Thư mục: Nhàn đàm
Cù Huy Hà Vũ sẽ được thả vào chiều ngày 24.03.2011?
Hôm nay nghe tin luật sư tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ sẽ ra toà vào ngày 24.03.2011 tới đây! Thấy anh Lái Gió bàn loạn và phán đoán có câu như thế này:
“… tôi dám phán đoán rằng CHHV sẽ được thả tự do tại phiên tòa, vì tôi tin rằng nhà nước VN xem xét những hành động của ông CHHV xuất phát từ động cơ yêu nước. Còn nếu như ông Vũ bị kết án tù, thì nhà tù Việt Nam ngày nay không còn là nơi đáng sợ nữa, bởi trong đó đang chứa những người yêu nước, con em cán bộ lão thành cách mạng, nhân sỹ, trí thức…
Mà một nơi đã chứa những người như thế cũng là một nơi đáng để đến.” (*)
Riêng tôi thì cho rằng, nếu không có gì đột biến, án của anh Vũ sẽ là mức án thấp nhất (trong khung hình phạt từ 3-12 năm) tức 36 tháng và sẽ cho hưởng án treo!
Tại sao tôi có linh cảm như thế vì những động thái cho tới thời điểm này như rút giấy phép bào chữa của chị Hà (LS Nguyễn Thị Dương Hà - vợ anh Vũ). Đặc biệt là không cấp giấy phép “Các bên có liên quan” cho các tổ chức có yếu tố nước ngoài như “Tổ chức Phóng viên Không biên giới” (Bà Trâm Oanh) hay tỏ ra “không hoan nghênh” sự tham gia của trang Bauxite VN; Dân luận. Đặc biệt các đài quốc tế (đặt ở Hoa Kỳ) như VOA; RFA…
Vì nếu đáp ứng hết tất cả các bên có liên quan đó thì chắc chắn phần tranh tụng tại toà sẽ kéo dài hàng tuần. Mà các cấp toà ở Hà Nội hay ở bất cứ hang cùng ngõ hẻm nào tại VN hiện nay lại không khoái những phiên xử kéo dài như vậy. Phần đa mỗi phiên chỉ kéo dài 1 ngày là cùng. Dĩ nhiên án đã được các bác trên thượng tầng cao nhất duyệt kỹ trước (“Án bỏ túi”). Phiên toà sẽ công khai. Nhưng phòng xử sẽ không lớn, trong phòng lại đa số là các anh an ninh hay bà con thuộc tầng lớp “quần chúng tự phát”. Loa đài thì sẽ to nhỏ bất thường để những tranh tụng của phía bị cáo và các luật sư bảo vệ cho bị cáo mà trái với ý quan toà … sẽ nhỏ, nghẹt, tắt bất thường… khiến các phóng viên các báo chí (trong nước và quốc tế) ở phòng bên sẽ không thể nghe rõ tất cả những diễn biến của phiên toà.
Hai vợ chồng LS Cù Huy Hà Vũ
Nhớ lại, sau khi bị bắt được hai ngày, nhà thơ một tay xách nhẹ chungdokwan (Đỗ Trung Quân) không biết nghĩ gì mà lại nhại thơ Huy Cận mà viết về Hà Vũ như thế này:
“lòng anh không thích tòa này
không con chim mộng nào bay đầu giường”
(Trích: Ngủ nuy là mộng bình thường - kwan's blog)
Nhưng theo cách tôi quan sát thì Cù Huy Hà Vũ (CHHV) lại rất khoái những phiên toà xử án đó! Vì có ông làm nghề thầy cãi (luật sư) nào mà lại ngại phơi mặt ra toà? Nhất là CHHV thì anh ta có vẻ “hào hứng” với những việc như thế này. Nếu không anh hơi đâu mà đi đâm đơn kiện cáo hay xin bảo vệ những vụ việc mà nếu một người “không thích toà” chẳng ai dại gì mà dây vào. Sinh nghệ tử nghệ mà lỵ!
Tất nhiên có một yếu tố mới nảy sinh là sức khoẻ anh Vũ, nghe nói dạo này không tốt lắm (bệnh tim) nên cũng có thể sẽ có những hạn chế nhất định (“lực bất tong tâm”). Chứ nhận định CHHV sợ “toà này” (phiên toà mà mình ở vị thế bị cáo) là hoàn toàn không thuyết phục, thưa nhà thơ “…chùm khế ngọt”!
Những ai quan tâm tới các vụ án xử trước đó như vụ LS Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung hay vụ cựu trung tá Trần Anh Kim (Thái Bình) thì cả 3 nhân vật nổi tiếng đấu tranh cho dân chủ ấy đều có màn “nhận tội” (dù nhận ở mức nhẹ) được phát trên VTV cho khán giả cả nước xem. Còn vụ CHHV, cho tới giờ phút này, chưa thấy bất cứ lời “thú tội” (bằng cả hình ảnh lẫn bút tích) như thế… nên qủa thật cũng khiến cho những người làm án kỳ này cũng kém vui. Ngay cả việc phân công chánh án vụ này, nghe nói cũng có gặp trở ngại vì đùn đẩy không ai muốn nhận. Như vậy có thể thấy, “không thích (phiên) toà” này có lẽ ở phía các cơ quan tố tụng nhiều hơn là phía bên bị can.
Gần đây có vụ công an Quận 5 TP HCM bắt ông bác sỹ 69 tuổi Nguyễn Đan Quế với tội danh “kêu gọi lật đổ…” với 60.000 trang tài liệu phản động (như cáo buộc đưa ra trong cuộc họp báo của phía CA). Nhưng chưa đầy 48 tiếng đã phải thả. Sau đó CA cho xe tới đón hàng ngày lên “làm việc” thì chỉ sau 3 lần, ông bác sỹ này dứt khoát tuyên bố bất hợp tác… mà phía CA cũng đành chịu. Lại còn nghe tin CA Q.5 còn bị thượng cấp nẹt cho về tội “đánh bóng tên tuổi cho ông Quế”. Thấy BBC đưa tin, phía chính phủ Mỹ đã can thiệp một cách mạnh mẽ và lên án VN đã “hành động một cách dại dột”. Lại nghe vì vụ ông Quế mà quan hệ Mỹ-Việt đang đứng trước nguy cơ xấu tới mức một nghị quyết của nhóm nghị sỹ thuộc đảng Cộng Hoà ở Hạ viện đang được hình thành để trình QH Mỹ đòi cắt toàn bộ những khoản “viện trợ nhân đạo” mà chính quyền Obama vừa cam kết trợ giúp VN khắc phục hậu quả sau chiến tranh (Nạn nhân chất độc Da cam…). Như vậy qủa là đòn cân não về kinh tế đã khiến những bàn tay sắt cứng rắn nhất ở BCT của ĐCS VN phải nhượng bộ. Đúng như một câu của anh Thỉnh (Hữu Th.) đã có lần thật thà bày tỏ “vấn đề ở đây là tiền” chứ chả có cuốc tế cuốc tiếc nào hết…!
Bác sỹ Nguyễn Đan Quế và ông Đaị sứ HK Michalak (hai người giữa) - BBC
Hẳn ai quan tâm vụ việc này đều thấy, so với vụ CHHV thì vụ của ông Quế nghiêm trọng hơn nhiều. Vì ông Quế ra hẳn lời kêu gọi xuống đường… lật đổ… đòi BCT của Tiệc (chữ của Lò tiên sinh) trả lại quyền cho nhân dân… Đó là chưa tính tới việc ông Quế đứng đầu cả một tổ chức chính trị (Cao trào Nhân bản) đối lập có cả một tổ chức yểm trợ (do ông Quân, anh trai ông Quế) ở Mỹ công khai hoạt động. Một số ý kiến cho rằng ông Quế già nua ốm yếu nên được châm chước… là không có cơ sở. Vì những lúc “hoa nhài” đương nở rộ ở Bắc Phi và Trung Đông như thế này… mà dám ngang nhiên kêu gọi xuống đường (dù là ôn hoà nhường nào) cũng là vô cùng “nhạy cảm” với chế độ!
