Một người bạn bảo tôi: "Đọc những bài của anh hơi
nhức đầu". Vậy thì lần này tôi phải đổi đề tài, nhất
là lúc này bắt đầu vào hè, nhiều bạn đọc sắp hoặc đã
đi nghỉ, bài này có thể sẽ được đọc trên bãi biển,
dưới bóng dù che nắng trong thời gian nhàn hạ. Cũng có những
bạn sẽ đánh cờ giải trí. Vậy xin hầu chuyện các bạn về
môn cờ.
Tôi còn nhớ rất rõ cái ngày mà trình độ đánh cờ của tôi
tiến một bước nhảy vọt. Đó là một buổi chiều mưa. Khác
với những trận mưa hè của Sài Gòn, xối xả nhưng ngắn
ngủi, như Nguyên Sa mô tả ("em chợt đến chợt đi anh vẫn
biết, trời chợt mưa chợt nắng chẳng vì đâu"), cơn mưa
này khá dài. Anh em tôi đang chơi cờ dưới mái hiên thì một
bác đạp xích-lô dừng lại, đậu xe ở trước cửa và đến
bên cạnh chúng tôi để trú mưa. Bác ngồi xuống cái ghế
đẩu và nhìn chúng tôi đánh cờ. Một lúc sau bác nói: "Các
cậu chưa biết đánh cờ".
Chưa biết đánh cờ? Lúc đó tôi đã 14, 15 tuổi rồi. Anh em
tôi đều đánh cờ từ hồi năm, sáu tuổi. Như vậy là chúng
tôi đã có gần mười năm kinh nghiệm rồi. Chúng tôi không
những biết đi quân (mã nhật, tượng điền, xe liền, pháo
cách) mà còn biết nhiều nước: chiếu tướng bắt xe, tiền mã
hậu pháo v.v. Chúng tôi biết đánh cờ. Ông xích-lô này đúng
là nói bậy.
Thấy chúng tôi bất mãn, ông bèn đề nghị đánh thử vài bàn.
Và quả nhiên là ông hạ chúng tôi chớp nhoáng. Ông này đi
quân gần như không cần suy nghĩ. Hình như ông biết trước
phải đi nước nào, có ai đó cầm tay ông đánh cờ. Ông làm
chúng tôi ngạc nhiên và thán phục. Sau cùng, thấy chúng tôi có
vẻ dễ thương, ông chỉ bảo:
- Đánh cờ là để bắt tướng chứ không phải để bắt con
xe, con ngựa. Vậy các cậu phải học cách bắt tướng như thế
nào. Đó là các thế làm thua. Có nhiều thế làm thua lắm. Đi
quân, bắt quân chỉ là để dần dần tiến đến những thế
đó. Càng biết nhiều thế làm thua càng giỏi đánh cờ, thế
này không được thì chuyển sang thế khác. Quen với những thế
làm thua các cậu sẽ dần dần biết cách tiến đến đó. Đánh
cờ là như thế.
Rồi ông chỉ cho chúng tôi những thế chiếu bí. Tất cả
những nước đó chúng tôi đều đã biết, nhưng chỉ thấy khi
chúng đã hiện ra trước mắt. Điều độc đáo là bằng một
vài thí dụ ông dạy cho chúng tôi hiểu rằng đánh cờ là tìm
cách đi đến những thế cờ đó. Tôi chợt hiểu tại sao ông
cụ bên cạnh nhà tôi tối ngày cứ đem những cuốn sách cờ
thế ra đánh một mình. Thì ra ông ấy học đánh cờ.
Cơn mưa tạnh, ông xích-lô từ giã ra đi, sau khi dặn riêng tôi
một lần chót, có lẽ vì thấy tôi nghe chăm chú nhất:
- Cậu nên học thuộc lòng càng nhiều thế cờ càng hay. Học
thật kỹ và tìm cách đưa địch thủ vào những thế đó.
Ông ra đi và tôi bắt đầu hiểu thế nào là đánh cờ. Tôi
bắt đầu biết học cách đánh cờ. Tôi khám phá ra một điều
kỳ thú là từ trước tôi cứ tưởng mình biết đánh cờ mà
thực ra không biết gì, ngay cả học đánh cờ!
