu như thế nào cũng báo cáo với Quốc hội theo Tổng sơ đồ điện 6 giai đoạn: 2006 - 2015 và hiện nay Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đang chỉ đạo xây dựng Tổng sơ đồ 7: 2015 - 2025. Chúng ta trong những năm tới đây khi chúng ta phát triển các nhà máy nhiệt điện chạy than, nguồn than ở trong nước mặc dù chúng ta đã hết sức nỗ lực cố gắng bằng việc bên cạnh khai thác những mỏ hiện có thì Chính phủ đang chỉ đạo tiếp tục tìm kiếm, thăm dò các mỏ mới, nhất là khu vực bể than đồng bằng sông Hồng, mở rộng việc khai thác mỏ than ở khu vực Quảng Ninh xuống sâu hơn để có thể nâng cao sản lượng than khai thác hàng năm. Tuy nhiên, do trữ lượng của chúng ta có hạn, theo tính toán về cân bằng năng lượng và cân đối giữa yêu cầu phát triển các nhà máy nhiệt điện chạy than với nguồn than thì dự kiến vào năm 2015 trở đi chúng ta sẽ phải nhập khẩu than từ nước ngoài.
Báo cáo Quốc hội, trong chỉ đạo của Chính phủ chúng ta đã thành lập Ban chỉ đạo liên ngành nghiên cứu việc nhập khẩu than từ bên ngoài. Ban này do Bộ Công thương cùng với một số Bộ, ngành có liên quan, có Bộ Tài nguyên và môi trường, có các tập đoàn lớn như Tập đoàn Công nghiệp than và khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn dầu khí, Tập đoàn điện lực thành lập một tổ liên ngành đi nghiên cứu và đã tổ chức một số đoàn đi làm việc tại Úc, tại Inđônêsia và tại Nga. Qua những đợt làm việc, về khả năng cung ứng than từ những nước này rất có tiềm năng và có khả năng đảm bảo dài hạn đối với chúng ta. Họ nêu những hướng mà chúng ta có thể hợp tác. Trước mắt có thể ký hợp đồng mua than dài hạn mấy chục năm, nhưng lâu dài họ sẵn sàng hợp tác với chúng ta để đầu tư khai thác vào những mỏ than ở khu vực đó. Vấn đề này chúng tôi đang thực hiện theo chỉ đạo của Chính phủ và khả năng chúng ta có nguồn than từ bên ngoài để đáp ứng cho các nhà máy nhiệt điện trong tương lai chắc chắn có thể đảm bảo được. Đến giờ phút này báo cáo với Quốc hội như vậy.
Vấn đề về môi trường, báo cáo Quốc hội, đối với những nhà máy nhiệt điện sau này khi chúng ta xây dựng cũng áp dụng những công nghệ tiên tiến, cho nên khả năng đảm bảo các yêu cầu về môi trường sẽ được cải thiện hơn rất nhiều so với trước đây. Vấn đề này báo cáo Quốc hội theo các tiêu chuẩn và các quy định của Luật bảo vệ môi trường cũng như các tiêu chí quy định đối với các nhà máy nhiệt điện chạy than.
Chúng tôi xin báo cáo thêm về tình hình sản xuất và cung ứng điện trong thời gian tới, vừa qua tình hình cung ứng điện mặc dù đã được cải thiện nhưng cũng có những khó khăn vì năm nay do cơ cấu nguồn điện của nước ta có đặc thù là tỷ trọng thủy điện tương đối lớn cho nên mùa khô năm vừa rồi nước rất cạn và đến lúc này các hồ thủy điện của chúng ta đều thấp hơn mực nước cùng kỳ của năm 2010 rất nhiều. Trong đó những hồ lớn như Hòa Bình, Tuyên Quang, Trị An thấp hơn hàng chục mét. Đứng trước tình hình yêu cầu cung cấp nước cho nông nghiệp và đẩy mạnh cho các tỉnh phía nam thì các hồ thủy điện cũng đã dành nước tưới cho vụ đông xuân của miền Bắc. Trong tháng Giêng và tháng 2 vừa qua miền Bắc các hồ thủy điện đã xả nước khoảng 3 tỷ mét khối nước cung cấp cho vùng đồng bằng sông Hồng, trung du Bắc bộ. Với 3 tỷ mét khối nước này có thể chúng ta phát được 500 triệu Kwh nhưng đứng trước yêu cầu phục vụ cho nông nghiệp thì các nhà máy điện đã dành ưu tiên xả nước để phục vụ nông nghiệp. Ở miền Nam, thủy điện Trị An, thủy điện Hàm thuận - Yaly cũng góp phần xả nước xuống hạ du để đẩy mặn và cung cấp cải thiện thêm tình hình cung cấp nước cho sinh hoạt. Đứng trước tình hình khó khăn như vậy, ngay từ đầu năm Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ đã có rất nhiều chỉ đạo đối với ngành điện trong đó Nghị quyết 02, Nghị quyết 11 ngày 24.02 vừa qua và đặc biệt Quyết định số 171 ngày 26.01 Thủ tướng Chính phủ yêu cầu ngành điện phải tập trung bằng mọi sức của mình đảm bảo sản xuất và cung ứng điện ở mức cao nhất đáp ứng yêu cầu cho sản xuất và đời sống của nhân dân.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, trong thời gian vừa qua ngành điện phối hợp với các cơ sở, các tỉnh đã triển khai hết sức khẩn trương và nghiêm túc chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, trong đó có việc đầu tiên tức là thúc đẩy xây dựng và hoàn thành một số công trình điện mới để tăng thêm nguồn điện. Báo cáo với Quốc hội, chúng ta đã đưa được tổ máy 1 của Sơn La vào hoạt động đầu năm và dự kiến đến giữa tháng 4 này thì tổ máy số 2 của thủy điện Sơn La cũng sẽ vào hoạt động, chúng ta có thêm 800 MW công suất thủy điện cũng là nguồn rất quan trọng cho tình hình cung cấp điện hiện nay, ngoài ra sẽ đưa thêm một số các nhà máy thủy điện nhỏ nữa rồi đến nhà máy Nhiệt điện đi vào hoạt động.
Biện pháp thứ hai đó là tìm mọi biện pháp để khắc phục khiếm khuyết về kỹ thuật của một số nhà mày Nhiệt điện mới đưa vào hoạt động nhưng vận hành chưa ổn định như ở Quảng Ninh, như ở Hải Phòng, như ở Cẩm Phả, Sơn Động cũng dự kiến trong khoảng từ nay cho đến cuối tháng 3 đầu tháng 4 thì những tổ máy này cũng sẽ đưa vào vận hành chính thức và vận hành thương mại ổn định.
Thứ ba, cũng báo cáo Quốc hội năm nay thực hiện chỉ đạo của Chính phủ có một điểm mới là sự vào cuộc của các địa phương hết sức quyết liệt và hết sức đồng bộ với ngành điện, ở tại các địa phương cũng đã tiến hành phê duyệt kế hoạch để cung ứng điện cho các cơ sở trọng điểm trong địa phương mà ở địa phương cũng thành lập ra các Ban chỉ đạo thường là do đồng chí Chủ tịch hoặc đồng chí Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh trực tiếp làm trưởng Ban chỉ đạo, cho nên việc cung ứng điện cho các hộ tiêu thụ cũng đã được sự vào cuộc hết sức quyết liệt của các địa phương. Chính vì thế cho nên báo cáo với Quốc hội đi đôi với biện pháp tuyên truyền, vận động tiết kiệm thì bước đầu có thể nói trong 3 tháng đầu năm 2011 mặc dù tình hình điện khó khăn, nhưng nhìn chung cũng đã đáp ứng cơ bản các yêu cầu về sản xuất và đời sống nhân dân. Tuy nhiên, tháng cao điểm của mùa khô là tháng 5 thì chúng tôi cũng báo cáo với Quốc hội là tình hình cung ứng điện sẽ tiếp tục có khả năng diễn biến khó khăn.
Đứng trước tình hình đó thì bên cạnh việc tiếp tục thực hiện những biện pháp theo chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, chúng tôi rất mong muốn cử tri cả nước cũng ủng hộ chủ trương của Đảng, của Chính phủ đó là bên cạnh việc chúng ta sử dụng điện một cách có hiệu quả thì cũng tăng cường việc tiết kiệm. Chúng tôi thấy vừa qua hiệu quả bước đầu có tác dụng, ví dụ như rất nhiều hộ sản xuất, hộ kinh doanh cũng đã xem lại quy trình sản xuất của mình cũng thay đổi một số máy móc thiết bị, ngay trong các hộ gia đình ý thức sử dụng điện hờ hững theo chủ trương tiết kiệm của Chính phủ đã ban hành. Với tình hình đó, từ nay đến cuối năm thực hiện hết sức quyết liệt chỉ đạo của Chính phủ, cố gắng đảm bảo các yêu cầu cần thiết nhất trong sản xuất và đời sống của nhân dân thông qua việc sản xuất và cung ứng điện. Tôi xin hết.
4/ Nguyễn Thị Kim Ngân - Hải Dương
Tôi xin phát biểu mấy ý kiến theo gợi ý của Đoàn Chủ tịch.
Thứ nhất, xung quanh vấn đề chính sách cho lực lượng thanh niên xung phong mà ý kiến của đại biểu Nguyễn Anh Liên sáng nay đã phát biểu.
Thưa Quốc hội, tổng số thanh niên xung phong của chúng ta đã và đang hưởng chính sách mà chúng tôi có hồ sơ là 133.294 người. Trong số này giải quyết chế độ một lần là 89.583 người, còn hưởng trợ cấp hàng tháng 5.012 người. Trong tổng số liệt sỹ cả nước là gần 1,2 triệu người đã được công nhận liệt sỹ thì thanh niên xung phong đã được công nhận 4.494 liệt sỹ. Trong tổng số 600.000 người thương binh và hưởng chính sách như thương binh thì lực lượng thanh niên xung phong đã được giải quyết chính sách là 33.905 người. Như thế tổng số số thanh niên xung phong tham gia cũng là đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi người có công, không có sự phân biệt giữa lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong miễn là người đó tham gia kháng chiến và có những đóng góp tùy theo điều kiện đúng qui định thì chúng ta áp dụng những chính sách theo luật định.
Những đề nghị của Hội thanh niên xung phong về giải quyết chính sách, những bức xúc và nhiều khi chưa hợp lý thì đã nhiều lần Bộ lao động thương binh, xã hội làm việc với Hội và đi đến những thống nhất rất cao nhưng rất tiếc đại biểu Nguyễn Anh Liên trong phát biểu thì không có nói việc này chỉ nói bức xúc thôi. Nhưng những vấn đề mà Hội và Bộ ngồi lại làm việc thống nhất cao và để giải quyết, ví dụ như giải quyết bất hợp lý giữa chế độ trợ cấp một lần và trợ cấp hàng tháng cho thanh niên xung phong thì Hội với Bộ thống nhất rất cao, chúng tôi cũng đã trên cơ sở đó trình rồi Bộ tư pháp thẩm định chúng tôi đã trình Thủ tướng rồi thì đồng chí Anh Liên lại không nói.
Hay những vấn đề tồn đọng về thanh niên xung phong trên 10.000 trường hợp thì thưa với Quốc hội rằng cũng không dưới hai lần đại biểu nêu phát biểu ở đây và chúng tôi cũng trên cơ sở đó đã có công văn và cũng làm việc trực tiếp với Hội, chúng tôi đề nghị Hội như thế này. Bây giờ 10.000 người đó mà theo Hội thanh niên xung phong báo cáo thì đề nghị Hội cung cấp cho chúng tôi danh sách, địa chỉ địa phương và cùng với chúng tôi để làm hồ sơ. Trong này chắc chắn là không còn hồ sơ và trong trường hợp đó thì Hội cũng nên có trách nhiệm với đồng đội của mình đứng ra cam kết, bảo lãnh chứng nhận cùng với cấp ủy chính quyền và nhân dân địa phương để làm hoàn tất hồ sơ, có hồ sơ rồi thì ngành lao động thương binh, xã hội mới có cơ sở để giải quyết chính sách. Vì chúng tôi không thể giải quyết chính sách là cứ theo nói là tôi còn 10.000 hồ sơ mà tôi không biết ở địa phương nào, địa chỉ ở đâu và chúng tôi đã có 2 công văn hướng dẫn và đề nghị Hội thanh niên xung phong nhanh chóng sớm giải quyết những vấn đề này theo hướng dẫn 611 như thế là trách nhiệm của ngành lao động, thương binh xã hội nói chung và của Bộ Lao động - thương binh và xã hội nói riêng rất có trách nhiệm với chức năng là thực hiện chính sách người có công. Ở đây tôi chỉ đề nghị tiếp, tôi biết cái này cũng rất khó cơ hội, nói thế thôi chứ bây giờ để giải quyết 10 ngàn này thì Hội cũng không thể thực hiện để có đủ 10 ngàn bộ hồ sơ . Vì thế chúng tôi nói là hội cần phối hợp với các địa phương, với cơ sở và chỉ đạo trong hệ thống hội mình ở địa phương để phối hợp, chúng tôi sẵn sàng tham gia tích cực để hoàn chỉnh hồ sơ này kể cả thiếu hồ sơ chúng tôi đều đồng ý có những hướng để giải quyết như thế là vấn đề chính sách thanh niên xung phong, tôi xin báo cáo cho đủ, đúng tình hình để tránh sự hiểu lầm trước cử tri khi nghe buổi sáng nay cho rằng việc thực hiện chính sách thanh niên xung phong là chúng ta thiếu trách nhiệm đó là vấn đề thứ nhất.
Vấn đề thứ hai, xung quanh việc một đồng chí kiểm lâm ở Thái Nguyên bị chết trong khi thi hành công vụ thì vào cuối tháng 12, sau đó trong năm 2010 tỉnh Thái Nguyên có đề nghị là công nhận liệt sỹ, theo quy định để xét hồ sơ liệt sỹ thì sẽ có nhiều thủ tục và khi tiếp nhận được thì Cục người có công cũng đã hết sức trách nhiệm là xem tất cả những hồ sơ, kết quả điều tra để đối chiếu với các quy định của luật thì khẳng định đồng chí này mất khi thi hành công vụ là đúng, nhưng để đủ điều kiện xét liệt sỹ hay không thì còn nhiều ý kiến khác nhau. Trên cơ sở đó thì chúng tôi đã chỉ đạo Cục người có công về trực tiếp làm việc với tỉnh Thái Nguyên để giải quyết những vấn đề còn có ý kiến khác nhau để chúng ta khi công nhận một trường hợp liệt sỹ phải đảm bảo đúng pháp luật quy định.
Vấn đề thứ ba, lao động Libya trở về nước rút ra điều gì cho công tác đưa người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc. Việt Nam đang thực hiện việc đưa người Việt Nam và chuyên gia sang nước ngoài làm việc theo luật Quốc hội đã ban hành về đưa người Việt Nam ra nước ngoài làm việc. Đối với một nước đông dân như nước chúng ta thì tạo việc làm trong nước và ngoài nước trong thời kỳ hội nhập là điều cần thiết trong điều kiện đất nước chúng ta chưa giải quyết được việc làm thì rất nhiều quốc gia chứ không riêng Việt Nam, chúng ta không phải là một nước đưa nhiều lao động ra nước ngoài làm việc. Có thể nói lực lượng lao động đưa ra nước ngoài làm việc hàng năm cũng đem về ngoại tệ cho chúng ta khoảng 2 tỷ đô la theo số chưa đầy đủ đóng góp nhất định cho kinh tế - xã hội đất nước và bản thân người ta cũng thoát nghèo tạo được thu nhập. Hơn nữa sau 3 năm làm việc ở nước ngoài về kỹ năng, kinh nghiệm trong quản lý điều hành sản xuất kinh doanh tay nghề được nâng cao và có thể tạo việc làm cho bản thân, gia đình cũng như ngay tại quê hương làng xóm của họ.
Qua vụ Libya chúng tôi rút ra một kinh nghiệm là tìm thị trường, mở thị trường và chúng ta tính được sự ổn định, bền vững của thị trường mà chúng ta đưa người lao động là hết sức cần thiết. Trước khi xảy ra biến cố ở Bắc Phi và Trung Đông thì đây là một thị trường tiềm năng bởi vì đây là những quốc gia giàu về dầu mỏ và người ta cũng ít dân nên sự cần thiết lao động ở nước ngoài mà không riêng Việt Nam cũng rất nhiều nước như Trung Quốc, Philippin, Thái Lan, Bangladesh, Ấn Độ và nhiều quốc gia cũng đưa lao động sang đây. Việc người ta cần lao động nước ngoài để xây dựng những công trình là người ta và mình cũng cần. Những thu nhập ở thị trường này rất tốt nhưng qua biến cố này thì chúng tôi cũng rút ra được kinh nghiệm là thực ra mình cũng muốn tìm thị trường ổn định và có tiềm năng để giải quyết việc làm có thu nhập tốt, chúng ta cũng không thể dự đoán được những biến động đó xảy ra. Ngay bản thân quốc gia Libya, Ba Lan người ta không thể dự đoán là cách đây vài tháng, một năm người ta sẽ lâm vào những xung đột và tình hình phức tạp như vậy. Về tình huống này rút kinh nghiệm, chúng tôi cũng phải dựa vào các cơ quan đại diện ngoại giao để xác định thị trường. Qua việc ở Libya thì 10.000 lao động của chúng ta về nước đã an toàn. Trong ngày mai, chậm nhất là sáng ngày kia chiếc tàu chở 1049 người sẽ cập cảng Đình Vũ - Hải Phòng an toàn. Cách đây 2 ngày tàu đã ghé qua Singapore để tiếp nguyên liệu. Như thế chúng ta hoàn tất chiến dịch kể cả hàng không, đường biển.
Về lo công ăn, việc làm cho lao động ở Libya về nước thì chúng tôi đã chỉ đạo cho các trung tâm giải quyết việc làm ở các địa phương và một số gợi ý của nhiều doanh nghiệp trong Nam, ngoài Bắc đều muốn tiếp nhận số lao động này. Người ta đứng ra bảo lãnh số nợ ngân hàng mà các lao động này vay của ngân hàng để đi lao động.
Như vậy vấn đề còn lại là chúng ta phải giải quyết những chính sách thanh lý hợp đồng và tạo việc làm mới cho số lao động từ Libya về mà không để cho những người lao động này lâm vào hoàn cảnh khó khăn do biến cố ở Libya. Trong tình hình hiện nay thì khẳng định chúng ta tiếp tục thực hiện chính sách tạo việc làm trong nước và ngoài nước, vấn đề là nâng cao tay nghề, tìm thị trường để có thu nhập tốt và bảo đảm an toàn cho người lao động của chúng ta. Xin hết.
5/ Võ Hồng Phúc - Thanh Hoá
Tôi xin có một số ý kiến theo gợi ý của Chủ tịch đoàn về vấn đề điều chỉnh đầu tư công, thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ hiện nay chúng ta đã triển khai điều chỉnh đầu tư công. Căn cứ Nghị quyết 11 chúng ta có giải thích với đại biểu Quốc hội là trong các nguồn đầu tư công thì có nguồn ngân sách, nguồn trái phiếu Chính phủ, nguồn tín dụng đầu tư Nhà nước và nguồn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước. Đối với nguồn trái phiếu Chính phủ và nguồn ngân sách thì chủ trương của Chính phủ cũng đã thống nhất với Thường vụ Quốc hội là chúng ta không điều chỉnh chỉ tiêu, bởi vì chỉ tiêu này Quốc hội đã thông qua, cho nên tổng mức đầu tư từ ngân sách Nhà nước gồm trái phiếu Chính phủ và ngân sách thường xuyên hàng năm là 152 ngàn tỷ đồng cộng với 45 ngàn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, tức là 197 ngàn tỷ đồng giữ nguyên không đổi là chúng ta không cắt giảm, chúng ta chỉ cắt giảm là đầu tư từ tín dụng Nhà nước 10% và giảm đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước.
Còn đối với nguồn đầu tư từ ngân sách Nhà nước bao gồm trái phiếu Chính phủ và ngân sách hàng năm thì chúng ta sắp xếp lại các dự án đầu tư trên cơ sở lựa chọn dự án đầu tư có hiệu quả để chúng ta đầu tư và căn cứ vào các tiêu chí mà Chính phủ đã ban hành. Còn ở đây không cắt giảm nhưng thực tế lại có 2 việc mà Chính phủ có trong chỉ thị mà trong Nghị quyết 11 có nêu là không cho ứng trước vốn của năm 2012 và không cho điều chuyển vốn của 2010 sang 2011 thực hiện 2 chủ trương này cũng là việc giảm vốn rất lớn so với triển khai đầu tư từ ngân sách và trái phiếu Chính phủ của năm 2011. Bởi vì năm 2010 thì các vị đại biểu Quốc hội đã biết là tổng đầu tư từ ngân sách của chúng ta là các số đếm là 243 ngàn tỷ đồng, trong đó đầu tư từ ngân sách là 177 ngàn và đầu tư từ trái phiếu Chính phủ là 66 ngàn, nhưng trong 243 ngàn này thì đã có khoảng một lượng rất lớn là ứng trước và điều chuyển. Ứng trước và điều chuyển tổng số là 51 ngàn tỷ đồng mà năm 2011 chúng ta không cho điều chuyển và không cho ứng trước, tức là tự nhiên chúng ta đã giảm đi 51 ngàn tỷ đồng, một con số giảm khá lớn.
Chúng tôi tính số giảm này so với thực tế của năm 2010 là chúng ta giảm đến gần 21% tổng đầu tư từ ngân sách và trái phiếu Chính phủ. Cho nên lý do vì sao chúng ta không điều chỉnh tổng mức đầu tư từ ngân sách và trái phiếu Chính phủ mà chúng ta giữ nguyên nhưng không cho tạm ứng, không cho điều chuyển thì tự khắc giảm đi 51 ngàn tỷ đồng.
Thứ hai là tín dụng doanh nghiệp Nhà nước sẽ 10% và đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước cũng đã giảm tỷ lệ tương ứng.
Còn hiện nay việc các đoàn đi kiểm tra như thế nào? Chấp hành Nghị quyết 11 của Thủ tướng Chính phủ chúng tôi đã tổ chức 10 đoàn đi kiểm tra ở 8 vùng và 2 đoàn đi kiểm tra ở các doanh nghiệp Nhà nước, tổng cộng là 10 đoàn tất cả. Kết quả hiện nay về sơ bộ báo cáo Quốc hội, các tỉnh, các thành phố đã chấp hành nghiêm chỉnh Nghị quyết 11 của Chính phủ. Ở đây các đoàn đi kiểm tra không phải các đoàn đi kiểm tra để cắt mà trên cơ sở thực hiện Nghị quyết 11 Chính phủ yêu cầu các Bộ, các ngành, các địa phương chủ động sắp xếp, bố trí lại thì các Bộ, các ngành, các địa phương đã chủ động sắp xếp, bố trí lại. Hầu hết các địa phương chúng tôi đi kiểm tra đã chủ động xem xét và dồn vốn vào các công trình hoàn thành trong năm 2011 và 2012. Những công trình không hiệu quả đang tạm đình hoãn lại và chưa thực hiện thì việc thực hiện ở các địa phương là nghiêm chỉnh. Ở các tổng công ty cũng đang triển khai việc sắp xếp lại, chúng tôi tổ chức 2 đoàn đi kiểm tra các tập đoàn lớn và các tổng công ty Nhà nước hiện nay vấn đề sắp xếp lại đầu tư cũng được triển khai tốt. Dự kiến cuối tháng 3 này trong phiên họp của Chính phủ Bộ Kế hoạch và đầu tư sẽ báo cáo lại kết quả sắp xếp lại đầu tư từ các Bộ, ngành, địa phương và sau đó chúng tôi sẽ gửi báo cáo cho Thường vụ Quốc hội.
Vấn đề thứ hai là vấn đề đầu tư công mà có nhiều đại biểu Quốc hội đã phát biểu và đề nghị cơ cấu lại và giảm đầu tư công. Trong thời gian phải nói rằng đầu tư công đã phát huy tác dụng và giúp chúng ta trải qua một chặng đường lớn, chuyển từ một nước nghèo sang nước có thu nhập ở mức trung bình. Quá trình chuyển đầu tư công, cắt giảm đầu tư công, tái đầu tư là cả một lộ trình. Đầu tư công của chúng ta từ trước đến nay phần lớn tập trung cho xóa đói giảm nghèo, đầu tư vùng sâu, vùng xa, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, về kinh tế, về xã hội, chẳng hạn như đường sá, trường học, bệnh viện và các nhà máy điện đã đầu tư rất lớn. Vì trong quá trình phát triển của chúng ta khi chúng ta thực hiện một lộ trình chuyển sang cơ chế thị trường, kể cả về giá cũng phải chuyển cơ chế thị trường thì mới tạo điều kiện cho đầu tư công có thể chuyển đổi được. Trong thực tế hiện nay khi chúng ta đang từ một nước kém phát triển, thu nhập thấp chuyển sang một nước thu nhập trung bình thì điều kiện chuyển đổi cơ cấu lại đầu tư đã đến thời kỳ. Hiện nay Chính phủ đang xây dựng một cơ sở pháp lý để chuyển đổi cơ cấu đầu tư này đó là vấn đề đầu tư theo phương thức công tư kết hợp, tức là nhà nước và tư nhân cùng tham gia đầu tư để phát triển các công trình về cơ sở hạ tầng là chủ yếu. Hiện nay với phương thức đầu tư này chúng ta sẽ thu hẹp dần tổng đầu tư của nhà nước và tiến tới tư nhân sẽ tham gia vào. Vì sao bây giờ chúng ta mới chuyển được, báo cáo quý vị vì có liên quan đến vấn đề tư nhân đầu tư vào cơ sở hạ tầng họ muốn thu hồi vốn, như vậy giá điện phải lên, giá lộ phí đường phải tăng lên, đến mức nào đó dân ta có thu nhập cao hơn thì có thể chấp nhận được mức giá nào đó thì chúng ta mới có thể điều khiển được.
Hiện nay Chính phủ đang có một lộ trình để chuyển đổi, cơ cấu lại đầu tư và sẽ thu hẹp đầu tư công lại và đầu tư công chung vào một số đầu tư, vào lĩnh vực xã hội, những cơ sở hạ tầng mà tư nhân không đầu tư được thì Chính phủ sẽ đầu tư. Chúng ta mong mỏi đầu tư công giảm sớm, báo cáo Quốc hội chúng ta sẽ có lộ trình giảm phù hợp với tiến trình phát triển của chúng ta, phù hợp với khả năng thu nhập của mỗi người dân.
Đó là một số ý kiến về vấn đề đầu tư xin giải trình thêm với các vị đại biểu Quốc hội như vậy. Xin cảm ơn.
6/ Trần Văn Tuấn - Nam Định
Tôi xin phép được phát biểu một số nội dung.
Thứ nhất, về việc lập bộ đa ngành, đa lĩnh vực và những vấn đề sẽ chỉ đạo trong thời gian tới.
Thứ hai là chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn.
Thứ ba là những vấn đề về chính sách đối với việc động viên thanh niên thực hiện nhiệm vụ và việc thu hút cán bộ về vùng sâu, vùng xa, những nơi khó khăn.
Một là về quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trong quá trình thực hiện cải cách hành chính. Từ thực tiễn thực hiện thời gian qua có thể khẳng định mô hình bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực là chủ trương, quan điểm đúng đắn của Đảng, Nhà nước về cải cách tổ chức bộ máy Chính phủ và cơ quan hành chính các cấp, nó không chỉ đáp ứng yêu cầu thực tế đòi hỏi làm cho bộ máy Chính phủ và các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện được tinh gọn hợp lý hơn mà còn khắc phục được đáng kể tình trạng chồng chéo, trùng lắp chức năng, nhiệm vụ, của các bộ, ngành và nâng cao được hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước trong tình hình phát triển mới của đất nước.
Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực không phải là phép cộng đơn thuần nhiều bộ, nhiều cơ quan vào một đầu mối mà là sự chuyển đổi mô hình tổ chức và quản lý từ đơn ngành sang đa ngành, đa lĩnh vực, dựa trên quan điểm nguyên tắc hệ thống và các mối quan hệ hữu cơ về chức năng, nhiệm vụ, phạm vi đối tượng quản lý giữa các chuyên ngành, chuyên lĩnh vực. Theo đó có sự đổi mới kiện toàn cả cơ cấu tổ chức bộ máy và cơ chế vận hành đem lại sự thay đổi yếu tố về chất, thiết lập mới mối quan hệ về thẩm quyền, trách nhiệm quản lý Nhà nước giữa người đứng đầu các Bộ với người đứng đầu các cơ quan quản lý chuyên ngành khi nằm trong cơ cấu tổ chức của Bộ đa ngành, đa lĩnh vực.
Cùng với việc thiết lập Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực đã đẩy mạnh phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương, tách chức năng quản lý Nhà nước với chức năng của các đơn vị sự nghiệp trực thuộc và chức năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để bộ tập trung và quản lý tổng hợp vĩ mô trong phạm vi cả nước đối với ngành và lĩnh vực. Nhìn tổng thể tất cả các bộ được quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trong những năm qua đều phát huy rõ tác dụng và đã hoàn thành tốt các chức năng nhiệm vụ của mình theo phân công của Chính phủ và thực hiện đúng các qui định của pháp luật. Tuy nhiên việc tổ chức Bộ đa ngành, đa lĩnh vực vẫn còn một số vấn đề tồn tại, hạn chế như sau:
Một, mặc dù quán triệt nguyên tắc một việc chỉ giao cho một cơ quan thực hiện và chịu trách nhiệm để không có sự chồng chéo trùng lắp về chức năng nhiệm vụ giữa các bộ, ngành, nhưng đến nay vẫn còn 8 vấn đề chồng chéo so với thời điểm đầu cơ cấu của Chính phủ Khóa X có tới 108 vấn đề chồng chéo thì nay đã giảm đáng kể cụ thể như sau: quản lý các nguồn nước và công tác thủy lợi, nhất là vấn đề quản lý lưu vực sông, phân phối tài nguyên nước, khai thác sử dụng nước giữa Bộ tài nguyên và môi trường, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Quản lý nhà nước về năng lượng giữa Bộ Công thương với Bộ Khoa học công nghệ. Quản lý về lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm nhất là các khâu, các công đoạn vệ sinh an toàn thực phẩm giữa Bộ Y tế và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Công thương và một số bộ có liên quan. Quản lý về đa dạng sinh học và bảo tồn hệ sinh thái giữa Bộ Tài nguyên và môi trường với Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn. Quản lý các công trình giao thông, quản lý lòng đường, lề đường các công trình cấp nước, thoát nước và các kết cấu hạ tầng khác trong đô thị giữa ngành giao thông vận tải với ngành xây dựng. Quản lý nhà nước về rừng và đất rừng giữa Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn với Bộ Tài nguyên và môi trường. Quản lý nhà nước về chất thải đô thị nông thôn giữa Bộ Tài nguyên và môi trường với Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Quản lý nhà nước về an toàn lao động đối với các nhà máy thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động giữa Bộ Lao động - thương binh và xã hội với Bộ Công thương và các bộ, ngành có liên quan.
Những vấn đề chồng chéo nêu trên có những nguyên nhân khách quan, chủ quan nhưng khó tránh khỏi. Một mặt do thực tế bản thân những vấn đề có sự đan xen giáp ranh giao thoa của các đối tượng, phạm vi đối tượng quản lý giữa các bộ, ngành có liên quan. Mặt khác quá trình tổ chức thực hiện do có những vấn đề thực tế phát sinh rất phức tạp nên vẫn không thể dễ dàng xử lý dứt điểm được các vấn đề chồng chéo nêu trên.
Về vấn đề này sắp tới sẽ được xử lý căn bản hơn trong đề án cơ cấu tổ chức của Chính phủ khóa XIII bằng các giải pháp chủ yếu mà Thủ tướng Chính phủ đã báo cáo với Quốc hội. Tôi xin báo cáo với Quốc hội một số giải pháp chủ yếu sau:
Tiếp tục điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan. Quy chế hóa cơ chế phối hợp giữa các bộ đang có sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ và phân định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan cụ thể để xây dựng các thông tư liên tịch trong đó quy định rõ bộ chủ trì chịu trách nhiệm chính và các bộ có liên quan cùng thực hiện. Áp dụng giải pháp tổ chức đối với những vấn đề không thể xử lý được bằng quy chế phối hợp được bằng cách chuyển giao chức năng, nhiệm vụ và hợp nhất tổ chức để thống nhất đổi mới thực hiện cho bộ đảm bảo để khắc phục sự chồng chéo.