Trong chuyện này, có người chê Hoa Kỳ là “nhất bên trọng nhất bên khinh” giữa ông Quế và CHHV. So sánh như vậy là rất khập khiễng. Ông Quế đã có hơn 20 năm trong lao tù của chế độ CS. Ra tù ông không chấp nhận sang định cư ở Hoa Kỳ mà ở lại trong nước để tiếp tục đấu tranh. Do đó ông Quế như một tấm “thẻ tín dụng” có độ tin cậy cao trong chính giới lập pháp ở cả hai đảng thay nhau cầm quyền ở Hoa Kỳ. Còn ông Vũ, dù ông rất có thiện cảm với người Mỹ. Mặc dù vậy, so với ông Quế cũng chỉ là “tay mơ” mới nổi… cho dù cả đài VOA và RFA (một của chính phủ Mỹ; một của tư nhân nhưng do Hạ Viện Mỹ tài trợ kinh phí) liên tục phỏng vấn… Nhưng để đạt được độ “tín dụng” cao thì còn cần có thời gian.
Chưa biết chừng, tụi trùm sỏ “diễn biến hoà bình” chúng còn muốn những người như CHHV cần phải được “rèn luyện” như các chiến sỹ cộng sản VN năm xưa… để trở thành những con người trung kiên bậc nhất thì mới có đủ bản lĩnh để ăn thua với những kẻ đã ngược đãi mình, ngược đãi đồng bào mình? Như vậy biết đâu nhận định của anh Gió ở thượng dẫn là có lý chăng: “nếu như ông Vũ bị kết án tù, thì nhà tù Việt Nam ngày nay không còn là nơi đáng sợ nữa, bởi trong đó đang chứa những người yêu nước, con em cán con em cán bộ lão thành cách mạng, nhân sỹ, trí thức…
Mà một nơi đã chứa những người như thế cũng là một nơi đáng để đến.”?
Tóm lại cái gì cũng đều có hai mặt. Những người đã muốn bỏ tù anh Vũ để reo rắc sợ hãi, nhằm răn đe những người khác thì lại bị những cái bất cập của chính cái việc tù đày ấy nó quật lại trong một tương lai không xa. Cho nên điều mong mỏi nhất của họ là anh Vũ cần có thái độ hợp tác kiểu “thành khẩn khai báo… nhận ra lỗi lầm…” để họ có thể “khoan hồng” thì còn gì vui bằng. Nếu anh Vũ chịu cúi đầu dù giả vờ… thì những tỳ viết như “hai cái bao cao su đã qua xử dụng” cũng chả ai hơi đâu mà đàm tiếu nữa. Đằng nay Vũ rắn qúa, đã khiến các “tổng đạo diễn” của “bộ phim nhiều tập” này phải buồn. Cực chẳng đã ông tổng nọ đành phải kêu án (treo) để gỡ thể diện thôi! Vì thế mỗ tôi mới phán bừa rằng, CHHV sẽ bị kêu án tù 36 tháng... cho hưởng án treo... lý do: Thân nhân (hay Nhân thân) tốt... phạm tội lần đầu... đại loại thế! Chứ các ông "còn dùi cui còn mình" mà đã bắt giam để điều tra ngót nửa năm như thế thì dĩ nhiên là phải có tội. Chứ không tội bắt làm cái điếu (chữ của Lò tiên sinh) gì cho điều ong tiếng ve.
Gocomay
(*) 24-3 xét xử Cù Huy Hà Vũ- bình luận và phán đoán. - http://nguoibuongio1972.multiply.com/journal/item/253
Tìm kiếm Blog này
Thứ Sáu, 11 tháng 3, 2011
Việc gán cho rùa Hồ Gươm tính cách “linh thiêng” cản trở việc làm sạch hồ và chữa bệnh cho rùa (đọc lời đề dẫn của GS Nguyễn Huệ Chi để thấy nguy cơ... ?!)
Nguồn: Bauxite Việt Nam
Trọng Thành
Anh Dương Trung Quốc là chỗ bạn bè với chúng tôi, là một trong những Nghị sĩ “dám nói” giữa một Quốc hội mà nếu không bảo là “gật” – chẳng ai dám mạo phạm gọi xách mé như thế cả – thì xét cho cùng, sự thẳng thắn đóng góp những điều hữu ích tính đến nay quả cũng chưa được bao lăm người. Tuy nhiên, có lẽ cũng vì ở tư cách một Nghị sĩ Nhà nước nên trong vấn đề này, anh chưa dám nói hết mọi điều cần nói. Bổ sung vào ý kiến của anh một đôi điều tưởng cũng là cần thiết.
Chúng tôi nghĩ, đời sống tâm linh gắn với một cộng đồng người nhất là cộng đồng người châu Á như Việt Nam, vốn có gốc rễ lâu đời của nó. Truyền thuyết rùa thần ở Hồ Gươm phải nói đã có từ lâu, từ thời Lê Lợi kia, hoặc muộn hơn chút ít, và mấy trăm năm qua vẫn sống trong lòng dân tộc như một phản ánh sâu thẳm của tâm thức yêu nước, yêu cuộc sống thái hòa, không thích gây sự, của dân tộc chúng ta. Nhưng từ khi những người làm cách mạng theo đường lối mác-xít lên nắm quyền thì cái gọi là “tín ngưỡng dị đoan” bị dẹp bỏ, trong đó có cả những truyền thuyết linh thiêng như truyền thuyết rùa thần (dẹp bỏ ở đây là dẹp bỏ niềm tin hiện hữu về nó chứ không phải dẹp bỏ ở trong sách vở). Nhưng sự dẹp bỏ chỉ có giá trị nhất thời, khi người ta đang ít nhiều xây dựng được một lòng tin khác, về một thể chế mới sẽ dẫn con người Việt Nam đến một thế giới tươi đẹp, không còn người bóc lột người, và thể chế ấy là do toàn dân vùng lên chống ách đô hộ của ngoại bang giành lại độc lập toàn vẹn thiết lập ra nó.
Nhưng sau sáu mươi năm trải nghiệm, rõ ràng lòng tin nhất thời ấy đã bị sụp đổ. Một xã hội công bằng, dân chủ, tự do, hạnh phúc không những không hề có mà một đất nước hoàn toàn độc lập không phải luồn cúi nước ngoài hóa ra cũng không. Mà khi lòng tin từng được hồ hởi truyền bá bởi những vị khai quốc công thần khai sáng ra thời đại mới bị thực tế làm cho tắt ngấm cùng với lớp người khai quốc ấy – một “thế hệ vàng” như anh Dương Trung Quốc nói – thì cái cũ đương nhiên lại sống dậy. Người ta lại phải trở lại gửi gắm ước vọng vào một thế giới huyền bí, xem đó là sự cứu rỗi cho mọi nỗi đau hữu hình và vô hình đang diễn ra chồng chất trên cõi đời này.
Về phương diện cá nhân, dân chúng không còn chỗ nào bấu víu hơn là đi tìm các đình chùa được tiếng “thiêng” xưa nay để lễ bái, cầu cúng, mong cho vợ chồng con cái có chút tài lộc và giữ được sức khỏe cũng như sự yên ấm gia đình, trong thời buổi khắc nghiệt của kinh tế thị trường định hướng XHCN mà trong đó chỉ có một phần may còn chín phần là rủi (do chỗ nền kinh tế này thực chất dựa trên “quy hoạch” đất đai của dân và buôn bán đầu cơ bất động sản cũng như vay tiền nước ngoài để lập ra các dự án... không có lãi, nên đại bộ phận nhân dân đều ở vào tình cảnh bất hạnh), giáo dục và an sinh xã hội thì xuống gần đến đáy. Nhưng có một đám giàu nổi mới phất lên nhờ vào vô khối hành vi chạy chọt chức quyền, xí phần quy hoạch, dự án này nọ..., chủ yếu là quan chức và các doanh nhân thì trong tâm lý lại thường lo sợ theo một hướng khác: họ lúc nào cũng ngơm ngớp lo bị mất chức, mất hết tiền tài, nên cứ thảng thốt không yên, như ngồi trên đống lửa. Về mặt tư tưởng, họ lại cũng chính là đám người sớm hơn ai hết từ bỏ cái chủ nghĩa duy vật biện chứng mà thế hệ cha chú từng truyền dạy, mặc dù ngoài miệng họ vẫn luôn luôn tuyên truyền học tập chủ nghĩa Mác, học tập tấm gương đạo đức của cụ Hồ. Cứ xem những việc như phá gần hết di tích Điện Biên Phủ để xây phố xá, khách sạn, phá di tích Hội trường Ba Đình và rất nhiều di tích khác chứng tỏ họ đã đi đến chỗ “hoàn toàn thất học” (sự suy xét lý tính trong họ nhường chỗ cho những tín điều, tín niệm hết sức thực dụng). Vì thế, không phải họ theo đuôi nhân dân đi lễ bái cho an dân đâu. Phải nói chính họ đã đầu têu ra những chuyện xây chùa chiền đồ sộ cực kỳ tốn tiền (kéo theo hàng đám “sư sãi chức sắc” cũng lập hết dự án này dự án kia, ngồi ô tô, che lọng vàng, tiền của không để đâu cho hết), những chuyện lễ bái cầu cúng, cầu an, mừng sinh nhật... tốn kém không thể nào kể xiết (mà đi đến đâu ta đều nghe dân gian đàm tiếu), cốt cầu thần thánh “ban” cho mình được leo lên những “cái ghế” cao hơn, vững chãi hơn cái ghế mình đang ngự trị, và làm sao cho núi tiền của mình ngày một đầy hơn hoặc đã đầy rồi thì không suy suyển đi. Vậy thì, từ cái cực duy vật máy móc đến chùa chiền nào cũng đập, bia đá nào cũng ghè, sách Nho nào cũng đốt... chuyển sang một cực trái ngược hẳn như hôm nay trong xã hội chúng ta, phải đâu là do chính quyền nể nang dân chúng mà sinh ra thói tệ ây. Nói thế e có phần oan uổng cho người dân đấy, thưa anh Quốc.