Tôi đem câu chuyện kể với bố tôi. Bố tôi đáp: "Thì đúng
là thế chứ còn gì nữa". Thế nhưng bố tôi không hề chỉ cho
tôi điều đó. Lý do một phần là vì ông không muốn chúng tôi
đánh cờ. Ông thường nói: "Gia trung hữu kỳ nam tử tất suy,
gia trung hữu cầm nữ tử tất dâm" (Nhà có bàn cờ con trai
không khá, nhà có đàn con gái lẳng lơ). Ông muốn chúng tôi
để hết thì giờ học hành. Một phần khác có lẽ là vì ông
cho đó là sự thực hiển nhiên, không nói cũng biết. Nhưng
thực tế là chúng tôi không biết, nếu không tình cờ có cơn
mưa làm ông xích-lô dừng lại nhà tôi.
Từ hôm đó, tôi bớt đánh cờ đi mà thường đem các thế cờ
ra quan sát, từ những thế đơn giản nhất, những "thế làm
thua" như sư phụ xích-lô của tôi nói, dần dần đến những
thế phức tạp hơn. Và tôi hiểu thế nào là đánh cờ. Sự
hiểu biết này có hai tác dụng trái ngược nhau lên tôi: một
mặt tôi đánh cờ khá hẳn lên, mặt khác tôi ý thức được
rằng mình đánh cờ rất kém nhưng lại vui vì ít nhất biết
mình phải học cái gì. Và tôi cũng hiểu tại sao có những
người đánh cờ cao như tiên, có những người đánh cờ thấp
như dế. Lý do không phải ai thông minh hơn ai như người ta
thường nghĩ mà chủ yếu là vì có những người chỉ đánh
cờ mà không học đánh cờ, hay học không đúng phương pháp, do
đó chỉ biết đi những nước đuổi xe, bắt ngựa, chiếu
tướng linh tinh không nằm trong một kịch bản tổng quát nào,
và thua.
Sự nghiệp đánh cờ của tôi dừng lại ở đó vì chẳng bao
lâu tôi phải học thi trung học, rồi tú tài; các anh tôi,
người nhập ngũ, người bận học. Bàn cờ bỏ đó.
Rồi tôi du học Pháp và trong những ngày cuối tuần ở nhà
nội trú được các bạn Pháp dạy cho một môn cờ khác: cờ
vua. Tôi không có thì giờ, họa hiếm một tháng chỉ đánh
được một vài bàn thôi. Và dĩ nhiên là đánh cờ rất dở,
nhưng tôi vẫn thường thắng các bạn Pháp của tôi vì ít
nhất tôi hơn họ ở một điểm: tôi biết thế nào là đánh
cờ. Họ cứ tưởng tôi thông minh hơn họ. Sai lầm lớn. Sau
này khi đã ra trường, tôi có thì giờ hơn và đọc một số
sách về cờ vua, nghiên cứu được một số thế cờ. Tuy vậy,
môn cờ của tôi vẫn chỉ đủ để thắng những người mà
chắc ông thầy xích-lô của tôi sẽ gọi là "chưa biết đánh
cờ", dù có thể họ chơi cờ nhiều. Tôi đánh cờ dở nhưng
rất thoải mái vì tôi hiểu tại sao mình kém: đó là vì tôi
không có thì giờ để học hỏi thêm. Và tôi cũng hiểu tại
sao có những tay "kỳ thánh" như Murphy (anh chàng này quá mê
đánh cờ đến phát điên lên mà chết), Steinitz (ông này cũng
là một nhà toán học lớn), Fisher, Karpov, Kasparov (anh này giờ
đây bỏ cờ vua để tranh đấu cho dân chủ tại Nga), và cũng
có những người đánh cờ như tôi. Tôi không mặc cảm, không
ghen tức mà còn thích thú chấp nhận và giữ nguyên sự tồi
dở của mình vì tôi đã giác ngộ. Không nhất thiết phải là
hào kiệt mới có được hạnh phúc.