Hai là về tổ chức các cơ quan chuyên môn ở địa phương theo mô hình quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trong lĩnh vực dân tộc và công thương được quy định ở Nghị định số 13 và Nghị định số 14 của Chính phủ tuy bảo đảm tính thống nhất giữa Trung ương và địa phương nhưng trong quá trình triển khai thực hiện một số vấn đề chưa hợp lý. Theo đề nghị của một số địa phương Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12 ngày 26/2/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 14 trong đó cho phép thành lập Phòng dân tộc ở những huyện đối với các địa phương có số lượng đông đồng bào dân tộc thiểu số, bảo đảm tiêu chí theo quy định của Nghị định số 53 của Chính phủ. Đổi tên Phòng công thương cấp huyện thành Phòng kinh tế và hạ tầng để bao quát phạm vi, đối tượng quản lý của các Bộ tương ứng.
Ba là lập Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực để tạo cơ sở phối hợp đồng bộ, có hiệu quả hơn nữa các chuyên ngành, chuyên lĩnh vực. Nhưng thực tế có một số Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực còn lúng túng và chưa ban hành được quy chế làm việc mới theo mô hình Bộ đa ngành, đa lĩnh vực. Sự chỉ đạo, điều hành còn hạn chế, nhất là cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý chuyên ngành, chuyên lĩnh vực còn gặp vướng mắc và hiệu lực, hiệu quả hoạt động thấp, chưa thể hiện rõ mục tiêu, yêu cầu cải cách hành chính. Đây là việc cần rút kinh nghiệm để khắc phục trong thời gian tới.
Chúng tôi cũng đã theo dõi trong ý kiến phát biểu của đại biểu Quốc hội ở tổ, các vị đại biểu cũng có góp ý là nhiệm kỳ Khóa XIII ta nên thận trọng trong việc tách, nhập các Bộ để đảm bảo sự ổn định để thực hiện.
Chúng tôi cũng xin báo cáo với Quốc hội, chúng tôi cũng nhận được sự chỉ đạo của lãnh đạo Chính phủ, trực tiếp là Thủ tướng Chính phủ là cân nhắc chỉ tổ chức những đơn vị, những lĩnh vực thật sự cần thiết, ví dụ quản lý năng lượng và ứng phó với biến đổi khí hậu. Còn lại chủ yếu là đảm bảo ổn định và đi vào giải quyết những chồng chéo sao cho rõ trách nhiệm và có điều kiện để khẳng định rõ được trách nhiệm của mỗi ngành.
Việc thứ hai, điểm mới về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã. Trong tổ thảo luận cũng như trên diễn đàn nhiều ý kiến các vị đại biểu Quốc hội cũng còn góp ý về chế độ, chính sách đối với cán bộ xã, phường. Ở đây chúng tôi xin báo cáo là tại nhiệm kỳ này có thể nói giải quyết chế độ, chính sách cho cán bộ xã, phường, chúng ta đã giải quyết được những vấn đề rất cơ bản. Hiện nay theo các văn bản pháp luật của Nhà nước thì không có phân biệt cán bộ cấp xã với cán bộ Trung ương, tức là đã giải quyết được liên thông trong hệ thống chính trị và tại Nghị định 92 thì chế độ chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn được phân định rất rõ, những vấn đề rất khó như về lương thì lương của cán bộ chuyên trách và những người được bầu, các đồng chí Bí thư, Phó Bí thư, Chủ tịch, Phó Chủ tịch xã và các chức danh trưởng các đoàn thể thì được trả lương theo lương đào tạo và hưởng phụ cấp, phụ cấp cũng có phân biệt là xã loại 1 hưởng phụ cấp khác, xã loại 2 hưởng phụ cấp khác. Nhưng trong Nghị định cũng giải quyết được việc khó là đối với vùng sâu, vùng xa, những nơi cán bộ chưa được đào tạo thì sẽ giải quyết bằng lương theo chức vụ và có 2 bậc lương. Đây là một sự cố gắng và thực ra là giải quyết về công tác cán bộ ưu tiên cho vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là đối với công chức cấp xã thì đã xác định rõ số lượng và vị trí đối với những vị trí cần thiết phải bổ sung thêm thì được bố trí 2 hoặc 3 người và trong quy định của nghị định thì nó chỉ đến khoảng 16, 17 chức danh, còn lại có những xã đến 25 chức danh thì chức danh đó để cho địa phương tự bố trí và có điều kiện thực hiện nhiệm vụ trên địa bàn được thuận lợi.
Đối với các đồng chí công chức thì trả lương theo lương được đào tạo, các đồng chí này riêng đối với những trường hợp các đồng chí chưa qua đào tạo nhưng có quá trình đóng góp thì vẫn được giữ lại và có chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ để nâng cao dần khả năng các đồng chí đó để tránh một sự khó khăn thì giờ chúng tôi qua theo dõi nắm được một số xã thì các đồng chí có đóng góp trong chống Mỹ, nhưng hiện tại công tác ở xã thì chưa được qua đào tạo nếu tiêu chuẩn hóa mà để các đồng chí nghỉ thì về chính sách cũng khó khăn. Về chế độ tiền lương thì như vậy, xin báo cáo với các đồng chí, các đồng chí chưa qua đào tạo thì hưởng mức lương hiện tại theo quy định là 1,18 thì có thấp, nhưng hướng tới thì Bộ Nội vụ trình với Chính phủ là sẽ mở lớp bồi dưỡng để nâng cao nghiệp vụ, để hợp thức dần một số các đồng chí chưa qua đào tạo có điều kiện công tác tại xã như chính sách về tiền lương có sự ưu việt là đối với các đồng chí tốt nghiệp đại học và trên đại học trả lương theo lương đào tạo, có điều kiện để thu hút cán bộ giỏi về xã làm việc.
Về chế độ phụ cấp, đối với các đồng chí được qua đào tạo ở các xã có quy mô lớn như xã loại 1 hưởng phụ cấp khác, xã loại 2 hưởng phụ cấp khác, xã loại 3 quy mô nhỏ hơn không có phụ cấp. Chúng tôi được biết trong quá trình phát biểu các đồng chí đại biểu, đặc biệt khi tiếp xúc cử tri cũng có nhiều ý kiến đề nghị đối với cán bộ bán chuyên trách, những người hoạt động không chuyên trách trong Nghị định 92 có quy định: "Khoảng từ 19 đến 22 người" nhưng không quy định chức danh. Tại Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp hành Trung ương Khóa X có quy định những người hoạt động không chuyên trách theo hướng khoán kinh phí và khoán số lượng, mỗi một xã các đồng chí bán chuyên trách khoảng trên 20 người, mỗi một thôn khoảng 3 người, tương đương với nội thành là tổ dân phố, qua thống kê mỗi một xã hiện tại trả ít nhất khoảng 100/suất, có những thành phố, thị xã lớn trả cho một phường tới 200/suất. Theo Nghị quyết của Trung ương đối với các đồng chí bán chuyên trách này theo hướng khoán kinh phí và khoán số lượng. Khi tiếp xúc cử tri, các đồng chí đề nghị chúng ta giải quyết cả đến thôn, có nơi đề nghị giải quyết cả những cán bộ bán chuyên trách ở xóm thì rất là khó. Về lĩnh vực quản lý này ngay cả Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản cũng chỉ giải quyết đến cán bộ cấp xã, cán bộ cấp thôn theo nguyên tắc là thu và người dân giám sát việc người dân nộp cho các đồng chí cán bộ phụ trách đảm bảo làm thế nào đó không tăng lượng biên chế đối với cán bộ cấp xã và đặc biệt cán bộ cấp thôn ở xóm thì chúng tôi xin báo cáo như vậy.
Còn có một kiến nghị nữa mà chúng tôi cũng thấy khó giải quyết, tức là hiện tại các đoàn thể, ban chấp hành các đoàn thể thì các đồng chí cũng đề nghị nên có phụ cấp cho ủy viên ban chấp hành thì việc này cũng chưa giải quyết được, đây xin báo cáo lại với Quốc hội để các đồng chí cũng chia sẻ chung, nhưng chúng tôi xin báo cáo là Nghị định 92 ngoài việc trên thì còn giải quyết được những vấn đề khác mà trước đây còn tồn đọng. Ví dụ cán bộ xã già yếu đã có chế độ chính sách phù hợp và những người mà trước đây cán bộ xã nhưng mà có án phạt tù về không được nối lại lương hưu xã nhưng bây giờ thì qua Nghị định 92 đã giải quyết và cán bộ xã phường, thị trấn có thời gian đảm nhiệm các chức vụ khác thì trước giải quyết bảo hiểm xã hội khó khăn thì bây giờ tại Nghị định 92 cũng đã được giải quyết. Đấy là những vấn đề lớn mà chúng tôi thấy rằng mặc dù so với yêu cầu chưa đáp ứng được nhưng mà đây cũng là một sự cố gắng lớn của Đảng, Nhà nước ta trong thời gian vừa qua.
Vấn đề nữa chúng tôi xin báo cáo về chính sách đối với thanh niên, xin báo cáo với Quốc hội là vừa qua các bộ, ngành đã bàn, đã trình Chính phủ tới đây sẽ có văn bản nghị định của Chính phủ qui định cụ thể những chính sách để động viên thanh niên thực hiện nhiệm vụ. Ngoài những chính sách trên xin báo cáo với Quốc hội là Chính phủ đã ban hành nghị định về chế độ đãi ngộ thu hút cán bộ công chức về công tác tại vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế - xã hội khó khăn thì những chính sách đó góp phần vào việc để quan tâm đến chế độ chính sách đối với cán bộ cấp xã. Tôi xin báo cáo hết, xin cảm ơn Quốc hội.
7/ Nguyễn Thiện Nhân - Bắc Giang
Chúng tôi dự kiến phát biểu về 3 nội dung nhưng vì thời gian có hạn nên tôi xin phép nói 1 nội dung, đó là Chính phủ triển khai nghị quyết của Quốc hội về vấn đề thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên nhà giáo như thế nào. Trong nhiệm kỳ qua Quốc hội có thông qua 2 văn bản rất quan trọng liên quan đến vấn đề này, đó là Nghị quyết của Quốc hội về đổi mới một số nội dung cơ chế tài chính, giáo dục đào tạo trong đó có vấn đề thâm niên cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục và sau đó là luật sửa đổi một số nội dung Luật giáo dục 2005. Trong quá trình triển khai, báo cáo đại biểu Quốc hội có một số đặc điểm như sau:
Từ năm 1988 đến tháng 12/1993 các nhà giáo có phụ cấp thâm niên, phụ cấp thâm niên này vừa góp phần tăng thu nhập trong lúc giảng dạy, làm việc, đồng thời khi về hưu là cơ sở tính lương hưu. Nhưng từ tháng 1/1994 đến nay không còn chế độ phụ cấp thâm niên và vừa qua theo nghị quyết của Quốc hội chúng ta sẽ thực hiện phụ cấp thâm niên từ năm 2011. Nguyên tắc là các nhà giáo đã giảng dạy từ 5 năm trở lên thì được 5% tiền lương tính làm thâm niên và mỗi một năm sau đó là 1% tiền lương.
Tuy nhiên trong quá trình triển khai thấy rằng nếu chúng ta chỉ tính thâm niên cho giáo viên từ năm 2011 thì các giáo viên không có thâm niên từ tháng 1/1994 đến tháng 12/2010 thì như thế nào? Sở dĩ vừa qua chuẩn bị lâu vì ý kiến bên ngành giáo dục đào tạo và một số Bộ ý kiến còn khác nhau về điểm này. Ý kiến thứ nhất cho rằng Luật giáo dục ghi thâm niên cho nhà giáo chứ không ghi là thâm niên tính cho nhà giáo về hưu, nên đề nghị không tính số nhà giáo về hưu. Chính phủ có chỉ đạo Bộ Giáo dục và đào tạo làm rõ, những nhà giáo nghỉ hưu năm 1994 tức là vào nghề vào năm1955 và 1960, đây là đội ngũ nhà giáo đóng góp cho giáo dục sau cuộc kháng chiến chống Pháp cho đến năm 1994. Những nhà giáo nghỉ hưu vào tháng 12/2010, tức là vào nghề từ năm 1973 hoặc 1978 cho đến nay, đây là những người góp phần phát triển hệ thống giáo dục trước và sau chiến tranh cho đến khi chúng ta hoàn thành phổ cập trung học cơ sở. Tổng cộng có 180.000 giáo viên nghỉ hưu trong giai đoạn này. Về lý, nếu chúng ta không tính có thâm niên để tính vào lương hưu cho nhà giáo thì ngành giáo dục thấy rằng đây là những người có công rất lớn cho giáo dục chúng ta, có lẽ tình cảm, trách nhiệm với đội ngũ này chưa được trọn vẹn. Tuy nhiên đây sẽ là nghị quyết của Chính phủ, nhưng vừa qua Chính phủ đã gửi dự thảo có nội dung này với 2 loại ý kiến, ủng hộ và không ủng hộ Chính phủ đang lấy ý kiến các thành viên.
Ngày 22/03 vừa qua Thủ tướng Chính phủ đã trực tiếp tiếp Chủ tịch và 2 Phó Chủ tịch Hội cựu giáo thức, các đồng chí Hội cựu giáo thức thiết tha đề nghị quan tâm đến đội ngũ giáo viên đã nghỉ hưu trong giai đoạn chúng tôi vừa nêu và Thủ tướng Chính phủ cũng đề nghị chuẩn bị văn bản, làm thế nào thể hiện được tình nghĩa của chúng ta đối với lực lượng giáo viên rất quan trọng từ năm 1955 đã cống hiến cho nhà nước đến năm 2010.
Nội dung thứ hai còn có khó khăn là do thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên cho giáo viên, nhưng thực tế các giáo viên dạy giỏi ở các trường phổ thông đã được giới thiệu làm hiệu trưởng, hiệu phó các trường và nếu làm tốt được điều về phòng giáo dục quận huyện, sở giáo dục đào tạo các tỉnh, các đồng chí này nếu không được hưởng phụ cấp thâm niên thì cũng rất thiếu sự động viên, về phòng quản lý thì không còn phụ cấp giảng dạy, không còn phụ cấp thâm niên. Cho nên phòng giáo dục đề nghị các thầy cô giáo này tuy có chuyển về quản lý và đã có nhiều kinh nghiệm dạy giỏi, quản lý tốt vẫn được phụ cấp thâm niên. Điều này đang lấy ý kiến của thành viên Chính phủ.
Cuối cùng, ngành tài chính đã dự trù sẵn kinh phí để triển khai vấn đề này cho năm 2011. Hiện nay theo quy trình trong tháng 4 các thành viên Chính phủ sẽ gửi ý kiến lại, Chính phủ sẽ họp và có quyết đinh về vấn đề chế độ phụ cấp thâm niên. Báo cáo Quốc hội xin vắn tắt nội dung này, còn vấn đề liên quan đến chiến lược thanh niên và mầm non do hạn hạn chế xin phép không báo cáo. Chúng tôi là người cuối cùng trong thành viên Chính phủ phát biểu ý kiến này, xin thay mặt Chính phủ cảm ơn Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các Ủy ban Quốc hội, các đại biểu Quốc hội trong nhiệm kỳ vừa qua đã quan tâm, chỉ đạo, hỗ trợ, giám sát và góp ý hoạt động của Chính phủ trong thời gian vừa qua. Đây là tiền đề quan trọng để Chính phủ hoạt động tốt hơn, hiệu quả hơn trong thời gian sắp tới. Xin kính chúc các vị đại biểu sức khỏe, thành công và hạnh phúc.
(Blog Phamvietdaonv tổng thuật theo Trang tin điện tử của Quốc hội)
Bài 3: CÁC VỊ “TƯ LỆNH” CỦA CHÍNH PHỦ “ NỔ” ĐỂ PHÁ VÂY TRẬN 26/3 THẾ NÀO ?
Do sự xuất hiện một vài vấn đề sốt dẻo, nên loạt bài tường thuật và bình luận về hoạt động chất vấn Chính phủ và trả lời chất vấn tại phiên họp Quốc hội ngày 26/3 mới đưa được 2 bài, Bài 1: “ CON NỢ “ VINASHIN ĐƯỢC MỔ XẺ TẠI QUỐC HỘI HÔM NAY ( 26/3 ) THẾ NÀO ?; Bài 2: CÁC KHUYẾT TẬT CỦA CHÍNH PHỦ ĐƯỢC MỔ XẺ TẠI PHIÊN HỌP QUỐC HỘI 26/3/2011 tạm dừng; Hôm nay, xin đưa tiếp bài thứ 3 và ngày mai dự kiến đưa bài thứ 4, là bài cuối cùng bình về phiên họp ngày 26/3 có tiêu đề:
Bài 4: CT QUỐC HỘI NGUYỄN PHÚ TRỌNG CÓ GIỐNG TRƯƠNG DỰC ĐỨC TRONG TRẬN ĐƯƠNG DƯƠNG-TRÀNG BẢN ?
Bài 3:
CÁC VỊ “TƯ LỆNH” CỦA CHÍNH PHỦ “ NỔ” ĐỂ PHÁ VÂY TRẬN 26/3 THẾ NÀO ?
Bình luận nhanh của Blog Phamvietdaonv:
Như quý vị đã đọc 2 kỳ trước đây, phiên họp chất vấn của các đại biểu Quốc hội đối với Chính phủ diễn ra ngày 26/3 vừa quan sao mà giống với trận quân Tào kéo vào chiếm Kinh Châu, đuổi đánh Lưu Bị thời Tam Quốc…
Lưu Bị mất Kinh Châu khác chi Chính phủ thua bại trọng vụ Vinashin? Có điểm khác, Lưu Bị khi xưa do binh mọn, tướng ít, thành Tân Dã tạm bợ nhưng với sự quân sư của Gia Cát Lượng, Lưu Bị cũng đã tạo được một vài cuộc giao chiến oai hùng. Đó là trận hỏa công đốt thành Tân Dã, trận rút lui chiến lược, bảo toàn lực lượng với cái kết cục Đương Dương-Tràng Bản…Trong trận chiến đó: một Triệu Tử Long xông pha trong đám trăm vạn quân Tào như vào chỗ không người; một Quan Vũ xuất hiện ứng cứu đúng lúc; Một Trương Dực Đức quát một tiếng khiến cho quân Tào khiếp vía, tán loạn…
Trong trận 26/3 vừa qua, khí thế của đội quân Quốc hội ào ạt xông lên khác chi trăm vạn quân Tào năm xưa; còn về phía đội quân Chính phủ với sự xuất tướng tới 7 vị nhưng xem chừng chỉ có được nữ tướng Kim Ngân cũng tung ra được vài đường gươm hao hao Triệu Tử Long năm xưa…Còn các vị tướng ông là hèn, bỏ trốn, tránh đòn, mạnh ai nấy chạy thục mạng nhưng lại “ nổ “ rất kêu…
Các vị chủ yếu vẫn “ nổ “ chỉ thiên, nổ vu vơ cốt có tiếng súng, còn trúng vào đâu không cần biết và cũng chả ai đi kiểm tra…Về trận ra quân này, đáng lẽ ra phải có một bài bình phân tích đến nơi đến chốn, vì thời gia quá bận, vả lại Chủ blog cũng muốn nhường đất cho các “ hậu duệ “ của Mao Tôn Cương có đất mà dũng võ…
Xin đưa lại toàn bộ diễn biến của trận ra quân này của các “soái” trong đội quân Chính phủ:
1/Nguyễn Văn Giàu - Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước đã triển khai thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ ngày 24 tháng 2 năm 2011 và trong Nghị quyết 11 thì yêu cầu Ngân hàng Nhà nước triển khai thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng và đặc biệt là kiểm soát hai chỉ tiêu, chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng của năm 2011 so với năm 2010 không vượt quá 20%, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán năm 2011 so với năm 2010 tăng khoảng 15-16%. Các nội dung khác Ngân hàng nhà nước đã có các văn bản chỉ đạo và các văn bản phối hợp với Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố để triển khai nhiệm vụ đã quy định tại Nghị quyết số 11 của Chính phủ.
Xin báo cáo thêm phần về triển khai cụ thể, trong Nghị quyết số 11 yêu cầu vốn tín dụng năm nay tập trung ưu tiên cho khu vực sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp nhỏ và vừa. Mới đây Thủ tướng cũng chỉ đạo tập trung giải quyết vấn đề cho vay của ngân hàng chính sách để hỗ trợ và đảm bảo vấn đề an sinh xã hội. Báo cáo Quốc hội, số tăng trưởng tín dụng năm nay dưới 25%, dự kiến tín dụng cả năm sẽ tăng khoảng 460.000 tỷ, theo thiết kế của Ngân hàng nhà nước đang triển khai thì tất cả số tăng trưởng tín dụng năm nay tập trung cho các mục tiêu ưu tiên, còn các mục tiêu khác, nhất là các đối tượng phi sản xuất gồm cho vay tiêu dùng, cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay bất động sản gần như không tăng. Do tăng trưởng tín dụng tập trung vào đối tượng ưu tiên cho sản xuất nên cơ cấu tín dụng phi sản xuất giảm, dự kiến từ 18,7% so với tổng dư nợ, so với cuối năm 2010 sẽ còn 16% trong tổng dư nợ cuối năm 2011. Hồi nãy cũng có một số đại biểu phát biểu rằng sợ chúng ta điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ sẽ làm khó khăn cho vốn để đáp ứng cho nền kinh tế. Tôi xin báo cáo lại, về thiết kế điều hành năm nay vốn tăng tuyệt đối tương đương với năm ngoái. Tức là năm ngoái chúng ta tăng trưởng tín dụng cũng gần 470 nghìn tỷ thì năm nay tăng trưởng tín dụng dự kiến cũng khoảng 460 nghìn tỷ. Tôi cũng chia sẻ và cũng tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội. Trong gần 3 tháng đầu năm vốn tín dụng tăng trưởng trên nền kinh tế có chậm lại nó cũng có khó khăn. Tuy nhiên, đến ngày 07/3 vừa qua Thủ tướng cùng với các Phó Thủ tướng chủ trì họp giao ban trực tuyến với Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố về cơ bản đến nay chưa có vướng mắc lớn. Tuy nhiên, chúng tôi tiếp thu ý kiến này, chúng tôi tiếp tục chỉ đạo trên toàn hệ thống để nếu có khó khăn thì tháo gỡ ngay.
Vấn đề thứ hai, về thị trường ngoại tệ. Như nhiều ý kiến phát biểu, như chúng ta đã biết nếu từ năm 2008 trở về trước thì cán cân tổng thể của chúng ta thặng dư. Bước sang năm 2009 cán cân thanh toán tổng thể quốc tế của chúng ta thâm hụt lên tới 8, 8 tỷ. Năm 2010 với sự nỗ lực của các ngành, các cấp chúng ta đã giảm thâm hụt cán cân tổng thể này rất lớn. Đến cuối năm 2010 cán cân của chúng ta thâm hụt chỉ còn có 3,07 tỷ. Từ 8,8 tỷ chúng ta đã giảm được gần 5,8 tỷ, chỉ còn 3,07 tỷ. Dự kiến cán cân tổng thể thanh toán kinh tế của chúng ta năm 2011 thặng dư lớn. Nếu theo kế hoạch cũ là Chính phủ điều hành nhập siêu dưới 18% so với kim ngạch xuất khẩu. Lúc đó chúng tôi cùng với các ngành xây dựng cán cân thặng dư là 700 triệu. Nhưng bây giờ Thủ tướng yêu cầu các bộ, các ngành tập trung giảm nhập siêu, dự kiến điều hành dưới 16% thì năm nay cán cân của chúng ta có thể thặng dư trên 2 tỷ.
Có nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội, cũng như ý kiến của Ủy ban kinh tế thì trong thời gian vừa qua cân đối cung cầu ngoại tệ chúng ta gặp khó khăn, cung không đủ cầu. Phần này là phần cơ bản. Tất nhiên nhiều lần Thủ tướng nhắc nhở trong quản lý việc phối hợp giữa bộ, ngành trong đó nòng cốt là Ngân hàng nhà nước chưa chặt chẽ. Thời gian gần đây chúng tôi đã phối hợp với các ngành, đặc biệt là các ngành quản lý thị trường. Vừa qua theo Nghị quyết 11 Thủ tướng đã chỉ đạo Bộ Công an, phối hợp với Ủy ban nhân dân địa phương tăng cường quản lý thị trường.
Vừa rồi nhiều ý kiến trên báo chí cho rằng chúng ta quản lý mạnh mẽ trên thị trường tự do mà chúng ta không mở ra kịp để đáp ứng nhu cầu hợp lý của bà con. Về mạng lưới được hoạt động thu đổi ngoại tệ, cũng như mua, bán ngoại tệ đến nay, đặc biệt là 2 địa bàn lớn là Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, theo chúng tôi mạng lưới ngân hàng đã mở rộng đảm bảo phục vụ được cho dân. Tại địa bàn Hà Nội, đến nay có 1689 điểm hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng. Ngoài ra còn 44 đại lý thu đổi ngoại tệ ủy nhiệm từ các tổ chức tín dụng. Mạng lưới này rất dày đặc.
Ở Thành phố Hồ Chí Minh có 1329 điểm của hệ thống các tổ chức tín dụng và có 59 đại lý bàn thu đổi ngoại tệ được ủy nhiệm từ các tổ chức tín dụng. Thời gian vừa qua sau khi quản lý chặt chẽ, nhất là tăng cường kiểm tra với công an thì thị trường tự do khép lại và đây cũng do diễn biến từ cung cầu, đến nay về cơ bản giá của thị trường tự do với giá công bố của Ngân hàng Nhà nước tương đối tiến gần nhau. Thời gian vừa qua các ngân hàng đã thông báo và tạo điều kiện để bán một phần ngoại tệ tiền mặt cho các đối tượng có nhu cầu đi nước ngoài.
Nhân đây cũng báo cáo với Quốc hội, theo thông lệ chung đến nay các thẻ quốc tế hoạt động ở Việt Nam chúng tôi đang triển khai hoạt động rất tốt. Hầu hết cán bộ hay nhân dân đi công tác, đi học tập, đi chữa bệnh và cả đi du lịch hiện nay cơ bản sử dụng thẻ, tuy nhiên tính phòng xa của bà con Việt Nam mình muốn mang một ít tiền mặt để phòng bất trắc. Chúng tôi kiểm tra trong thời gian vừa qua hầu hết các tổ chức tín dụng hướng dẫn việc này đối với bà con có nhu cầu đi nước ngoài tương đối kỹ lưỡng và hầu hết những người có nhu cầu đều đến mở thẻ hoạt động.
Vấn đề thứ ba là vấn đề vàng, từ năm 1990 chúng ta cho phép đúc vàng miếng, trong hơn 20 năm vàng miếng phát triển rất nhanh. Lúc đầu chỉ thực hiện như tập quán lâu đời của bà con chúng ta là tích trữ vàng nhưng dần dần phát triển lên và nó trở thành một phương tiện thanh toán. Như chúng ta biết cái nhà này bán bao nhiêu cây, miếng đất này là bao nhiêu cây v.v.., trở thành phương tiện thanh toán. Đồng thời kèm theo đấy nó phát sinh thêm đầu cơ giá vàng làm giá vàng trong nước xáo trộn và có lúc tách rời giá thế giới mà nó có biến động rất mạnh. Từ đó chúng tôi có đề xuất với Chính phủ là chúng ta tiến tới sẽ ban hành nghị định quản lý kinh doanh vàng, trong đó chúng ta cũng đưa ra lộ trình tiến tới quản lý chặt chẽ vàng miếng. Tuy nhiên, trong Nghị quyết 11 nói rất rõ, trong này có nội dung là tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do. Đây là một lộ trình chúng tôi sẽ xây dựng để hợp lý, phù hợp với điều kiện Việt Nam. Một số thông tin cho rằng ban hành Nghị quyết 11 là cấm đoán việc lưu thông vàng miếng là làm tổn thất tài sản của nhân dân. Tôi khẳng định việc đó không có. Chúng ta sẽ triển khai thế nào phù hợp để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của công dân chúng ta. Xin hết.
2/Vũ Văn Ninh - Bộ trưởng Bộ Tài chính
Qua ý kiến phát biểu của đại biểu Quốc hội trên Hội trường rất quan tâm đến vấn đề rất lớn như chỉ số lạm phát tăng cao của năm 2010, đầu năm 2011, mới có 3 tháng đã tăng hơn 60%, đây là vấn đề rất bức xúc của dư luận xã hội và sự quan tâm của nhân dân cũng như của Chính phủ. Tôi xin phát biểu làm rõ thêm một số thông tin:
Chỉ số giá của năm 2010 và những tháng đầu năm 2011 tăng tương đối cao có rất nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, đặc biệt là từ cuối năm 2010, đầu năm 2011 tình hình kinh tế trong nước và thế giới có những biến động rất phức tạp. Trên thế giới kinh tế năm 2010 đã phục hồi nhưng cũng vẫn rất chậm chạp và không đồng đều. Năm 2011 thì dự báo có khả năng phục hồi tăng trưởng chậm hơn năm 2010: năm 2010 là 3,6 và năm 2011 dự kiến tăng 3,3.
Về giá cả, giá cả hàng hóa thế giới tăng rất cao trong năm 2010, giá hàng hóa nói chung tăng bình quân trên thế giới 32,3% so với năm 2009. Trong đó nguyên liệu công nghiệp tăng 41,8%. Dầu thô tăng 28,4% và giá lương thực thực phẩm tăng 37,4%. Năm 2010 đã tổng kết như vậy tất cả các quốc gia trên thế giới đều lạm phát tăng rất cao trong đó Châu Âu tăng từ gấp 2 đến 2,5 lần so với kế hoạch mục tiêu đặt ra, Trung Quốc tăng hơn 2 lần và Ấn Độ tăng hơn 2 lần.
Tình hình ba tháng đầu năm vẫn diễn biến trong tình hình phức tạp và giá vẫn tiếp tục tăng cả lương thực, nguyên nhiên vật liệu đều tăng. Ví dụ lương thực vẫn tăng 4,3% và năng lượng xăng, dầu tăng từ 15 dến 20%, tức là tăng tương đối nhanh, đặc biệt sau khi khủng hoảng ở Trung Đông, Châu Phi, rồi thiên tai lũ lụt và động đất ở Nhật Bản thì tác động với giá dầu rất lớn. Giá cả thế giới tăng thì có tác động đến giá cả trong nước ở hai mặt, mặt bất lợi thì do chúng tôi nhập khẩu lớn và nhập siêu lớn trong đó 70 đến 75% nhập nguyên nhiên vật liệu và trong nhập siêu này chúng ta nhập siêu từ Trung Quốc rất cao, có những thời điểm nhập siêu từ Trung Quốc tới 95%. Từ đó nó cũng có tác động giá trong nước tăng lên kéo theo làm cho đời sống và người lao động, cán bộ công nhân viên rất khó khăn.
Thứ hai, nó cũng có một khía cạnh là có lợi cho nền kinh tế vì chúng ta cũng là một nền kinh tế xuất khẩu lớn trong đó đặc biệt xuất khẩu hàng nông sản, lâm sản, thủy hải sản và xuất khẩu như dầu thô, cà phê, cao su, gạo. Tất cả những mặt hàng này vừa rồi đều tăng giá, chúng ta cũng được lợi. Đồng thời một bộ phận người dân sản xuất các mặt hàng này cũng thu được lợi hơn. Tuy nhiên gây nhiều tâm trạng xã hội phải lo lắng, đặc biệt những người làm công ăn lương và những người có thu nhập thấp, người nghèo.
Thứ hai, bản thân cân đối kinh tế vĩ mô ở trong nước cũng chưa vững chắc và dễ bị tổn thương, chất lượng của nền kinh tế chưa cao, cạnh tranh còn yếu, giá cả của các sản phẩm hàng hóa của chúng ta, đặc biệt cạnh tranh với Trung Quốc rất bất lợi. Nhập siêu vẫn còn lớn, ví dụ như xăng dầu trước năm 2009 chúng ta phải nhập 100%, bây giờ chúng ta nhập khoảng 70% sau khi có nhà máy lọc dầu Dung Quất. Tuy là đã giảm từ 29,3% năm 2007 xuống 28,8% năm 2008, xuống 22,5% năm 2009 và xuống 17,5% năm 2010 nhưng vẫn còn rất cao, con số tuyệt đối cũng khá cao.
Việc bội chi và nợ công thì như đại biểu nói cũng đang có xu hướng tăng. Việc giảm bội chi, tăng xuất khẩu, giảm nhập siêu cũng phải có lộ trình và phải bắt nguồn từ chính sản xuất trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Chính đó là quá trình gốc của vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hiện nay chúng ta đang triển khai một cách tích cực nhưng cũng không thể giảm nhanh được.