Còn về một phương diện khác, phương diện xã tắc – tức niềm tin vào vận mệnh dài lâu của đất nước – trước đây, với hai cuộc kháng chiến đánh Pháp và đánh Mỹ, trong nhân dân ai cũng nghĩ rằng dân tộc này quả thật đã làm nên lịch sử, tự mình giành lại được nền độc lập tự chủ của mình. Nhưng mỗi ngày, lịch sử lại lộ ra một phần sự thật bị giấu giếm, những sự thật ghê gớm không ai ngờ được –rằng vào năm 1974 chúng ta đã mất Hoàng Sa về tay Trung Quốc; rằng vào năm 1988 chúng ta lại mất thêm một phần Trường Sa; rằng từ sau 1979, sau chiến thắng oanh liệt đánh đuổi đội quân xâm lược hung ác của Đặng Tiểu Bình tiến sang triệt phá nhiều tỉnh biên giới, những tưởng chúng ta đã có thể ngẩng cao đầu, thì có ngờ đâu lại phải ngậm cay nuốt đắng chấp nhận một đường biên giới thua thiệt, có nhiều phần bị bọn đại Hán ngoạm sâu vào lãnh thổ mà không dám lên tiếng tranh cãi (đặc biệt là các cuộc giao tranh đẫm máu vào năm 1984, chúng ta mất thêm cao điểm quan trọng 1509 vùng núi Đất, bây giờ kẻ ăn cướp gọi đó là Lão Sơn). Không những thế, khi một thế hệ thanh niên Việt Nam cảm thấy bất bình, đứng lên biểu tình chống Trung Quốc, đòi công khai việc giành lại quyền tự chủ trên vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa, thì bất nhẫn thay, họ lại bị chính quyền đương nhiệm giải tán, thậm chí bắt bớ, đưa vào tù. Thế là niềm tin vào chính sức mạnh của dân tộc cũng lung lay – do một bọn đớn hèn cứ dùng dùi cui và roi điện để bịt miệng dân chúng.
Còn chỗ nào để “phát tiết” tinh hoa của dân tộc nữa đây nếu không là những huyền thoại như huyền thoại rùa thần Hồ Gươm vốn nổi tiếng linh ứng từ hàng mấy trăm năm? Truyền thuyết Cụ Rùa dẫu có âm thầm “ngủ kín” trong tâm khảm người dân một thời gian nào đấy, do chiến tranh hay vì lẽ gì đi nữa, thì đâu phải đã là chết hẳn. Bỗng chốc nó lại sống dậy, nổi bật lên trong vòng mấy thập kỷ qua, cũng chính vì sự hẫng hụt nói trên. Anh Dương Trung Quốc hãy nhớ lại xem, tiêu bản “Cụ Rùa” hiện còn ở đền Ngọc Sơn chẳng gắn với lời đồn về việc cụ Hồ tạ thế năm 1969 là gì. Nếu cần hiểu thêm về sức sống của truyền thuyết rùa thần ở cái hồ trung tâm thủ đô này anh nên tìm tập truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Dậu – một người đã từng nương náu tại Hồ Gươm trong nhiều năm – mà đọc, sẽ còn biết thêm vô khối huyền thoại khác nhau về nó. Ở đây chỉ xin nêu một câu hỏi: Chẳng lẽ cái nơi ẩn náu cuối cùng sức mạnh tinh thần của người Việt là Cụ Rùa cũng bị Nhà nước “quét sạch” đi nốt? Mà “quét sạch” đi thì chính ông cầm quyền phải sợ trước chứ đừng nói ai! Chính đó, theo tôi, đó mới là cái lý do sâu xa để chính quyền Hà Nội phải long trọng hóa một việc như việc cứu “Cụ Rùa” Hồ Gươm.
Nói về việc bảo vệ môi trường, phải nhìn thẳng vào sự thật, Hà Nội là thành phố yếu kém nhất trong mọi thành phố ở Việt Nam. Có một hồ nước nào ở Hà Nội đạt tiêu chuẩn giữ gìn nước sạch và môi trường không bị lấn chiếm hay không? Tuyệt đối không. Ngay Hồ Tây to lớn và đáng giữ gìn biết bao nhiêu, vậy mà cứ lên Hồ Tây mà xem, Hồ Tây và hồ Trúc Bạch nay còn lại được mấy phần so với trước đây hơn nửa thế kỷ? Số liệu quá khứ chắc còn nguyên vẹn để ta so sánh. Có những khách sạn nay đã đóng cọc ra ngoài Hồ Tấy đến gần 1/2 km, thử hỏi ai được hưởng những món “lại quả” kếch xù vào đấy? Lại còn hồ Thủ Lệ nữa, ngày xưa hồ này dài rộng đến thế nào, ai mà chẳng nhớ, thế mà sau một nhiệm kỳ của ông Hoàng Văn Nghiên lên làm Chủ tịch thành phố, cho Hàn Quốc lấp Hồ để xây khách sạn Daewoo (mà nghe nói hình như một vài quan chức vào cỡ ông có cổ phần đáng kể ở trong đó?), nay hồ Thủ Lệ chỉ còn là một lạch nước nông choèn, không đủ chỗ cho trẻ em chơi vui trong ngày Chủ nhật. Giá thử không lo cứu “Cụ Rùa” và làm sạch nước Hồ Gươm, hẳn giải đất hình chữ S này sẽ không còn cái gì để mà nhắc nhở, và chính quyền này sẽ không còn cái gì để “nói” với dân. Ấy, vấn đề gọi bằng tâm lý xã hội nó là sâu xa như vậy chứ không phải giản đơn. Phải chi nếu không có truyền thuyết “Cụ Rùa” thì chắc việc làm sạch Hồ Gươm cũng sẽ còn lâu lắm đấy. Các vị ngồi trên biết rằng chẳng ăn cái giải gì khi làm cho một thủ đô thật sự xanh, sạch, đẹp. Vài nhát sơn để bôi phết lại các tường nhà ở các khu phố Hà Nội lâu năm, hay phá ra để lát lại các lối đi vừa mới lát... sẽ là những dự án còn “thực”... tế hơn gấp nhiều lần.
Nguyễn Huệ Chi
Quây bắt rùa lên bờ để chữa bệnh, Hồ Hoàn Kiếm, 08/03/2011. (REUTERS/Kham)
Kể từ đầu tháng Hai đến nay, sức khỏe của rùa Hồ Gươm đã trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu của một bộ phận công luận tại Việt Nam. Báo chí truyền thông chính thức và rất nhiều trang mạng liên tục đưa tin. Hàng loạt hội thảo trong nước và quốc tế đã được tổ chức để bàn cách cứu rùa.
Trong bối cảnh các nguy cơ khủng hoảng kinh tế tại Việt Nam đang có chiều hướng gia tăng, rất nhiều vấn đề xã hội, chính trị mang tính nước sôi lửa bỏng đang được đặt ra, mối quan tâm khác thường được dành cho rùa Hồ Gươm không khỏi khiến nhiều người phải đặt câu hỏi.
Tại sao rùa Hồ Gươm lại nhận được sự quan tâm đặc biệt như vậy? Tại sao vấn đề sức khỏe của rùa và sự ô nhiễm của môi trường hồ Hoàn Kiếm đã được đặt ra khẩn thiết từ hơn chục năm nay, mà phải cho đến những ngày gần đây chính quyền mới quyết định được giải pháp?