Sở dĩ tôi không luyện thêm về môn cờ vua vì từ khi tới
Pháp tôi còn có một đam mê khác: chính trị. Thực ra tôi không
thích chính trị, tôi mê nhiều môn khác hơn, đọc tiểu thuyết
chẳng hạn. Tôi đi vào hoạt động chính trị như một nghĩa
vụ, rồi ra không được vì làm chưa xong và tính tôi không
thích bỏ cuộc. Một duyên hai nợ âu đành phận!
Một điều tôi nhận xét là chính trị và cờ, cờ tướng cũng
như cờ vua, rất giống nhau. Chả thế mà người Pháp có thuật
ngữ "bàn cờ chính trị", l'échéquier politique. Điểm giống
nhau nổi bật là trong cả hai môn này người ta rất dễ tưởng
là mình đã biết hết lý thuyết dù thực ra không biết và cứ
lăn xả vào hành động, rồi bực tức vì thấy mình không khá
và ganh tị với những người khá hơn mình, coi như một vấn
đề danh dự. Không thiếu trường hợp người ta đánh cờ giao
hữu rồi cãi nhau, giống hệt như trong chính trị người ta
chơi xấu lẫn nhau ngay cả trong cùng một phe. Trong cả hai bộ
môn, tuyệt đại đa số, nhất là người Việt Nam, cho rằng
không cần học nhiều, cứ hành động và học hỏi qua kinh
nghiệm. Cứ nhìn người khác đánh cờ, hay làm chính trị, rồi
theo đó mà làm là xong. Cao hay thấp, giỏi hay dở là do thiên
tư. Và dĩ nhiên là không ai chấp nhận là mình thiếu thông
minh. Thế là không ai chịu ai, và lộn xộn.
Nhiều người đánh cờ cũng rất chịu khó quan sát người khác
đánh cờ và trong lúc đánh cờ cũng cố gắng để suy nghĩ
nhiều nước trước, nhưng họ thiếu cái nhình tổng quát về
triết lý của môn cờ là phải biết rõ những thế thắng để
trong mỗi trường hợp nhìn thấy mình có khả năng tiến đến
thế thắng nào và mỗi nước đi phải là một bước tiến
gần tới thế đó. Nói tóm lại, phải có một kịch bản
chiến thắng và mỗi nước đi phải nằm trong kịch bản đó.
Vì không có cái nhìn chiến lược tổng quát đó họ đánh cờ
một cách lăng nhăng, dù cố nặn óc suy nghĩ, và sau cùng thua,
trừ khi đối thủ cũng là người "chưa biết đánh cờ" như
mình.
Một cách tương tự, trong hoạt động chính trị, trong rất
nhiều trường hợp, có thể nói là trong tuyệt đại đa số
các trường hợp của những người đối lập Việt Nam, người
ta có thể đọc rất nhiều sách báo, sưu tầm rất nhiều tài
liệu nhưng trước đó không đặt câu hỏi thế nào là thắng,
kịch bản nào đưa đến thắng lợi, và muốn thực hiện kịch
bản đó ta cần biết những gì và làm những gì. Cũng như trong
môn đánh cờ, người ta tưởng cứ biết đi quân, bắt xe,
chiếu tướng là biết đánh cờ, trong đấu tranh cho dân chủ
người ta cũng tưởng rằng khi đã biết rằng một chế độ
dân chủ phải có hành pháp, lập pháp và tư pháp, phải có tự
do ngôn luận và báo chí, phải có đối lập và bầu cử tự do
là người ta đã biết hết, vấn đề còn lại là hành động.
Và người ta hành động. Viết báo, viết sách, rủ nhau ra tuyên
ngôn, tổ chức biểu tình, hội thảo… Khi bài báo hay cuốn
sách gây được một chút tiếng vang, khi những cuộc hội thảo
qui tụ được 100 người, những cuộc biểu tình tập hợp
được 1.000 người (có thể chỉ là những cuộc biểu tình
chống Trần Trường hay một vài ca sĩ từ trong nước ra),
những bản tuyên ngôn thu thập được vài trăm chữ ký, người
ta cho là đã thành công. Trong hơn 30 năm qua đã có biết bao
nhiêu là thành công như vậy, nhưng chúng chẳng đóng góp bao
nhiêu cho cuộc vận động dân chủ bởi vì chúng không nằm
trong một kịch bản thắng lợi nào cả. Dĩ nhiên những hành
động này cũng có thể có tác dụng tốt - thí dụ như việc
vận động yểm trợ các hoạt động dân chủ trong nước với
điều kiện là yểm trợ đúng người, đúng việc và đúng
mức - nhưng chúng không đưa ta tới gần thắng lợi của dân
chủ nếu không nằm trong một kịch bản thắng lợi.