Thứ ba, áp lực tăng chi vẫn còn rất lớn, nhu cầu đòi hỏi cao cả chi đầu tư và thường xuyên. Ngay tại hội trường này từ sáng đến giờ qua ý kiến phát biểu đã nhiều yêu cầu tăng chi mà cũng thấy rất chính đáng. Hiệu quả đầu tư còn dàn trải, hiệu quả chưa thật cao. Nhiều công trình đang trong quá trình xây dựng chưa phát huy hiệu quả, lại phải đầu tư vào các vùng khó khăn để giải quyết các vấn đề xã hội, có ý nghĩa về xã hội, giải quyết an sinh nhưng phát huy về hiệu quả kinh tế thì thấp làm cho chỉ số ICO tăng cao. Biến động của giá vàng, giá ngoại tệ trong thời gian qua, lãi suất còn cao, cân đối ngoại tệ căng thẳng. Những vấn đề đó tác động lớn đến chỉ số giá.
Thứ hai, một số mặt hàng là đầu vào của sản xuất kinh doanh và đời sống của người dân chưa đi theo giá thị trường đã kìm nén ổn định giá trong mục tiêu ngắn hạn cho nên đến nay đã gây ra bức xúc yêu cầu phải tăng giá, nay phải điều chỉnh và không thể kìm chế được nữa. Ví dụ giá than bán cho điện hiện nay chỉ bán bằng 45-50% giá thị trường, điện thì lỗ lớn, xăng dầu thì nhà nước không thu thuế 10.000 tỷ, sử dụng quỹ bình ổn giá 6.400 tỷ, tức là thực chất bù lỗ 16.400 tỷ nhưng vẫn còn thấp hơn Lào và Campuchia, trước khi điều chỉnh thấp hơn Lào 8.000đ/lít, thấp hơn Campuchia 7.000đ/lít và thấp hơn Trung Quốc 6.200đ/lít. Từ đó dẫn đến việc hạch toán của nền kinh tế cũng còn rất méo mó đầu vào của một số sản phẩm; Thứ hai là bao cấp tràn lan, bao cấp cho cả các nước láng giềng; Thứ ba là sử dụng lãng phí; Thứ tư là không kêu gọi được đầu tư và dẫn đến cung cầu ví dụ như thiếu điện; Thứ năm là cũng xảy ra buôn lậu khá phức tạp.
Thứ ba là quản lý điều hành phối hợp giữa các ngành với các ngành, ngành với địa phương có lúc, có nơi chưa tốt, cân đối cung cầu hàng hóa về cơ bản là đảm bảo, trừ ngoại tệ như lúc nãy đồng chí Thống đốc có nói. Hệ thống phân phối ở một số mặt hàng chưa tốt, nhiều khâu trung gian cho nên cũng làm tác động đến giá. Một số nơi triển khai chưa quyết liệt trong chống buôn lậu, kinh doanh hàng giả, kiểm soát giá cả v.v.... những điều này tác động đến cái chung.
Về biện pháp xử lý sắp tới, vấn đề chung là phải quyết liệt thực hiện Nghị quyết 02 đầu năm và Nghị quyết số 11 của Chính phủ đã đề ra nhằm giảm tổng cầu của nền kinh tế. Trong này chúng tôi xin nhấn mạnh một số ý và cũng xin kiến nghị với một số địa phương như sau:
Thứ nhất là phải đảm bảo cân đối cung cầu hàng hóa, đây là gốc của vấn đề.
Thứ hai là sắp xếp lại hệ thống phân phối, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành để sắp xếp lại hệ thống phân phối.
Ba, kiên trì điều hành giá theo thị trường, chúng ta không thể kìm nén hơn được nữa. Hiện nay điện mới đi được một bước là 24% với mức phải điều chỉnh, có nghĩa chúng ta định đi 4 bước thì mới đi được 1 bước. Như vậy chúng tôi hình dung là nếu chúng ta điều hành giỏi và giá thị trường thế giới biến động vừa phải thì chắc phải hết năm 2012 mới đi theo được thị trường, đây là lộ trình phải cố gắng nếu không thì chắc phải sang năm 2013. Đối với than bán cho điện mới chỉ điều chỉnh 5% trong lần này thôi, như vậy mới bằng 10% mức điều chỉnh cũng sẽ phải ghi theo lộ trình điều chỉnh theo giá điện. Hiện nay chỉ còn có than bán cho điện thôi, còn than bán cho ngành khác cơ bản tương đối đi theo thị trường rồi.
Bốn, về giá xăng dầu, hiện nay nhà nước không thu thuế, thuế xuất khẩu là 20% nhưng đã hạ xuống 0 rồi, xăng dầu vẫn còn lỗ và mới điều chỉnh được 1 phần, so với điều chỉnh ngày 24.03 giá của Việt Nam vẫn thấp hơn Lào, Campuchia là 5.000, 4.000, và 3.200 và vẫn còn buôn lậu. Cần tiếp tục điều hành theo Nghị quyết 84 của Chính phủ và điều hành theo thị trường với tinh thần là nếu tình hình giá thế giới vẫn tiếp tục tăng thì vẫn phải điều chỉnh tăng giá bán lẻ trong nước, giá thế giới giảm thì từng bước khôi phục lại thuế nhập khẩu ở mức hợp lý và xem xét giảm giá bán trong nước. Chúng ta phải kiên trì để năm nay làm sao tiếp tục quay trở lại đi theo thị trường, thực ra giá xăng dầu này từ năm 2009.
Năm, đảm bảo các chính sách an sinh xã hội cho người lao động, cho nhân dân, nhất là người nghèo, người có thu nhập thấp và lương thấp. Thực hiện tốt chính sách đã ban hành, chúng tôi sẽ tích cực rà soát, nghiên cứu để đề xuất thêm những chính sách mới giúp cho người lao động và người nghèo ổn định được cuộc sống, vượt qua khó khăn và tạo sự đồng thuận trong dư luận để thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước. Nhân đây chúng tôi xin đề nghị các địa phương, các bộ phối kết hợp tăng cường sản xuất kinh doanh lưu thông phân phối, chống hàng giả, hàng kém chất lượng và kiểm soát giá cả. Ví dụ đăng ký giá, niêm yết giá trên địa bàn từng địa phương. Báo cáo Quốc hội, đăng ký giá, niêm yết giá và kiểm soát giá phải từng địa phương làm thì mới có hiệu quả. Các Bộ thì không thể làm xuể được những yếu tố này. Nhưng hiện nay chính sách pháp luật đang quy định như vậy, cho nên rất mong muốn các địa phương ra tay và vào cuộc. Hiện nay các địa phương đã ra tay và vào cuộc rất mạnh mẽ, đặc biệt những thành phố lớn Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai rất mạnh mẽ. Có mặt hàng trước khi tăng phải đăng ký giá thì các đồng chí kiểm soát thật chặt chẽ việc đó.
Vấn đề thứ hai, chắt chặt ngân sách. Chúng tôi xin nói ngắn gọn:
Thứ nhất, phải tăng thu, phấn đấu tăng thu không có nghĩa là tăng mức động viên mà phải chống thất thu, chống gian lận thuế, chống buôn lậu để tăng thu. Đặc biệt lần này chúng tôi sẽ tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra ở những doanh nghiệp khai lỗ nhiều, có dấu hiệu chuyển giá. Vừa rồi đã làm được một bước, đã có kinh nghiệm, đợt tới này phải làm mạnh hơn.
Thứ hai là giảm chi và trên cơ sở đó giảm bội chi. Năm 2010 Chính phủ đã đề nghị giảm bội chi từ 6,2% kế hoạch xuống 5,6%. Năm 2011 đề nghị giảm từ 5,3% xuống dưới 5%, đang phấn đấu như vậy.
Về chi thường xuyên không cắt hàng loạt, ví dụ chi có tính chất tiền lương, ví dụ trợ cấp xã hội cho người có công với cách mạng, gia đình thương binh, liệt sỹ thì không giảm. Hai là những chính sách chi về an sinh xã hội thì không giảm mà phải tăng. Còn lại các khoản, ví dụ như hội họp, công tác phí, xăng dầu, điện nước thì phải tiết kiệm. Về đầu tư, vấn đề đầu tư Thủ tướng Chính phủ phân công giao cho Bộ kế hoạch và đầu tư chủ trì, tôi xin nói một ý ngắn gọn như sau. Sắp xếp lại trên 4 kênh:
Thứ nhất là kênh ngân sách Nhà nước.
Thứ hai là kênh trái phiếu Chính phủ.
Thứ ba là kênh tín dụng Nhà nước.
Thứ tư là kênh doanh nghiệp Nhà nước.
Cả 4 kênh này đều phải rà soát và sắp xếp lại và cũng có thể có những khoản phải giảm. Trên tinh thần là tập trung cho các dự án phục vụ nông nghiệp, nông thôn, phục vụ cho an sinh xã hội và những dự án sớm đi vào hoàn thành trong năm 2011 để đi vào sử dụng, sớm mang lại hiệu quả thì sắp xếp lại và điều chuyển cắt giảm và cũng dừng khởi công những công trình xét thấy chưa thật sự cấp bách và chưa mang lại hiệu quả ngay. Trên tinh thần như vậy thì Chính phủ cũng đã có một thông điệp cho các địa phương, các bộ, ngành năm nay không có tạm ứng trừ lũ lụt, trừ những công trình khắc phục hậu quả lũ lụt thiên tai và cũng không cho phép chuyển nguồn nếu chi chưa hết, kể cả năm 2010 sang 2011 và 2011 sang 2012. Trên đây là một số ý kiến, chúng tôi xin báo cáo thêm tình hình và giải pháp của Chính phủ đang triển khai và đang chỉ đạo một cách quyết liệt mong tạo được sự đồng thuận, ủng hộ của Quốc hội để thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã đề ra để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Xin cảm ơn Quốc hội.
3/ Vũ Huy Hoàng - Bộ trưởng Bộ Công thương
Được sự cho phép và gợi ý của Chủ tọa kỳ họp, tôi xin báo cáo với Quốc hội về 2 nội dung liên quan đến vấn đề phát triển điện: Thứ nhất, việc đấu nối các nhà máy điện lẻ vào hệ thống lưới điện quốc gia; Thứ hai, vấn đề đảm bảo nguồn nhiên liệu cho các nhà máy nhiệt điện chạy than.
Vấn đề thứ nhất, trong thời gian vừa qua có tình trạng một số dự án thủy điện nhỏ được xây dựng và hoàn thành, nhưng sau đó chưa thể phát điện lên lưới quốc gia do không có đường dây nối từ nhà máy lên lưới điện quốc gia. Điều này xuất phát từ thực tế, chúng tôi đã có một số dịp trình bày với Quốc hội về quy hoạch điện nói chung của cả nước, trong đó có việc thủy điện. Trong vấn đề quy hoạch điện cũng như quy hoạch thủy điện, có nội dung liên quan đến phát triển nhà máy và phát triển hệ thống lưới điện, ở đây có một thực tế ở một số nơi chúng ta có quy hoạch được phê duyệt đấu nối giữa các nhà máy thủy điện nhỏ với hệ thống lưới quốc gia thì ở đó không xảy ra vấn đề liên quan đến khả năng phát và khả năng đưa lên lưới quốc gia. Tuy nhiên, ở một số địa phương khác thì cũng có tình trạng chúng ta phát triển một số dự án thủy điện nhỏ chưa hoàn toàn theo quy hoạch và vì vậy cho nên bị động trong việc đấu nối giữa nhà máy thủy điện nhỏ đó với lưới điện quốc gia vì hệ thống lưới điện quốc gia được thiết kế để mà đảm bảo việc chuyển tải một công suất nhất định, nếu không có tính toán trước, không có kế hoạch trước thì khi có nhiều nhà máy cùng hòa vào lưới thì lưới điện quốc gia đó và đường dây đó không thể tải nổi. Đây là một thực tế xảy ra ở một số nơi vừa qua và cũng là một bài học kinh nghiệm trong vấn đề làm sao bảo đảm đồng bộ giữa quy hoạch lưới và quy hoạch các nhà máy. Tình hình vừa rồi ví dụ như Kon Tum chúng tôi đã được nghe phản ánh và sau đó đã chỉ đạo Sở Công thương cũng như Tổng công ty điện lực miền Trung và Điện lực Kon Tum nghiên cứu để nâng cấp, nâng công suất đường dây tải điện nối các nhà máy thủy điện nhỏ Kon Tum với lưới điện quốc gia và hiện nay công việc đang được tiến hành.
Xin báo cáo với Quốc hội, chúng tôi đang chỉ đạo ngành điện cũng như các sở điện lực và các Sở công thương đảm bảo tính đồng bộ hơn ở trong vấn đề giữa quy hoạch phát triển nguồn và lưới để chúng ta trong tình hình thiếu điện hiện nay thì có các cơ sở điện phát điện được chúng ta huy động tất cả để góp phần sản xuất và cung ứng điện cho nhu cầu của cả nước.
Vấn đề thứ hai, về phát triển các nhà máy nhiệt điện, vậy thì sử dụng và huy động nguồn nhiên liệu như thế nào cũng báo cáo với Quốc hội theo Tổng sơ đồ điện 6 giai đoạn: 2006 - 2015 và hiện nay Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đang chỉ đạo xây dựng Tổng sơ đồ 7: 2015 - 2025. Chúng ta trong những năm tới đây khi chúng ta phát triển các nhà máy nhiệt điện chạy than, nguồn than ở trong nước mặc dù chúng ta đã hết sức nỗ lực cố gắng bằng việc bên cạnh khai thác những mỏ hiện có thì Chính phủ đang chỉ đạo tiếp tục tìm kiếm, thăm dò các mỏ mới, nhất là khu vực bể than đồng bằng sông Hồng, mở rộng việc khai thác mỏ than ở khu vực Quảng Ninh xuống sâu hơn để có thể nâng cao sản lượng than khai thác hàng năm. Tuy nhiên, do trữ lượng của chúng ta có hạn, theo tính toán về cân bằng năng lượng và cân đối giữa yêu cầu phát triển các nhà máy nhiệt điện chạy than với nguồn than thì dự kiến vào năm 2015 trở đi chúng ta sẽ phải nhập khẩu than từ nước ngoài.
Báo cáo Quốc hội, trong chỉ đạo của Chính phủ chúng ta đã thành lập Ban chỉ đạo liên ngành nghiên cứu việc nhập khẩu than từ bên ngoài. Ban này do Bộ Công thương cùng với một số Bộ, ngành có liên quan, có Bộ Tài nguyên và môi trường, có các tập đoàn lớn như Tập đoàn Công nghiệp than và khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn dầu khí, Tập đoàn điện lực thành lập một tổ liên ngành đi nghiên cứu và đã tổ chức một số đoàn đi làm việc tại Úc, tại Inđônêsia và tại Nga. Qua những đợt làm việc, về khả năng cung ứng than từ những nước này rất có tiềm năng và có khả năng đảm bảo dài hạn đối với chúng ta. Họ nêu những hướng mà chúng ta có thể hợp tác. Trước mắt có thể ký hợp đồng mua than dài hạn mấy chục năm, nhưng lâu dài họ sẵn sàng hợp tác với chúng ta để đầu tư khai thác vào những mỏ than ở khu vực đó. Vấn đề này chúng tôi đang thực hiện theo chỉ đạo của Chính phủ và khả năng chúng ta có nguồn than từ bên ngoài để đáp ứng cho các nhà máy nhiệt điện trong tương lai chắc chắn có thể đảm bảo được. Đến giờ phút này báo cáo với Quốc hội như vậy.
Vấn đề về môi trường, báo cáo Quốc hội, đối với những nhà máy nhiệt điện sau này khi chúng ta xây dựng cũng áp dụng những công nghệ tiên tiến, cho nên khả năng đảm bảo các yêu cầu về môi trường sẽ được cải thiện hơn rất nhiều so với trước đây. Vấn đề này báo cáo Quốc hội theo các tiêu chuẩn và các quy định của Luật bảo vệ môi trường cũng như các tiêu chí quy định đối với các nhà máy nhiệt điện chạy than.
Chúng tôi xin báo cáo thêm về tình hình sản xuất và cung ứng điện trong thời gian tới, vừa qua tình hình cung ứng điện mặc dù đã được cải thiện nhưng cũng có những khó khăn vì năm nay do cơ cấu nguồn điện của nước ta có đặc thù là tỷ trọng thủy điện tương đối lớn cho nên mùa khô năm vừa rồi nước rất cạn và đến lúc này các hồ thủy điện của chúng ta đều thấp hơn mực nước cùng kỳ của năm 2010 rất nhiều. Trong đó những hồ lớn như Hòa Bình, Tuyên Quang, Trị An thấp hơn hàng chục mét. Đứng trước tình hình yêu cầu cung cấp nước cho nông nghiệp và đẩy mạnh cho các tỉnh phía nam thì các hồ thủy điện cũng đã dành nước tưới cho vụ đông xuân của miền Bắc. Trong tháng Giêng và tháng 2 vừa qua miền Bắc các hồ thủy điện đã xả nước khoảng 3 tỷ mét khối nước cung cấp cho vùng đồng bằng sông Hồng, trung du Bắc bộ. Với 3 tỷ mét khối nước này có thể chúng ta phát được 500 triệu Kwh nhưng đứng trước yêu cầu phục vụ cho nông nghiệp thì các nhà máy điện đã dành ưu tiên xả nước để phục vụ nông nghiệp. Ở miền Nam, thủy điện Trị An, thủy điện Hàm thuận - Yaly cũng góp phần xả nước xuống hạ du để đẩy mặn và cung cấp cải thiện thêm tình hình cung cấp nước cho sinh hoạt. Đứng trước tình hình khó khăn như vậy, ngay từ đầu năm Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ đã có rất nhiều chỉ đạo đối với ngành điện trong đó Nghị quyết 02, Nghị quyết 11 ngày 24.02 vừa qua và đặc biệt Quyết định số 171 ngày 26.01 Thủ tướng Chính phủ yêu cầu ngành điện phải tập trung bằng mọi sức của mình đảm bảo sản xuất và cung ứng điện ở mức cao nhất đáp ứng yêu cầu cho sản xuất và đời sống của nhân dân.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, trong thời gian vừa qua ngành điện phối hợp với các cơ sở, các tỉnh đã triển khai hết sức khẩn trương và nghiêm túc chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, trong đó có việc đầu tiên tức là thúc đẩy xây dựng và hoàn thành một số công trình điện mới để tăng thêm nguồn điện. Báo cáo với Quốc hội, chúng ta đã đưa được tổ máy 1 của Sơn La vào hoạt động đầu năm và dự kiến đến giữa tháng 4 này thì tổ máy số 2 của thủy điện Sơn La cũng sẽ vào hoạt động, chúng ta có thêm 800 MW công suất thủy điện cũng là nguồn rất quan trọng cho tình hình cung cấp điện hiện nay, ngoài ra sẽ đưa thêm một số các nhà máy thủy điện nhỏ nữa rồi đến nhà máy Nhiệt điện đi vào hoạt động.
Biện pháp thứ hai đó là tìm mọi biện pháp để khắc phục khiếm khuyết về kỹ thuật của một số nhà mày Nhiệt điện mới đưa vào hoạt động nhưng vận hành chưa ổn định như ở Quảng Ninh, như ở Hải Phòng, như ở Cẩm Phả, Sơn Động cũng dự kiến trong khoảng từ nay cho đến cuối tháng 3 đầu tháng 4 thì những tổ máy này cũng sẽ đưa vào vận hành chính thức và vận hành thương mại ổn định.
Thứ ba, cũng báo cáo Quốc hội năm nay thực hiện chỉ đạo của Chính phủ có một điểm mới là sự vào cuộc của các địa phương hết sức quyết liệt và hết sức đồng bộ với ngành điện, ở tại các địa phương cũng đã tiến hành phê duyệt kế hoạch để cung ứng điện cho các cơ sở trọng điểm trong địa phương mà ở địa phương cũng thành lập ra các Ban chỉ đạo thường là do đồng chí Chủ tịch hoặc đồng chí Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh trực tiếp làm trưởng Ban chỉ đạo, cho nên việc cung ứng điện cho các hộ tiêu thụ cũng đã được sự vào cuộc hết sức quyết liệt của các địa phương. Chính vì thế cho nên báo cáo với Quốc hội đi đôi với biện pháp tuyên truyền, vận động tiết kiệm thì bước đầu có thể nói trong 3 tháng đầu năm 2011 mặc dù tình hình điện khó khăn, nhưng nhìn chung cũng đã đáp ứng cơ bản các yêu cầu về sản xuất và đời sống nhân dân. Tuy nhiên, tháng cao điểm của mùa khô là tháng 5 thì chúng tôi cũng báo cáo với Quốc hội là tình hình cung ứng điện sẽ tiếp tục có khả năng diễn biến khó khăn.
Đứng trước tình hình đó thì bên cạnh việc tiếp tục thực hiện những biện pháp theo chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, chúng tôi rất mong muốn cử tri cả nước cũng ủng hộ chủ trương của Đảng, của Chính phủ đó là bên cạnh việc chúng ta sử dụng điện một cách có hiệu quả thì cũng tăng cường việc tiết kiệm. Chúng tôi thấy vừa qua hiệu quả bước đầu có tác dụng, ví dụ như rất nhiều hộ sản xuất, hộ kinh doanh cũng đã xem lại quy trình sản xuất của mình cũng thay đổi một số máy móc thiết bị, ngay trong các hộ gia đình ý thức sử dụng điện hờ hững theo chủ trương tiết kiệm của Chính phủ đã ban hành. Với tình hình đó, từ nay đến cuối năm thực hiện hết sức quyết liệt chỉ đạo của Chính phủ, cố gắng đảm bảo các yêu cầu cần thiết nhất trong sản xuất và đời sống của nhân dân thông qua việc sản xuất và cung ứng điện. Tôi xin hết.
4/ Nguyễn Thị Kim Ngân - Hải Dương
Tôi xin phát biểu mấy ý kiến theo gợi ý của Đoàn Chủ tịch.
Thứ nhất, xung quanh vấn đề chính sách cho lực lượng thanh niên xung phong mà ý kiến của đại biểu Nguyễn Anh Liên sáng nay đã phát biểu.
Thưa Quốc hội, tổng số thanh niên xung phong của chúng ta đã và đang hưởng chính sách mà chúng tôi có hồ sơ là 133.294 người. Trong số này giải quyết chế độ một lần là 89.583 người, còn hưởng trợ cấp hàng tháng 5.012 người. Trong tổng số liệt sỹ cả nước là gần 1,2 triệu người đã được công nhận liệt sỹ thì thanh niên xung phong đã được công nhận 4.494 liệt sỹ. Trong tổng số 600.000 người thương binh và hưởng chính sách như thương binh thì lực lượng thanh niên xung phong đã được giải quyết chính sách là 33.905 người. Như thế tổng số số thanh niên xung phong tham gia cũng là đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi người có công, không có sự phân biệt giữa lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong miễn là người đó tham gia kháng chiến và có những đóng góp tùy theo điều kiện đúng qui định thì chúng ta áp dụng những chính sách theo luật định.
Những đề nghị của Hội thanh niên xung phong về giải quyết chính sách, những bức xúc và nhiều khi chưa hợp lý thì đã nhiều lần Bộ lao động thương binh, xã hội làm việc với Hội và đi đến những thống nhất rất cao nhưng rất tiếc đại biểu Nguyễn Anh Liên trong phát biểu thì không có nói việc này chỉ nói bức xúc thôi. Nhưng những vấn đề mà Hội và Bộ ngồi lại làm việc thống nhất cao và để giải quyết, ví dụ như giải quyết bất hợp lý giữa chế độ trợ cấp một lần và trợ cấp hàng tháng cho thanh niên xung phong thì Hội với Bộ thống nhất rất cao, chúng tôi cũng đã trên cơ sở đó trình rồi Bộ tư pháp thẩm định chúng tôi đã trình Thủ tướng rồi thì đồng chí Anh Liên lại không nói.
Hay những vấn đề tồn đọng về thanh niên xung phong trên 10.000 trường hợp thì thưa với Quốc hội rằng cũng không dưới hai lần đại biểu nêu phát biểu ở đây và chúng tôi cũng trên cơ sở đó đã có công văn và cũng làm việc trực tiếp với Hội, chúng tôi đề nghị Hội như thế này. Bây giờ 10.000 người đó mà theo Hội thanh niên xung phong báo cáo thì đề nghị Hội cung cấp cho chúng tôi danh sách, địa chỉ địa phương và cùng với chúng tôi để làm hồ sơ. Trong này chắc chắn là không còn hồ sơ và trong trường hợp đó thì Hội cũng nên có trách nhiệm với đồng đội của mình đứng ra cam kết, bảo lãnh chứng nhận cùng với cấp ủy chính quyền và nhân dân địa phương để làm hoàn tất hồ sơ, có hồ sơ rồi thì ngành lao động thương binh, xã hội mới có cơ sở để giải quyết chính sách. Vì chúng tôi không thể giải quyết chính sách là cứ theo nói là tôi còn 10.000 hồ sơ mà tôi không biết ở địa phương nào, địa chỉ ở đâu và chúng tôi đã có 2 công văn hướng dẫn và đề nghị Hội thanh niên xung phong nhanh chóng sớm giải quyết những vấn đề này theo hướng dẫn 611 như thế là trách nhiệm của ngành lao động, thương binh xã hội nói chung và của Bộ Lao động - thương binh và xã hội nói riêng rất có trách nhiệm với chức năng là thực hiện chính sách người có công. Ở đây tôi chỉ đề nghị tiếp, tôi biết cái này cũng rất khó cơ hội, nói thế thôi chứ bây giờ để giải quyết 10 ngàn này thì Hội cũng không thể thực hiện để có đủ 10 ngàn bộ hồ sơ . Vì thế chúng tôi nói là hội cần phối hợp với các địa phương, với cơ sở và chỉ đạo trong hệ thống hội mình ở địa phương để phối hợp, chúng tôi sẵn sàng tham gia tích cực để hoàn chỉnh hồ sơ này kể cả thiếu hồ sơ chúng tôi đều đồng ý có những hướng để giải quyết như thế là vấn đề chính sách thanh niên xung phong, tôi xin báo cáo cho đủ, đúng tình hình để tránh sự hiểu lầm trước cử tri khi nghe buổi sáng nay cho rằng việc thực hiện chính sách thanh niên xung phong là chúng ta thiếu trách nhiệm đó là vấn đề thứ nhất.
Vấn đề thứ hai, xung quanh việc một đồng chí kiểm lâm ở Thái Nguyên bị chết trong khi thi hành công vụ thì vào cuối tháng 12, sau đó trong năm 2010 tỉnh Thái Nguyên có đề nghị là công nhận liệt sỹ, theo quy định để xét hồ sơ liệt sỹ thì sẽ có nhiều thủ tục và khi tiếp nhận được thì Cục người có công cũng đã hết sức trách nhiệm là xem tất cả những hồ sơ, kết quả điều tra để đối chiếu với các quy định của luật thì khẳng định đồng chí này mất khi thi hành công vụ là đúng, nhưng để đủ điều kiện xét liệt sỹ hay không thì còn nhiều ý kiến khác nhau. Trên cơ sở đó thì chúng tôi đã chỉ đạo Cục người có công về trực tiếp làm việc với tỉnh Thái Nguyên để giải quyết những vấn đề còn có ý kiến khác nhau để chúng ta khi công nhận một trường hợp liệt sỹ phải đảm bảo đúng pháp luật quy định.
Vấn đề thứ ba, lao động Libya trở về nước rút ra điều gì cho công tác đưa người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc. Việt Nam đang thực hiện việc đưa người Việt Nam và chuyên gia sang nước ngoài làm việc theo luật Quốc hội đã ban hành về đưa người Việt Nam ra nước ngoài làm việc. Đối với một nước đông dân như nước chúng ta thì tạo việc làm trong nước và ngoài nước trong thời kỳ hội nhập là điều cần thiết trong điều kiện đất nước chúng ta chưa giải quyết được việc làm thì rất nhiều quốc gia chứ không riêng Việt Nam, chúng ta không phải là một nước đưa nhiều lao động ra nước ngoài làm việc. Có thể nói lực lượng lao động đưa ra nước ngoài làm việc hàng năm cũng đem về ngoại tệ cho chúng ta khoảng 2 tỷ đô la theo số chưa đầy đủ đóng góp nhất định cho kinh tế - xã hội đất nước và bản thân người ta cũng thoát nghèo tạo được thu nhập. Hơn nữa sau 3 năm làm việc ở nước ngoài về kỹ năng, kinh nghiệm trong quản lý điều hành sản xuất kinh doanh tay nghề được nâng cao và có thể tạo việc làm cho bản thân, gia đình cũng như ngay tại quê hương làng xóm của họ.
Qua vụ Libya chúng tôi rút ra một kinh nghiệm là tìm thị trường, mở thị trường và chúng ta tính được sự ổn định, bền vững của thị trường mà chúng ta đưa người lao động là hết sức cần thiết. Trước khi xảy ra biến cố ở Bắc Phi và Trung Đông thì đây là một thị trường tiềm năng bởi vì đây là những quốc gia giàu về dầu mỏ và người ta cũng ít dân nên sự cần thiết lao động ở nước ngoài mà không riêng Việt Nam cũng rất nhiều nước như Trung Quốc, Philippin, Thái Lan, Bangladesh, Ấn Độ và nhiều quốc gia cũng đưa lao động sang đây. Việc người ta cần lao động nước ngoài để xây dựng những công trình là người ta và mình cũng cần. Những thu nhập ở thị trường này rất tốt nhưng qua biến cố này thì chúng tôi cũng rút ra được kinh nghiệm là thực ra mình cũng muốn tìm thị trường ổn định và có tiềm năng để giải quyết việc làm có thu nhập tốt, chúng ta cũng không thể dự đoán được những biến động đó xảy ra. Ngay bản thân quốc gia Libya, Ba Lan người ta không thể dự đoán là cách đây vài tháng, một năm người ta sẽ lâm vào những xung đột và tình hình phức tạp như vậy. Về tình huống này rút kinh nghiệm, chúng tôi cũng phải dựa vào các cơ quan đại diện ngoại giao để xác định thị trường. Qua việc ở Libya thì 10.000 lao động của chúng ta về nước đã an toàn. Trong ngày mai, chậm nhất là sáng ngày kia chiếc tàu chở 1049 người sẽ cập cảng Đình Vũ - Hải Phòng an toàn. Cách đây 2 ngày tàu đã ghé qua Singapore để tiếp nguyên liệu. Như thế chúng ta hoàn tất chiến dịch kể cả hàng không, đường biển.
Về lo công ăn, việc làm cho lao động ở Libya về nước thì chúng tôi đã chỉ đạo cho các trung tâm giải quyết việc làm ở các địa phương và một số gợi ý của nhiều doanh nghiệp trong Nam, ngoài Bắc đều muốn tiếp nhận số lao động này. Người ta đứng ra bảo lãnh số nợ ngân hàng mà các lao động này vay của ngân hàng để đi lao động.
Như vậy vấn đề còn lại là chúng ta phải giải quyết những chính sách thanh lý hợp đồng và tạo việc làm mới cho số lao động từ Libya về mà không để cho những người lao động này lâm vào hoàn cảnh khó khăn do biến cố ở Libya. Trong tình hình hiện nay thì khẳng định chúng ta tiếp tục thực hiện chính sách tạo việc làm trong nước và ngoài nước, vấn đề là nâng cao tay nghề, tìm thị trường để có thu nhập tốt và bảo đảm an toàn cho người lao động của chúng ta. Xin hết.
5/ Võ Hồng Phúc - Thanh Hoá
Tôi xin có một số ý kiến theo gợi ý của Chủ tịch đoàn về vấn đề điều chỉnh đầu tư công, thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ hiện nay chúng ta đã triển khai điều chỉnh đầu tư công. Căn cứ Nghị quyết 11 chúng ta có giải thích với đại biểu Quốc hội là trong các nguồn đầu tư công thì có nguồn ngân sách, nguồn trái phiếu Chính phủ, nguồn tín dụng đầu tư Nhà nước và nguồn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước. Đối với nguồn trái phiếu Chính phủ và nguồn ngân sách thì chủ trương của Chính phủ cũng đã thống nhất với Thường vụ Quốc hội là chúng ta không điều chỉnh chỉ tiêu, bởi vì chỉ tiêu này Quốc hội đã thông qua, cho nên tổng mức đầu tư từ ngân sách Nhà nước gồm trái phiếu Chính phủ và ngân sách thường xuyên hàng năm là 152 ngàn tỷ đồng cộng với 45 ngàn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, tức là 197 ngàn tỷ đồng giữ nguyên không đổi là chúng ta không cắt giảm, chúng ta chỉ cắt giảm là đầu tư từ tín dụng Nhà nước 10% và giảm đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước.