Thảm nạn của rùa Hồ Gươm không chỉ liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường sống, bảo vệ một sinh vật rất quý hiếm. Trước số phận bi đát của con rùa hàng trăm tuổi, là đối tượng của sự sùng kính, nhưng lại ốm yếu, bệnh tật, và sống trong môi trường cực kỳ ô nhiễm trong một thời gian rất dài ngay giữa thủ đô Việt Nam, không thể không đặt ra những câu hỏi về năng lực hành xử của chính quyền tại Việt Nam. Và rộng hơn là vấn đề mối quan hệ giữa tôn giáo tín ngưỡng và mê tín, giữa ứng xử của một chính quyền thế tục và ứng xử của một nhà nước trộn lẫn những hành xử trong đời sống hiện hữu với niềm tin đặt vào một “thế giới tâm linh” huyền bí.
Để bước đầu hiểu rõ hơn các thực trạng liên quan đến rùa Hồ Gươm, RFI đặt câu hỏi với nhà sử học, đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc. Từ Sài Gòn, ông Dương Trung Quốc cho biết ý kiến. Mời quý vị theo dõi.
RFI : Xin chào nhà sử học Dương Trung Quốc. Vừa rồi, ở Việt Nam, như anh đã biết, có một sự kiện được nhiều công chúng quan tâm, tức là hiện tượng rùa Hồ Gươm bị mắc bệnh nặng và liên tục nổi lên. Và sau đó, chính quyền và các nhóm chuyên gia đã bàn thảo và đi đến quyết định đưa rùa lên bờ để chữa trị. Vậy thì anh có thể cho biết nhận định của anh về vấn đề này được không ?
Ông Dương Trung Quốc: Đúng là cái sự kiện rùa Hồ Gươm, hay đúng hơn là cứu rùa Hồ Gươm, đang thú hút sự quan tâm của cấp lãnh đạo đến người dân bình thường. Nhưng trong sự quan tâm ấy cũng có rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Tôi là một người sinh ra và lớn lên ở Hà Nội và sống rất gần Hồ Gươm. Câu chuyện truyền thuyết về Đức Lê Lợi trả gươm thần cho rùa Thần, sau khi chiến thắng giặc ngoại xâm đã có trong sử sách, ngay tên gọi Hồ Gươm cũng ghi nhận huyền thoại ấy rồi. Nhưng mà tôi, và những người có độ tuổi như tôi sống tại Hà Nội, thì thấy rằng sự gắn kết một câu chuyện truyền thuyết với một “Cụ Rùa” có thực, đây là từ người ta hay dùng gần đây, thì chỉ là một chuyện xảy ra gần đây, chứ không phải chuyện ngày xưa. Vả lại, chúng ta cũng biết là, ngay bây giờ, ở đền Ngọc Sơn có một tiêu bản của cũng một “Cụ” nữa, đã “qua đời” từ lâu rồi, mà ta giữ lại làm làm tiêu bản cho mọi người tham quan. Cũng có nghĩa là không thể gắn “Cụ Rùa” hiện tồn với một câu chuyện truyền thuyết.
Câu chuyện rùa Hồ Gươm gắn với cả một sự tích liên quan đến cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi và tư tưởng Hòa bình của người Việt Nam. Gần đây, có thể do việc rùa xuất hiện ngày càng nhiều khiến người ta càng quan tâm, và đồng thời trong một bối cảnh xã hội, cái tâm trạng xã hội hiện nay, người ta rất tin vào tất cả “những gì nằm ngoài đời sống thực”. Cho nên, sự gắn kết dẫn đến chỗ linh thiêng hóa các thực thể đang tồn tại.
Nếu chúng ta gắn kết cái “Cụ Rùa” ấy với nhân chứng của lịch sử, nhân vật của truyền thuyết thì sẽ phải ứng xử khác, mà cách ứng xử khác này, đôi khi, sẽ không tác động tích cực vào mục tiêu rất quan trọng và cấp bách, là cứu sống một sinh thể như vậy. Đấy chính là cái mà trong toàn bộ quá trình triển khai việc này, (tôi thấy) rất lúng túng. Lúng túng từ cái việc đụng chạm vào “Cụ” như thế nào? Rồi cứ gắn kết cho sự xuất hiện của “Cụ” rất nhiều ý nghĩa khác nhau, cho nên dẫn đến việc chữa trị rất chậm trễ. Bây giờ, gần như cấp bách đến độ, không thể không làm được, thì mới bắt đầu đụng chạm vào.
RFI: Gần đây, tức là vào hồi cuối năm 2009, có chương trình của Đức phối hợp với Việt Nam để làm sạch hồ, thì trong đó, dường như Giáo sư Hà Đình Đức, người chuyên nghiên cứu về rùa Hồ Gươm, được giao trách nhiệm phụ trách chuyên môn phía Việt Nam. Giáo sư Hà Đình Đức, là người ủng hộ cho quan điểm nối kết sự linh thiêng với sinh thể rùa Hồ Gươm, qua việc đề cao mối liên hệ giữa những lần rùa nổi lên với các sự kiện quan trọng. Vậy phải chăng việc một người có quan niệm như thế được phân công phụ trách chương trình liên kết với các chuyên gia Đức làm sạch hồ, thì như anh nói, sẽ không hỗ trợ cho việc tìm ra các giải pháp cụ thể, thực tế và có hiệu quả để giải quyết vấn đề môi trường hồ và sức khỏe rùa, có phải không, thưa anh ?
Ông Dương Trung Quốc: Anh Hà Đình Đức là người rất thân thiết với bọn tôi. Phải nói anh ấy rất nhiệt tâm, và anh ấy cũng hoạt động rất tích cực trong việc bảo vệ môi trường ở Hồ Gươm nói chung, và thứ hai là với “Cụ Rùa”. “Cụ Rùa” cũng là cách nói rất trân trọng mà anh ấy nói về rùa Hồ Gươm. Anh ấy cũng là người nghiên cứu nhiều.
Nhưng mà ở đây tôi muốn nói đến cái giải pháp. Giải pháp không chỉ dựa trên cái gọi là “tâm linh”, mà nó là vấn đề khoa học. Và nó còn là vấn đề phải có phương pháp nào để bảo đảm tính khả thi. Cho nên, cái việc đưa một công nghệ của người Đức vào, không phải không tốn kém, thành phố cũng sẵn sàng và cũng làm, nhưng cũng làm không đến nơi đến chốn được. Chỉ làm nửa vời thôi. Lý do vì sao tôi không biết, có thể là thiếu tiền, thiếu phương tiện, thiết bị, không khả thi, v.v. Cuối cùng là vẫn cứ lúng túng. Làm một thời gian xong, thì bây giờ cái nước hồ về cơ bản vẫn chưa được khắc phục một cách triệt để, và vẫn là một tác nhân tiêu cực đến rùa Hồ Gươm.
RFI: Vừa rồi, liên quan đến cái linh thiêng nằm ngoài hiện thực như anh nói, thì trong mấy ngày vừa qua, để chuẩn bị cho việc đưa rùa Hồ Gươm lên chữa trị, có xuất hiện một số nghi lễ, dường như do chính quyền thành phố Hà Nội và các cơ quan liên quan, được tổ chức tại đền Ngọc Sơn và tại Tháp Rùa. Vậy anh nhận định như thế nào về các nghi lễ này?
Ông Dương Trung Quốc: Tôi cho rằng cái nghi lễ, trước hết là cái phương tiện để “an dân” đã, tức là làm cho mọi người an tâm. Bởi vì muốn nhìn ở góc độ nào chăng nữa, thì cái quan trọng nhất là tác động vào tâm lý xã hội, điều này thể hiện sự quan tâm, và trân trọng đối với việc làm kể trên. Tôi nghĩ là việc ấy rất bình thường và trở nên quá bình thường ở Việt Nam rồi. Bây giờ, các nhà lãnh đạo đều xuất hiện ở những nơi nào có đời sống tín ngưỡng, đời sống tâm linh, và đời sống mà người dân đang quan tâm. Tôi cho rằng đây cũng là mặt tích cực. Nhưng nếu chúng ta bị quá ràng buộc vào những cái đó, thì tôi cho rằng chưa chắc đã là điều cần thiết.
RFI: Tức là trong trường hợp này, theo anh, nó không ảnh hưởng nhiều đến việc mình đưa ra các giải pháp cụ thể, bởi vì thực tế là, giải pháp đã được đề ra rồi?
Ông Dương Trung Quốc: Tôi cho rằng nó chỉ là nghi thức thôi, nó chỉ làm an dân, làm an lòng, và không chỉ là an dân, mà còn an cả các nhà lãnh đạo nữa. Bởi vì các nhà lãnh đạo bây giờ cũng rất ngại những điều rủi ro, cái rủi ro trong đời sống xã hội. Cho nên, yên tâm nhất là làm những gì dân thích làm, thì mình cũng làm theo. Và bản thân có thể là chính những người lãnh đạo họ cũng tin nữa.