Có kịch bản thắng lợi nào cho cuộc vận động dân chủ
không? Tôi tin là có.
Trước hết phải định nghĩa thế nào là thắng lợi. Chúng
tôi coi thắng lợi là khi Việt Nam có dân chủ thực sự, nghĩa
là nếu có tự do ngôn luận, có tự do đảng phái và có tự do
bầu cử, ngay cả nếu trong chế độ dân chủ đó đảng cộng
sản tiếp tục cầm quyền. Cuộc đấu tranh cho dân chủ vì
vậy là tạo ra hoặc tăng cường áp lực buộc đảng cộng
sản chấp nhận luật chơi dân chủ.
Có hai loại áp lực, những áp lực từ bối cảnh quốc tế và
những áp lực đến từ xã hội và quần chúng Việt Nam, trong
đó áp lực quyết định -đồng thời cũng là áp lực mà chúng
ta có thể tác động- là áp lực quần chúng. Cố gắng của
các lực lượng dân chủ như vậy chủ yếu là vận động
quần chúng. Phân tích này chẳng có gì mới, trừ ra là để ý
thức được hai điều : một là cần khuyến khích thay vì ngăn
cản những quan hệ hợp tác của Việt Nam với nước ngoài,
càng hợp tác với các nước dân chủ phát triển nhà nước
cộng sản Việt Nam càng bị áp lực dân chủ hóa từ bối
cảnh quốc tế; hai là đừng nên quá trông cậy vào các nước
dân chủ phát triển, Hoa Kỳ và Liên Hiệp Châu Âu; áp lực từ
xã hội Việt Nam mới là quyết định và áp lực này chúng ta
có thể và phải tạo ra
Điều đáng nói là kịch bản chiến thắng rút ra từ phân tích
này. Ở đây rõ ràng là có sự giống nhau giữa những người
đánh cờ như tôi trước khi gặp sư phụ xích-lô và đa số
những người tự coi là đấu tranh cho dân chủ: không chịu
học hỏi và do đó không hiểu kịch bản chiến thắng. Đành
rằng phải vận động quần chúng, cũng như đánh cờ phải có
chiếu bí, nhưng vận động quần chúng như thế nào là một
vấn đề rất khác. Nếu chịu bỏ thì giờ nghiên cứu và học
hỏi người ta sẽ thấy ngay rằng mọi chuyên gia về tâm lý xã
hội và chính trị xã hội đều nhất trí trên một điều :
một khối quần chúng dù đông đảo đến đâu và dù hoàn toàn
đồng ý rằng mình bị ức hiếp cũng không nổi dậy đánh
đổ tập đoàn thống trị. Họ chỉ nổi dậy khi đã hội đủ
hai điều kiện:
- Một là họ ý thức một cách rõ rệt rằng họ là một khối
người liên đới trong một số phận chung đang bị một nhóm
người khác ức hiếp. Nói cách khác, phải có sự hiện hữu
được nhìn nhận một cách rõ rệt của hai tập thể: một
tập thể ta và một tập thể địch. Các phong trào cộng sản
trước đây đã thành công ở một số nước nhờ tạo được
ý thức về một giai cấp vô sản (hay bần cố nông) bị giai
cấp chủ nhân (hay địa chủ) bóc lột.