Còn đối với nguồn đầu tư từ ngân sách Nhà nước bao gồm trái phiếu Chính phủ và ngân sách hàng năm thì chúng ta sắp xếp lại các dự án đầu tư trên cơ sở lựa chọn dự án đầu tư có hiệu quả để chúng ta đầu tư và căn cứ vào các tiêu chí mà Chính phủ đã ban hành. Còn ở đây không cắt giảm nhưng thực tế lại có 2 việc mà Chính phủ có trong chỉ thị mà trong Nghị quyết 11 có nêu là không cho ứng trước vốn của năm 2012 và không cho điều chuyển vốn của 2010 sang 2011 thực hiện 2 chủ trương này cũng là việc giảm vốn rất lớn so với triển khai đầu tư từ ngân sách và trái phiếu Chính phủ của năm 2011. Bởi vì năm 2010 thì các vị đại biểu Quốc hội đã biết là tổng đầu tư từ ngân sách của chúng ta là các số đếm là 243 ngàn tỷ đồng, trong đó đầu tư từ ngân sách là 177 ngàn và đầu tư từ trái phiếu Chính phủ là 66 ngàn, nhưng trong 243 ngàn này thì đã có khoảng một lượng rất lớn là ứng trước và điều chuyển. Ứng trước và điều chuyển tổng số là 51 ngàn tỷ đồng mà năm 2011 chúng ta không cho điều chuyển và không cho ứng trước, tức là tự nhiên chúng ta đã giảm đi 51 ngàn tỷ đồng, một con số giảm khá lớn.
Chúng tôi tính số giảm này so với thực tế của năm 2010 là chúng ta giảm đến gần 21% tổng đầu tư từ ngân sách và trái phiếu Chính phủ. Cho nên lý do vì sao chúng ta không điều chỉnh tổng mức đầu tư từ ngân sách và trái phiếu Chính phủ mà chúng ta giữ nguyên nhưng không cho tạm ứng, không cho điều chuyển thì tự khắc giảm đi 51 ngàn tỷ đồng.
Thứ hai là tín dụng doanh nghiệp Nhà nước sẽ 10% và đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước cũng đã giảm tỷ lệ tương ứng.
Còn hiện nay việc các đoàn đi kiểm tra như thế nào? Chấp hành Nghị quyết 11 của Thủ tướng Chính phủ chúng tôi đã tổ chức 10 đoàn đi kiểm tra ở 8 vùng và 2 đoàn đi kiểm tra ở các doanh nghiệp Nhà nước, tổng cộng là 10 đoàn tất cả. Kết quả hiện nay về sơ bộ báo cáo Quốc hội, các tỉnh, các thành phố đã chấp hành nghiêm chỉnh Nghị quyết 11 của Chính phủ. Ở đây các đoàn đi kiểm tra không phải các đoàn đi kiểm tra để cắt mà trên cơ sở thực hiện Nghị quyết 11 Chính phủ yêu cầu các Bộ, các ngành, các địa phương chủ động sắp xếp, bố trí lại thì các Bộ, các ngành, các địa phương đã chủ động sắp xếp, bố trí lại. Hầu hết các địa phương chúng tôi đi kiểm tra đã chủ động xem xét và dồn vốn vào các công trình hoàn thành trong năm 2011 và 2012. Những công trình không hiệu quả đang tạm đình hoãn lại và chưa thực hiện thì việc thực hiện ở các địa phương là nghiêm chỉnh. Ở các tổng công ty cũng đang triển khai việc sắp xếp lại, chúng tôi tổ chức 2 đoàn đi kiểm tra các tập đoàn lớn và các tổng công ty Nhà nước hiện nay vấn đề sắp xếp lại đầu tư cũng được triển khai tốt. Dự kiến cuối tháng 3 này trong phiên họp của Chính phủ Bộ Kế hoạch và đầu tư sẽ báo cáo lại kết quả sắp xếp lại đầu tư từ các Bộ, ngành, địa phương và sau đó chúng tôi sẽ gửi báo cáo cho Thường vụ Quốc hội.
Vấn đề thứ hai là vấn đề đầu tư công mà có nhiều đại biểu Quốc hội đã phát biểu và đề nghị cơ cấu lại và giảm đầu tư công. Trong thời gian phải nói rằng đầu tư công đã phát huy tác dụng và giúp chúng ta trải qua một chặng đường lớn, chuyển từ một nước nghèo sang nước có thu nhập ở mức trung bình. Quá trình chuyển đầu tư công, cắt giảm đầu tư công, tái đầu tư là cả một lộ trình. Đầu tư công của chúng ta từ trước đến nay phần lớn tập trung cho xóa đói giảm nghèo, đầu tư vùng sâu, vùng xa, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, về kinh tế, về xã hội, chẳng hạn như đường sá, trường học, bệnh viện và các nhà máy điện đã đầu tư rất lớn. Vì trong quá trình phát triển của chúng ta khi chúng ta thực hiện một lộ trình chuyển sang cơ chế thị trường, kể cả về giá cũng phải chuyển cơ chế thị trường thì mới tạo điều kiện cho đầu tư công có thể chuyển đổi được. Trong thực tế hiện nay khi chúng ta đang từ một nước kém phát triển, thu nhập thấp chuyển sang một nước thu nhập trung bình thì điều kiện chuyển đổi cơ cấu lại đầu tư đã đến thời kỳ. Hiện nay Chính phủ đang xây dựng một cơ sở pháp lý để chuyển đổi cơ cấu đầu tư này đó là vấn đề đầu tư theo phương thức công tư kết hợp, tức là nhà nước và tư nhân cùng tham gia đầu tư để phát triển các công trình về cơ sở hạ tầng là chủ yếu. Hiện nay với phương thức đầu tư này chúng ta sẽ thu hẹp dần tổng đầu tư của nhà nước và tiến tới tư nhân sẽ tham gia vào. Vì sao bây giờ chúng ta mới chuyển được, báo cáo quý vị vì có liên quan đến vấn đề tư nhân đầu tư vào cơ sở hạ tầng họ muốn thu hồi vốn, như vậy giá điện phải lên, giá lộ phí đường phải tăng lên, đến mức nào đó dân ta có thu nhập cao hơn thì có thể chấp nhận được mức giá nào đó thì chúng ta mới có thể điều khiển được.
Hiện nay Chính phủ đang có một lộ trình để chuyển đổi, cơ cấu lại đầu tư và sẽ thu hẹp đầu tư công lại và đầu tư công chung vào một số đầu tư, vào lĩnh vực xã hội, những cơ sở hạ tầng mà tư nhân không đầu tư được thì Chính phủ sẽ đầu tư. Chúng ta mong mỏi đầu tư công giảm sớm, báo cáo Quốc hội chúng ta sẽ có lộ trình giảm phù hợp với tiến trình phát triển của chúng ta, phù hợp với khả năng thu nhập của mỗi người dân.
Đó là một số ý kiến về vấn đề đầu tư xin giải trình thêm với các vị đại biểu Quốc hội như vậy. Xin cảm ơn.
6/ Trần Văn Tuấn - Nam Định
Tôi xin phép được phát biểu một số nội dung.
Thứ nhất, về việc lập bộ đa ngành, đa lĩnh vực và những vấn đề sẽ chỉ đạo trong thời gian tới.
Thứ hai là chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn.
Thứ ba là những vấn đề về chính sách đối với việc động viên thanh niên thực hiện nhiệm vụ và việc thu hút cán bộ về vùng sâu, vùng xa, những nơi khó khăn.
Một là về quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trong quá trình thực hiện cải cách hành chính. Từ thực tiễn thực hiện thời gian qua có thể khẳng định mô hình bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực là chủ trương, quan điểm đúng đắn của Đảng, Nhà nước về cải cách tổ chức bộ máy Chính phủ và cơ quan hành chính các cấp, nó không chỉ đáp ứng yêu cầu thực tế đòi hỏi làm cho bộ máy Chính phủ và các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện được tinh gọn hợp lý hơn mà còn khắc phục được đáng kể tình trạng chồng chéo, trùng lắp chức năng, nhiệm vụ, của các bộ, ngành và nâng cao được hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước trong tình hình phát triển mới của đất nước.
Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực không phải là phép cộng đơn thuần nhiều bộ, nhiều cơ quan vào một đầu mối mà là sự chuyển đổi mô hình tổ chức và quản lý từ đơn ngành sang đa ngành, đa lĩnh vực, dựa trên quan điểm nguyên tắc hệ thống và các mối quan hệ hữu cơ về chức năng, nhiệm vụ, phạm vi đối tượng quản lý giữa các chuyên ngành, chuyên lĩnh vực. Theo đó có sự đổi mới kiện toàn cả cơ cấu tổ chức bộ máy và cơ chế vận hành đem lại sự thay đổi yếu tố về chất, thiết lập mới mối quan hệ về thẩm quyền, trách nhiệm quản lý Nhà nước giữa người đứng đầu các Bộ với người đứng đầu các cơ quan quản lý chuyên ngành khi nằm trong cơ cấu tổ chức của Bộ đa ngành, đa lĩnh vực.
Cùng với việc thiết lập Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực đã đẩy mạnh phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương, tách chức năng quản lý Nhà nước với chức năng của các đơn vị sự nghiệp trực thuộc và chức năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để bộ tập trung và quản lý tổng hợp vĩ mô trong phạm vi cả nước đối với ngành và lĩnh vực. Nhìn tổng thể tất cả các bộ được quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trong những năm qua đều phát huy rõ tác dụng và đã hoàn thành tốt các chức năng nhiệm vụ của mình theo phân công của Chính phủ và thực hiện đúng các qui định của pháp luật. Tuy nhiên việc tổ chức Bộ đa ngành, đa lĩnh vực vẫn còn một số vấn đề tồn tại, hạn chế như sau:
Một, mặc dù quán triệt nguyên tắc một việc chỉ giao cho một cơ quan thực hiện và chịu trách nhiệm để không có sự chồng chéo trùng lắp về chức năng nhiệm vụ giữa các bộ, ngành, nhưng đến nay vẫn còn 8 vấn đề chồng chéo so với thời điểm đầu cơ cấu của Chính phủ Khóa X có tới 108 vấn đề chồng chéo thì nay đã giảm đáng kể cụ thể như sau: quản lý các nguồn nước và công tác thủy lợi, nhất là vấn đề quản lý lưu vực sông, phân phối tài nguyên nước, khai thác sử dụng nước giữa Bộ tài nguyên và môi trường, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Quản lý nhà nước về năng lượng giữa Bộ Công thương với Bộ Khoa học công nghệ. Quản lý về lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm nhất là các khâu, các công đoạn vệ sinh an toàn thực phẩm giữa Bộ Y tế và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Công thương và một số bộ có liên quan. Quản lý về đa dạng sinh học và bảo tồn hệ sinh thái giữa Bộ Tài nguyên và môi trường với Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn. Quản lý các công trình giao thông, quản lý lòng đường, lề đường các công trình cấp nước, thoát nước và các kết cấu hạ tầng khác trong đô thị giữa ngành giao thông vận tải với ngành xây dựng. Quản lý nhà nước về rừng và đất rừng giữa Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn với Bộ Tài nguyên và môi trường. Quản lý nhà nước về chất thải đô thị nông thôn giữa Bộ Tài nguyên và môi trường với Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Quản lý nhà nước về an toàn lao động đối với các nhà máy thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động giữa Bộ Lao động - thương binh và xã hội với Bộ Công thương và các bộ, ngành có liên quan.
Những vấn đề chồng chéo nêu trên có những nguyên nhân khách quan, chủ quan nhưng khó tránh khỏi. Một mặt do thực tế bản thân những vấn đề có sự đan xen giáp ranh giao thoa của các đối tượng, phạm vi đối tượng quản lý giữa các bộ, ngành có liên quan. Mặt khác quá trình tổ chức thực hiện do có những vấn đề thực tế phát sinh rất phức tạp nên vẫn không thể dễ dàng xử lý dứt điểm được các vấn đề chồng chéo nêu trên.
Về vấn đề này sắp tới sẽ được xử lý căn bản hơn trong đề án cơ cấu tổ chức của Chính phủ khóa XIII bằng các giải pháp chủ yếu mà Thủ tướng Chính phủ đã báo cáo với Quốc hội. Tôi xin báo cáo với Quốc hội một số giải pháp chủ yếu sau:
Tiếp tục điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan. Quy chế hóa cơ chế phối hợp giữa các bộ đang có sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ và phân định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan cụ thể để xây dựng các thông tư liên tịch trong đó quy định rõ bộ chủ trì chịu trách nhiệm chính và các bộ có liên quan cùng thực hiện. Áp dụng giải pháp tổ chức đối với những vấn đề không thể xử lý được bằng quy chế phối hợp được bằng cách chuyển giao chức năng, nhiệm vụ và hợp nhất tổ chức để thống nhất đổi mới thực hiện cho bộ đảm bảo để khắc phục sự chồng chéo.
Hai là về tổ chức các cơ quan chuyên môn ở địa phương theo mô hình quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trong lĩnh vực dân tộc và công thương được quy định ở Nghị định số 13 và Nghị định số 14 của Chính phủ tuy bảo đảm tính thống nhất giữa Trung ương và địa phương nhưng trong quá trình triển khai thực hiện một số vấn đề chưa hợp lý. Theo đề nghị của một số địa phương Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12 ngày 26/2/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 14 trong đó cho phép thành lập Phòng dân tộc ở những huyện đối với các địa phương có số lượng đông đồng bào dân tộc thiểu số, bảo đảm tiêu chí theo quy định của Nghị định số 53 của Chính phủ. Đổi tên Phòng công thương cấp huyện thành Phòng kinh tế và hạ tầng để bao quát phạm vi, đối tượng quản lý của các Bộ tương ứng.
Ba là lập Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực để tạo cơ sở phối hợp đồng bộ, có hiệu quả hơn nữa các chuyên ngành, chuyên lĩnh vực. Nhưng thực tế có một số Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực còn lúng túng và chưa ban hành được quy chế làm việc mới theo mô hình Bộ đa ngành, đa lĩnh vực. Sự chỉ đạo, điều hành còn hạn chế, nhất là cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý chuyên ngành, chuyên lĩnh vực còn gặp vướng mắc và hiệu lực, hiệu quả hoạt động thấp, chưa thể hiện rõ mục tiêu, yêu cầu cải cách hành chính. Đây là việc cần rút kinh nghiệm để khắc phục trong thời gian tới.
Chúng tôi cũng đã theo dõi trong ý kiến phát biểu của đại biểu Quốc hội ở tổ, các vị đại biểu cũng có góp ý là nhiệm kỳ Khóa XIII ta nên thận trọng trong việc tách, nhập các Bộ để đảm bảo sự ổn định để thực hiện.
Chúng tôi cũng xin báo cáo với Quốc hội, chúng tôi cũng nhận được sự chỉ đạo của lãnh đạo Chính phủ, trực tiếp là Thủ tướng Chính phủ là cân nhắc chỉ tổ chức những đơn vị, những lĩnh vực thật sự cần thiết, ví dụ quản lý năng lượng và ứng phó với biến đổi khí hậu. Còn lại chủ yếu là đảm bảo ổn định và đi vào giải quyết những chồng chéo sao cho rõ trách nhiệm và có điều kiện để khẳng định rõ được trách nhiệm của mỗi ngành.
Việc thứ hai, điểm mới về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã. Trong tổ thảo luận cũng như trên diễn đàn nhiều ý kiến các vị đại biểu Quốc hội cũng còn góp ý về chế độ, chính sách đối với cán bộ xã, phường. Ở đây chúng tôi xin báo cáo là tại nhiệm kỳ này có thể nói giải quyết chế độ, chính sách cho cán bộ xã, phường, chúng ta đã giải quyết được những vấn đề rất cơ bản. Hiện nay theo các văn bản pháp luật của Nhà nước thì không có phân biệt cán bộ cấp xã với cán bộ Trung ương, tức là đã giải quyết được liên thông trong hệ thống chính trị và tại Nghị định 92 thì chế độ chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn được phân định rất rõ, những vấn đề rất khó như về lương thì lương của cán bộ chuyên trách và những người được bầu, các đồng chí Bí thư, Phó Bí thư, Chủ tịch, Phó Chủ tịch xã và các chức danh trưởng các đoàn thể thì được trả lương theo lương đào tạo và hưởng phụ cấp, phụ cấp cũng có phân biệt là xã loại 1 hưởng phụ cấp khác, xã loại 2 hưởng phụ cấp khác. Nhưng trong Nghị định cũng giải quyết được việc khó là đối với vùng sâu, vùng xa, những nơi cán bộ chưa được đào tạo thì sẽ giải quyết bằng lương theo chức vụ và có 2 bậc lương. Đây là một sự cố gắng và thực ra là giải quyết về công tác cán bộ ưu tiên cho vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là đối với công chức cấp xã thì đã xác định rõ số lượng và vị trí đối với những vị trí cần thiết phải bổ sung thêm thì được bố trí 2 hoặc 3 người và trong quy định của nghị định thì nó chỉ đến khoảng 16, 17 chức danh, còn lại có những xã đến 25 chức danh thì chức danh đó để cho địa phương tự bố trí và có điều kiện thực hiện nhiệm vụ trên địa bàn được thuận lợi.
Đối với các đồng chí công chức thì trả lương theo lương được đào tạo, các đồng chí này riêng đối với những trường hợp các đồng chí chưa qua đào tạo nhưng có quá trình đóng góp thì vẫn được giữ lại và có chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ để nâng cao dần khả năng các đồng chí đó để tránh một sự khó khăn thì giờ chúng tôi qua theo dõi nắm được một số xã thì các đồng chí có đóng góp trong chống Mỹ, nhưng hiện tại công tác ở xã thì chưa được qua đào tạo nếu tiêu chuẩn hóa mà để các đồng chí nghỉ thì về chính sách cũng khó khăn. Về chế độ tiền lương thì như vậy, xin báo cáo với các đồng chí, các đồng chí chưa qua đào tạo thì hưởng mức lương hiện tại theo quy định là 1,18 thì có thấp, nhưng hướng tới thì Bộ Nội vụ trình với Chính phủ là sẽ mở lớp bồi dưỡng để nâng cao nghiệp vụ, để hợp thức dần một số các đồng chí chưa qua đào tạo có điều kiện công tác tại xã như chính sách về tiền lương có sự ưu việt là đối với các đồng chí tốt nghiệp đại học và trên đại học trả lương theo lương đào tạo, có điều kiện để thu hút cán bộ giỏi về xã làm việc.
Về chế độ phụ cấp, đối với các đồng chí được qua đào tạo ở các xã có quy mô lớn như xã loại 1 hưởng phụ cấp khác, xã loại 2 hưởng phụ cấp khác, xã loại 3 quy mô nhỏ hơn không có phụ cấp. Chúng tôi được biết trong quá trình phát biểu các đồng chí đại biểu, đặc biệt khi tiếp xúc cử tri cũng có nhiều ý kiến đề nghị đối với cán bộ bán chuyên trách, những người hoạt động không chuyên trách trong Nghị định 92 có quy định: "Khoảng từ 19 đến 22 người" nhưng không quy định chức danh. Tại Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp hành Trung ương Khóa X có quy định những người hoạt động không chuyên trách theo hướng khoán kinh phí và khoán số lượng, mỗi một xã các đồng chí bán chuyên trách khoảng trên 20 người, mỗi một thôn khoảng 3 người, tương đương với nội thành là tổ dân phố, qua thống kê mỗi một xã hiện tại trả ít nhất khoảng 100/suất, có những thành phố, thị xã lớn trả cho một phường tới 200/suất. Theo Nghị quyết của Trung ương đối với các đồng chí bán chuyên trách này theo hướng khoán kinh phí và khoán số lượng. Khi tiếp xúc cử tri, các đồng chí đề nghị chúng ta giải quyết cả đến thôn, có nơi đề nghị giải quyết cả những cán bộ bán chuyên trách ở xóm thì rất là khó. Về lĩnh vực quản lý này ngay cả Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản cũng chỉ giải quyết đến cán bộ cấp xã, cán bộ cấp thôn theo nguyên tắc là thu và người dân giám sát việc người dân nộp cho các đồng chí cán bộ phụ trách đảm bảo làm thế nào đó không tăng lượng biên chế đối với cán bộ cấp xã và đặc biệt cán bộ cấp thôn ở xóm thì chúng tôi xin báo cáo như vậy.
Còn có một kiến nghị nữa mà chúng tôi cũng thấy khó giải quyết, tức là hiện tại các đoàn thể, ban chấp hành các đoàn thể thì các đồng chí cũng đề nghị nên có phụ cấp cho ủy viên ban chấp hành thì việc này cũng chưa giải quyết được, đây xin báo cáo lại với Quốc hội để các đồng chí cũng chia sẻ chung, nhưng chúng tôi xin báo cáo là Nghị định 92 ngoài việc trên thì còn giải quyết được những vấn đề khác mà trước đây còn tồn đọng. Ví dụ cán bộ xã già yếu đã có chế độ chính sách phù hợp và những người mà trước đây cán bộ xã nhưng mà có án phạt tù về không được nối lại lương hưu xã nhưng bây giờ thì qua Nghị định 92 đã giải quyết và cán bộ xã phường, thị trấn có thời gian đảm nhiệm các chức vụ khác thì trước giải quyết bảo hiểm xã hội khó khăn thì bây giờ tại Nghị định 92 cũng đã được giải quyết. Đấy là những vấn đề lớn mà chúng tôi thấy rằng mặc dù so với yêu cầu chưa đáp ứng được nhưng mà đây cũng là một sự cố gắng lớn của Đảng, Nhà nước ta trong thời gian vừa qua.
Vấn đề nữa chúng tôi xin báo cáo về chính sách đối với thanh niên, xin báo cáo với Quốc hội là vừa qua các bộ, ngành đã bàn, đã trình Chính phủ tới đây sẽ có văn bản nghị định của Chính phủ qui định cụ thể những chính sách để động viên thanh niên thực hiện nhiệm vụ. Ngoài những chính sách trên xin báo cáo với Quốc hội là Chính phủ đã ban hành nghị định về chế độ đãi ngộ thu hút cán bộ công chức về công tác tại vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế - xã hội khó khăn thì những chính sách đó góp phần vào việc để quan tâm đến chế độ chính sách đối với cán bộ cấp xã. Tôi xin báo cáo hết, xin cảm ơn Quốc hội.
7/ Nguyễn Thiện Nhân - Bắc Giang
Chúng tôi dự kiến phát biểu về 3 nội dung nhưng vì thời gian có hạn nên tôi xin phép nói 1 nội dung, đó là Chính phủ triển khai nghị quyết của Quốc hội về vấn đề thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên nhà giáo như thế nào. Trong nhiệm kỳ qua Quốc hội có thông qua 2 văn bản rất quan trọng liên quan đến vấn đề này, đó là Nghị quyết của Quốc hội về đổi mới một số nội dung cơ chế tài chính, giáo dục đào tạo trong đó có vấn đề thâm niên cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục và sau đó là luật sửa đổi một số nội dung Luật giáo dục 2005. Trong quá trình triển khai, báo cáo đại biểu Quốc hội có một số đặc điểm như sau:
Từ năm 1988 đến tháng 12/1993 các nhà giáo có phụ cấp thâm niên, phụ cấp thâm niên này vừa góp phần tăng thu nhập trong lúc giảng dạy, làm việc, đồng thời khi về hưu là cơ sở tính lương hưu. Nhưng từ tháng 1/1994 đến nay không còn chế độ phụ cấp thâm niên và vừa qua theo nghị quyết của Quốc hội chúng ta sẽ thực hiện phụ cấp thâm niên từ năm 2011. Nguyên tắc là các nhà giáo đã giảng dạy từ 5 năm trở lên thì được 5% tiền lương tính làm thâm niên và mỗi một năm sau đó là 1% tiền lương.
Tuy nhiên trong quá trình triển khai thấy rằng nếu chúng ta chỉ tính thâm niên cho giáo viên từ năm 2011 thì các giáo viên không có thâm niên từ tháng 1/1994 đến tháng 12/2010 thì như thế nào? Sở dĩ vừa qua chuẩn bị lâu vì ý kiến bên ngành giáo dục đào tạo và một số Bộ ý kiến còn khác nhau về điểm này. Ý kiến thứ nhất cho rằng Luật giáo dục ghi thâm niên cho nhà giáo chứ không ghi là thâm niên tính cho nhà giáo về hưu, nên đề nghị không tính số nhà giáo về hưu. Chính phủ có chỉ đạo Bộ Giáo dục và đào tạo làm rõ, những nhà giáo nghỉ hưu năm 1994 tức là vào nghề vào năm1955 và 1960, đây là đội ngũ nhà giáo đóng góp cho giáo dục sau cuộc kháng chiến chống Pháp cho đến năm 1994. Những nhà giáo nghỉ hưu vào tháng 12/2010, tức là vào nghề từ năm 1973 hoặc 1978 cho đến nay, đây là những người góp phần phát triển hệ thống giáo dục trước và sau chiến tranh cho đến khi chúng ta hoàn thành phổ cập trung học cơ sở. Tổng cộng có 180.000 giáo viên nghỉ hưu trong giai đoạn này. Về lý, nếu chúng ta không tính có thâm niên để tính vào lương hưu cho nhà giáo thì ngành giáo dục thấy rằng đây là những người có công rất lớn cho giáo dục chúng ta, có lẽ tình cảm, trách nhiệm với đội ngũ này chưa được trọn vẹn. Tuy nhiên đây sẽ là nghị quyết của Chính phủ, nhưng vừa qua Chính phủ đã gửi dự thảo có nội dung này với 2 loại ý kiến, ủng hộ và không ủng hộ Chính phủ đang lấy ý kiến các thành viên.
Ngày 22/03 vừa qua Thủ tướng Chính phủ đã trực tiếp tiếp Chủ tịch và 2 Phó Chủ tịch Hội cựu giáo thức, các đồng chí Hội cựu giáo thức thiết tha đề nghị quan tâm đến đội ngũ giáo viên đã nghỉ hưu trong giai đoạn chúng tôi vừa nêu và Thủ tướng Chính phủ cũng đề nghị chuẩn bị văn bản, làm thế nào thể hiện được tình nghĩa của chúng ta đối với lực lượng giáo viên rất quan trọng từ năm 1955 đã cống hiến cho nhà nước đến năm 2010.
Nội dung thứ hai còn có khó khăn là do thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên cho giáo viên, nhưng thực tế các giáo viên dạy giỏi ở các trường phổ thông đã được giới thiệu làm hiệu trưởng, hiệu phó các trường và nếu làm tốt được điều về phòng giáo dục quận huyện, sở giáo dục đào tạo các tỉnh, các đồng chí này nếu không được hưởng phụ cấp thâm niên thì cũng rất thiếu sự động viên, về phòng quản lý thì không còn phụ cấp giảng dạy, không còn phụ cấp thâm niên. Cho nên phòng giáo dục đề nghị các thầy cô giáo này tuy có chuyển về quản lý và đã có nhiều kinh nghiệm dạy giỏi, quản lý tốt vẫn được phụ cấp thâm niên. Điều này đang lấy ý kiến của thành viên Chính phủ.
Cuối cùng, ngành tài chính đã dự trù sẵn kinh phí để triển khai vấn đề này cho năm 2011. Hiện nay theo quy trình trong tháng 4 các thành viên Chính phủ sẽ gửi ý kiến lại, Chính phủ sẽ họp và có quyết đinh về vấn đề chế độ phụ cấp thâm niên. Báo cáo Quốc hội xin vắn tắt nội dung này, còn vấn đề liên quan đến chiến lược thanh niên và mầm non do hạn hạn chế xin phép không báo cáo. Chúng tôi là người cuối cùng trong thành viên Chính phủ phát biểu ý kiến này, xin thay mặt Chính phủ cảm ơn Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các Ủy ban Quốc hội, các đại biểu Quốc hội trong nhiệm kỳ vừa qua đã quan tâm, chỉ đạo, hỗ trợ, giám sát và góp ý hoạt động của Chính phủ trong thời gian vừa qua. Đây là tiền đề quan trọng để Chính phủ hoạt động tốt hơn, hiệu quả hơn trong thời gian sắp tới. Xin kính chúc các vị đại biểu sức khỏe, thành công và hạnh phúc.
(Blog Phamvietdaonv tổng thuật theo Trang tin điện tử của Quốc hội)
Phạm Viết Đào: Con nợ Vinashin được mổ xẻ hôm 26/3/2011 thế nào? (bài 2)
Bài 2: CÁC KHUYẾT TẬT CỦA CHÍNH PHỦ ĐƯỢC MỔ XẺ TẠI PHIÊN HỌP QUỐC HỘI 26/3/2011.
Nguồn: Blog Phạm Viết Đào
Phạm Viết Đào
Blog Phamvietdaonv tổng thuật theo chủ đề phiên họp toàn thể tại hội trường của Quốc hội ngày 26/3/2011...
Bình luận nhanh của Blog Phamvietdaonv: Chính phủ bị các đại biểu Quốc hội phê nhiều, phê ác liệt đến thế mà vẫn đứng vững ? Thế mới tài ? Đây có là Chính phủ giỏi " chịu đòn " nhất thế giới ?!
Nguyễn Thành Tâm - Tây Ninh:
Thứ nhất, về tình hình kinh tế, những bất cập trong kinh tế vĩ mô theo tôi ngoài nguyên nhân tác động của biến động thị trường thế giới cũng như những yếu kém nội tại của nền kinh tế là nguyên nhân rất cơ bản đã lặp lại nhiều lần, đề cập nhiều lần thì tôi cho rằng cũng có nguyên nhân chủ quan trong việc điều hành của Chính phủ. Trước hết, chúng ta thấy các đại biểu đã phân tích rất nhiều về chính sách tài chính, tiền tệ chúng ta thực hiện chính sách nới lỏng nhằm vào mục đích đạt mục tiêu tăng trưởng GDP hơn là mục tiêu chúng ta phát triển ổn định và bền vững. Những vấn đề này các đại biểu đã phân tích sâu, tôi không phân tích thêm lại.
Vấn đề thứ hai, tôi cho rằng trong việc nắm bắt, điều hành thị trường, điều tiết thị trường của Chính phủ cũng còn những hạn chế. Chúng ta phải thừa nhận rằng hiện nay chúng ta đang xây dựng cơ chế thị trường và thị trường của chúng ta chưa hoàn chỉnh. Tuy nhiên, Chính phủ đã không có biện pháp quản lý, điều tiết một cách hiệu quả, mà hậu quả là tình trạng đầu cơ, tình trạng độc quyền, làm giá diễn ra khá phổ biến. Chẳng hạn thị trường thuốc tân dược, thị trường sữa, vàng, ngoại tệ, xăng dầu hầu như ngoài tầm kiểm soát của Chính phủ. Dù rằng Chính phủ cũng thường xuyên công bố các biện pháp xử lý, nhưng mỗi lần Chính phủ tuyên bố mạnh thì sau đó giá các mặt hàng này lại tiếp tục tăng. Bức xúc nhất trên thị trường trong thời gian qua đó là người nông dân sản xuất ra nông sản thì luôn bị bất lợi do phải gắn trên mình một hệ thống cung cấp nguyên vật liệu đầu vào và hệ thống tiêu thụ sản phẩm nhiều tầng lớp trung gian khiến cho lợi ích thu được luôn thấp hơn lợi ích các tầng lớp trung gian này được hưởng. Ví dụ, trong thời gian vừa qua các đại biểu đã thấy tình hình sản xuất tiêu thụ lúa gạo Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt thì mới tạm ổn. Gần đây nhất thông tin về giá rau đã tăng gấp 8 lần khi đi từ tay người nông dân đến tay người tiêu dùng mà Báo Tuổi trẻ đã đăng.
Hiện nay Bộ Chính trị đã có chỉ đạo và Chính phủ đang triển khai thực hiện Nghị quyết 11 để điều hành kinh tế năm 2011. Tôi tán thành với các giải pháp đã được nêu ra, trong đó phải chuyển mục tiêu điều hành là đặt ổn định kinh tế vĩ mô lên trước mục tiêu tăng trưởng để có thể đạt được sự ổn định và phát triển bền vững trong năm 2011 và những năm tiếp theo. Tôi đề nghị mục tiêu về phát triển chứ không phải mục tiêu tăng trưởng phải nhất quán trong quan điểm và hành động, tránh bệnh thành tích chạy theo mục tiêu tăng trưởng trước mắt, gây hậu quả xấu cho nền kinh tế như trong thời gian vừa qua.