RFI: Nhưng liệu việc này, trước mắt có thể không ảnh hưởng gì, bởi vì đã có quy trình để trị liệu cho rùa rồi, nhưng về lâu, về dài, như anh phê bình lúc này, việc linh thiêng hóa quá mức các thực thể tồn tại ngoài đời sống thực, thì về sau nó có thể tác động đến quá trình làm sạch hồ và bảo vệ môi trường của hồ hay không?
Ông Dương Trung Quốc: Nếu tiếp tục cách nhận thức như thế này, chắc chắn, sinh thể này (tức rùa Hồ Gươm) một ngày nào đó cũng phải biến mất trên cõi đời này. Vậy lúc đó sẽ giải thích như thế nào? Đấy là điềm gì? Cho nên, quan điểm của tôi là: truyền thuyết là truyền thuyết, và cuộc sống thực là cuộc sống thực, để mà ta có thể ứng xử với nó, có thể tác động đến một cách tích cực, để duy trì các lợi ích lâu dài. Còn sự gắn kết đó, có thể người dân, do những nhận thức khác nhau, tự họ gắn kết. Không nên tạo thành một dư luận xã hội tuyệt đối hóa chuyện đó. Cái này, nó cũng giống như một tín ngưỡng.
RFI: Anh vừa nói đến chuyện “tín ngưỡng” và “tâm linh”. Thái độ đối với những chuyện này rõ ràng có ảnh hưởng đến một ứng xử cụ thể, như vấn đề làm sạch hồ và bảo vệ đời sống các sinh vật, trong đó có rùa Hồ Gươm. Nhân chuyện này, bởi nó không chỉ liên quan đến chuyện bảo vệ Hồ Gươm và một sinh vật quý, mà nó còn liên quan đến các tín ngưỡng của rất nhiều người trong xã hội Việt Nam, tôi xin được đặt vấn đề, hiện nay tại Việt Nam, có nhiều chỉ trích một số nhà lãnh đạo có đưa ra một số định hướng, tham gia trực tiếp đến các hoạt động tín ngưỡng gây ra những tác động, mà báo chí và dư luận gọi là thúc đẩy sự cuồng tín trong xã hội. Với tư cách là nhà sử học và một người hoạt động trong nghị trường, anh có ý kiến như thế nào về chuyện này ?
Ông Dương Trung Quốc: Tôi nghĩ rằng, tâm linh là một phần của đời sống con người, mà đã có một thời kỳ người ta gắn với cái “mê tín dị đoan”, và có một sự cấm đoán nhất định. Nhưng, từ cực này, hay nhảy sang cực kia, đến giờ đây, có thể nói là người ta rất tôn trọng (tâm linh). Cái tôn trọng này được luật pháp bảo vệ, nhưng đôi khi lại hơi thái quá. Ví dụ như cái hiện tượng gắn với “lễ hội” chẳng hạn. Ví dụ như, lễ hội đền Trần, người ta nói rất nhiều đến các cán bộ, công chức đến đó để cầu cúng chuyện thăng quan tiến chức, không phải bằng chính cái năng lực của mình.
Liên quan đến việc cứu rùa ở hồ Hoàn Kiếm, trong việc hành xử của chính quyền, có thể hiểu được góc độ của sự quan tâm, đầu tư, nhưng cũng có thể hiểu được rằng, (họ có) cái phía quá tin vào những chuyện mang tính chất thuần túy tâm linh, vượt quá giới hạn, như vậy, cũng không phù hợp với cung cách của một nhà nước gọi là “Laïque”, tức là nhà nước không tôn giáo. Cho nên điều này cũng gây phản cảm. Một nhà lãnh đạo mà cứ đứng xì xụp lạy như thế, thì có thể phần nào người dân cho là, anh ta cũng tôn trọng “tín ngưỡng”, nhưng mặt khác, nếu con người hành xử theo tín ngưỡng (như thế) ấy thì làm sao có thể điều hành được một nhà nước thế tục.
RFI: Thưa anh, trong tương lai gần, có khả năng khắc phục được sự chồng chéo, thiếu minh bạch kể trên không ?
Ông Dương Trung Quốc: Tôi không dùng khái niệm thiếu minh bạch, mà tôi cho rằng, (trong tương lai rồi) sẽ làm cho rõ ràng ra: đời sống tâm linh là một phần của đời sống tinh thần. Mà đã là đời sống tâm linh thì không thể vụ lợi được, thì như vậy, nó sẽ trong sáng hơn. Đời sống xã hội được xây dựng với một hệ thống giá trị dựa trên năng lực, đóng góp của con người, hơn là cái may rủi, việc cầu xin những điều không xuất phát từ chính năng lực của mình.
RFI: Xin trân trọng cảm ơn nhà sử học Dương Trung Quốc đã trả lời phỏng vấn.
TT
Nguồn: Viet.rfi.fr
Trọng Thành
Anh Dương Trung Quốc là chỗ bạn bè với chúng tôi, là một trong những Nghị sĩ “dám nói” giữa một Quốc hội mà nếu không bảo là “gật” – chẳng ai dám mạo phạm gọi xách mé như thế cả – thì xét cho cùng, sự thẳng thắn đóng góp những điều hữu ích tính đến nay quả cũng chưa được bao lăm người. Tuy nhiên, có lẽ cũng vì ở tư cách một Nghị sĩ Nhà nước nên trong vấn đề này, anh chưa dám nói hết mọi điều cần nói. Bổ sung vào ý kiến của anh một đôi điều tưởng cũng là cần thiết.
Chúng tôi nghĩ, đời sống tâm linh gắn với một cộng đồng người nhất là cộng đồng người châu Á như Việt Nam, vốn có gốc rễ lâu đời của nó. Truyền thuyết rùa thần ở Hồ Gươm phải nói đã có từ lâu, từ thời Lê Lợi kia, hoặc muộn hơn chút ít, và mấy trăm năm qua vẫn sống trong lòng dân tộc như một phản ánh sâu thẳm của tâm thức yêu nước, yêu cuộc sống thái hòa, không thích gây sự, của dân tộc chúng ta. Nhưng từ khi những người làm cách mạng theo đường lối mác-xít lên nắm quyền thì cái gọi là “tín ngưỡng dị đoan” bị dẹp bỏ, trong đó có cả những truyền thuyết linh thiêng như truyền thuyết rùa thần (dẹp bỏ ở đây là dẹp bỏ niềm tin hiện hữu về nó chứ không phải dẹp bỏ ở trong sách vở). Nhưng sự dẹp bỏ chỉ có giá trị nhất thời, khi người ta đang ít nhiều xây dựng được một lòng tin khác, về một thể chế mới sẽ dẫn con người Việt Nam đến một thế giới tươi đẹp, không còn người bóc lột người, và thể chế ấy là do toàn dân vùng lên chống ách đô hộ của ngoại bang giành lại độc lập toàn vẹn thiết lập ra nó.
Nhưng sau sáu mươi năm trải nghiệm, rõ ràng lòng tin nhất thời ấy đã bị sụp đổ. Một xã hội công bằng, dân chủ, tự do, hạnh phúc không những không hề có mà một đất nước hoàn toàn độc lập không phải luồn cúi nước ngoài hóa ra cũng không. Mà khi lòng tin từng được hồ hởi truyền bá bởi những vị khai quốc công thần khai sáng ra thời đại mới bị thực tế làm cho tắt ngấm cùng với lớp người khai quốc ấy – một “thế hệ vàng” như anh Dương Trung Quốc nói – thì cái cũ đương nhiên lại sống dậy. Người ta lại phải trở lại gửi gắm ước vọng vào một thế giới huyền bí, xem đó là sự cứu rỗi cho mọi nỗi đau hữu hình và vô hình đang diễn ra chồng chất trên cõi đời này.