- Hai là quần chúng chỉ đứng dậy tranh đấu khi có niềm tin
ở thắng lợi. Các dân tộc không khác nhau bao nhiêu về bản
chất, cái khác nhau là ở chỗ trong một hoàn cảnh lịch sử
nào đó có những dân tộc có được niềm tin rằng có thể
thay đổi được số phận. Niềm tin này cũng đã được mọi
nhà nghiên cứu tâm lý, xã hội và chính trị nhìn ra : nó đòi
hỏi phải có một tổ chức lãnh đạo và tổ chức này phải
mạnh, phải có đủ phương tiện và phải rất gắn bó. Những
tổ chức nhỏ dĩ nhiên là không thể động viên được quần
chúng, và nếu có động viên được một phần quần chúng nhỏ
thì cũng chỉ là để gây thất vọng sau đó, vì động viên
không phải là tất cả, điều quan trọng hơn nhiều là lãnh
đạo và tổ chức quần chúng sau đó, và điều này chỉ những
tổ chức mạnh mới làm được. Nhiều tổ chức thi đua nhau
kêu gọi quần chúng chỉ gây hỗn loạn tâm lý, chia rẽ quần
chúng và cuối cùng kềm giữ quần chúng trong thế thụ động
bất lực.
Trường hợp mà mọi người dân chủ mong đợi, ít nhất trong
lời nói, là thay vì có quá nhiều tổ chức nên có một vài
tổ chức dân chủ mạnh. Nhưng ngay cả trong trường hợp này
(được coi là lý tưởng vì chúng ta đa nguyên không nên chỉ
có một tổ chức thôi, như thế không khác độc đảng là bao
v.v.) sức mạnh quần chúng cũng không vận động được. Quần
chúng đòi hỏi lãnh đạo và họ không thể nhận cùng một lúc
nhiều chỉ thị. Và nếu do một phép mầu nào đó tất cả
mọi người dân chủ qui tụ trong một tổ chức ? Cũng chưa
đủ nếu tổ chức đó thiếu gắn bó và lãnh đạo thống
nhất. Một tổ chức không có nhất trí dưới mắt quần chúng
giống như một người phân vân chưa biết mình muốn gì. Quần
chúng đòi hỏi một đường lối và những chỉ thị rõ rệt,
xuất phát từ những cấp lãnh đạo bằng xương bằng thịt mà
họ biết và tín nhiệm.
Những gì vừa nói trên đây không phải là một lý thuyết của
riêng ai, đó là những kết luận của mọi nghiên cứu về
quần chúng. Nhưng hình như đa số những người đấu tranh cho
dân chủ không biết hoặc cố tình làm như không biết. Kết
quả là ngay cả những tổ chức vừa mới thành lập với một
số người ít ỏi, chưa có gì bảo đảm là có khả năng và
cũng chưa có gì bảo đảm là có thể làm việc lâu dài với
nhau, đã vội vã ra tuyên ngôn, tuyên cáo kêu gọi quần chúng
đứng dậy. Có khác gì những người "chưa biết đánh cờ"
chiếu tướng một cách vô tác dụng?
Nhiều vị sẽ trả lời rằng những lời kêu gọi đó, cũng
như những bài báo, bài thuyết trình, những cuốn sách công
kích chế độ cộng sản và vận động cho dân chủ cũng có
tác dụng thức tỉnh và giáo dục quần chúng. Đúng, với
điều kiện là phải rất đặc sắc, đó không phải là
trường hợp của đại đa số những văn bản này. Và cũng
chỉ đúng một phần thôi, vì thực ra quần chúng Việt Nam
không còn cần được thuyết phục rằng chế độ cộng sản
hiện nay là độc tài, tham nhũng, bạo ngược nữa. Họ cần
một giải pháp và một niềm tin vào thắng lợi, ho cần được
tổ chức và lãnh đạo. Họ cần một tổ chức dân chủ thực
sự mạnh. (Chúng ta có thể nhận xét rằng chính quyền cộng
sản có thể nương tay với những chống đối cá nhân nhưng
họ rất thẳng tay với các tổ chức và những người mà họ
nghĩ là có thể trở thành những "ngọn cờ" cho một kết hợp.
Họ sợ nhất là đối lập có tổ chức. Họ tỏ ra hiểu biết
hơn nhiều người chống lại họ).