Trước mắt, tôi đề nghị Chính phủ cần thực hiện nghiêm túc việc thực hành tiết kiệm, giảm chi tiêu công và đảm bảo công khai minh bạch trong việc rà soát, cắt giảm kinh phí của các bộ, ngành địa phương. Không để tình trạng chạy tiêu chí, chạy các chỉ tiêu cắt giảm để né tránh bị cắt giảm đầu tư từ ngân sách và làm méo mó các chính sách đang được triển khai. Nhất là phải thực hiện gương mẫu từ trên xuống dưới như nhiều đại biểu đã phát biểu. Trong triển khai chính sách cần nhất quán.
Bên cạnh đó các chính sách an sinh xã hội đề nghị triển khai nhanh và kiểm tra chặt chẽ quá trình triển khai thực hiện, nhất là các chính sách về hỗ trợ sản xuất, giải quyết việc làm cho nông dân, thanh niên và sinh viên ra trường, các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trong nước và phục vụ xuất khẩu. Chính sách về tín dụng, dạy nghề, chuyển giao khoa học, công nghệ v.v... không để tình trạng chính sách chờ cơ chế, bộ máy thực thi kéo dài dẫn đến chậm triển khai hoặc đến không đúng đối tượng được thụ hưởng, làm giảm hiệu quả của chính sách và gây bức xúc trong dư luận…
Vấn đề thứ ba là về tình hình lễ hội của chúng ta hiện nay, đây là vấn đề đã cũ nhưng cũng xin nhắc lại vì những vấn đề tiêu cực, những mặt trái của nó đang diễn ra rất bức xúc. Các năm trước Quốc hội cũng đã thảo luận và chất vấn về vấn đề này, Chính phủ đã có chỉ đạo xử lý nhưng qua dịp tết vừa rồi, qua tình hình diễn biến phức tạp trong thời gian qua mà các cơ quan báo chí đã phản ánh, chúng ta thấy hầu hết các lễ hội lớn, nhỏ đã bị lợi dụng biến tướng thành các hội kinh doanh trục lợi của những người tham gia, kể cả những người tổ chức và những người đi dự lễ hội trong khi những giá trị văn hóa tinh thần tốt đẹp của các lễ hội đã không được quan tâm đúng mức. Thực tế này khiến nhiều người lo ngại về nền tảng tinh thần, giá trị chuẩn mực đạo đức xã hội của chúng ta hiện nay. Tôi đề nghị Chính phủ, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu kỹ lưỡng và khoa học để lý giải chính xác vì sao người ta đến các lễ hội để cầu danh, cầu lợi ngày càng nhiều, chen lấn, giành giật, thậm chí còn giẫm đạp lên nhau để đoạt lấy những thứ mà chúng ta vẫn cho là không có thực. Có như vậy thì mới có thể đề ra được các giải pháp xử lý một cách triệt để, không chỉ dừng lại ở những chỉ đạo chấn chỉnh sau những bức xúc của xã hội về các lễ hội. Tôi xin hết ý kiến, xin cảm ơn Quốc hội.
Nguyễn Bá Thuyền - Lâm Đồng:
Tuy nhiên cử tri còn nhiều điều lo lắng về sự điều hành vĩ mô của Chính phủ, chưa tạo ra được sự chuyển biến mạnh mẽ đồng bộ, nền kinh tế còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Nạn tham nhũng, tai nạn giao thông không được kìm chế mà có chiều hướng phát triển. Có thể mỗi năm chết khoảng 12.000 đến 15.000 người, bị thương tích khoảng 25.000 đến 30.000 người. Nếu chúng ta cộng 10 năm trở lại thì thật khủng khiếp. Một đất nước hòa bình, không có chiến tranh, không có thiên tai nhưng tai nạn giao thông để lại một hậu quả hết sức nghiêm trọng. Nếu cả xã hội chúng ta không tập trung giải quyết vấn đề này thì con cháu chúng ta sẽ oán trách bởi vì hậu quả để lại hết sức nặng nề. Chúng ta tổng cộng lại thì thấy thương tích thật ghê gớm. Cho nên tôi đề nghị phải tập trung vấn đề này.
Thứ hai, giải pháp của Chính phủ nêu ra để kiềm chế lạm phát là đúng hướng nhưng khi điều hành phải hết sức linh hoạt, cắt giảm chi tiêu cái gì, cái gì cần phải chi tiêu, tức là cái cần cắt giảm phải cắt giảm, mà cái cần chi tiêu vẫn phải chi tiêu, có cái cần đầu tư vẫn phải tiếp tục đầu tư chứ không phải thực hiện như chúng ta thấy năm 2007 chúng ta quá tập trung cho đầu tư. Năm 2008 chúng ta gây ra lạm phát thì gây ra lạm phát là một khuyết điểm nhưng chúng ta khắc phục khuyết điểm là kiềm chế, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt mà dẫn đến suy giảm kinh tế, mà suy giảm kinh tế thì chúng ta lại đưa gói kích cầu, tức là chúng ta cứ tạo ra khuyết điểm xong khắc phục khuyết điểm lại báo cáo thành tích, ở đây những cái này phải hết sức lưu ý. Cho nên các giải pháp trong này tôi đề nghị với Chính phủ hết sức linh hoạt để chú ý làm sao để cho tránh lặp lại, bây giờ đang lạm phát thì chúng ta kiềm chế và chúng ta thắt chặt quá mức cần thiết thì chắc chắn sẽ gây ra suy giảm kinh tế.
Thứ ba, tăng giá điện phải có lộ trình hợp lý, phải gắn với chất lượng phục vụ và chống độc quyền về ngành điện, tôi cho rằng đối với Chính phủ phải sớm cải tổ ngành điện để chống độc quyền…
Một số vấn đề liên quan đến Chính phủ đề nghị sớm trình Quốc hội sửa Luật đất đai, tôi cho rằng Luật đất đai bây giờ còn rất nhiều vấn đề nhưng cử tri rất bức xúc mà Chính phủ chưa trình được việc này, khó đến mấy nhưng tôi nghĩ phải tập trung đầu tư để sớm trình Quốc hội ban hành Luật đất đai để làm sao chúng ta phải xác định là đất công và đất tư. Chúng ta phải xác định đất công và tư như vậy, nếu chúng ta cứ xác định đất đai xây dựng ổn định lâu dài không có tranh chấp, mà đất Nhà nước ta chiếm thì lấy đâu mà đất tranh chấp gì đâu, cho nên tôi nghĩ đất cứ biến thành đất tư nhân hết.
Thứ hai, tôi cho rằng vấn đề này cũng phải chú ý sớm có lịch trình. Rồi vấn đề nữa là chúng ta phải xác định đất nông nghiệp, đất xây dựng, đất chuyên dùng, xác định như thế để có kế hoạch sử dụng cho nó hợp lý, chứ còn khi chúng ta xác định đất quy hoạch là đất xây dựng thì dương nhiên đất nông nghiệp phải chuyển thành đất xây dựng, nhưng chúng ta bây giờ cũng tiếp tục khi mà đất nông nghiệp muốn chuyển sang đất xây dựng là phải làm thủ tục chuyển gây rất phiến hà cho dân và khi bồi thường cho dân thì không thỏa đáng. Cùng một mảnh đất, một miếng đất nông nghiệp, miếng đất xây dựng và miếng đất chuyên dùng là chúng ta chia ra để có kế hoạch sử dụng hợp lý thôi nhưng mà chúng ta bắt dân phải chuyển đổi, tôi cho rằng nếu như chúng ta xác định được đất xây dựng thì đương nhiên bồi thường cho dân bằng giá trị tiền đất xây dựng, không thể nói là đất nông nghiệp, cùng một khu quy hoạch dân chịu thiệt thòi. Nếu chúng ta làm được việc đó thì sẽ giảm bớt rất nhiều khiếu kiện về đất đai, giảm thủ tục phiền hà, chống được tham nhũng. Tôi đề nghị Chính phủ sớm trình phương án này để giải quyết thỏa đáng cho nguyện vọng của cử tri.
Nguyễn Văn Tiên - Tiền Giang:
Về việc để lại 3.500 tỷ cho dầu khí, chúng tôi nhất trí như Tờ trình của Chính phủ cũng như Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính, ngân sách. Tuy nhiên chúng tôi trao đổi thấy cũng rất khó nhưng đề nghị Chính phủ, các bộ, ngành chúng ta cần suy nghĩ, ngay trong dịp tết vừa qua trong khi nhà nước cho các gia đình liệt sỹ 300.000đ, có nhà được 200.000đ, có nhà được 500.000đ thì ngành dầu khí và nhiều ngành thưởng tới 50-60 triệu, vậy thì tiền này từ đâu ra? Luật pháp nào để chúng ta kiểm soát vấn đề này? Xin nói đây là doanh nghiệp Nhà nước, không phải doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp tư nhân. Vậy chúng ta làm thế nào? Một tháng lương người ta đã 10 triệu, 15 triệu, bây giờ đến tết lại 50, 60 triệu. Vậy chúng ta làm như thế nào để chúng ta đảm bảo sự mất cân đối trong xã hội.
Một vấn đề nữa, hôm qua chúng tôi có trao đổi, suy nghĩ, mong rằng các ngành liên quan, đối với ngành ngân hàng chẳng hạn. Hôm chúng tôi dự buổi giao ban trực tuyến tôi thấy Chính phủ rất tâm huyết và nói rằng trong khi cả nước khó khăn, ngành ngân hàng không chung tay mà vẫn tiếp tục lấy lãi, lương rất cao mà cho vay như thế. Chúng ta phải có luật pháp như thế nào đó để hạn chế được thu nhập của những ngành này trong khi cả xã hội khó khăn. Chúng tôi nghĩ đây là việc không phải dễ. Mong các cơ quan liên quan suy nghĩ trình Quốc hội ban hành một luật pháp nào đó để tạo ra sự thu nhập công bằng trong xã hội.
Vấn đề thứ ba, liên quan đến xã hội. Tôi muốn nói một số ý liên quan đến bảo hiểm y tế. Đây là chủ trương rất đúng của Đảng và Nhà nước. Chúng ta đã có nghị quyết tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân và rất may hơn 1 năm thực hiện chúng ta đã đem lại kết quả rất tốt. Chúng tôi thấy rất đáng mừng là lúc đầu thực hiện Luật bảo hiểm y tế thì chúng ta cũng băn khoăn, có ý này, ý kia, muốn sửa luật, nhưng chúng ta đã vượt qua được những khó khăn, vướng mắc trong việc thanh toán cũng như cùng chi trả. Sau hơn 1 năm thực hiện nhờ việc cùng chi trả cũng như tăng mức đóng thì bảo hiểm y tế của chúng ta đã bù lỗ được cho những đoạn bị hụt vốn hơn 2.500 tỷ và năm 2010 chúng ta đã kết dư được 3.000, 4.000 tỷ gì đó. Đây là những tín hiệu rất đáng mừng. Thực tế chúng ta thấy số tiền đóng bảo hiểm y tế không phải là nhiều, 1 thẻ chỉ khoảng 400 nghìn. Người ta tính 1.000 người đóng bảo hiểm y tế mới đủ cho 1 chi trả cho chạy thận nhân tạo. Vì vậy, đây là một chủ trương rất đúng mà thế giới áp dụng rất nhiều.
Tuy nhiên thực tế hiện nay nó vẫn còn những vướng mắc khó khăn nhất định. Tôi đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành mở rộng các danh mục thuốc và kỹ thuật để người có thẻ bảo hiểm y tế được hưởng, có như vậy thì bảo hiểm y tế thực sự hấp dẫn người dân còn không thì người dân người ta cứ kêu ca là phân biệt đối xử với bảo hiểm y tế.
Vấn đề thứ hai là thủ tục khám, chữa bệnh cho người có thẻ bảo hiểm y tế ví dụ báo chí mấy hôm nay nói rất nhiều về vấn đề chờ lấy thuốc của bảo hiểm y tế mất mấy tiếng đồng hồ, đây là vấn đề cải tiến thủ tục rất đơn giản ở các bệnh viện và mong Bộ Y tế cũng như các tỉnh quan tâm chỉ đạo vấn đề này. Đây là việc tôi nghĩ không phải khó và trong tầm tay chúng ta có thể làm được.
Vấn đề tiếp theo, tôi mong Chính phủ sớm thực hiện thay đổi giá viện phí. Giá viện phí bảo hiểm y tế trả cho bệnh viện thấp quá thì chất lượng phục vụ kém. Có 3000/lần khám thì tôi nghĩ rằng nếu ta không tăng lên thì người thiệt cuối cùng vẫn là bệnh nhân thẻ bảo hiểm y tế, không có cách nào khác cả.
Vấn đề tiếp theo là vấn đề về thuốc, đấu thầu thuốc cũng như giá thuốc trong bệnh viện cao hơn so với giá thuốc trên thị trường. Các bộ, ngành cũng đã soạn thảo các thông tư hướng dẫn, mong Chính phủ chỉ đạo để sớm đưa vào cuộc thì sẽ thuận lợi hơn.
Chúng ta phải tuyên truyền mạnh về bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội. Chúng tôi thấy thực tế đi các địa phương, tỉnh người ta nói rằng 1 năm người ta được cho 200 - 300 triệu để tuyên truyền về hai định hướng rất lớn là bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội, vậy chúng ta không có tiền đi tuyên truyền như vậy mà trên tivi suốt ngày quảng cáo các loại còn các định hướng tuyên truyền của nhà nước thì không có.
Vũ Quang Hải - Hưng Yên:
Phần thứ hai về đánh giá khi thực hiện ngân sách năm 2010 và những tháng đầu năm 2011. Tôi hoàn toàn đồng ý với nhận định của Ủy ban Tài chính, ngân sách rằng tăng chi lớn, chi cho ngân sách đã góp phần là nguyên nhân làm cho lạm phát tăng. Bởi vì tăng chi lên tới 87.430 tỷ đồng, vượt 15% dự toán. Trong khi nợ công tăng cao thì việc tăng thu để trả nợ công, giảm lạm phát, giảm lạm chi là điều hết sức quan tâm của Quốc hội. Tại sao trong cùng một thời điểm tăng giá điện, tăng giá xăng dầu lại cho mua hàng nghìn ô tô ở cùng một thời điểm để đến nỗi nhưng đơn vị được mua xe công phải xếp hàng giống như ngày xưa thời bao cấp. Đây có thể là một nguyên nhân dẫn đến tình hình lạm phát cũng tăng lên. Cho mua ô tô là điều cần thiết, nhưng chúng ta nên điều chỉnh cho mua ở một thời điểm nào thích hợp để cho giãn bớt mật độ, làm bớt căng thẳng ra trong lúc đầu tư công của chúng ta ở những tháng đầu năm đang hết sức gay gắt.
. Vấn đề cuối cùng là vấn đề xử lý 3.500 tỷ cho dầu khí, tôi nghĩ việc giảm chi bắt buộc trong Nghị quyết 11 của Chính phủ là điều cần thiết, tất cả các công việc chi công phải giảm tới 10%, trong khi đó lại quyết định đầu tư 3.500 tỷ cho dầu khí. Tôi xin đề nghị nếu có phải giảm chi cũng nên cắt chi tương ứng như các đơn vị khác, không vì lẽ gì chúng ta lại chi một khoản 3.500 tỷ trong khi Chính phủ đang thắt chặt chi tiêu công…
Phạm Thị Loan - TP Hà Nội:
Vấn đề thứ nhất là vấn đề đánh giá bổ sung tình hình kinh tế - xã hội năm 2010 và triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011. Vấn đề thứ hai là vấn đề về việc để lại 3.500 tỷ cho tập đoàn dầu khí.
Về vấn đề thứ nhất, qua Báo cáo của Chính phủ, chắc chúng ta rất nhiều người phấn khởi bởi vì thấy rằng trong năm qua GDP của chúng ta cũng tăng trưởng 6,75%. Bội chi ngân sách cũng giảm hơn so với kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, CPI lạm phát lên gần 12% và tình hình chuyển nguồn, tình hình kết dư cũng như một số tình hình về chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa khác không mấy thay đổi. Bản thân tôi nghĩ rằng với con số tăng trưởng GDP như thế thì có lẽ nhiều người chúng ta cũng cảm thấy vui mừng vì số liệu tăng trưởng. Tuy nhiên, tôi nghĩ nếu chúng ta chỉ nhìn vào số liệu tăng trưởng không là chưa đủ, mà chúng ta hãy nhìn vào bức tranh thực chất của xã hội về chất lượng cuộc sống thực tế của người dân, về an sinh xã hội, về chất lượng phát triển của các doanh nghiệp. Chắc ai cũng thấy rằng thời gian qua việc lạm phát cũng như việc phát triển thực tế và trong đời sống của người dân thì tăng giá thời gian vừa qua ảnh hưởng rất lớn đến đời sống, đến từng bữa cơm của từng gia đình của người dân, đặc biệt tình hình tăng trưởng của các doanh nghiệp.
Đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ thực tế họ đang gặp rất nhiều khó khăn, nhất là việc vừa qua chính sách tiền tệ của chúng ta lúc thì thắt chặt, lúc thì nới lỏng như vậy đã làm cho các doanh nghiệp rơi vào tình trạng rất khó khăn như đại biểu Cao Sĩ Kiêm vừa phát biểu. Cho nên chúng tôi mong rằng Chính phủ và các Bộ, ngành và Quốc hội phải quan tâm thực chất đến chất lượng phát triển của nền kinh tế và có những chính sách thực sự quan tâm đến chất lượng. Chúng ta không nên chạy theo số lượng, không nên đua theo sự phát triển của những nền kinh tế khác để chúng ta chạy theo và học theo những cái không phù hợp với chúng ta. Theo tôi nghĩ chúng ta hãy nhìn vào thực chất của nền kinh tế của nước ta và những lợi thế có sẵn của nước ta để đề ra những chính sách phát triển cho tương lai. Trong những chính sách vừa qua, tôi đề nghị Chính phủ cũng cần phải xem xét có những chính sách để giúp cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển như đại biểu Hải ở Hưng Yên vừa nói tức là tại sao Vinashin thì được Chính phủ quan tâm cho khoanh nợ, giãn nợ và cho vay để trả lương, trả bảo hiểm. Vậy những doanh nghiệp khác thì sao? Các doanh nghiệp tư nhân cũng như các hộ gia đình họ vay, họ làm, nhưng họ bị lỗ thì liệu họ có được hưởng chính sách đó hay không? Vậy tôi đề nghị Chính phủ cần phải xem xét để có chính sách chung cho phù hợp giữa doanh nghiệp Nhà nước cũng như doanh nghiệp ngoài quốc doanh có cùng một chính sách, nếu như Chính phủ đã có chính sách cho Vinashin cho vay để trả lương công nhân, trả bảo hiểm cũng như khoanh nợ, giãn nợ cho Vinashin thì cũng đồng thời hãy có chính sách chung cho các doanh nghiệp khác.
Thứ hai là vấn đề về lãi suất ngân hàng và tín dụng, tức là chính sách về tiền tệ. Tôi cũng đề nghị Chính phủ cần phải xem về chính sách tiền tệ để làm thế nào đấy không có lúc thì nóng, lúc thì lạnh như vừa qua và không hạn chế tín dụng như vừa rồi để doanh nghiệp rất khó khăn.
Vấn đề tiếp theo tôi xin nói về vấn đề để lại 3.500 tỷ của dầu khí, theo các Báo cáo vừa qua của Tập đoàn dầu khí và Bộ Công thương thì tôi cũng được biết là việc sử dụng 3.500 tỷ của dầu khí như thế nào. Trong Báo cáo lần đầu của dầu khí thì dầu khí định đưa 3.500 tỷ này vào 3 dự án. Nhưng sau đấy Bộ Công thương có báo cáo là đưa vào một dự án, qua đấy tôi cũng nhận thấy rằng cơ chế sử dụng cũng như kế hoạch sử dụng không đồng nhất và có một sự khá là tùy tiện trong việc sử dụng các nguồn ngân sách để lại như thế này.
Thứ hai là trong Báo cáo của dầu khí thì tôi được biết rằng năm 2011 Tập đoàn dầu khí dự định đầu tư 105.000 tỷ, tôi xin hỏi ai là người duyệt danh mục đầu tư này và tổng đầu tư này cho dầu khí. Bởi vì nếu chúng ta so sánh thì ta thấy tập đoàn Vinashine cho đến hiện nay đầu tư 86.000 tỷ và đã để lại một tình trạng như vậy, mỗi một năm lãi suất ngân hàng của 86.000 tỷ hiện nay lên đến 15.000 tỷ. Vậy trong một năm Tập đoàn dầu khí đầu tư 105.000 tỷ thì thử hỏi lãi suất ngân hàng của số đó như thế nào và hiệu quả đầu tư của nó như thế nào, ai là người quyết định danh mục đầu tư và số đầu tư đó. Chúng ta không thể nói Tập đoàn dầu khí là doanh nghiệp thì anh tự đầu tư, muốn đầu tư như thế nào cũng được bởi vì Tập đoàn dầu khí là tập đoàn của nhà nước, số tiền đó đầu tư nhà nước phải chịu trách nhiệm, cuối cùng thì nhà nước vẫn phải chịu trách nhiệm và ảnh hưởng đến nhân dân bởi vì tiền đó là tiền của dân. Tôi đề nghị cần xem xét việc đầu tư của các tập đoàn kinh tế trong đó có Tập đoàn dầu khí.
Chúng ta thấy thực trạng của Tập đoàn dầu khí hiện nay đang đầu tư ra rất nhiều ngành trong đó có bất động sản, có những tòa nhà tôi được biết nói là số 1 của Việt Nam, đó là có phải là nhiệm vụ chính của Tập đoàn dầu khí hay không hay Tập đoàn dầu khí được giao trọng trách là thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí và làm những việc trọng trách trong nhiệm vụ, vai trò của dầu khí. Tôi xin Chính phủ quan tâm đến những chính sách mà tôi được biết trước đây 4, 5 năm chúng ta đã có chính sách cho dầu khí, tăng cường năng lực để đầu tư quan tâm đến những khu vực nước sâu, xa bờ. Vậy đầu tư cho nước sâu, xa bờ và đầu tư cho việc thăm dò, khai thác hiện nay như thế nào, thực tế đằng sau các dự án đó chúng ta phải mời gọi các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thực hiện, qua đó tôi đề nghị:
Một, cần phải xem xét lại các khoản để lại đầu tư cho Tập đoàn dầu khí.
Hai, đề nghị phải kiểm tra, giám sát số tiền mà từ trước đến nay đã để lại cho Tập đoàn dầu khí.
Ba, tôi đề nghị cần giám sát và có cơ chế cho Tập đoàn dầu khí trong việc đầu tư.
Bốn, tôi đề nghị cần phải có cơ chế tài chính cho Tập đoàn dầu khí cũng như tất cả các tập đoàn kinh tế khác. Bởi vì hiện nay cơ chế tài chính là chưa rõ ràng. Do vậy, chưa kiểm soát được số lợi nhuận mà các tập đoàn sử dụng vốn của Nhà nước như thế nào. Số tiền đấy theo tôi được biết hiện nay có 120 nghìn tỷ chưa nộp lại ngân sách Nhà nước. Nhà nước đã đầu tư ra thì tôi đề nghị những lợi nhuận đó phải được nộp về ngân sách Nhà nước. Như vậy không có một nhà đầu tư nào đầu tư ra mà không lấy lợi nhuận về. Cho nên tôi đề nghị Nhà nước, Quốc hội cần phải quan tâm đến những việc đấy. Trên đây là những ý kiến của tôi. Tôi xin hết, xin cảm ơn Quốc hội.
Dương Trung Quốc - Đồng Nai:
Vấn đề thứ hai cũng là vấn đề các đại biểu đã nêu lên, chúng tôi cảm thấy Chính phủ rất năng động trong vấn đề ứng biến, ứng xử với những tình huống nhưng tầm nhìn thấy rất chủ quan. Bằng chứng là khi xảy ra những hiện tượng ở Nhật Bản liên quan đến an toàn của nhà máy điện nguyên tử, chúng ta thấy phản ứng của rất nhiều nước, kể cả những nước có kinh nghiệm và có tiềm lực về nguyên tử họ cũng rất thận trọng và họ cũng rất khôn ngoan khi đưa ra những ứng xử một cách thận trọng, đồng thời có từng bước đi một. Ở đây chúng ta thấy những cán bộ, những cơ quan quản lý lĩnh vực này phát biểu một cách hết sức chủ quan, có thể phần nào là vì vấn đề xây dựng nhà máy điện nguyên tử đã trở thành nghị quyết của Quốc hội, mỗi chúng ta ở đây đều phải chịu trách nhiệm về việc đó. Nhưng nếu như Trung Quốc chúng ta thấy là một nước có tiềm năng, có kinh nghiệm họ cũng tuyên bố là tạm dừng nhưng sau đó họ lại đưa ra một quyết định là sẽ tiếp tục xây dựng nhưng ở cấp độ, trình độ cao hơn. Trong khi đó chúng tôi thấy những bài phát biểu của các cơ quan phụ trách vấn đề này của Chính phủ có phần rất chủ quan và sự chủ quan đó không trấn an được người dân mà còn làm tăng thêm nỗi lo lắng của người dân.
Vấn đề thứ ba, vấn đề này chúng tôi định nêu lên ở kỳ họp trước nhưng chưa có dịp, chúng tôi xin nhắc lại bởi vì nó vẫn là một vấn đề nguyên vẹn. Báo cáo của Chính phủ đưa ra rất nhiều những con số, những thống kê, những giải pháp nhưng chúng tôi thấy chưa có sự phân tích cần thiết bên cạnh những yếu tố mang tính chất định lượng. Tôi lấy ví dụ chúng ta vẫn nhắc đến đầu tư, chúng ta vẫn nhắc đến nhập siêu, chúng ta vẫn nhắc đến rất nhiều lĩnh vực, vấn đề liên quan đến kinh tế, nhưng chúng ta chưa bao giờ phân tích cơ cấu của nó cả. Nhập siêu rõ ràng hiện nay Chính phủ trong báo cáo của mình không nói nhập siêu từ đâu nhiều nhất và hiện nay những vấn đề liên quan đến kinh tế của chúng ta, nguồn lực nào và khó khăn nào, đến từ đâu. Ví dụ, báo cáo lúc nãy của đồng chí Bộ trưởng Bộ Công thương nói về những nhà máy điện mà bị trục trặc kỹ thuật khiến cho chúng ta gặp khó khăn. Vậy nhà máy điện đấy của ai xây? Và công nghệ nào? Bởi vì chúng ta đã từng lo lắng, việc chúng ta là đa phương trong quan hệ quốc tế là rất cần thiết và chúng ta khai thác nguồn lực, tiềm năng của những nước lớn là cũng rất cần thiết, nhưng phải làm thế nào để cân bằng, để bảo đảm an toàn. Ở đây chúng tôi muốn nói đến quan hệ của chúng ta với Trung Quốc. Trung Quốc là một nước lớn, láng giềng, có nhiều truyền thống, giúp đỡ nhau và chúng ta cũng khai thác tối đa những điều kiện để hợp tác phát huy hiệu quả, nhưng chúng ta có lo lắng đến việc phụ thuộc kinh tế hay không?
Tại kỳ họp trước chúng tôi đã định phát biểu nhân một nhận xét của những nhà nghiên cứu nước ngoài cho rằng trong số các nước ASEAN thì Việt Nam hiện nay là quốc gia bị lệ thuộc kinh tế nhiều nhất. Nếu chúng ta phân tích tất cả những số liệu mà Báo cáo của Chính phủ đưa ra với đầy đủ tất cả những yếu tố phân tích cần thiết chúng ta thấy điều đó không phải không có thực. Tôi muốn nhắc lại rằng việc khai thác lợi ích từ quan hệ Trung Quốc là vấn đề cơ bản, lâu dài và hết sức quan trọng, nhưng đừng để lệ thuộc vào Trung Quốc. Ở đây chúng ta có thể xem xét lại xem ngay trong cơ chế pháp luật của chúng ta có hay không? Luật đầu tư có hay không? Luật đấu thầu có hay không? Chúng tôi thấy rất nhiều những nhà phân tích kinh tế cũng như những người hoạt động kinh tế cho rằng hiện nay nếu chúng ta vẫn tiếp tục như thế này thì chúng ta phụ thuộc là tất yếu, mà phụ thuộc một cách rất hợp pháp. Vì thế chúng tôi muốn lưu ý điều này để Chính phủ trong báo cáo của mình nên phân tích kỹ tất cả những yếu tố đó để thông tin đến cho các đại biểu Quốc hội và đến nhân dân đầy đủ hơn, nó có thể phát huy những mặt tích cực, nhưng nó cảnh báo những khả năng, nguy cơ.
Cuối cùng chúng tôi cũng muốn rằng đây là kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khóa XII, những vấn đề tồn đọng còn lại trong toàn bộ nhiệm kỳ qua chúng ta cố gắng có những thông báo cần thiết và những vấn đề chưa giải quyết được chúng ta đừng bỏ qua khi bước qua nhiệm kỳ tới.
Phạm Đức Châu - Quảng Trị:
Thứ nhất, về thực hiện chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước hiện nay ở các địa phương đang tiếp tục triển khai theo đúng tiến độ và lộ trình được Chính phủ phê duyệt. Trong quá trình cổ phần hóa đã có một số vướng mắc phát sinh, đề nghị Chính phủ cần có những giải pháp điều chỉnh kịp thời để phù hợp với tình hình thực tiễn việc cổ phần hóa doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp, các nông, lâm trường.
Kính thưa Quốc hội, khi cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại địa phương, phần vốn nhà nước được chuyển giao cho Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước quản lý kinh doanh thoái vốn theo chủ trương của Chính phủ. Trong quá trình bán phần vốn nhà nước tại công ty cổ phần do việc phối hợp giữa công ty đầu tư và phát triển vốn nhà nước ở các địa phương chưa cụ thể và thiếu chặt chẽ dẫn đến sau khi bán phần vốn nhà nước tại công ty cổ phần đã phát sinh nhiều vướng mắc giữa tổ chức và cá nhân, tức là người chủ mới của công ty cổ phần với người lao động, đặc biệt là người lao động ở các doanh nghiệp nông nghiệp như tôi vừa nói ở trên như chế độ chính sách, việc làm, đất đai của người lao động mà nhà nước đã giao cho Tổng công ty quản lý vốn quản lý, nay chuyển giao quyền tự quyết cho nhà đầu tư gây bất ổn cho người lao động nông nghiệp vốn đã cạn kiệt về đất đai là tư liệu sản xuất chính của họ, ảnh hưởng an sinh, chính trị xã hội tại địa phương. Như Quảng Trị là việc cổ phần hóa Công ty cổ phần nông sản Tân Lâm - Quảng Trị vốn là nông trường Tân Lâm, tạo phản ứng gay gắt giữa người lao động với người chủ doanh nghiệp mới do người dân lo lắng đến việc mất đất, mất việc làm ảnh hưởng đến đời sống của gia đình họ.
Hoàng Thương Lượng - Yên Bái:
Một, về một số chương trình mục tiêu quốc gia được Chính phủ phê duyệt trong giai đoạn năm 2006 - 2010, nhưng không đạt mục tiêu đề ra như việc hoàn thành kiên cố hóa đường giao thông đến trung tâm các xã của các tỉnh miền núi thì mới đạt khoảng 60% trong khi đó nguồn lực của địa phương cũng huy động khoảng 40%.
Chương trình 193 di dân ra khỏi vùng nguy hiểm cũng chỉ đáp ứng khoảng 40% vốn được phê duyệt hàng năm. Chương trình hỗ trợ đầu tư 62 huyện nghèo của cả nước để giảm nghèo bền vững thì chỉ đáp ứng khoảng 30% nguồn lực được phê duyệt hàng năm của Chính phủ. Vì vậy, tôi đề nghị Chính phủ cần có đánh giá cụ thể và có biện pháp bảo đảm hiệu quả thiết thực kịp thời các chương trình của Chính phủ. Đặc biệt đáp ứng kịp thời nguồn vốn được Chính phủ duyệt theo kế hoạch.
Hai, về thực hiện chính sách tiền tệ, Chính phủ có điều chỉnh tỷ giá và thị trường ngoại hối như tăng tỷ giá tối đa đồng đô la so với đồng Việt Nam làm rớt giá đồng Việt Nam.
Quản lý thị trường đồng đô la làm nảy sinh khan hiếm không bình thường và làm tăng giá của đồng đô la. Kiểm soát, khống chế kinh doanh vàng miếng, làm tăng giá vàng, xuất hiện một phương thức mới về kinh doanh vàng miếng khó kiểm soát. Đề nghị Chính phủ làm rõ hơn hiệu quả thực chất của chính sách trên và tác động của nó đến kiềm chế lạm phát.