Về phương diện cá nhân, dân chúng không còn chỗ nào bấu víu hơn là đi tìm các đình chùa được tiếng “thiêng” xưa nay để lễ bái, cầu cúng, mong cho vợ chồng con cái có chút tài lộc và giữ được sức khỏe cũng như sự yên ấm gia đình, trong thời buổi khắc nghiệt của kinh tế thị trường định hướng XHCN mà trong đó chỉ có một phần may còn chín phần là rủi (do chỗ nền kinh tế này thực chất dựa trên “quy hoạch” đất đai của dân và buôn bán đầu cơ bất động sản cũng như vay tiền nước ngoài để lập ra các dự án... không có lãi, nên đại bộ phận nhân dân đều ở vào tình cảnh bất hạnh), giáo dục và an sinh xã hội thì xuống gần đến đáy. Nhưng có một đám giàu nổi mới phất lên nhờ vào vô khối hành vi chạy chọt chức quyền, xí phần quy hoạch, dự án này nọ..., chủ yếu là quan chức và các doanh nhân thì trong tâm lý lại thường lo sợ theo một hướng khác: họ lúc nào cũng ngơm ngớp lo bị mất chức, mất hết tiền tài, nên cứ thảng thốt không yên, như ngồi trên đống lửa. Về mặt tư tưởng, họ lại cũng chính là đám người sớm hơn ai hết từ bỏ cái chủ nghĩa duy vật biện chứng mà thế hệ cha chú từng truyền dạy, mặc dù ngoài miệng họ vẫn luôn luôn tuyên truyền học tập chủ nghĩa Mác, học tập tấm gương đạo đức của cụ Hồ. Cứ xem những việc như phá gần hết di tích Điện Biên Phủ để xây phố xá, khách sạn, phá di tích Hội trường Ba Đình và rất nhiều di tích khác chứng tỏ họ đã đi đến chỗ “hoàn toàn thất học” (sự suy xét lý tính trong họ nhường chỗ cho những tín điều, tín niệm hết sức thực dụng). Vì thế, không phải họ theo đuôi nhân dân đi lễ bái cho an dân đâu. Phải nói chính họ đã đầu têu ra những chuyện xây chùa chiền đồ sộ cực kỳ tốn tiền (kéo theo hàng đám “sư sãi chức sắc” cũng lập hết dự án này dự án kia, ngồi ô tô, che lọng vàng, tiền của không để đâu cho hết), những chuyện lễ bái cầu cúng, cầu an, mừng sinh nhật... tốn kém không thể nào kể xiết (mà đi đến đâu ta đều nghe dân gian đàm tiếu), cốt cầu thần thánh “ban” cho mình được leo lên những “cái ghế” cao hơn, vững chãi hơn cái ghế mình đang ngự trị, và làm sao cho núi tiền của mình ngày một đầy hơn hoặc đã đầy rồi thì không suy suyển đi. Vậy thì, từ cái cực duy vật máy móc đến chùa chiền nào cũng đập, bia đá nào cũng ghè, sách Nho nào cũng đốt... chuyển sang một cực trái ngược hẳn như hôm nay trong xã hội chúng ta, phải đâu là do chính quyền nể nang dân chúng mà sinh ra thói tệ ây. Nói thế e có phần oan uổng cho người dân đấy, thưa anh Quốc.
Còn về một phương diện khác, phương diện xã tắc – tức niềm tin vào vận mệnh dài lâu của đất nước – trước đây, với hai cuộc kháng chiến đánh Pháp và đánh Mỹ, trong nhân dân ai cũng nghĩ rằng dân tộc này quả thật đã làm nên lịch sử, tự mình giành lại được nền độc lập tự chủ của mình. Nhưng mỗi ngày, lịch sử lại lộ ra một phần sự thật bị giấu giếm, những sự thật ghê gớm không ai ngờ được –rằng vào năm 1974 chúng ta đã mất Hoàng Sa về tay Trung Quốc; rằng vào năm 1988 chúng ta lại mất thêm một phần Trường Sa; rằng từ sau 1979, sau chiến thắng oanh liệt đánh đuổi đội quân xâm lược hung ác của Đặng Tiểu Bình tiến sang triệt phá nhiều tỉnh biên giới, những tưởng chúng ta đã có thể ngẩng cao đầu, thì có ngờ đâu lại phải ngậm cay nuốt đắng chấp nhận một đường biên giới thua thiệt, có nhiều phần bị bọn đại Hán ngoạm sâu vào lãnh thổ mà không dám lên tiếng tranh cãi (đặc biệt là các cuộc giao tranh đẫm máu vào năm 1984, chúng ta mất thêm cao điểm quan trọng 1509 vùng núi Đất, bây giờ kẻ ăn cướp gọi đó là Lão Sơn). Không những thế, khi một thế hệ thanh niên Việt Nam cảm thấy bất bình, đứng lên biểu tình chống Trung Quốc, đòi công khai việc giành lại quyền tự chủ trên vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa, thì bất nhẫn thay, họ lại bị chính quyền đương nhiệm giải tán, thậm chí bắt bớ, đưa vào tù. Thế là niềm tin vào chính sức mạnh của dân tộc cũng lung lay – do một bọn đớn hèn cứ dùng dùi cui và roi điện để bịt miệng dân chúng.
Còn chỗ nào để “phát tiết” tinh hoa của dân tộc nữa đây nếu không là những huyền thoại như huyền thoại rùa thần Hồ Gươm vốn nổi tiếng linh ứng từ hàng mấy trăm năm? Truyền thuyết Cụ Rùa dẫu có âm thầm “ngủ kín” trong tâm khảm người dân một thời gian nào đấy, do chiến tranh hay vì lẽ gì đi nữa, thì đâu phải đã là chết hẳn. Bỗng chốc nó lại sống dậy, nổi bật lên trong vòng mấy thập kỷ qua, cũng chính vì sự hẫng hụt nói trên. Anh Dương Trung Quốc hãy nhớ lại xem, tiêu bản “Cụ Rùa” hiện còn ở đền Ngọc Sơn chẳng gắn với lời đồn về việc cụ Hồ tạ thế năm 1969 là gì. Nếu cần hiểu thêm về sức sống của truyền thuyết rùa thần ở cái hồ trung tâm thủ đô này anh nên tìm tập truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Dậu – một người đã từng nương náu tại Hồ Gươm trong nhiều năm – mà đọc, sẽ còn biết thêm vô khối huyền thoại khác nhau về nó. Ở đây chỉ xin nêu một câu hỏi: Chẳng lẽ cái nơi ẩn náu cuối cùng sức mạnh tinh thần của người Việt là Cụ Rùa cũng bị Nhà nước “quét sạch” đi nốt? Mà “quét sạch” đi thì chính ông cầm quyền phải sợ trước chứ đừng nói ai! Chính đó, theo tôi, đó mới là cái lý do sâu xa để chính quyền Hà Nội phải long trọng hóa một việc như việc cứu “Cụ Rùa” Hồ Gươm.
Nói về việc bảo vệ môi trường, phải nhìn thẳng vào sự thật, Hà Nội là thành phố yếu kém nhất trong mọi thành phố ở Việt Nam. Có một hồ nước nào ở Hà Nội đạt tiêu chuẩn giữ gìn nước sạch và môi trường không bị lấn chiếm hay không? Tuyệt đối không. Ngay Hồ Tây to lớn và đáng giữ gìn biết bao nhiêu, vậy mà cứ lên Hồ Tây mà xem, Hồ Tây và hồ Trúc Bạch nay còn lại được mấy phần so với trước đây hơn nửa thế kỷ? Số liệu quá khứ chắc còn nguyên vẹn để ta so sánh. Có những khách sạn nay đã đóng cọc ra ngoài Hồ Tấy đến gần 1/2 km, thử hỏi ai được hưởng những món “lại quả” kếch xù vào đấy? Lại còn hồ Thủ Lệ nữa, ngày xưa hồ này dài rộng đến thế nào, ai mà chẳng nhớ, thế mà sau một nhiệm kỳ của ông Hoàng Văn Nghiên lên làm Chủ tịch thành phố, cho Hàn Quốc lấp Hồ để xây khách sạn Daewoo (mà nghe nói hình như một vài quan chức vào cỡ ông có cổ phần đáng kể ở trong đó?), nay hồ Thủ Lệ chỉ còn là một lạch nước nông choèn, không đủ chỗ cho trẻ em chơi vui trong ngày Chủ nhật. Giá thử không lo cứu “Cụ Rùa” và làm sạch nước Hồ Gươm, hẳn giải đất hình chữ S này sẽ không còn cái gì để mà nhắc nhở, và chính quyền này sẽ không còn cái gì để “nói” với dân. Ấy, vấn đề gọi bằng tâm lý xã hội nó là sâu xa như vậy chứ không phải giản đơn. Phải chi nếu không có truyền thuyết “Cụ Rùa” thì chắc việc làm sạch Hồ Gươm cũng sẽ còn lâu lắm đấy. Các vị ngồi trên biết rằng chẳng ăn cái giải gì khi làm cho một thủ đô thật sự xanh, sạch, đẹp. Vài nhát sơn để bôi phết lại các tường nhà ở các khu phố Hà Nội lâu năm, hay phá ra để lát lại các lối đi vừa mới lát... sẽ là những dự án còn “thực”... tế hơn gấp nhiều lần.