Áp lực quần chúng không phải là tất cả, cũng phải kể
đến sức đề kháng của chính quyền. Một đảng cầm quyền
mạnh có thể đương đầu được với những áp lực lớn,
trái lại một chính quyền chao đảo có thể không chịu đựng
nổi những áp lực nhỏ. Ở giai đoạn này, khi sự chán ghét
chính quyền đã là một sự thực, thuyết phục chủ yếu là
thuyết phục những người trong guồng máy đảng và nhà nước
cộng sản về sự cần thiết của một chuyển hóa nhanh chóng
về dân chủ; những phản kháng từ trong lòng chế độ có sức
tàn phá đặc biệt. Điều này không phải ai cũng làm được.
Nhận xét của tôi qua một số tiếp xúc là những người trong
guồng máy đảng và nhà nước cộng sản không đánh giá cao
cả lực lượng đối lập lẫn đa số những gương mặt đối
lập. Đây là hậu quả của tình trạng phân tán xô bồ.
Từ những nhận thức trên, kịch bản đấu tranh tự nhiên là
xây dựng tổ chức và làm yếu đi lực lượng bảo thủ trong
đảng cộng sản. Việc xây dựng tổ chức tự nó cũng là một
kịch bản trong kịch bản chiến thắng của dân chủ. Nó không
giản dị như người ta có thể nghĩ: chỉ cần tìm một số
người có uy tín, tạo một số thành tích và kêu gọi hưởng
ứng. Nếu dễ như vậy thì phe dân chủ đã có một tổ chức
mạnh từ lâu rồi, đâu đến nỗi sau hơn 30 năm dưới chế
độ cộng sản vẫn chưa có nổi một tổ chức dân chủ có
tầm vóc. Kịch bản xây dựng tổ chức phải qua hai giai đoạn
đầu khó khăn: xây dựng một cơ sở tư tưởng và tạo dựng
một đội ngũ cán bộ nòng cốt. Hai giai đoạn này có thể
đòi hỏi nhiều thập niên nhưng nhất định phải trải qua, và
một khi đã hoàn tất thì tất cả phần còn lại của kịch
bản thắng lợi có thể thực hiện nhanh chóng, trong vài năm,
thậm chí vài tháng. Nhưng cho tới nay hai giai đoạn này không
được đánh giá đúng tầm quan trọng và mức độ khó khăn
của chúng.
Có cần một bằng chứng không? Trong nhiều năm lập trường
dân chủ đa nguyên, hòa giải dân tộc, bất bạo động bị
đả kích, rồi sau đó được chấp nhận. Nhưng người ta lại
nghĩ rằng như thế là đủ, không cần những người chủ
xướng nữa, họ chỉ gây sự khó chịu là nhắc lại rằng
chúng ta đã lầm lẫn trước đây. Nhưng một lập trường
chính trị không thể vay mượn. Phải hiểu triết lý nền tảng
của nó và thực sự chấp nhận nó trong trí tuệ và tâm hồn
người ta mới có thể tránh được những mâu thuẫn, nhìn
thấy mối quan hệ của nó với thực tại, nhất là nhìn ra
cách khai dụng nó trong một kịch bản thắng lợi. Một cách
ngây thơ tương tự, người ta nghĩ rằng một số nhân sĩ có
thể «ngồi lại với nhau» và nhanh chóng tạo được một
«lực lượng». Chỉ khi hai yếu tố cần thiết, dự án chính
trị và đội ngũ nòng cốt, đã tạm giải quyết xong mới có
thể nghĩ đến giai đoạn thứ ba là phát triển tổ chức về
số lượng, và cũng phải luôn luôn giữ một tỷ lệ hợp lý
giữa số cán bộ nòng cốt và số thành viên, hay đảng viên
cơ sở. Không thiếu trường hợp những tổ chức tan vỡ vì
phát triển quá nhanh.
Chỉ sau khi đã có tổ chức thực sự và kiểm điểm những
phương tiện cần thiết người ta mới có thể nghĩ đến
những bước kế tiếp. Xây dựng và kiểm điểm phương tiện
tự nó cũng phải được coi là một giai đoạn trong tiến kịch
bản thắng lợi, bởi vì hoặc là ta có những phương tiện
cần thiết để thực hiện dự án của ta; hoặc là ta sẽ
phải thực hiện dự án của kẻ cung cấp phương tiện.