Mai Thị Ánh Tuyết - An Giang:
Thứ hai, đề nghị quản lý thị trường ngoại tệ và vàng phải dựa trên mối quan hệ cung cầu với mục tiêu áp dụng chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng linh hoạt, hướng tới kìm chế lạm phát cao. Hiện nay Chính phủ đang thực hiện việc tăng cường quản lý thị trường ngoại hối và vàng để khắc phục tình trạng đầu cơ tích trữ, buôn bán trái phép, chúng ta biết rằng trên nguyên tắc vận hành nền kinh tế phải dựa trên các mối quan hệ cung cầu khi trên thị trường có yếu tố cầu cho tiêu dùng, cho kinh doanh hay phục vụ các sinh hoạt quan hệ đối ngoại, hay du lịch, hay các quan hệ khác thì yếu tố cung lúc này sẽ làm cho mất cân bằng và làm cho tỷ giá bị chênh lệch. Khi yếu tố cung được cân bằng lúc đó tỷ giá sẽ được xác lập. Nếu thị trường chính thức không đáp ứng được đầy đủ và kịp thời các nhu cầu của dân chúng, doanh nghiệp thì lúc đó thị trường tự do sẽ có cơ hội phát triển. Như vậy đề nghị làm thế nào để thị trường chính thức có thể chèo lái được thị trường ngoại hối, muốn vậy thì tổ chức tín dụng phải có số lượng ngoại hối cần thiết.
Tuy nhiên theo Luật tổ chức tín dụng sửa đổi thì mục tiêu của tổ chức tín dụng là lợi nhuận nên không ràng buộc các tổ chức tín dụng phải thực hiện theo định hướng của ngân hàng Nhà nước. Bên cạnh đó một số quy mô kim ngạch xuất khẩu hàng năm của đất nước ta gần 150 tỷ đô la hàng năm, nhưng dự trữ ngoại hối của ngân hàng Nhà nước chỉ đáp ứng được khoảng 20%. Như vậy thị trường cung lớn hơn thị trường cầu thì tất yếu bằng nhiều hình thức linh hoạt các tổ chức, các đơn vị sẽ có nhiều hình thức tinh vi khác để tồn tại trên thị trường ngoại hối tự do. Vì vậy, muốn quản lý thị trường ngoại hối theo lộ trình quy định của Ngân hàng Nhà nước phải có lượng ngoại hối dự trữ đủ cung cấp cho cầu thị trường để khắc phục tình trạng cầu đầu cơ tích trữ, buôn bán trái phép, góp phần ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam, tăng dần dự trữ ngoại hối.
Bên cạnh tâm lý người dân Việt Nam từ xưa đến nay vàng vốn được xem là công cụ để đáp ứng tốt nhu cầu khi tình hình tài chính biến động mạnh và điều kiện sản xuất kinh doanh giai đoạn khó khăn thì người dân tìm phương án mua vàng. Nhưng phương án giữ vàng là yếu tố rất rủi ro, vì vàng chỉ tăng tạm thời, khi khủng hoảng tài chính toàn cầu tạm thời khôi phục lại thì vàng sẽ quay về đúng giá trị của nó. Vì vậy, đề nghị Chính phủ sớm kiềm chế lạm phát để ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam kết hợp với giảm lãi suất ngân hàng, đặc biệt bằng nhiều hình thức để nâng cao nhận thức của người dân về chính sách điều hành của Chính phủ để người dân yên tâm và doanh nghiệp chuyển từ vàng, đôla sang đầu tư phát triển.
Về kiểm soát chặt chẽ chi tiêu công và kiềm chế lạm phát, theo số liệu báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính, ngân sách, thấy rằng quy mô xu hướng đầu tư ngày càng tăng lên, năm 2010 vượt 15% dự toán, đầu tư công những năm qua chiếm tỷ trọng ngày càng lớn so với tổng đầu tư toàn xã hội, năm 2008 chiếm 33,9%, năm 2009 tới 40,6% và năm 2010 là 44%. Đầu tư công từ ngân sách nhà nước tăng lên trong khi đầu tư từ tín dụng nhà nước, doanh nghiệp lại có xu hướng giảm dần và hệ số ICO tăng lên nhanh chóng từ đầu tư ngân sách nhà nước cho thấy rằng hiệu quả thấp. Khi chi tiêu công cao sẽ gây ra bội chi ngân sách tăng dần theo thời gian, nếu tăng chi quá mức trong nền kinh tế, chi kém hiệu quả sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách ngày càng trầm trọng hơn. Vì vậy, đầu tư vào chi tiêu công để tăng trưởng kinh tế nhưng đồng thời cũng làm tăng tổng cầu, do vậy muốn giảm lạm phát thì Chính phủ cần cắt giảm tổng cầu thông qua giảm chi tiêu công. Tôi đồng tình với các giải pháp mà đại biểu Cao Sĩ Kiêm đã góp ý kiến, đồng thời chấp nhận tốc độ tăng trưởng phù hợp ngắn hạn để tăng trưởng cao và bền vững trong tương lai.
Vấn đề thứ hai là vấn đề phương án sử dụng 3.500 tỷ để tái đầu tư Tập đoàn dầu khí Việt Nam, tôi thống nhất với Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính, ngân sách và xin có một số ý kiến như sau. Xét về bản chất khoản đầu tư vào Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam, đây là lợi nhuận thu được của doanh nghiệp sau khi đã bù đắp chi phí và thực hiện các nghĩa vụ tài chính với nhà nước. Đây không thuần túy chỉ là nguồn lợi nhuận của doanh nghiệp Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam, là cơ quan thay mặt cho nhà nước để thực hiện do đó nguồn thu này là nguồn thu của nhà nước và sử dụng một phần số thu này đầu tư trở lại cho ngành dầu khí là đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên trong điều kiện ngân sách năm 2011 rất khó khăn, điều hành vĩ mô, kiềm chế lạm phát, an sinh xã hội, vì vậy tăng cường kiểm soát chi tiêu công là một giải pháp mà Chính phủ rất quyết tâm. Do đó đề nghị 3500 tỷ đầu tư Tập đoàn dầu khí chúng ta không đầu tư một lần trong năm 2011 và dự án triển khai mỏ lô 052, 053 vượt nhiều hạng mục. Vì vậy, chuyển tái đầu tư theo tiến độ dự án để giảm áp lực nguồn vốn ngân sách và giảm hiệu quả đúng quy định của pháp luật.
Điểu K`Ré - Đắk Nông:
Mặc dù các mặt hàng lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng, dịch vụ công tăng. Thiên tai, dịch bệnh trong nông nghiệp ở một số nơi càng làm cho cuộc sống khó khăn hơn, ảnh hưởng mạnh đến đời sống của nông dân, những người làm công ăn lương và đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số.
Có thể nói những tháng đầu năm 2011 với những diễn biến rất phức tạp của tình hình thế giới, cũng như kinh tế - xã hội trong nước, nhưng dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, sự giám sát của Quốc hội, nhất là sự điều hành năng động, quyết liệt của Chính phủ, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước bước đầu đã được ổn định. Trong đó kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu, tập trung mọi sự nỗ lực, thực hiện đồng bộ các giải pháp lớn theo Nghị quyết 11 của Chính phủ. Do đó đã kiềm chế được lạm phát, duy trì được tốc độ phát triển kinh tế GDP quý I năm 2011 đạt 5,5%. An sinh xã hội được quan tâm, ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội được bảo đảm.
Tuy nhiên kết quả đã đạt được chúng tôi thấy chưa được vững chắc. Kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, thiếu tính bền vững, lạm phát cao, nhập siêu và bội chi ngân sách còn lớn, hiệu quả đầu tư ở một số lĩnh vực thấp, môi trường sinh thái chưa được chú trọng đúng mức, đời sống của nhân dân nhất là nông dân, công nhân ở một số ngành, lĩnh vực và một số vùng miền ở mức thấp và nhiều công nhân lao động không có việc làm.
Từ những vấn đề trên tôi thấy qua đợt tiếp xúc cử tri cũng như qua gợi ý thảo luận của Đoàn chủ tịch kỳ họp. Tôi chỉ đề nghị Chính phủ cần quan tâm hơn và quyết liệt hơn nữa để chống lãng phí và ổn định được an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, tôi xin đề nghị hai vấn đề sau đây.
Trong tình hình nền kinh tế - xã hội Việt Nam đang một ngày phát triển, đất đai đóng vai trò là động lực phát triển kinh tế, phát triển đất nước. Vì vậy, Chính phủ cần có những chế định cụ thể nhằm giải quyết tốt mối quan hệ sau đây:
Thứ nhất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền của Nhà nước với tư cách là đại diện sở hữu toàn dân về đất đai và quyền của người sử dụng đất đã được pháp luật công nhận. Trong thực tế vấn đề này chỉ nhấn mạnh quyền thu hồi đất của Nhà nước và nhấn mạnh việc tạo vốn từ quỹ đất mà chưa quan tâm đầy đủ lợi ích chính đáng của người sử dụng đất, đặc biệt trong việc giá đất bồi thường, xử lý mối tương quan giữa giá đất thu hồi với giá đất tái định cư.
Thứ hai, giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích của xã hội với lợi ích của những người có đất bị thu hồi, thường chỉ nhấn mạnh đến tính cấp thiết của việc giải quyết mặt bằng để có được dự án, chưa chú ý đến những vấn đề xã hội nảy sinh sau khi thu hồi đất. Dẫn tới không bảo đảm điều kiện tái định cư, không có phương án tích cực về giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi, nhất là đối với nông dân không còn hoặc còn ít đất sản xuất hoặc những người không còn việc làm như nơi ở cũ.
Thứ ba, giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa nhà đầu tư cần sử dụng đất với người có đất bị thu hồi. Vấn đề này thường chỉ nhấn mạnh đến môi trường đầu tư, giải phóng mặt bằng để giao đất cho thuê đất. Việc quy định giá đất quá thấp so với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường tuy có tác động tích cực với nhà đầu tư nhưng lại gây ra những phản ứng gay gắt của những người có đất bị thu hồi. Vì vậy, Chính phủ cần quan tâm đến những vấn đề trên để hạn chế thấp nhất đơn thư khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực này, nhằm ổn định chính trị, xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế - xã hội bền vững, đảm bảo công bằng trong xã hội. Tôi xin hết.
Nguyễn Anh Liên - Thanh Hoá:
Đến tháng 7 năm 2010 đông đảo cử tri cựu thanh niên xung phong quá bức xúc nên yêu cầu Trung ương Hội cựu thanh niên xung phong cử đại diện trực tiếp lên báo cáo Tổng bí thư và Thường trực Ban bí thư Trung ương Đảng. Ngày 13/7/2010 được Tổng bí thư Nông Đức Mạnh tiếp, nghe báo cáo kiến nghị và đã chỉ đạo Thường trực Ban bí thư, đồng chí Trương Tấn Sang đã chủ trì cuộc họp với các cơ quan liên quan và có ý kiến kết luận chỉ đạo là Ban cán sự Đảng, Chính phủ, các cơ quan, ban, ngành hữu quan tình trạng tồn đọng chính sách đối với cựu thanh niên xung phong trong kháng chiến đã để kéo dài quá lâu và là đối tượng tuổi đã cao nên việc giải quyết trở nên rất cấp thiết. Vì vậy, Chính phủ xem xét sửa đổi, bổ sung và ban hành mới một số chế độ chính sách và tập trung giải quyết cho xong trong thời gian 1, 2 năm tới, cố gắng giải quyết không để một trường hợp nào đủ tiêu chuẩn mà không được hưởng chế độ ưu đãi người có công với nước, ý kiến chỉ đạo của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh và của Thường trực Ban bí thư Trương Tấn Sang đã làm đông đảo cựu thanh niên xung phong cả nước vô cùng xúc động và rất tin tưởng chờ mong.
Tuy nhiên, từ đó đến nay, nhất là sắp kết thúc nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII, hàng chục vạn gia đình cựu thanh niên xung phong khắp các vùng trong cả nước mòn mỏi đón chờ quyết định của Thủ tướng mà vẫn chưa có, trong khi đó mỗi năm có hàng nghìn đồng chí già yếu, ốm đau, bệnh tật, tái phát vết thương, bị nhiễm chất độc lần lượt qua đời thì khi sống không được có chế độ bảo hiểm y tế đến khi chết cũng không có được chế độ mai táng phí…
Trương Thị Thu Hằng - Đồng Nai:
Tôi xin tập trung phát biểu về một nội dung xung quanh vấn đề viện phí.
Trước hết, tôi xin bày tỏ sự tán thành ý kiến đối với đại biểu Nguyễn Văn Tiên (Tiền Giang) về viện phí và xin được làm rõ thêm những bất cập đối với viện phí hiện nay. Trước tình trạng lạm phát tăng cao, đỉnh điểm là cơn bão giá ngày càng tăng dồn dập khởi đầu từ xăng, dầu, điện, nước, ga, sắt thép, xi măng, lần lượt đến mặt hàng lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm cần thiết cho cuộc sống thường ngày đều nhất loạt gia tăng. Từ đó tác động rất lớn đến tất cả mọi ngành, mọi giới, từ gia đình đến cơ quan đơn vị, các xí nghiệp, nhà máy, doanh nghiệp, đặc biệt là các bệnh viện công lập trước đây đã khó khăn nay càng hết sức khó khăn.
Xin thưa Quốc hội, khi giá của tất cả các yếu tố cấu thành đầu vào bị gia tăng một cách chóng mặt, ở đầu ra giá viện phí không hề thay đổi, vẫn đang tuân thủ theo khung giá dịch vụ kỹ thuật, y tế quy định tại Thông tư 14 ban hành từ năm 1995 đến nay. Nền kinh tế nước ta đã chuyển biến mạnh mẽ từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Vậy ở thời điểm hiện hành giá của một lần khám bệnh tại bệnh viện hạng 3 có 2.000 đồng, tại bệnh viện hạng 2, kể cả hạng 1 là 3.000 đồng cho một lần khám. Nếu so sánh với công của một người thợ làm việc đơn giản như vá xe cũng chưa bằng, giá của một lần vá hiện nay là hơn 10.000 cho một lỗ thủng. Giá hiện hành của một ngày gường bệnh tại bệnh viện hạng 1 từ 10.000 - 18.000, tại các bệnh viện hạng 2, hạng 3 là 3.000 - 9.000 đồng/ngày bao gồm cả chi phí điện, nước, hóa chất, quần áo bệnh nhân, người thăm nuôi, giá như thế sao có thể bù đắp đủ các chi phí nêu trên.
Hà Minh Huệ - Bình Thuận:
Cử tri ở các tỉnh nghe báo cáo về tình hình kinh tế vĩ mô, những thành tích về nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế rất tâm đắc, tự hào nhưng họ lại muốn nghe nhiều hơn từ Chính phủ, từ những vấn đề xã hội gây bức xúc hàng ngày trong đời sống, được biết các giải pháp cụ thể của Chính phủ để giải đáp các thắc mắc của họ, báo cáo bổ sung của Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng lần này cũng rất vắn tắt về vấn đề này trong khi cuộc sống đang bị tác động mạnh mẽ bởi giá điện, giá xăng, vật liệu sản xuất tăng cao. Từ những vấn đề như tai nạn giao thông, an toàn vệ sinh thực phẩm, sự xuống cấp về đạo đức của một bộ phận nhân dân cũng rất ít được đề cập.
Lê Thị Yến - Phú Thọ:
Về phương án sử dụng 3.500 tỷ đồng để tái đầu tư cho Tập đoàn dầu khí Việt Nam. Về vấn đề này Ủy ban tài chính và ngân sách Quốc hội đã thẩm tra và có kiến nghị đồng ý đề nghị Quốc hội chấp thuận phương án phân bổ 3.500 tỷ đồng đầu tư trở lại cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam như Tờ trình của Chính phủ. Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu các báo cáo chúng tôi thấy vẫn còn băn khoăn là chúng ta đã nói rất nhiều về vấn đề đầu tư dàn trải, về hiệu quả của đầu tư không cao, về chất lượng đầu tư không tốt. Trong khi đó chúng ta đã và sẽ phải bỏ ra rất nhiều nghìn tỷ đồng từ ngân sách để đầu tư cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam nhưng vẫn chưa đánh giá được hiệu quả đầu tư từ phần vốn ngân sách, ngay cả căn cứ cơ sở pháp lý cho việc đầu tư trở lại cho nguồn kinh phí này vẫn còn nhiều ý kiến trái ngược nhau, chưa khẳng định được khung pháp lý. Việc trích lập đầu tư trở lại còn phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của cơ quan quản lý Nhà nước, nhiều năm qua đã trích vượt dự toán được duyệt, việc sử dụng vốn này còn nhiều bất cập, cơ chế đầu tư không theo quy trình như đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Những vấn đề này cần được xem xét tháo gỡ để đầu tư đúng quy định của pháp luật và có hiệu quả. Tôi xin hết.
Mai Hữu Tín - Bình Dương:
Tuy nhiên, chúng tôi muốn nhìn thấy nhiều hơn nữa các biện pháp giúp người nghèo, người lao động có thu nhập thấp hiểu được những khó khăn chung của đất nước và cùng đồng cam cộng khổ với doanh nghiệp vượt qua giai đoạn này. Công tác truyền thông về chính sách thuộc nhóm giải pháp số 6 trong Nghị quyết 11 cần được đẩy mạnh hơn, người nghèo, người có thu nhập thấp đang rất cần được hỗ trợ.
Chúng tôi đã thử làm một điều tra nhỏ về mức sống của người lao động có mức thu nhập phổ biến khoảng từ 2 đến 3 triệu đồng hàng tháng từ các nhà máy, xí nghiệp của khu vực miền Đông Nam Bộ và thấy rằng với giá cả hiện nay họ gần như không còn đồng nào cả sau khi đã chi cho chỗ ở, thức ăn và đi lại. Họ không còn khả năng hỗ trợ người thân khác và nếu chẳng may gặp bệnh tật thì chỉ còn trông cậy vào tiền đã để dành được từ trước hoặc phải mượn từ bạn bè có thu nhập tốt hơn, tích lũy cho tương lai gần như bằng không. Biện pháp hỗ trợ tiền điện cho các hộ nghèo dù làm ấm lòng rất nhiều người nhưng rõ ràng không đến được với hàng triệu người lao động có thu nhập thấp đang phải ở trọ. Ngay cả những người lao động có thu nhập dưới 10 triệu đồng một tháng hiện cũng gặp khó khăn thực sự nếu đang phải vay trả chậm ngân hàng để lo chỗ ăn, chỗ ở thì họ cũng mất ăn, mất ngủ với lãi suất cao hiện nay. Tăng lương không phải là giải pháp trong tình hình này vì ngoài mức lương tối thiểu do Chính phủ quy định các doanh nghiệp cũng đã làm hết sức mình hỗ trợ thêm cho người lao động để giữ họ lại làm việc. Với doanh nghiệp lúc này lợi nhuận không còn là mục tiêu, sự tồn tại của họ và công việc cho người lao động mới là việc quan trọng.
Do vậy, dù hiểu rằng chúng ta phải nghiên cứu thật kỹ cho đến khi có thể sửa đổi được thuế thu nhập cá nhân và có rất nhiều ý kiến khác nhau về việc sửa đổi luật, chúng tôi cho rằng bức xúc trong xã hội về việc này cần được giải quyết sớm. Trong khi chờ đợi các nghiên cứu cẩn trọng phục vụ cho việc sửa đổi luật Quốc hội có thể có nghị quyết như đã từng làm trong năm 2009 là miễn thuế thu nhập, ít nhất là cho những người có thu nhập dưới 10 triệu đồng hàng tháng trong năm 2011. Chúng tôi tin việc này có thể làm được ngay để góp một biện pháp nhằm đảm bảo an sinh xã hội.
Đặng Văn Xướng - Long An:
Vấn đề thứ hai, hiện nay các doanh nghiệp gặp vô cùng khó khăn. Có thể nói họ sản xuất cầm chừng, họ đang ăn dần vào vốn và đến một lúc nào đó nếu tình hình này không cải thiện chắc họ sẽ phá sản và hệ lụy của nó rất lớn, ảnh hưởng đến các vấn đề xã hội, công ăn việc làm. Do đó tôi đề nghị Nhà nước phải có những giải pháp để ngay lúc này cứu giúp những doanh nghiệp thực sự.
Và vấn đề lãi suất, hiện nay tôi thấy đất nước chúng ta ngân hàng nhiều quá, ra ngõ là gặp ngân hàng. Phải chăng đây là một trong những nguyên nhân làm đẩy lãi suất đầu vào có một sự cạnh tranh không lành mạnh chỗ này. Và ở đằng sau đó có những doanh nghiệp lớn họ lợi dụng họ hình thành các ngân hàng để cho hệ thống vay không? Tôi đề nghị xem xét. Cố gắng bằng mọi cách phải giảm lãi suất, như hiện nay thì không thể làm ăn gì được cả. Xin cảm ơn Quốc hội.
Đặng Như Lợi - Cà Mau:
Thứ nhất, ta phải xác định thế nào là vĩ mô, thế nào là vi mô, vĩ mô gồm những gì, có cơ sở chưa, trong vĩ mô đó vấn đề nào là cốt lõi để lựa chọn vấn đề xử lý, phải chăng hiện nay đó là vấn đề lạm phát và chỉ số giá. Lạm phát ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế và chỉ số giá ảnh hưởng đến đời sống nhân dân và xã hội. Ở đây nhân dân là số đông chứ cán bộ, công nhân viên chức cũng như người hưởng lương và trợ cấp từ ngân sách nhà nước không phải khối lượng lớn, bất ổn của vấn đề xã hội sẽ đưa đến nhiều vấn đề. Theo tôi nên tập trung vào những vấn đề đó. Bây giờ ta không hiểu vấn đề nào là chính, vĩ mô điều hành lúng túng, tôi thấy có gì đó như đối phó và các biện pháp chống là chủ yếu chứ không phải bàn đến chuyện phòng. Tương tự như việc bắt chữa "cụ rùa" ở Hồ Gươm, cứ lúng túng vậy không hiểu cách thức như thế nào.
Thứ hai, về vấn đề điều hành lạm phát, trong tất cả các biện pháp ở đây có một vấn đề là xem xét lại chính sách tài chính thắt chặt và cắt giảm đầu tư. Ta làm việc này rồi, tất nhiên tổ chức thực hiện như thế nào, nhưng cần phải xem xét kỹ như thế nào, ra sao vì biện pháp nào cũng có mặt trái của nó. Bây giờ ta dừng, cắt những việc đã khởi công rồi thì lại là lãng phí, ta cần phải xem xét kỹ vấn đề này ra sao. Theo tôi ở mức độ cắt giảm chừng nào đó thôi còn lại phải thực hiện thật nghiêm vấn đề dự toán chi mà Quốc hội đã xem xét, nhất định không thể khác được, phải thực hiện quyết toán dự toán chi đã có nghị quyết của Quốc hội.
Về vấn đề thu ngân sách, tôi thấy thật sự Chính phủ đặt ra ở đây rất khiêm tốn, chỉ 7-8%, năm 2008 ta quyết toán đến 33% vượt so với dự toán, năm 2009 khả năng cũng phải trên 30%, năm 2010 vừa rồi báo cáo trên 21%, lạm phát như thế này lại đặt ra chỉ vượt 7-8% tôi cho là không ổn. Cái đó cứ mạnh dạn đưa lên 20%, thế nào cũng đạt được, nên tập trung cái đó vấn đề của giảm bội chi và giảm bội chi sẽ đưa đến lạm phát sẽ rất tốt.
Về biện pháp kiểm soát giá, tôi thấy hiện nay ta cứ trông chờ vào tập đoàn, tổng công ty Nhà nước. Nhưng có bao nhiêu tập đoàn, tổng công ty Nhà nước có hệ thống bán lẻ, còn chủ yếu là thông qua đại lý, mà giá cả của dân sống chủ yếu thông qua việc bán lẻ. Tổ chức quản lý hệ thống bán lẻ như thế nào để Nhà nước có thể điều tiết được. Lượng hàng dự trữ như thế nào để có thể bán can thiệp giá ở từng lúc, từng nơi, từng địa bàn được và chính sách bù giá như thế nào. Chứ bù giá qua cơ quan, qua một đơn vị nào đó không bao giờ có hiệu quả. Một là người được tiếp nhận cái đó người ta cũng không cảm nhận được. Hai là đơn vị kinh doanh nó người ta lại không phải kinh doanh trên mặt bằng cùng với nhau. Vấn đề thứ ba là kỷ cương, kỷ luật. Tôi thấy cái đó cần nêu cao. Ta không thể thực hiện luật theo cái cao điểm luật là luật. Dù là giàu, hèn gì đó, hoặc địa vị cao thấp gì luật vẫn cứ phải tuân thủ.
Nguyễn Hữu Nhơn - Đồng Tháp:
Cũng như năm 2008 mà ở Việt Nam chúng ta lại có cơn sốt gạo rất vô duyên, cho nên tôi nghĩ đây là vấn đề rất hệ trọng mà Chính phủ cần phải thận trọng. Nhất là việc thực hiện đô la hóa, rồi xóa bỏ kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do. Tôi hiểu rằng vàng miếng cũng là một hàng hóa phương tiện công cụ giao dịch trong thanh toán. Nếu mà chúng ta loại bỏ thì thị trường sẽ biến tướng sang loại hình khác. Hoặc giao dịch kinh doanh vàng, đô la sẽ chuyển sang thị trường ngầm, cho nên càng phức tạp hơn. Theo tôi chủ yếu mục đích giải pháp của chúng ta quan trọng số một là quản lý, mọi biện pháp quản lý. Những lực lượng công cụ của chúng ta trong tay nhà nước có đủ, tài chính, ngân hàng, công an, quản lý thị trường, hải quan và nhân dân v.v... Tôi nghĩ không phải vấn đề gì khó khăn lắm. Quan trọng là chúng ta quản lý xuất nhập khẩu đầu vào, đầu ra và quản lý biên giới, cho nên tôi nghĩ chính sách này rất quan trọng có thể có lợi cho thành phần kinh tế này nhưng bất lợi cho thành phần kinh tế khác hoặc cho cộng đồng. Cho nên chúng ta phải tính toán nếu không khéo tôi nghĩ hiện tượng này sẽ dẫn đến khép kín trở lại của thời kỳ thập niên của những năm 70 - 80. Tôi đề nghị Chính phủ thận trọng tính toán cho kỹ, tôi đề nghị phải có lộ trình thực hiện bình tĩnh thận trọng dùng mọi biện pháp quản lý, còn biện pháp bế tắc nhất là cấm, do đó câu cuối cùng của chúng tôi cũng có những lời nói có khi Quốc hội, Chính phủ không hài lòng thì xin miễn thứ cho trong quản lý điều hành của Chính phủ thực ra rất khó, phức tạp không ai làm được đâu nhưng có hai việc làm rất dễ:
Một là phát tiền cho dân,
Hai là cấm.
Nguyễn Minh Thuyết - Lạng Sơn:
Vấn đề thứ hai, vấn đề rất thời sự hiện nay đó là việc đối phó với thảm họa thiên tai. Từ hôm 11/3 đến giờ không phải chỉ người Việt Nam, mà nhân dân toàn thế giới hết sức quan tâm đến diễn biến thiên tai ở Nhật Bản, chia sẻ sâu sắc đến những mất mát của nhân dân Nhật Bản, đồng thời bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với cách giải quyết, cách khắc phục thiên tai của Chính phủ Nhật và của nhân dân Nhật. Tôi cũng đặt câu hỏi tại sao người Nhật có cách hành xử được ngưỡng mộ như vậy? Tôi tự trả lời không biết có đúng không?
Trước hết là dịch vụ công của họ rất tốt, hàng chục nghìn người tạm trú trong nhà tạm lánh đều được chăm sóc y tế, thức ăn có thể phải xếp hàng nhưng không thể có ai đói, người ta có Chính phủ quan tâm, sắp xếp như vậy thì làm sao người ta phải nhốn nháo, tranh cướp nhau.
Thứ hai nữa là nền văn hóa cao nhưng nguyên nhân quan trọng nhất cho cách ứng phó của Nhật Bản thành công là người Nhật đã được chuẩn bị rất kỹ để sống chung với động đất, với sóng thần, từ thiết kế các nhà, sử dụng các vật liệu nhẹ đến kết cấu thích hợp với việc chống động đất đã làm giảm thiểu thiệt hại. Nữa là người dân được dạy từ bé cách chống động đất, tránh sóng thần như thế nào nên ứng phó được.
Ở nước ta, là một nước lúc nào cũng có mùa rét, thậm chí rét đậm, rét hại nhưng năm nào cũng chết trâu, chết bò, lúc nào cũng có bão, lũ lụt, không có năm nào không cả nhưng năm nào cũng có người chết, các đồng chí từ lãnh đạo đến nông dân hết sức vất vả để chống chọi. Vậy tại sao chúng ta không nghiêu cứu những phương thức để chống rét, chống bão lụt mà rất đơn giản là cấp thuyền cho người ta, tôi nghĩ sắp tới cần nghiên cứu thêm vấn đề này.
Thứ hai, cần rà soát lại độ an toàn của tất cả công trình hiện nay, nhất là thủy điện, điện hạt nhân. Về điện hạt nhân Quốc hội đã biểu quyết rồi, chúng ta thấy các đồng chí làm công trình này khẳng định yên tâm, nhưng chúng tôi mới nhận được thông tin Tập đoàn năng lượng nguyên tử Nga có chỉ ra những nhược điểm của những điểm mà mình đã chọn, có địa điểm thì nó có độ địa chấn cao thì nó nằm ngay ở đường đứt gãy, thậm chí nằm gần tam giác của 3 đường đứt gãy, có địa điểm thì nằm ở sát ven biển khó mà có thể chống được sóng thần, những chuyện này là mình đã có kinh nghiệm ở Dung Quất rồi mình điều tra không kỹ cho nên khắc phục rất mệt. Tôi đề nghị là các cơ quan giúp việc của Chính phủ phải điều tra hết sức cẩn thận, chứ không thể chủ quan được. Vì chúng ta không thể tưởng tượng được, tuy nhiên sẽ đàm phán thế nào, riêng trận động đất ở Nhật người ta tính ra là sức phá hoại của nó gấp 1.000 lần toàn bộ bom hạt nhân ở trên trái đất này, ở tất cả các nước. Đấy là điều mình không thể tưởng tượng được, nếu bây giờ mình cứ chủ quan, mình nói là yên tâm, chúng ta thế hệ 3 rồi nền đất ở đấy thế này, thế kia sợ đến lúc mình hối không kịp thì đấy là những điều chúng tôi rất mong được Quốc hội, được Chính phủ quan tâm. Xin cảm ơn Quốc hội.
(Nguồn: Trang tin điện tử của Quốc hội)
Nguồn: Blog Phạm Viết Đào
Phạm Viết Đào
Blog Phamvietdaonv tổng thuật theo chủ đề phiên họp toàn thể tại hội trường của Quốc hội ngày 26/3/2011...
Bình luận nhanh của Blog Phamvietdaonv: Chính phủ bị các đại biểu Quốc hội phê nhiều, phê ác liệt đến thế mà vẫn đứng vững ? Thế mới tài ? Đây có là Chính phủ giỏi " chịu đòn " nhất thế giới ?!
Nguyễn Thành Tâm - Tây Ninh:
Thứ nhất, về tình hình kinh tế, những bất cập trong kinh tế vĩ mô theo tôi ngoài nguyên nhân tác động của biến động thị trường thế giới cũng như những yếu kém nội tại của nền kinh tế là nguyên nhân rất cơ bản đã lặp lại nhiều lần, đề cập nhiều lần thì tôi cho rằng cũng có nguyên nhân chủ quan trong việc điều hành của Chính phủ. Trước hết, chúng ta thấy các đại biểu đã phân tích rất nhiều về chính sách tài chính, tiền tệ chúng ta thực hiện chính sách nới lỏng nhằm vào mục đích đạt mục tiêu tăng trưởng GDP hơn là mục tiêu chúng ta phát triển ổn định và bền vững. Những vấn đề này các đại biểu đã phân tích sâu, tôi không phân tích thêm lại.