Nguyễn Huệ Chi
Quây bắt rùa lên bờ để chữa bệnh, Hồ Hoàn Kiếm, 08/03/2011. (REUTERS/Kham)
Kể từ đầu tháng Hai đến nay, sức khỏe của rùa Hồ Gươm đã trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu của một bộ phận công luận tại Việt Nam. Báo chí truyền thông chính thức và rất nhiều trang mạng liên tục đưa tin. Hàng loạt hội thảo trong nước và quốc tế đã được tổ chức để bàn cách cứu rùa.
Trong bối cảnh các nguy cơ khủng hoảng kinh tế tại Việt Nam đang có chiều hướng gia tăng, rất nhiều vấn đề xã hội, chính trị mang tính nước sôi lửa bỏng đang được đặt ra, mối quan tâm khác thường được dành cho rùa Hồ Gươm không khỏi khiến nhiều người phải đặt câu hỏi.
Tại sao rùa Hồ Gươm lại nhận được sự quan tâm đặc biệt như vậy? Tại sao vấn đề sức khỏe của rùa và sự ô nhiễm của môi trường hồ Hoàn Kiếm đã được đặt ra khẩn thiết từ hơn chục năm nay, mà phải cho đến những ngày gần đây chính quyền mới quyết định được giải pháp?
Thảm nạn của rùa Hồ Gươm không chỉ liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường sống, bảo vệ một sinh vật rất quý hiếm. Trước số phận bi đát của con rùa hàng trăm tuổi, là đối tượng của sự sùng kính, nhưng lại ốm yếu, bệnh tật, và sống trong môi trường cực kỳ ô nhiễm trong một thời gian rất dài ngay giữa thủ đô Việt Nam, không thể không đặt ra những câu hỏi về năng lực hành xử của chính quyền tại Việt Nam. Và rộng hơn là vấn đề mối quan hệ giữa tôn giáo tín ngưỡng và mê tín, giữa ứng xử của một chính quyền thế tục và ứng xử của một nhà nước trộn lẫn những hành xử trong đời sống hiện hữu với niềm tin đặt vào một “thế giới tâm linh” huyền bí.
Để bước đầu hiểu rõ hơn các thực trạng liên quan đến rùa Hồ Gươm, RFI đặt câu hỏi với nhà sử học, đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc. Từ Sài Gòn, ông Dương Trung Quốc cho biết ý kiến. Mời quý vị theo dõi.
RFI : Xin chào nhà sử học Dương Trung Quốc. Vừa rồi, ở Việt Nam, như anh đã biết, có một sự kiện được nhiều công chúng quan tâm, tức là hiện tượng rùa Hồ Gươm bị mắc bệnh nặng và liên tục nổi lên. Và sau đó, chính quyền và các nhóm chuyên gia đã bàn thảo và đi đến quyết định đưa rùa lên bờ để chữa trị. Vậy thì anh có thể cho biết nhận định của anh về vấn đề này được không ?
Ông Dương Trung Quốc: Đúng là cái sự kiện rùa Hồ Gươm, hay đúng hơn là cứu rùa Hồ Gươm, đang thú hút sự quan tâm của cấp lãnh đạo đến người dân bình thường. Nhưng trong sự quan tâm ấy cũng có rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Tôi là một người sinh ra và lớn lên ở Hà Nội và sống rất gần Hồ Gươm. Câu chuyện truyền thuyết về Đức Lê Lợi trả gươm thần cho rùa Thần, sau khi chiến thắng giặc ngoại xâm đã có trong sử sách, ngay tên gọi Hồ Gươm cũng ghi nhận huyền thoại ấy rồi. Nhưng mà tôi, và những người có độ tuổi như tôi sống tại Hà Nội, thì thấy rằng sự gắn kết một câu chuyện truyền thuyết với một “Cụ Rùa” có thực, đây là từ người ta hay dùng gần đây, thì chỉ là một chuyện xảy ra gần đây, chứ không phải chuyện ngày xưa. Vả lại, chúng ta cũng biết là, ngay bây giờ, ở đền Ngọc Sơn có một tiêu bản của cũng một “Cụ” nữa, đã “qua đời” từ lâu rồi, mà ta giữ lại làm làm tiêu bản cho mọi người tham quan. Cũng có nghĩa là không thể gắn “Cụ Rùa” hiện tồn với một câu chuyện truyền thuyết.
Câu chuyện rùa Hồ Gươm gắn với cả một sự tích liên quan đến cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi và tư tưởng Hòa bình của người Việt Nam. Gần đây, có thể do việc rùa xuất hiện ngày càng nhiều khiến người ta càng quan tâm, và đồng thời trong một bối cảnh xã hội, cái tâm trạng xã hội hiện nay, người ta rất tin vào tất cả “những gì nằm ngoài đời sống thực”. Cho nên, sự gắn kết dẫn đến chỗ linh thiêng hóa các thực thể đang tồn tại.
Nếu chúng ta gắn kết cái “Cụ Rùa” ấy với nhân chứng của lịch sử, nhân vật của truyền thuyết thì sẽ phải ứng xử khác, mà cách ứng xử khác này, đôi khi, sẽ không tác động tích cực vào mục tiêu rất quan trọng và cấp bách, là cứu sống một sinh thể như vậy. Đấy chính là cái mà trong toàn bộ quá trình triển khai việc này, (tôi thấy) rất lúng túng. Lúng túng từ cái việc đụng chạm vào “Cụ” như thế nào? Rồi cứ gắn kết cho sự xuất hiện của “Cụ” rất nhiều ý nghĩa khác nhau, cho nên dẫn đến việc chữa trị rất chậm trễ. Bây giờ, gần như cấp bách đến độ, không thể không làm được, thì mới bắt đầu đụng chạm vào.
RFI: Gần đây, tức là vào hồi cuối năm 2009, có chương trình của Đức phối hợp với Việt Nam để làm sạch hồ, thì trong đó, dường như Giáo sư Hà Đình Đức, người chuyên nghiên cứu về rùa Hồ Gươm, được giao trách nhiệm phụ trách chuyên môn phía Việt Nam. Giáo sư Hà Đình Đức, là người ủng hộ cho quan điểm nối kết sự linh thiêng với sinh thể rùa Hồ Gươm, qua việc đề cao mối liên hệ giữa những lần rùa nổi lên với các sự kiện quan trọng. Vậy phải chăng việc một người có quan niệm như thế được phân công phụ trách chương trình liên kết với các chuyên gia Đức làm sạch hồ, thì như anh nói, sẽ không hỗ trợ cho việc tìm ra các giải pháp cụ thể, thực tế và có hiệu quả để giải quyết vấn đề môi trường hồ và sức khỏe rùa, có phải không, thưa anh ?
Ông Dương Trung Quốc: Anh Hà Đình Đức là người rất thân thiết với bọn tôi. Phải nói anh ấy rất nhiệt tâm, và anh ấy cũng hoạt động rất tích cực trong việc bảo vệ môi trường ở Hồ Gươm nói chung, và thứ hai là với “Cụ Rùa”. “Cụ Rùa” cũng là cách nói rất trân trọng mà anh ấy nói về rùa Hồ Gươm. Anh ấy cũng là người nghiên cứu nhiều.
Nhưng mà ở đây tôi muốn nói đến cái giải pháp. Giải pháp không chỉ dựa trên cái gọi là “tâm linh”, mà nó là vấn đề khoa học. Và nó còn là vấn đề phải có phương pháp nào để bảo đảm tính khả thi. Cho nên, cái việc đưa một công nghệ của người Đức vào, không phải không tốn kém, thành phố cũng sẵn sàng và cũng làm, nhưng cũng làm không đến nơi đến chốn được. Chỉ làm nửa vời thôi. Lý do vì sao tôi không biết, có thể là thiếu tiền, thiếu phương tiện, thiết bị, không khả thi, v.v. Cuối cùng là vẫn cứ lúng túng. Làm một thời gian xong, thì bây giờ cái nước hồ về cơ bản vẫn chưa được khắc phục một cách triệt để, và vẫn là một tác nhân tiêu cực đến rùa Hồ Gươm.
RFI: Vừa rồi, liên quan đến cái linh thiêng nằm ngoài hiện thực như anh nói, thì trong mấy ngày vừa qua, để chuẩn bị cho việc đưa rùa Hồ Gươm lên chữa trị, có xuất hiện một số nghi lễ, dường như do chính quyền thành phố Hà Nội và các cơ quan liên quan, được tổ chức tại đền Ngọc Sơn và tại Tháp Rùa. Vậy anh nhận định như thế nào về các nghi lễ này?