Và những bước kế tiếp? Một cách giản dị, đó là xây
dựng cơ sở và hậu thuẫn quần chúng, để rồi sau cùng, nếu
cần, tổ chức sự nổi dậy của quần chúng để áp đặt
chế độ dân chủ.
Xét cho cùng thì cuộc đấu tranh cho dân chủ, cũng như mọi
cuộc đấu tranh đổi đời, là một cuộc chiến tranh động
viên, une guerre de mobilisation như người Pháp nói. Một bên là
chính quyền lập luận rằng mỗi người có thể giải quyết
những vấn đề cá nhân của mình bằng những giải pháp cá
nhân, trong khuôn khổ của chế độ hiện tại ; một bên là
những người đối lập cố thuyết phục quần chúng rằng
phải có giải pháp cho toàn dân tộc bằng một thay đổi chế
độ. Một bên khuyến khích chủ nghĩa luồn lách, một bên kêu
gọi kết hợp đấu tranh cho một giải pháp chung. Đây là cuộc
đấu rất không cân xứng bởi vì một mặt chính quyền có
rất nhiều phương tiện, kể cả khả năng làm những nhượng
bộ mị dân nhất thời và, mặt khác, tâm lý chung của mọi
người là tránh gian nguy và trước hết tìm giải pháp cho cá
nhân mình. Bình thường chính quyền thắng. Đối lập chỉ có
hy vọng nếu chứng minh được rằng mình là giải pháp đáng
tin cậy của một tương lai phải đến trong khi chính quyền
hiện tại chỉ là cái đuôi của một quá khứ phải chấm
dứt. Kẻ thù chính của cuộc cách mạng dân chủ không phải
là chủ nghĩa cộng sản mà là chủ nghĩa luồn lách. Hiểu như
thế thì cách làm chính trị nhân sĩ - đấu tranh không tổ
chức hay trong những nhóm một vài người – không đóng góp cho
cuộc vận động dân chủ mà còn gián tiếp hỗ trợ chính
quyền vì đó chính là sự thể hiện chủ nghĩa luồn lách mà
chính quyền cổ võ. Chính mình đã luồn lách thì có tư cách
nào để thuyết phục quần chúng đừng luồn lách?
Một điểm quan trọng cần được nói rõ: việc vận động
hậu thuẫn quần chúng có mục đích tạo ra một khả năng nổi
dậy của quần chúng như đình công, biểu tình, chiếm đóng
các cơ quan, xí nghiệp làm sụp đổ chính quyền. Tất cả
những hành động này, nếu có, chỉ xảy ra trong một thời gian
ngắn và không dùng tới bạo lực nên không ra ngoài khuôn khổ
của một cuộc đấu tranh bất bạo động; trong trường hợp
này chính quyền đổ vì không cầm quyền được nữa chứ
không phải bị lật đổ. Tuy vậy chính quyền cộng sản vẫn
có thể ngụy biện rằng đây là một âm mưu gây bạo loạn.
Điều này có vẻ gây bối rối cho nhiều người dân chủ, một
số thừa nhận rằng cuộc đấu tranh giành tự do dân chủ tuy
về bản chất là bất bạo động nhưng cũng bao hàm những
"hành động mạnh". Một số còn bối rối đến độ lý luận
một cách lúng túng rằng đấu tranh thuần túy bất bạo động
là điều không thể có và do đó dù muốn hay không trên lý
thuyết không thể loại bỏ một khả năng nào. Họ tưởng như
vậy là lý luận chính xác và thành thực, nhưng họ sai và nối
giáo cho giặc. Họ không khác những người đánh cờ mà sư
phụ tôi coi là "chưa biết dánh cờ".