Vấn đề thứ hai, tôi cho rằng trong việc nắm bắt, điều hành thị trường, điều tiết thị trường của Chính phủ cũng còn những hạn chế. Chúng ta phải thừa nhận rằng hiện nay chúng ta đang xây dựng cơ chế thị trường và thị trường của chúng ta chưa hoàn chỉnh. Tuy nhiên, Chính phủ đã không có biện pháp quản lý, điều tiết một cách hiệu quả, mà hậu quả là tình trạng đầu cơ, tình trạng độc quyền, làm giá diễn ra khá phổ biến. Chẳng hạn thị trường thuốc tân dược, thị trường sữa, vàng, ngoại tệ, xăng dầu hầu như ngoài tầm kiểm soát của Chính phủ. Dù rằng Chính phủ cũng thường xuyên công bố các biện pháp xử lý, nhưng mỗi lần Chính phủ tuyên bố mạnh thì sau đó giá các mặt hàng này lại tiếp tục tăng. Bức xúc nhất trên thị trường trong thời gian qua đó là người nông dân sản xuất ra nông sản thì luôn bị bất lợi do phải gắn trên mình một hệ thống cung cấp nguyên vật liệu đầu vào và hệ thống tiêu thụ sản phẩm nhiều tầng lớp trung gian khiến cho lợi ích thu được luôn thấp hơn lợi ích các tầng lớp trung gian này được hưởng. Ví dụ, trong thời gian vừa qua các đại biểu đã thấy tình hình sản xuất tiêu thụ lúa gạo Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt thì mới tạm ổn. Gần đây nhất thông tin về giá rau đã tăng gấp 8 lần khi đi từ tay người nông dân đến tay người tiêu dùng mà Báo Tuổi trẻ đã đăng.
Hiện nay Bộ Chính trị đã có chỉ đạo và Chính phủ đang triển khai thực hiện Nghị quyết 11 để điều hành kinh tế năm 2011. Tôi tán thành với các giải pháp đã được nêu ra, trong đó phải chuyển mục tiêu điều hành là đặt ổn định kinh tế vĩ mô lên trước mục tiêu tăng trưởng để có thể đạt được sự ổn định và phát triển bền vững trong năm 2011 và những năm tiếp theo. Tôi đề nghị mục tiêu về phát triển chứ không phải mục tiêu tăng trưởng phải nhất quán trong quan điểm và hành động, tránh bệnh thành tích chạy theo mục tiêu tăng trưởng trước mắt, gây hậu quả xấu cho nền kinh tế như trong thời gian vừa qua.
Trước mắt, tôi đề nghị Chính phủ cần thực hiện nghiêm túc việc thực hành tiết kiệm, giảm chi tiêu công và đảm bảo công khai minh bạch trong việc rà soát, cắt giảm kinh phí của các bộ, ngành địa phương. Không để tình trạng chạy tiêu chí, chạy các chỉ tiêu cắt giảm để né tránh bị cắt giảm đầu tư từ ngân sách và làm méo mó các chính sách đang được triển khai. Nhất là phải thực hiện gương mẫu từ trên xuống dưới như nhiều đại biểu đã phát biểu. Trong triển khai chính sách cần nhất quán.
Bên cạnh đó các chính sách an sinh xã hội đề nghị triển khai nhanh và kiểm tra chặt chẽ quá trình triển khai thực hiện, nhất là các chính sách về hỗ trợ sản xuất, giải quyết việc làm cho nông dân, thanh niên và sinh viên ra trường, các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trong nước và phục vụ xuất khẩu. Chính sách về tín dụng, dạy nghề, chuyển giao khoa học, công nghệ v.v... không để tình trạng chính sách chờ cơ chế, bộ máy thực thi kéo dài dẫn đến chậm triển khai hoặc đến không đúng đối tượng được thụ hưởng, làm giảm hiệu quả của chính sách và gây bức xúc trong dư luận…
Vấn đề thứ ba là về tình hình lễ hội của chúng ta hiện nay, đây là vấn đề đã cũ nhưng cũng xin nhắc lại vì những vấn đề tiêu cực, những mặt trái của nó đang diễn ra rất bức xúc. Các năm trước Quốc hội cũng đã thảo luận và chất vấn về vấn đề này, Chính phủ đã có chỉ đạo xử lý nhưng qua dịp tết vừa rồi, qua tình hình diễn biến phức tạp trong thời gian qua mà các cơ quan báo chí đã phản ánh, chúng ta thấy hầu hết các lễ hội lớn, nhỏ đã bị lợi dụng biến tướng thành các hội kinh doanh trục lợi của những người tham gia, kể cả những người tổ chức và những người đi dự lễ hội trong khi những giá trị văn hóa tinh thần tốt đẹp của các lễ hội đã không được quan tâm đúng mức. Thực tế này khiến nhiều người lo ngại về nền tảng tinh thần, giá trị chuẩn mực đạo đức xã hội của chúng ta hiện nay. Tôi đề nghị Chính phủ, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu kỹ lưỡng và khoa học để lý giải chính xác vì sao người ta đến các lễ hội để cầu danh, cầu lợi ngày càng nhiều, chen lấn, giành giật, thậm chí còn giẫm đạp lên nhau để đoạt lấy những thứ mà chúng ta vẫn cho là không có thực. Có như vậy thì mới có thể đề ra được các giải pháp xử lý một cách triệt để, không chỉ dừng lại ở những chỉ đạo chấn chỉnh sau những bức xúc của xã hội về các lễ hội. Tôi xin hết ý kiến, xin cảm ơn Quốc hội.
Nguyễn Bá Thuyền - Lâm Đồng:
Tuy nhiên cử tri còn nhiều điều lo lắng về sự điều hành vĩ mô của Chính phủ, chưa tạo ra được sự chuyển biến mạnh mẽ đồng bộ, nền kinh tế còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Nạn tham nhũng, tai nạn giao thông không được kìm chế mà có chiều hướng phát triển. Có thể mỗi năm chết khoảng 12.000 đến 15.000 người, bị thương tích khoảng 25.000 đến 30.000 người. Nếu chúng ta cộng 10 năm trở lại thì thật khủng khiếp. Một đất nước hòa bình, không có chiến tranh, không có thiên tai nhưng tai nạn giao thông để lại một hậu quả hết sức nghiêm trọng. Nếu cả xã hội chúng ta không tập trung giải quyết vấn đề này thì con cháu chúng ta sẽ oán trách bởi vì hậu quả để lại hết sức nặng nề. Chúng ta tổng cộng lại thì thấy thương tích thật ghê gớm. Cho nên tôi đề nghị phải tập trung vấn đề này.
Thứ hai, giải pháp của Chính phủ nêu ra để kiềm chế lạm phát là đúng hướng nhưng khi điều hành phải hết sức linh hoạt, cắt giảm chi tiêu cái gì, cái gì cần phải chi tiêu, tức là cái cần cắt giảm phải cắt giảm, mà cái cần chi tiêu vẫn phải chi tiêu, có cái cần đầu tư vẫn phải tiếp tục đầu tư chứ không phải thực hiện như chúng ta thấy năm 2007 chúng ta quá tập trung cho đầu tư. Năm 2008 chúng ta gây ra lạm phát thì gây ra lạm phát là một khuyết điểm nhưng chúng ta khắc phục khuyết điểm là kiềm chế, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt mà dẫn đến suy giảm kinh tế, mà suy giảm kinh tế thì chúng ta lại đưa gói kích cầu, tức là chúng ta cứ tạo ra khuyết điểm xong khắc phục khuyết điểm lại báo cáo thành tích, ở đây những cái này phải hết sức lưu ý. Cho nên các giải pháp trong này tôi đề nghị với Chính phủ hết sức linh hoạt để chú ý làm sao để cho tránh lặp lại, bây giờ đang lạm phát thì chúng ta kiềm chế và chúng ta thắt chặt quá mức cần thiết thì chắc chắn sẽ gây ra suy giảm kinh tế.
Thứ ba, tăng giá điện phải có lộ trình hợp lý, phải gắn với chất lượng phục vụ và chống độc quyền về ngành điện, tôi cho rằng đối với Chính phủ phải sớm cải tổ ngành điện để chống độc quyền…
Một số vấn đề liên quan đến Chính phủ đề nghị sớm trình Quốc hội sửa Luật đất đai, tôi cho rằng Luật đất đai bây giờ còn rất nhiều vấn đề nhưng cử tri rất bức xúc mà Chính phủ chưa trình được việc này, khó đến mấy nhưng tôi nghĩ phải tập trung đầu tư để sớm trình Quốc hội ban hành Luật đất đai để làm sao chúng ta phải xác định là đất công và đất tư. Chúng ta phải xác định đất công và tư như vậy, nếu chúng ta cứ xác định đất đai xây dựng ổn định lâu dài không có tranh chấp, mà đất Nhà nước ta chiếm thì lấy đâu mà đất tranh chấp gì đâu, cho nên tôi nghĩ đất cứ biến thành đất tư nhân hết.
Thứ hai, tôi cho rằng vấn đề này cũng phải chú ý sớm có lịch trình. Rồi vấn đề nữa là chúng ta phải xác định đất nông nghiệp, đất xây dựng, đất chuyên dùng, xác định như thế để có kế hoạch sử dụng cho nó hợp lý, chứ còn khi chúng ta xác định đất quy hoạch là đất xây dựng thì dương nhiên đất nông nghiệp phải chuyển thành đất xây dựng, nhưng chúng ta bây giờ cũng tiếp tục khi mà đất nông nghiệp muốn chuyển sang đất xây dựng là phải làm thủ tục chuyển gây rất phiến hà cho dân và khi bồi thường cho dân thì không thỏa đáng. Cùng một mảnh đất, một miếng đất nông nghiệp, miếng đất xây dựng và miếng đất chuyên dùng là chúng ta chia ra để có kế hoạch sử dụng hợp lý thôi nhưng mà chúng ta bắt dân phải chuyển đổi, tôi cho rằng nếu như chúng ta xác định được đất xây dựng thì đương nhiên bồi thường cho dân bằng giá trị tiền đất xây dựng, không thể nói là đất nông nghiệp, cùng một khu quy hoạch dân chịu thiệt thòi. Nếu chúng ta làm được việc đó thì sẽ giảm bớt rất nhiều khiếu kiện về đất đai, giảm thủ tục phiền hà, chống được tham nhũng. Tôi đề nghị Chính phủ sớm trình phương án này để giải quyết thỏa đáng cho nguyện vọng của cử tri.
Nguyễn Văn Tiên - Tiền Giang:
Về việc để lại 3.500 tỷ cho dầu khí, chúng tôi nhất trí như Tờ trình của Chính phủ cũng như Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính, ngân sách. Tuy nhiên chúng tôi trao đổi thấy cũng rất khó nhưng đề nghị Chính phủ, các bộ, ngành chúng ta cần suy nghĩ, ngay trong dịp tết vừa qua trong khi nhà nước cho các gia đình liệt sỹ 300.000đ, có nhà được 200.000đ, có nhà được 500.000đ thì ngành dầu khí và nhiều ngành thưởng tới 50-60 triệu, vậy thì tiền này từ đâu ra? Luật pháp nào để chúng ta kiểm soát vấn đề này? Xin nói đây là doanh nghiệp Nhà nước, không phải doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp tư nhân. Vậy chúng ta làm thế nào? Một tháng lương người ta đã 10 triệu, 15 triệu, bây giờ đến tết lại 50, 60 triệu. Vậy chúng ta làm như thế nào để chúng ta đảm bảo sự mất cân đối trong xã hội.
Một vấn đề nữa, hôm qua chúng tôi có trao đổi, suy nghĩ, mong rằng các ngành liên quan, đối với ngành ngân hàng chẳng hạn. Hôm chúng tôi dự buổi giao ban trực tuyến tôi thấy Chính phủ rất tâm huyết và nói rằng trong khi cả nước khó khăn, ngành ngân hàng không chung tay mà vẫn tiếp tục lấy lãi, lương rất cao mà cho vay như thế. Chúng ta phải có luật pháp như thế nào đó để hạn chế được thu nhập của những ngành này trong khi cả xã hội khó khăn. Chúng tôi nghĩ đây là việc không phải dễ. Mong các cơ quan liên quan suy nghĩ trình Quốc hội ban hành một luật pháp nào đó để tạo ra sự thu nhập công bằng trong xã hội.
Vấn đề thứ ba, liên quan đến xã hội. Tôi muốn nói một số ý liên quan đến bảo hiểm y tế. Đây là chủ trương rất đúng của Đảng và Nhà nước. Chúng ta đã có nghị quyết tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân và rất may hơn 1 năm thực hiện chúng ta đã đem lại kết quả rất tốt. Chúng tôi thấy rất đáng mừng là lúc đầu thực hiện Luật bảo hiểm y tế thì chúng ta cũng băn khoăn, có ý này, ý kia, muốn sửa luật, nhưng chúng ta đã vượt qua được những khó khăn, vướng mắc trong việc thanh toán cũng như cùng chi trả. Sau hơn 1 năm thực hiện nhờ việc cùng chi trả cũng như tăng mức đóng thì bảo hiểm y tế của chúng ta đã bù lỗ được cho những đoạn bị hụt vốn hơn 2.500 tỷ và năm 2010 chúng ta đã kết dư được 3.000, 4.000 tỷ gì đó. Đây là những tín hiệu rất đáng mừng. Thực tế chúng ta thấy số tiền đóng bảo hiểm y tế không phải là nhiều, 1 thẻ chỉ khoảng 400 nghìn. Người ta tính 1.000 người đóng bảo hiểm y tế mới đủ cho 1 chi trả cho chạy thận nhân tạo. Vì vậy, đây là một chủ trương rất đúng mà thế giới áp dụng rất nhiều.
Tuy nhiên thực tế hiện nay nó vẫn còn những vướng mắc khó khăn nhất định. Tôi đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành mở rộng các danh mục thuốc và kỹ thuật để người có thẻ bảo hiểm y tế được hưởng, có như vậy thì bảo hiểm y tế thực sự hấp dẫn người dân còn không thì người dân người ta cứ kêu ca là phân biệt đối xử với bảo hiểm y tế.
Vấn đề thứ hai là thủ tục khám, chữa bệnh cho người có thẻ bảo hiểm y tế ví dụ báo chí mấy hôm nay nói rất nhiều về vấn đề chờ lấy thuốc của bảo hiểm y tế mất mấy tiếng đồng hồ, đây là vấn đề cải tiến thủ tục rất đơn giản ở các bệnh viện và mong Bộ Y tế cũng như các tỉnh quan tâm chỉ đạo vấn đề này. Đây là việc tôi nghĩ không phải khó và trong tầm tay chúng ta có thể làm được.
Vấn đề tiếp theo, tôi mong Chính phủ sớm thực hiện thay đổi giá viện phí. Giá viện phí bảo hiểm y tế trả cho bệnh viện thấp quá thì chất lượng phục vụ kém. Có 3000/lần khám thì tôi nghĩ rằng nếu ta không tăng lên thì người thiệt cuối cùng vẫn là bệnh nhân thẻ bảo hiểm y tế, không có cách nào khác cả.
Vấn đề tiếp theo là vấn đề về thuốc, đấu thầu thuốc cũng như giá thuốc trong bệnh viện cao hơn so với giá thuốc trên thị trường. Các bộ, ngành cũng đã soạn thảo các thông tư hướng dẫn, mong Chính phủ chỉ đạo để sớm đưa vào cuộc thì sẽ thuận lợi hơn.
Chúng ta phải tuyên truyền mạnh về bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội. Chúng tôi thấy thực tế đi các địa phương, tỉnh người ta nói rằng 1 năm người ta được cho 200 - 300 triệu để tuyên truyền về hai định hướng rất lớn là bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội, vậy chúng ta không có tiền đi tuyên truyền như vậy mà trên tivi suốt ngày quảng cáo các loại còn các định hướng tuyên truyền của nhà nước thì không có.
Vũ Quang Hải - Hưng Yên:
Phần thứ hai về đánh giá khi thực hiện ngân sách năm 2010 và những tháng đầu năm 2011. Tôi hoàn toàn đồng ý với nhận định của Ủy ban Tài chính, ngân sách rằng tăng chi lớn, chi cho ngân sách đã góp phần là nguyên nhân làm cho lạm phát tăng. Bởi vì tăng chi lên tới 87.430 tỷ đồng, vượt 15% dự toán. Trong khi nợ công tăng cao thì việc tăng thu để trả nợ công, giảm lạm phát, giảm lạm chi là điều hết sức quan tâm của Quốc hội. Tại sao trong cùng một thời điểm tăng giá điện, tăng giá xăng dầu lại cho mua hàng nghìn ô tô ở cùng một thời điểm để đến nỗi nhưng đơn vị được mua xe công phải xếp hàng giống như ngày xưa thời bao cấp. Đây có thể là một nguyên nhân dẫn đến tình hình lạm phát cũng tăng lên. Cho mua ô tô là điều cần thiết, nhưng chúng ta nên điều chỉnh cho mua ở một thời điểm nào thích hợp để cho giãn bớt mật độ, làm bớt căng thẳng ra trong lúc đầu tư công của chúng ta ở những tháng đầu năm đang hết sức gay gắt.
. Vấn đề cuối cùng là vấn đề xử lý 3.500 tỷ cho dầu khí, tôi nghĩ việc giảm chi bắt buộc trong Nghị quyết 11 của Chính phủ là điều cần thiết, tất cả các công việc chi công phải giảm tới 10%, trong khi đó lại quyết định đầu tư 3.500 tỷ cho dầu khí. Tôi xin đề nghị nếu có phải giảm chi cũng nên cắt chi tương ứng như các đơn vị khác, không vì lẽ gì chúng ta lại chi một khoản 3.500 tỷ trong khi Chính phủ đang thắt chặt chi tiêu công…
Phạm Thị Loan - TP Hà Nội:
Vấn đề thứ nhất là vấn đề đánh giá bổ sung tình hình kinh tế - xã hội năm 2010 và triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011. Vấn đề thứ hai là vấn đề về việc để lại 3.500 tỷ cho tập đoàn dầu khí.
Về vấn đề thứ nhất, qua Báo cáo của Chính phủ, chắc chúng ta rất nhiều người phấn khởi bởi vì thấy rằng trong năm qua GDP của chúng ta cũng tăng trưởng 6,75%. Bội chi ngân sách cũng giảm hơn so với kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, CPI lạm phát lên gần 12% và tình hình chuyển nguồn, tình hình kết dư cũng như một số tình hình về chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa khác không mấy thay đổi. Bản thân tôi nghĩ rằng với con số tăng trưởng GDP như thế thì có lẽ nhiều người chúng ta cũng cảm thấy vui mừng vì số liệu tăng trưởng. Tuy nhiên, tôi nghĩ nếu chúng ta chỉ nhìn vào số liệu tăng trưởng không là chưa đủ, mà chúng ta hãy nhìn vào bức tranh thực chất của xã hội về chất lượng cuộc sống thực tế của người dân, về an sinh xã hội, về chất lượng phát triển của các doanh nghiệp. Chắc ai cũng thấy rằng thời gian qua việc lạm phát cũng như việc phát triển thực tế và trong đời sống của người dân thì tăng giá thời gian vừa qua ảnh hưởng rất lớn đến đời sống, đến từng bữa cơm của từng gia đình của người dân, đặc biệt tình hình tăng trưởng của các doanh nghiệp.
Đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ thực tế họ đang gặp rất nhiều khó khăn, nhất là việc vừa qua chính sách tiền tệ của chúng ta lúc thì thắt chặt, lúc thì nới lỏng như vậy đã làm cho các doanh nghiệp rơi vào tình trạng rất khó khăn như đại biểu Cao Sĩ Kiêm vừa phát biểu. Cho nên chúng tôi mong rằng Chính phủ và các Bộ, ngành và Quốc hội phải quan tâm thực chất đến chất lượng phát triển của nền kinh tế và có những chính sách thực sự quan tâm đến chất lượng. Chúng ta không nên chạy theo số lượng, không nên đua theo sự phát triển của những nền kinh tế khác để chúng ta chạy theo và học theo những cái không phù hợp với chúng ta. Theo tôi nghĩ chúng ta hãy nhìn vào thực chất của nền kinh tế của nước ta và những lợi thế có sẵn của nước ta để đề ra những chính sách phát triển cho tương lai. Trong những chính sách vừa qua, tôi đề nghị Chính phủ cũng cần phải xem xét có những chính sách để giúp cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển như đại biểu Hải ở Hưng Yên vừa nói tức là tại sao Vinashin thì được Chính phủ quan tâm cho khoanh nợ, giãn nợ và cho vay để trả lương, trả bảo hiểm. Vậy những doanh nghiệp khác thì sao? Các doanh nghiệp tư nhân cũng như các hộ gia đình họ vay, họ làm, nhưng họ bị lỗ thì liệu họ có được hưởng chính sách đó hay không? Vậy tôi đề nghị Chính phủ cần phải xem xét để có chính sách chung cho phù hợp giữa doanh nghiệp Nhà nước cũng như doanh nghiệp ngoài quốc doanh có cùng một chính sách, nếu như Chính phủ đã có chính sách cho Vinashin cho vay để trả lương công nhân, trả bảo hiểm cũng như khoanh nợ, giãn nợ cho Vinashin thì cũng đồng thời hãy có chính sách chung cho các doanh nghiệp khác.
Thứ hai là vấn đề về lãi suất ngân hàng và tín dụng, tức là chính sách về tiền tệ. Tôi cũng đề nghị Chính phủ cần phải xem về chính sách tiền tệ để làm thế nào đấy không có lúc thì nóng, lúc thì lạnh như vừa qua và không hạn chế tín dụng như vừa rồi để doanh nghiệp rất khó khăn.
Vấn đề tiếp theo tôi xin nói về vấn đề để lại 3.500 tỷ của dầu khí, theo các Báo cáo vừa qua của Tập đoàn dầu khí và Bộ Công thương thì tôi cũng được biết là việc sử dụng 3.500 tỷ của dầu khí như thế nào. Trong Báo cáo lần đầu của dầu khí thì dầu khí định đưa 3.500 tỷ này vào 3 dự án. Nhưng sau đấy Bộ Công thương có báo cáo là đưa vào một dự án, qua đấy tôi cũng nhận thấy rằng cơ chế sử dụng cũng như kế hoạch sử dụng không đồng nhất và có một sự khá là tùy tiện trong việc sử dụng các nguồn ngân sách để lại như thế này.
Thứ hai là trong Báo cáo của dầu khí thì tôi được biết rằng năm 2011 Tập đoàn dầu khí dự định đầu tư 105.000 tỷ, tôi xin hỏi ai là người duyệt danh mục đầu tư này và tổng đầu tư này cho dầu khí. Bởi vì nếu chúng ta so sánh thì ta thấy tập đoàn Vinashine cho đến hiện nay đầu tư 86.000 tỷ và đã để lại một tình trạng như vậy, mỗi một năm lãi suất ngân hàng của 86.000 tỷ hiện nay lên đến 15.000 tỷ. Vậy trong một năm Tập đoàn dầu khí đầu tư 105.000 tỷ thì thử hỏi lãi suất ngân hàng của số đó như thế nào và hiệu quả đầu tư của nó như thế nào, ai là người quyết định danh mục đầu tư và số đầu tư đó. Chúng ta không thể nói Tập đoàn dầu khí là doanh nghiệp thì anh tự đầu tư, muốn đầu tư như thế nào cũng được bởi vì Tập đoàn dầu khí là tập đoàn của nhà nước, số tiền đó đầu tư nhà nước phải chịu trách nhiệm, cuối cùng thì nhà nước vẫn phải chịu trách nhiệm và ảnh hưởng đến nhân dân bởi vì tiền đó là tiền của dân. Tôi đề nghị cần xem xét việc đầu tư của các tập đoàn kinh tế trong đó có Tập đoàn dầu khí.
Chúng ta thấy thực trạng của Tập đoàn dầu khí hiện nay đang đầu tư ra rất nhiều ngành trong đó có bất động sản, có những tòa nhà tôi được biết nói là số 1 của Việt Nam, đó là có phải là nhiệm vụ chính của Tập đoàn dầu khí hay không hay Tập đoàn dầu khí được giao trọng trách là thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí và làm những việc trọng trách trong nhiệm vụ, vai trò của dầu khí. Tôi xin Chính phủ quan tâm đến những chính sách mà tôi được biết trước đây 4, 5 năm chúng ta đã có chính sách cho dầu khí, tăng cường năng lực để đầu tư quan tâm đến những khu vực nước sâu, xa bờ. Vậy đầu tư cho nước sâu, xa bờ và đầu tư cho việc thăm dò, khai thác hiện nay như thế nào, thực tế đằng sau các dự án đó chúng ta phải mời gọi các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thực hiện, qua đó tôi đề nghị:
Một, cần phải xem xét lại các khoản để lại đầu tư cho Tập đoàn dầu khí.
Hai, đề nghị phải kiểm tra, giám sát số tiền mà từ trước đến nay đã để lại cho Tập đoàn dầu khí.
Ba, tôi đề nghị cần giám sát và có cơ chế cho Tập đoàn dầu khí trong việc đầu tư.
Bốn, tôi đề nghị cần phải có cơ chế tài chính cho Tập đoàn dầu khí cũng như tất cả các tập đoàn kinh tế khác. Bởi vì hiện nay cơ chế tài chính là chưa rõ ràng. Do vậy, chưa kiểm soát được số lợi nhuận mà các tập đoàn sử dụng vốn của Nhà nước như thế nào. Số tiền đấy theo tôi được biết hiện nay có 120 nghìn tỷ chưa nộp lại ngân sách Nhà nước. Nhà nước đã đầu tư ra thì tôi đề nghị những lợi nhuận đó phải được nộp về ngân sách Nhà nước. Như vậy không có một nhà đầu tư nào đầu tư ra mà không lấy lợi nhuận về. Cho nên tôi đề nghị Nhà nước, Quốc hội cần phải quan tâm đến những việc đấy. Trên đây là những ý kiến của tôi. Tôi xin hết, xin cảm ơn Quốc hội.
Dương Trung Quốc - Đồng Nai:
Vấn đề thứ hai cũng là vấn đề các đại biểu đã nêu lên, chúng tôi cảm thấy Chính phủ rất năng động trong vấn đề ứng biến, ứng xử với những tình huống nhưng tầm nhìn thấy rất chủ quan. Bằng chứng là khi xảy ra những hiện tượng ở Nhật Bản liên quan đến an toàn của nhà máy điện nguyên tử, chúng ta thấy phản ứng của rất nhiều nước, kể cả những nước có kinh nghiệm và có tiềm lực về nguyên tử họ cũng rất thận trọng và họ cũng rất khôn ngoan khi đưa ra những ứng xử một cách thận trọng, đồng thời có từng bước đi một. Ở đây chúng ta thấy những cán bộ, những cơ quan quản lý lĩnh vực này phát biểu một cách hết sức chủ quan, có thể phần nào là vì vấn đề xây dựng nhà máy điện nguyên tử đã trở thành nghị quyết của Quốc hội, mỗi chúng ta ở đây đều phải chịu trách nhiệm về việc đó. Nhưng nếu như Trung Quốc chúng ta thấy là một nước có tiềm năng, có kinh nghiệm họ cũng tuyên bố là tạm dừng nhưng sau đó họ lại đưa ra một quyết định là sẽ tiếp tục xây dựng nhưng ở cấp độ, trình độ cao hơn. Trong khi đó chúng tôi thấy những bài phát biểu của các cơ quan phụ trách vấn đề này của Chính phủ có phần rất chủ quan và sự chủ quan đó không trấn an được người dân mà còn làm tăng thêm nỗi lo lắng của người dân.
Vấn đề thứ ba, vấn đề này chúng tôi định nêu lên ở kỳ họp trước nhưng chưa có dịp, chúng tôi xin nhắc lại bởi vì nó vẫn là một vấn đề nguyên vẹn. Báo cáo của Chính phủ đưa ra rất nhiều những con số, những thống kê, những giải pháp nhưng chúng tôi thấy chưa có sự phân tích cần thiết bên cạnh những yếu tố mang tính chất định lượng. Tôi lấy ví dụ chúng ta vẫn nhắc đến đầu tư, chúng ta vẫn nhắc đến nhập siêu, chúng ta vẫn nhắc đến rất nhiều lĩnh vực, vấn đề liên quan đến kinh tế, nhưng chúng ta chưa bao giờ phân tích cơ cấu của nó cả. Nhập siêu rõ ràng hiện nay Chính phủ trong báo cáo của mình không nói nhập siêu từ đâu nhiều nhất và hiện nay những vấn đề liên quan đến kinh tế của chúng ta, nguồn lực nào và khó khăn nào, đến từ đâu. Ví dụ, báo cáo lúc nãy của đồng chí Bộ trưởng Bộ Công thương nói về những nhà máy điện mà bị trục trặc kỹ thuật khiến cho chúng ta gặp khó khăn. Vậy nhà máy điện đấy của ai xây? Và công nghệ nào? Bởi vì chúng ta đã từng lo lắng, việc chúng ta là đa phương trong quan hệ quốc tế là rất cần thiết và chúng ta khai thác nguồn lực, tiềm năng của những nước lớn là cũng rất cần thiết, nhưng phải làm thế nào để cân bằng, để bảo đảm an toàn. Ở đây chúng tôi muốn nói đến quan hệ của chúng ta với Trung Quốc. Trung Quốc là một nước lớn, láng giềng, có nhiều truyền thống, giúp đỡ nhau và chúng ta cũng khai thác tối đa những điều kiện để hợp tác phát huy hiệu quả, nhưng chúng ta có lo lắng đến việc phụ thuộc kinh tế hay không?
Tại kỳ họp trước chúng tôi đã định phát biểu nhân một nhận xét của những nhà nghiên cứu nước ngoài cho rằng trong số các nước ASEAN thì Việt Nam hiện nay là quốc gia bị lệ thuộc kinh tế nhiều nhất. Nếu chúng ta phân tích tất cả những số liệu mà Báo cáo của Chính phủ đưa ra với đầy đủ tất cả những yếu tố phân tích cần thiết chúng ta thấy điều đó không phải không có thực. Tôi muốn nhắc lại rằng việc khai thác lợi ích từ quan hệ Trung Quốc là vấn đề cơ bản, lâu dài và hết sức quan trọng, nhưng đừng để lệ thuộc vào Trung Quốc. Ở đây chúng ta có thể xem xét lại xem ngay trong cơ chế pháp luật của chúng ta có hay không? Luật đầu tư có hay không? Luật đấu thầu có hay không? Chúng tôi thấy rất nhiều những nhà phân tích kinh tế cũng như những người hoạt động kinh tế cho rằng hiện nay nếu chúng ta vẫn tiếp tục như thế này thì chúng ta phụ thuộc là tất yếu, mà phụ thuộc một cách rất hợp pháp. Vì thế chúng tôi muốn lưu ý điều này để Chính phủ trong báo cáo của mình nên phân tích kỹ tất cả những yếu tố đó để thông tin đến cho các đại biểu Quốc hội và đến nhân dân đầy đủ hơn, nó có thể phát huy những mặt tích cực, nhưng nó cảnh báo những khả năng, nguy cơ.
Cuối cùng chúng tôi cũng muốn rằng đây là kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khóa XII, những vấn đề tồn đọng còn lại trong toàn bộ nhiệm kỳ qua chúng ta cố gắng có những thông báo cần thiết và những vấn đề chưa giải quyết được chúng ta đừng bỏ qua khi bước qua nhiệm kỳ tới.
Phạm Đức Châu - Quảng Trị:
Thứ nhất, về thực hiện chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước hiện nay ở các địa phương đang tiếp tục triển khai theo đúng tiến độ và lộ trình được Chính phủ phê duyệt. Trong quá trình cổ phần hóa đã có một số vướng mắc phát sinh, đề nghị Chính phủ cần có những giải pháp điều chỉnh kịp thời để phù hợp với tình hình thực tiễn việc cổ phần hóa doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp, các nông, lâm trường.
Kính thưa Quốc hội, khi cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại địa phương, phần vốn nhà nước được chuyển giao cho Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước quản lý kinh doanh thoái vốn theo chủ trương của Chính phủ. Trong quá trình bán phần vốn nhà nước tại công ty cổ phần do việc phối hợp giữa công ty đầu tư và phát triển vốn nhà nước ở các địa phương chưa cụ thể và thiếu chặt chẽ dẫn đến sau khi bán phần vốn nhà nước tại công ty cổ phần đã phát sinh nhiều vướng mắc giữa tổ chức và cá nhân, tức là người chủ mới của công ty cổ phần với người lao động, đặc biệt là người lao động ở các doanh nghiệp nông nghiệp như tôi vừa nói ở trên như chế độ chính sách, việc làm, đất đai của người lao động mà nhà nước đã giao cho Tổng công ty quản lý vốn quản lý, nay chuyển giao quyền tự quyết cho nhà đầu tư gây bất ổn cho người lao động nông nghiệp vốn đã cạn kiệt về đất đai là tư liệu sản xuất chính của họ, ảnh hưởng an sinh, chính trị xã hội tại địa phương. Như Quảng Trị là việc cổ phần hóa Công ty cổ phần nông sản Tân Lâm - Quảng Trị vốn là nông trường Tân Lâm, tạo phản ứng gay gắt giữa người lao động với người chủ doanh nghiệp mới do người dân lo lắng đến việc mất đất, mất việc làm ảnh hưởng đến đời sống của gia đình họ.