Các bạn đã bao giờ thấy một bàn cờ trong đó con tướng
thực sự bị bắt chưa? Tôi thì chưa bao giờ thấy cả, dù đã
đánh và xem cả nghìn bàn cờ. Bao giờ cũng thế, người ta
chịu thua khi thấy mình hoàn toàn tuyệt vọng. Chính trị cũng
giống cờ tướng ở điểm này. Không cần phải đình công,
xuống đường, chiếm đóng, chỉ cần có khả năng đó là
đủ. Đảng cộng sản sẽ nhượng bộ trước. Họ không mù
quáng đến độ ngoan cố trong một tình thế tuyệt vọng; kiên
trì trong tuyệt vọng là thái độ của những người chiến
đấu cho một lý tưởng cao cả, không phải là trường hợp
của những người lãnh đạo cộng sản hiện nay. Họ sẽ
nhượng bộ nếu hiểu rằng quần chúng một mặt đã chán ghét
chế độ của họ và mặt khác có thể nổi dậy bất cứ lúc
nào theo tiếng gọi và dưới sự hướng dẫn của một tổ
chức dân chủ. Nhất là nếu tất cả những gì chúng ta đòi
hỏi không phải là để tiêu diệt hay hạ nhục họ mà chỉ là
thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc trong một nước
Việt Nam dân chủ, nhìn nhận và bảo đảm quyền lợi, chỗ
đứng và tiếng nói ngang nhau cho tất cả mọi người. Các
«hành động mạnh» sẽ không xẩy ra. Cuộc tranh đấu của
chúng ta sẽ hoàn toàn không có bạo động.
Điều khó hiểu nhất trong cuộc vận động dân chủ này có
lẽ là ở chỗ ta phải cố gắng động viên quần chúng tham
gia, dù rằng những biến động quần chúng sẽ không cần. Tại
sao? Vai trò của quần chúng là cung cấp phương tiện và nhân
sự, kể cả cán bộ nòng cốt, nghĩa là nuôi dưỡng các tổ
chức dân chủ và tạo ra một khả năng dứt điểm chế độ
bằng hành động quần chúng. Khả năng này sẽ không cần dùng
tới nhưng bắt buộc phải có.
Nhắc lại một lần nữa: khả năng này chỉ có được nếu
dưới mắt quần chúng có một tổ chức dân chủ mạnh.
Như thế cuộc đấu tranh này chủ yếu là cuộc đấu giữa hai
tổ chức, giữa đảng cộng sản và một tổ chức dân chủ mà
ta phải xây dựng ra. Mọi hành động phải được đánh giá
trong cái nhìn này. Những hành động có ích là những hành
động hoặc có tác dụng làm phân hóa đảng cộng sản, hoặc
giúp ta tiến thêm một bước trong tiến trình xây dựng một
tổ chức dân chủ mạnh. Tất cả những hoạt động khác đều
chỉ có tác dụng nhất thời vì không nằm trong kịch bản
chiến thắng, và vì thế không được lôi kéo sự chú ý khỏi
kịch bản chiến thắng.
Nhưng làm thế nào để tiến tới thống nhất trong một tổ
chức giữa những người theo chủ nghĩa đa nguyên mà hệ luận
hiển nhiên là có nhiều kết hợp khác nhau? Sự thống nhất
đó có mâu thuẫn với tinh thần đa nguyên không?
Tôn trọng quyền thành lập các tổ chức không đồng nghĩa
với bắt buộc phải có phân tán và chia rẽ, càng không cấm
cản cố gắng thuyết phục để thống nhất hành động trong
một giai đoạn nhất định. Ý thức đấu tranh có tổ chức
sẽ dần dần khiến những hành động ngẫu hứng và những
kết hợp lỏng lẻo nhất thời không được hưởng ứng nữa,
sẽ chỉ để lại những tổ chức nghiêm túc. Giữa các tổ
chức này cũng sẽ có sàng lọc và các tổ chức còn lại sẽ
có đủ sáng suốt để kết hợp với nhau trong một mặt trận
dân chủ với mục tiêu giai đoạn, nhưng lịch sử, là áp đặt
dân chủ. Mặt trận này sẽ không nhốn nháo, nó sẽ có lãnh
đạo đúng nghĩa bởi vì nó là kết hợp của những người
hiểu biết, có quyết tâm và đã trải qua sự sàng lọc. Giữa
những người hiểu biết, hợp tác trong một mục tiêu chung là
điều hoàn toàn có thể được. Những người có bản lĩnh
biết nhìn ra nhau. Sự hình thành của mặt trận dân chủ này
là một cột mốc trong kịch bản dân chủ hóa Việt Nam.
Nguyễn Gia Kiểng
© Thông Luận 2007