Hoàng Thương Lượng - Yên Bái:
Một, về một số chương trình mục tiêu quốc gia được Chính phủ phê duyệt trong giai đoạn năm 2006 - 2010, nhưng không đạt mục tiêu đề ra như việc hoàn thành kiên cố hóa đường giao thông đến trung tâm các xã của các tỉnh miền núi thì mới đạt khoảng 60% trong khi đó nguồn lực của địa phương cũng huy động khoảng 40%.
Chương trình 193 di dân ra khỏi vùng nguy hiểm cũng chỉ đáp ứng khoảng 40% vốn được phê duyệt hàng năm. Chương trình hỗ trợ đầu tư 62 huyện nghèo của cả nước để giảm nghèo bền vững thì chỉ đáp ứng khoảng 30% nguồn lực được phê duyệt hàng năm của Chính phủ. Vì vậy, tôi đề nghị Chính phủ cần có đánh giá cụ thể và có biện pháp bảo đảm hiệu quả thiết thực kịp thời các chương trình của Chính phủ. Đặc biệt đáp ứng kịp thời nguồn vốn được Chính phủ duyệt theo kế hoạch.
Hai, về thực hiện chính sách tiền tệ, Chính phủ có điều chỉnh tỷ giá và thị trường ngoại hối như tăng tỷ giá tối đa đồng đô la so với đồng Việt Nam làm rớt giá đồng Việt Nam.
Quản lý thị trường đồng đô la làm nảy sinh khan hiếm không bình thường và làm tăng giá của đồng đô la. Kiểm soát, khống chế kinh doanh vàng miếng, làm tăng giá vàng, xuất hiện một phương thức mới về kinh doanh vàng miếng khó kiểm soát. Đề nghị Chính phủ làm rõ hơn hiệu quả thực chất của chính sách trên và tác động của nó đến kiềm chế lạm phát.
Mai Thị Ánh Tuyết - An Giang:
Thứ hai, đề nghị quản lý thị trường ngoại tệ và vàng phải dựa trên mối quan hệ cung cầu với mục tiêu áp dụng chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng linh hoạt, hướng tới kìm chế lạm phát cao. Hiện nay Chính phủ đang thực hiện việc tăng cường quản lý thị trường ngoại hối và vàng để khắc phục tình trạng đầu cơ tích trữ, buôn bán trái phép, chúng ta biết rằng trên nguyên tắc vận hành nền kinh tế phải dựa trên các mối quan hệ cung cầu khi trên thị trường có yếu tố cầu cho tiêu dùng, cho kinh doanh hay phục vụ các sinh hoạt quan hệ đối ngoại, hay du lịch, hay các quan hệ khác thì yếu tố cung lúc này sẽ làm cho mất cân bằng và làm cho tỷ giá bị chênh lệch. Khi yếu tố cung được cân bằng lúc đó tỷ giá sẽ được xác lập. Nếu thị trường chính thức không đáp ứng được đầy đủ và kịp thời các nhu cầu của dân chúng, doanh nghiệp thì lúc đó thị trường tự do sẽ có cơ hội phát triển. Như vậy đề nghị làm thế nào để thị trường chính thức có thể chèo lái được thị trường ngoại hối, muốn vậy thì tổ chức tín dụng phải có số lượng ngoại hối cần thiết.
Tuy nhiên theo Luật tổ chức tín dụng sửa đổi thì mục tiêu của tổ chức tín dụng là lợi nhuận nên không ràng buộc các tổ chức tín dụng phải thực hiện theo định hướng của ngân hàng Nhà nước. Bên cạnh đó một số quy mô kim ngạch xuất khẩu hàng năm của đất nước ta gần 150 tỷ đô la hàng năm, nhưng dự trữ ngoại hối của ngân hàng Nhà nước chỉ đáp ứng được khoảng 20%. Như vậy thị trường cung lớn hơn thị trường cầu thì tất yếu bằng nhiều hình thức linh hoạt các tổ chức, các đơn vị sẽ có nhiều hình thức tinh vi khác để tồn tại trên thị trường ngoại hối tự do. Vì vậy, muốn quản lý thị trường ngoại hối theo lộ trình quy định của Ngân hàng Nhà nước phải có lượng ngoại hối dự trữ đủ cung cấp cho cầu thị trường để khắc phục tình trạng cầu đầu cơ tích trữ, buôn bán trái phép, góp phần ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam, tăng dần dự trữ ngoại hối.
Bên cạnh tâm lý người dân Việt Nam từ xưa đến nay vàng vốn được xem là công cụ để đáp ứng tốt nhu cầu khi tình hình tài chính biến động mạnh và điều kiện sản xuất kinh doanh giai đoạn khó khăn thì người dân tìm phương án mua vàng. Nhưng phương án giữ vàng là yếu tố rất rủi ro, vì vàng chỉ tăng tạm thời, khi khủng hoảng tài chính toàn cầu tạm thời khôi phục lại thì vàng sẽ quay về đúng giá trị của nó. Vì vậy, đề nghị Chính phủ sớm kiềm chế lạm phát để ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam kết hợp với giảm lãi suất ngân hàng, đặc biệt bằng nhiều hình thức để nâng cao nhận thức của người dân về chính sách điều hành của Chính phủ để người dân yên tâm và doanh nghiệp chuyển từ vàng, đôla sang đầu tư phát triển.
Về kiểm soát chặt chẽ chi tiêu công và kiềm chế lạm phát, theo số liệu báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính, ngân sách, thấy rằng quy mô xu hướng đầu tư ngày càng tăng lên, năm 2010 vượt 15% dự toán, đầu tư công những năm qua chiếm tỷ trọng ngày càng lớn so với tổng đầu tư toàn xã hội, năm 2008 chiếm 33,9%, năm 2009 tới 40,6% và năm 2010 là 44%. Đầu tư công từ ngân sách nhà nước tăng lên trong khi đầu tư từ tín dụng nhà nước, doanh nghiệp lại có xu hướng giảm dần và hệ số ICO tăng lên nhanh chóng từ đầu tư ngân sách nhà nước cho thấy rằng hiệu quả thấp. Khi chi tiêu công cao sẽ gây ra bội chi ngân sách tăng dần theo thời gian, nếu tăng chi quá mức trong nền kinh tế, chi kém hiệu quả sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách ngày càng trầm trọng hơn. Vì vậy, đầu tư vào chi tiêu công để tăng trưởng kinh tế nhưng đồng thời cũng làm tăng tổng cầu, do vậy muốn giảm lạm phát thì Chính phủ cần cắt giảm tổng cầu thông qua giảm chi tiêu công. Tôi đồng tình với các giải pháp mà đại biểu Cao Sĩ Kiêm đã góp ý kiến, đồng thời chấp nhận tốc độ tăng trưởng phù hợp ngắn hạn để tăng trưởng cao và bền vững trong tương lai.
Vấn đề thứ hai là vấn đề phương án sử dụng 3.500 tỷ để tái đầu tư Tập đoàn dầu khí Việt Nam, tôi thống nhất với Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính, ngân sách và xin có một số ý kiến như sau. Xét về bản chất khoản đầu tư vào Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam, đây là lợi nhuận thu được của doanh nghiệp sau khi đã bù đắp chi phí và thực hiện các nghĩa vụ tài chính với nhà nước. Đây không thuần túy chỉ là nguồn lợi nhuận của doanh nghiệp Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam, là cơ quan thay mặt cho nhà nước để thực hiện do đó nguồn thu này là nguồn thu của nhà nước và sử dụng một phần số thu này đầu tư trở lại cho ngành dầu khí là đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên trong điều kiện ngân sách năm 2011 rất khó khăn, điều hành vĩ mô, kiềm chế lạm phát, an sinh xã hội, vì vậy tăng cường kiểm soát chi tiêu công là một giải pháp mà Chính phủ rất quyết tâm. Do đó đề nghị 3500 tỷ đầu tư Tập đoàn dầu khí chúng ta không đầu tư một lần trong năm 2011 và dự án triển khai mỏ lô 052, 053 vượt nhiều hạng mục. Vì vậy, chuyển tái đầu tư theo tiến độ dự án để giảm áp lực nguồn vốn ngân sách và giảm hiệu quả đúng quy định của pháp luật.
Điểu K`Ré - Đắk Nông:
Mặc dù các mặt hàng lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng, dịch vụ công tăng. Thiên tai, dịch bệnh trong nông nghiệp ở một số nơi càng làm cho cuộc sống khó khăn hơn, ảnh hưởng mạnh đến đời sống của nông dân, những người làm công ăn lương và đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số.
Có thể nói những tháng đầu năm 2011 với những diễn biến rất phức tạp của tình hình thế giới, cũng như kinh tế - xã hội trong nước, nhưng dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, sự giám sát của Quốc hội, nhất là sự điều hành năng động, quyết liệt của Chính phủ, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước bước đầu đã được ổn định. Trong đó kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu, tập trung mọi sự nỗ lực, thực hiện đồng bộ các giải pháp lớn theo Nghị quyết 11 của Chính phủ. Do đó đã kiềm chế được lạm phát, duy trì được tốc độ phát triển kinh tế GDP quý I năm 2011 đạt 5,5%. An sinh xã hội được quan tâm, ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội được bảo đảm.
Tuy nhiên kết quả đã đạt được chúng tôi thấy chưa được vững chắc. Kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, thiếu tính bền vững, lạm phát cao, nhập siêu và bội chi ngân sách còn lớn, hiệu quả đầu tư ở một số lĩnh vực thấp, môi trường sinh thái chưa được chú trọng đúng mức, đời sống của nhân dân nhất là nông dân, công nhân ở một số ngành, lĩnh vực và một số vùng miền ở mức thấp và nhiều công nhân lao động không có việc làm.
Từ những vấn đề trên tôi thấy qua đợt tiếp xúc cử tri cũng như qua gợi ý thảo luận của Đoàn chủ tịch kỳ họp. Tôi chỉ đề nghị Chính phủ cần quan tâm hơn và quyết liệt hơn nữa để chống lãng phí và ổn định được an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, tôi xin đề nghị hai vấn đề sau đây.
Trong tình hình nền kinh tế - xã hội Việt Nam đang một ngày phát triển, đất đai đóng vai trò là động lực phát triển kinh tế, phát triển đất nước. Vì vậy, Chính phủ cần có những chế định cụ thể nhằm giải quyết tốt mối quan hệ sau đây:
Thứ nhất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền của Nhà nước với tư cách là đại diện sở hữu toàn dân về đất đai và quyền của người sử dụng đất đã được pháp luật công nhận. Trong thực tế vấn đề này chỉ nhấn mạnh quyền thu hồi đất của Nhà nước và nhấn mạnh việc tạo vốn từ quỹ đất mà chưa quan tâm đầy đủ lợi ích chính đáng của người sử dụng đất, đặc biệt trong việc giá đất bồi thường, xử lý mối tương quan giữa giá đất thu hồi với giá đất tái định cư.
Thứ hai, giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích của xã hội với lợi ích của những người có đất bị thu hồi, thường chỉ nhấn mạnh đến tính cấp thiết của việc giải quyết mặt bằng để có được dự án, chưa chú ý đến những vấn đề xã hội nảy sinh sau khi thu hồi đất. Dẫn tới không bảo đảm điều kiện tái định cư, không có phương án tích cực về giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi, nhất là đối với nông dân không còn hoặc còn ít đất sản xuất hoặc những người không còn việc làm như nơi ở cũ.
Thứ ba, giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa nhà đầu tư cần sử dụng đất với người có đất bị thu hồi. Vấn đề này thường chỉ nhấn mạnh đến môi trường đầu tư, giải phóng mặt bằng để giao đất cho thuê đất. Việc quy định giá đất quá thấp so với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường tuy có tác động tích cực với nhà đầu tư nhưng lại gây ra những phản ứng gay gắt của những người có đất bị thu hồi. Vì vậy, Chính phủ cần quan tâm đến những vấn đề trên để hạn chế thấp nhất đơn thư khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực này, nhằm ổn định chính trị, xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế - xã hội bền vững, đảm bảo công bằng trong xã hội. Tôi xin hết.
Nguyễn Anh Liên - Thanh Hoá:
Đến tháng 7 năm 2010 đông đảo cử tri cựu thanh niên xung phong quá bức xúc nên yêu cầu Trung ương Hội cựu thanh niên xung phong cử đại diện trực tiếp lên báo cáo Tổng bí thư và Thường trực Ban bí thư Trung ương Đảng. Ngày 13/7/2010 được Tổng bí thư Nông Đức Mạnh tiếp, nghe báo cáo kiến nghị và đã chỉ đạo Thường trực Ban bí thư, đồng chí Trương Tấn Sang đã chủ trì cuộc họp với các cơ quan liên quan và có ý kiến kết luận chỉ đạo là Ban cán sự Đảng, Chính phủ, các cơ quan, ban, ngành hữu quan tình trạng tồn đọng chính sách đối với cựu thanh niên xung phong trong kháng chiến đã để kéo dài quá lâu và là đối tượng tuổi đã cao nên việc giải quyết trở nên rất cấp thiết. Vì vậy, Chính phủ xem xét sửa đổi, bổ sung và ban hành mới một số chế độ chính sách và tập trung giải quyết cho xong trong thời gian 1, 2 năm tới, cố gắng giải quyết không để một trường hợp nào đủ tiêu chuẩn mà không được hưởng chế độ ưu đãi người có công với nước, ý kiến chỉ đạo của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh và của Thường trực Ban bí thư Trương Tấn Sang đã làm đông đảo cựu thanh niên xung phong cả nước vô cùng xúc động và rất tin tưởng chờ mong.
Tuy nhiên, từ đó đến nay, nhất là sắp kết thúc nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII, hàng chục vạn gia đình cựu thanh niên xung phong khắp các vùng trong cả nước mòn mỏi đón chờ quyết định của Thủ tướng mà vẫn chưa có, trong khi đó mỗi năm có hàng nghìn đồng chí già yếu, ốm đau, bệnh tật, tái phát vết thương, bị nhiễm chất độc lần lượt qua đời thì khi sống không được có chế độ bảo hiểm y tế đến khi chết cũng không có được chế độ mai táng phí…
Trương Thị Thu Hằng - Đồng Nai:
Tôi xin tập trung phát biểu về một nội dung xung quanh vấn đề viện phí.
Trước hết, tôi xin bày tỏ sự tán thành ý kiến đối với đại biểu Nguyễn Văn Tiên (Tiền Giang) về viện phí và xin được làm rõ thêm những bất cập đối với viện phí hiện nay. Trước tình trạng lạm phát tăng cao, đỉnh điểm là cơn bão giá ngày càng tăng dồn dập khởi đầu từ xăng, dầu, điện, nước, ga, sắt thép, xi măng, lần lượt đến mặt hàng lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm cần thiết cho cuộc sống thường ngày đều nhất loạt gia tăng. Từ đó tác động rất lớn đến tất cả mọi ngành, mọi giới, từ gia đình đến cơ quan đơn vị, các xí nghiệp, nhà máy, doanh nghiệp, đặc biệt là các bệnh viện công lập trước đây đã khó khăn nay càng hết sức khó khăn.
Xin thưa Quốc hội, khi giá của tất cả các yếu tố cấu thành đầu vào bị gia tăng một cách chóng mặt, ở đầu ra giá viện phí không hề thay đổi, vẫn đang tuân thủ theo khung giá dịch vụ kỹ thuật, y tế quy định tại Thông tư 14 ban hành từ năm 1995 đến nay. Nền kinh tế nước ta đã chuyển biến mạnh mẽ từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Vậy ở thời điểm hiện hành giá của một lần khám bệnh tại bệnh viện hạng 3 có 2.000 đồng, tại bệnh viện hạng 2, kể cả hạng 1 là 3.000 đồng cho một lần khám. Nếu so sánh với công của một người thợ làm việc đơn giản như vá xe cũng chưa bằng, giá của một lần vá hiện nay là hơn 10.000 cho một lỗ thủng. Giá hiện hành của một ngày gường bệnh tại bệnh viện hạng 1 từ 10.000 - 18.000, tại các bệnh viện hạng 2, hạng 3 là 3.000 - 9.000 đồng/ngày bao gồm cả chi phí điện, nước, hóa chất, quần áo bệnh nhân, người thăm nuôi, giá như thế sao có thể bù đắp đủ các chi phí nêu trên.
Hà Minh Huệ - Bình Thuận:
Cử tri ở các tỉnh nghe báo cáo về tình hình kinh tế vĩ mô, những thành tích về nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế rất tâm đắc, tự hào nhưng họ lại muốn nghe nhiều hơn từ Chính phủ, từ những vấn đề xã hội gây bức xúc hàng ngày trong đời sống, được biết các giải pháp cụ thể của Chính phủ để giải đáp các thắc mắc của họ, báo cáo bổ sung của Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng lần này cũng rất vắn tắt về vấn đề này trong khi cuộc sống đang bị tác động mạnh mẽ bởi giá điện, giá xăng, vật liệu sản xuất tăng cao. Từ những vấn đề như tai nạn giao thông, an toàn vệ sinh thực phẩm, sự xuống cấp về đạo đức của một bộ phận nhân dân cũng rất ít được đề cập.
Lê Thị Yến - Phú Thọ:
Về phương án sử dụng 3.500 tỷ đồng để tái đầu tư cho Tập đoàn dầu khí Việt Nam. Về vấn đề này Ủy ban tài chính và ngân sách Quốc hội đã thẩm tra và có kiến nghị đồng ý đề nghị Quốc hội chấp thuận phương án phân bổ 3.500 tỷ đồng đầu tư trở lại cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam như Tờ trình của Chính phủ. Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu các báo cáo chúng tôi thấy vẫn còn băn khoăn là chúng ta đã nói rất nhiều về vấn đề đầu tư dàn trải, về hiệu quả của đầu tư không cao, về chất lượng đầu tư không tốt. Trong khi đó chúng ta đã và sẽ phải bỏ ra rất nhiều nghìn tỷ đồng từ ngân sách để đầu tư cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam nhưng vẫn chưa đánh giá được hiệu quả đầu tư từ phần vốn ngân sách, ngay cả căn cứ cơ sở pháp lý cho việc đầu tư trở lại cho nguồn kinh phí này vẫn còn nhiều ý kiến trái ngược nhau, chưa khẳng định được khung pháp lý. Việc trích lập đầu tư trở lại còn phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của cơ quan quản lý Nhà nước, nhiều năm qua đã trích vượt dự toán được duyệt, việc sử dụng vốn này còn nhiều bất cập, cơ chế đầu tư không theo quy trình như đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Những vấn đề này cần được xem xét tháo gỡ để đầu tư đúng quy định của pháp luật và có hiệu quả. Tôi xin hết.
Mai Hữu Tín - Bình Dương:
Tuy nhiên, chúng tôi muốn nhìn thấy nhiều hơn nữa các biện pháp giúp người nghèo, người lao động có thu nhập thấp hiểu được những khó khăn chung của đất nước và cùng đồng cam cộng khổ với doanh nghiệp vượt qua giai đoạn này. Công tác truyền thông về chính sách thuộc nhóm giải pháp số 6 trong Nghị quyết 11 cần được đẩy mạnh hơn, người nghèo, người có thu nhập thấp đang rất cần được hỗ trợ.
Chúng tôi đã thử làm một điều tra nhỏ về mức sống của người lao động có mức thu nhập phổ biến khoảng từ 2 đến 3 triệu đồng hàng tháng từ các nhà máy, xí nghiệp của khu vực miền Đông Nam Bộ và thấy rằng với giá cả hiện nay họ gần như không còn đồng nào cả sau khi đã chi cho chỗ ở, thức ăn và đi lại. Họ không còn khả năng hỗ trợ người thân khác và nếu chẳng may gặp bệnh tật thì chỉ còn trông cậy vào tiền đã để dành được từ trước hoặc phải mượn từ bạn bè có thu nhập tốt hơn, tích lũy cho tương lai gần như bằng không. Biện pháp hỗ trợ tiền điện cho các hộ nghèo dù làm ấm lòng rất nhiều người nhưng rõ ràng không đến được với hàng triệu người lao động có thu nhập thấp đang phải ở trọ. Ngay cả những người lao động có thu nhập dưới 10 triệu đồng một tháng hiện cũng gặp khó khăn thực sự nếu đang phải vay trả chậm ngân hàng để lo chỗ ăn, chỗ ở thì họ cũng mất ăn, mất ngủ với lãi suất cao hiện nay. Tăng lương không phải là giải pháp trong tình hình này vì ngoài mức lương tối thiểu do Chính phủ quy định các doanh nghiệp cũng đã làm hết sức mình hỗ trợ thêm cho người lao động để giữ họ lại làm việc. Với doanh nghiệp lúc này lợi nhuận không còn là mục tiêu, sự tồn tại của họ và công việc cho người lao động mới là việc quan trọng.
Do vậy, dù hiểu rằng chúng ta phải nghiên cứu thật kỹ cho đến khi có thể sửa đổi được thuế thu nhập cá nhân và có rất nhiều ý kiến khác nhau về việc sửa đổi luật, chúng tôi cho rằng bức xúc trong xã hội về việc này cần được giải quyết sớm. Trong khi chờ đợi các nghiên cứu cẩn trọng phục vụ cho việc sửa đổi luật Quốc hội có thể có nghị quyết như đã từng làm trong năm 2009 là miễn thuế thu nhập, ít nhất là cho những người có thu nhập dưới 10 triệu đồng hàng tháng trong năm 2011. Chúng tôi tin việc này có thể làm được ngay để góp một biện pháp nhằm đảm bảo an sinh xã hội.
Đặng Văn Xướng - Long An:
Vấn đề thứ hai, hiện nay các doanh nghiệp gặp vô cùng khó khăn. Có thể nói họ sản xuất cầm chừng, họ đang ăn dần vào vốn và đến một lúc nào đó nếu tình hình này không cải thiện chắc họ sẽ phá sản và hệ lụy của nó rất lớn, ảnh hưởng đến các vấn đề xã hội, công ăn việc làm. Do đó tôi đề nghị Nhà nước phải có những giải pháp để ngay lúc này cứu giúp những doanh nghiệp thực sự.
Và vấn đề lãi suất, hiện nay tôi thấy đất nước chúng ta ngân hàng nhiều quá, ra ngõ là gặp ngân hàng. Phải chăng đây là một trong những nguyên nhân làm đẩy lãi suất đầu vào có một sự cạnh tranh không lành mạnh chỗ này. Và ở đằng sau đó có những doanh nghiệp lớn họ lợi dụng họ hình thành các ngân hàng để cho hệ thống vay không? Tôi đề nghị xem xét. Cố gắng bằng mọi cách phải giảm lãi suất, như hiện nay thì không thể làm ăn gì được cả. Xin cảm ơn Quốc hội.
Đặng Như Lợi - Cà Mau:
Thứ nhất, ta phải xác định thế nào là vĩ mô, thế nào là vi mô, vĩ mô gồm những gì, có cơ sở chưa, trong vĩ mô đó vấn đề nào là cốt lõi để lựa chọn vấn đề xử lý, phải chăng hiện nay đó là vấn đề lạm phát và chỉ số giá. Lạm phát ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế và chỉ số giá ảnh hưởng đến đời sống nhân dân và xã hội. Ở đây nhân dân là số đông chứ cán bộ, công nhân viên chức cũng như người hưởng lương và trợ cấp từ ngân sách nhà nước không phải khối lượng lớn, bất ổn của vấn đề xã hội sẽ đưa đến nhiều vấn đề. Theo tôi nên tập trung vào những vấn đề đó. Bây giờ ta không hiểu vấn đề nào là chính, vĩ mô điều hành lúng túng, tôi thấy có gì đó như đối phó và các biện pháp chống là chủ yếu chứ không phải bàn đến chuyện phòng. Tương tự như việc bắt chữa "cụ rùa" ở Hồ Gươm, cứ lúng túng vậy không hiểu cách thức như thế nào.
Thứ hai, về vấn đề điều hành lạm phát, trong tất cả các biện pháp ở đây có một vấn đề là xem xét lại chính sách tài chính thắt chặt và cắt giảm đầu tư. Ta làm việc này rồi, tất nhiên tổ chức thực hiện như thế nào, nhưng cần phải xem xét kỹ như thế nào, ra sao vì biện pháp nào cũng có mặt trái của nó. Bây giờ ta dừng, cắt những việc đã khởi công rồi thì lại là lãng phí, ta cần phải xem xét kỹ vấn đề này ra sao. Theo tôi ở mức độ cắt giảm chừng nào đó thôi còn lại phải thực hiện thật nghiêm vấn đề dự toán chi mà Quốc hội đã xem xét, nhất định không thể khác được, phải thực hiện quyết toán dự toán chi đã có nghị quyết của Quốc hội.
Về vấn đề thu ngân sách, tôi thấy thật sự Chính phủ đặt ra ở đây rất khiêm tốn, chỉ 7-8%, năm 2008 ta quyết toán đến 33% vượt so với dự toán, năm 2009 khả năng cũng phải trên 30%, năm 2010 vừa rồi báo cáo trên 21%, lạm phát như thế này lại đặt ra chỉ vượt 7-8% tôi cho là không ổn. Cái đó cứ mạnh dạn đưa lên 20%, thế nào cũng đạt được, nên tập trung cái đó vấn đề của giảm bội chi và giảm bội chi sẽ đưa đến lạm phát sẽ rất tốt.
Về biện pháp kiểm soát giá, tôi thấy hiện nay ta cứ trông chờ vào tập đoàn, tổng công ty Nhà nước. Nhưng có bao nhiêu tập đoàn, tổng công ty Nhà nước có hệ thống bán lẻ, còn chủ yếu là thông qua đại lý, mà giá cả của dân sống chủ yếu thông qua việc bán lẻ. Tổ chức quản lý hệ thống bán lẻ như thế nào để Nhà nước có thể điều tiết được. Lượng hàng dự trữ như thế nào để có thể bán can thiệp giá ở từng lúc, từng nơi, từng địa bàn được và chính sách bù giá như thế nào. Chứ bù giá qua cơ quan, qua một đơn vị nào đó không bao giờ có hiệu quả. Một là người được tiếp nhận cái đó người ta cũng không cảm nhận được. Hai là đơn vị kinh doanh nó người ta lại không phải kinh doanh trên mặt bằng cùng với nhau. Vấn đề thứ ba là kỷ cương, kỷ luật. Tôi thấy cái đó cần nêu cao. Ta không thể thực hiện luật theo cái cao điểm luật là luật. Dù là giàu, hèn gì đó, hoặc địa vị cao thấp gì luật vẫn cứ phải tuân thủ.
Nguyễn Hữu Nhơn - Đồng Tháp:
Cũng như năm 2008 mà ở Việt Nam chúng ta lại có cơn sốt gạo rất vô duyên, cho nên tôi nghĩ đây là vấn đề rất hệ trọng mà Chính phủ cần phải thận trọng. Nhất là việc thực hiện đô la hóa, rồi xóa bỏ kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do. Tôi hiểu rằng vàng miếng cũng là một hàng hóa phương tiện công cụ giao dịch trong thanh toán. Nếu mà chúng ta loại bỏ thì thị trường sẽ biến tướng sang loại hình khác. Hoặc giao dịch kinh doanh vàng, đô la sẽ chuyển sang thị trường ngầm, cho nên càng phức tạp hơn. Theo tôi chủ yếu mục đích giải pháp của chúng ta quan trọng số một là quản lý, mọi biện pháp quản lý. Những lực lượng công cụ của chúng ta trong tay nhà nước có đủ, tài chính, ngân hàng, công an, quản lý thị trường, hải quan và nhân dân v.v... Tôi nghĩ không phải vấn đề gì khó khăn lắm. Quan trọng là chúng ta quản lý xuất nhập khẩu đầu vào, đầu ra và quản lý biên giới, cho nên tôi nghĩ chính sách này rất quan trọng có thể có lợi cho thành phần kinh tế này nhưng bất lợi cho thành phần kinh tế khác hoặc cho cộng đồng. Cho nên chúng ta phải tính toán nếu không khéo tôi nghĩ hiện tượng này sẽ dẫn đến khép kín trở lại của thời kỳ thập niên của những năm 70 - 80. Tôi đề nghị Chính phủ thận trọng tính toán cho kỹ, tôi đề nghị phải có lộ trình thực hiện bình tĩnh thận trọng dùng mọi biện pháp quản lý, còn biện pháp bế tắc nhất là cấm, do đó câu cuối cùng của chúng tôi cũng có những lời nói có khi Quốc hội, Chính phủ không hài lòng thì xin miễn thứ cho trong quản lý điều hành của Chính phủ thực ra rất khó, phức tạp không ai làm được đâu nhưng có hai việc làm rất dễ:
Một là phát tiền cho dân,
Hai là cấm.
Nguyễn Minh Thuyết - Lạng Sơn:
Vấn đề thứ hai, vấn đề rất thời sự hiện nay đó là việc đối phó với thảm họa thiên tai. Từ hôm 11/3 đến giờ không phải chỉ người Việt Nam, mà nhân dân toàn thế giới hết sức quan tâm đến diễn biến thiên tai ở Nhật Bản, chia sẻ sâu sắc đến những mất mát của nhân dân Nhật Bản, đồng thời bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với cách giải quyết, cách khắc phục thiên tai của Chính phủ Nhật và của nhân dân Nhật. Tôi cũng đặt câu hỏi tại sao người Nhật có cách hành xử được ngưỡng mộ như vậy? Tôi tự trả lời không biết có đúng không?
Trước hết là dịch vụ công của họ rất tốt, hàng chục nghìn người tạm trú trong nhà tạm lánh đều được chăm sóc y tế, thức ăn có thể phải xếp hàng nhưng không thể có ai đói, người ta có Chính phủ quan tâm, sắp xếp như vậy thì làm sao người ta phải nhốn nháo, tranh cướp nhau.
Thứ hai nữa là nền văn hóa cao nhưng nguyên nhân quan trọng nhất cho cách ứng phó của Nhật Bản thành công là người Nhật đã được chuẩn bị rất kỹ để sống chung với động đất, với sóng thần, từ thiết kế các nhà, sử dụng các vật liệu nhẹ đến kết cấu thích hợp với việc chống động đất đã làm giảm thiểu thiệt hại. Nữa là người dân được dạy từ bé cách chống động đất, tránh sóng thần như thế nào nên ứng phó được.
Ở nước ta, là một nước lúc nào cũng có mùa rét, thậm chí rét đậm, rét hại nhưng năm nào cũng chết trâu, chết bò, lúc nào cũng có bão, lũ lụt, không có năm nào không cả nhưng năm nào cũng có người chết, các đồng chí từ lãnh đạo đến nông dân hết sức vất vả để chống chọi. Vậy tại sao chúng ta không nghiêu cứu những phương thức để chống rét, chống bão lụt mà rất đơn giản là cấp thuyền cho người ta, tôi nghĩ sắp tới cần nghiên cứu thêm vấn đề này.
Thứ hai, cần rà soát lại độ an toàn của tất cả công trình hiện nay, nhất là thủy điện, điện hạt nhân. Về điện hạt nhân Quốc hội đã biểu quyết rồi, chúng ta thấy các đồng chí làm công trình này khẳng định yên tâm, nhưng chúng tôi mới nhận được thông tin Tập đoàn năng lượng nguyên tử Nga có chỉ ra những nhược điểm của những điểm mà mình đã chọn, có địa điểm thì nó có độ địa chấn cao thì nó nằm ngay ở đường đứt gãy, thậm chí nằm gần tam giác của 3 đường đứt gãy, có địa điểm thì nằm ở sát ven biển khó mà có thể chống được sóng thần, những chuyện này là mình đã có kinh nghiệm ở Dung Quất rồi mình điều tra không kỹ cho nên khắc phục rất mệt. Tôi đề nghị là các cơ quan giúp việc của Chính phủ phải điều tra hết sức cẩn thận, chứ không thể chủ quan được. Vì chúng ta không thể tưởng tượng được, tuy nhiên sẽ đàm phán thế nào, riêng trận động đất ở Nhật người ta tính ra là sức phá hoại của nó gấp 1.000 lần toàn bộ bom hạt nhân ở trên trái đất này, ở tất cả các nước. Đấy là điều mình không thể tưởng tượng được, nếu bây giờ mình cứ chủ quan, mình nói là yên tâm, chúng ta thế hệ 3 rồi nền đất ở đấy thế này, thế kia sợ đến lúc mình hối không kịp thì đấy là những điều chúng tôi rất mong được Quốc hội, được Chính phủ quan tâm. Xin cảm ơn Quốc hội.
(Nguồn: Trang tin điện tử của Quốc hội)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)