Ông Dương Trung Quốc: Tôi cho rằng cái nghi lễ, trước hết là cái phương tiện để “an dân” đã, tức là làm cho mọi người an tâm. Bởi vì muốn nhìn ở góc độ nào chăng nữa, thì cái quan trọng nhất là tác động vào tâm lý xã hội, điều này thể hiện sự quan tâm, và trân trọng đối với việc làm kể trên. Tôi nghĩ là việc ấy rất bình thường và trở nên quá bình thường ở Việt Nam rồi. Bây giờ, các nhà lãnh đạo đều xuất hiện ở những nơi nào có đời sống tín ngưỡng, đời sống tâm linh, và đời sống mà người dân đang quan tâm. Tôi cho rằng đây cũng là mặt tích cực. Nhưng nếu chúng ta bị quá ràng buộc vào những cái đó, thì tôi cho rằng chưa chắc đã là điều cần thiết.
RFI: Tức là trong trường hợp này, theo anh, nó không ảnh hưởng nhiều đến việc mình đưa ra các giải pháp cụ thể, bởi vì thực tế là, giải pháp đã được đề ra rồi?
Ông Dương Trung Quốc: Tôi cho rằng nó chỉ là nghi thức thôi, nó chỉ làm an dân, làm an lòng, và không chỉ là an dân, mà còn an cả các nhà lãnh đạo nữa. Bởi vì các nhà lãnh đạo bây giờ cũng rất ngại những điều rủi ro, cái rủi ro trong đời sống xã hội. Cho nên, yên tâm nhất là làm những gì dân thích làm, thì mình cũng làm theo. Và bản thân có thể là chính những người lãnh đạo họ cũng tin nữa.
RFI: Nhưng liệu việc này, trước mắt có thể không ảnh hưởng gì, bởi vì đã có quy trình để trị liệu cho rùa rồi, nhưng về lâu, về dài, như anh phê bình lúc này, việc linh thiêng hóa quá mức các thực thể tồn tại ngoài đời sống thực, thì về sau nó có thể tác động đến quá trình làm sạch hồ và bảo vệ môi trường của hồ hay không?
Ông Dương Trung Quốc: Nếu tiếp tục cách nhận thức như thế này, chắc chắn, sinh thể này (tức rùa Hồ Gươm) một ngày nào đó cũng phải biến mất trên cõi đời này. Vậy lúc đó sẽ giải thích như thế nào? Đấy là điềm gì? Cho nên, quan điểm của tôi là: truyền thuyết là truyền thuyết, và cuộc sống thực là cuộc sống thực, để mà ta có thể ứng xử với nó, có thể tác động đến một cách tích cực, để duy trì các lợi ích lâu dài. Còn sự gắn kết đó, có thể người dân, do những nhận thức khác nhau, tự họ gắn kết. Không nên tạo thành một dư luận xã hội tuyệt đối hóa chuyện đó. Cái này, nó cũng giống như một tín ngưỡng.
RFI: Anh vừa nói đến chuyện “tín ngưỡng” và “tâm linh”. Thái độ đối với những chuyện này rõ ràng có ảnh hưởng đến một ứng xử cụ thể, như vấn đề làm sạch hồ và bảo vệ đời sống các sinh vật, trong đó có rùa Hồ Gươm. Nhân chuyện này, bởi nó không chỉ liên quan đến chuyện bảo vệ Hồ Gươm và một sinh vật quý, mà nó còn liên quan đến các tín ngưỡng của rất nhiều người trong xã hội Việt Nam, tôi xin được đặt vấn đề, hiện nay tại Việt Nam, có nhiều chỉ trích một số nhà lãnh đạo có đưa ra một số định hướng, tham gia trực tiếp đến các hoạt động tín ngưỡng gây ra những tác động, mà báo chí và dư luận gọi là thúc đẩy sự cuồng tín trong xã hội. Với tư cách là nhà sử học và một người hoạt động trong nghị trường, anh có ý kiến như thế nào về chuyện này ?
Ông Dương Trung Quốc: Tôi nghĩ rằng, tâm linh là một phần của đời sống con người, mà đã có một thời kỳ người ta gắn với cái “mê tín dị đoan”, và có một sự cấm đoán nhất định. Nhưng, từ cực này, hay nhảy sang cực kia, đến giờ đây, có thể nói là người ta rất tôn trọng (tâm linh). Cái tôn trọng này được luật pháp bảo vệ, nhưng đôi khi lại hơi thái quá. Ví dụ như cái hiện tượng gắn với “lễ hội” chẳng hạn. Ví dụ như, lễ hội đền Trần, người ta nói rất nhiều đến các cán bộ, công chức đến đó để cầu cúng chuyện thăng quan tiến chức, không phải bằng chính cái năng lực của mình.
Liên quan đến việc cứu rùa ở hồ Hoàn Kiếm, trong việc hành xử của chính quyền, có thể hiểu được góc độ của sự quan tâm, đầu tư, nhưng cũng có thể hiểu được rằng, (họ có) cái phía quá tin vào những chuyện mang tính chất thuần túy tâm linh, vượt quá giới hạn, như vậy, cũng không phù hợp với cung cách của một nhà nước gọi là “Laïque”, tức là nhà nước không tôn giáo. Cho nên điều này cũng gây phản cảm. Một nhà lãnh đạo mà cứ đứng xì xụp lạy như thế, thì có thể phần nào người dân cho là, anh ta cũng tôn trọng “tín ngưỡng”, nhưng mặt khác, nếu con người hành xử theo tín ngưỡng (như thế) ấy thì làm sao có thể điều hành được một nhà nước thế tục.
RFI: Thưa anh, trong tương lai gần, có khả năng khắc phục được sự chồng chéo, thiếu minh bạch kể trên không ?
Ông Dương Trung Quốc: Tôi không dùng khái niệm thiếu minh bạch, mà tôi cho rằng, (trong tương lai rồi) sẽ làm cho rõ ràng ra: đời sống tâm linh là một phần của đời sống tinh thần. Mà đã là đời sống tâm linh thì không thể vụ lợi được, thì như vậy, nó sẽ trong sáng hơn. Đời sống xã hội được xây dựng với một hệ thống giá trị dựa trên năng lực, đóng góp của con người, hơn là cái may rủi, việc cầu xin những điều không xuất phát từ chính năng lực của mình.
RFI: Xin trân trọng cảm ơn nhà sử học Dương Trung Quốc đã trả lời phỏng vấn.
TT
Nguồn: Viet.rfi.fr
Tại sao Trung cộng lo sợ?
Sau phiên họp khẩn của Bộ chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc rồi đến kỳ họp Quốc hội của CSTQ…Các nhà lãnh đạo cao nhất của Trung Cộng liên tiếp đưa ra những cảnh báo về nguy cơ “động loạn xã hội” từ hiệu ứng của cuộc “Cách mạng Hoa lài”. Họ đưa ra những khuyến cáo nhằm hăm dọa người dân và mặt khác họ lại đưa ra những chiêu bài,những hứa hẹn mang lại sự ấm no sung túc cho “tất cả mọi người”, Trung Quốc với chính sách “Trung Quốc hạnh phúc” thay cho “Trung Quốc hài hòa”thực hiện bấy lâu nay
Trong cái gọi là chính sách Trung Quốc hạnh phúc họ hứa hẹn với người dân Trung Quốc là sẽ chấm dứt tệ nạn tham nhũng của chính quyền,chấm dứt tình trạng cướp đất của dân,và thu hẹp khoảng cách giàu nghèo hiện đã quá sức phi lý và chịu đựng của người dân,họ đưa ra mục tiêu phát triển trong 5 năm tới ( kế hoạch 5 năm 2011-2015) là sẽ mang lại giàu có thình vượng cho tất cả người dân Trung Quốc,không để ai phải bị thiệt thòi,bị bỏ quên trong sự “phát triển chung của đất nước”!
Chính quyền CSTQ hứa hẹn đầu tư mạnh vào giáo dục và y tế,cải thiện môi trường sống đang lâm nguy của Trung Quốc.
Trong gần 3 thập niên chuyển đổi mô hình xã hội từ Độc tài toàn trị cộng với kinh tế tập trung bao cấp sang mô hình xã hội Độc tài toàn trị cộng kinh tế tư bản,tuyệt đại bộ phận người dân Trung Quốc bị bỏ quên,bỏ gạt ra ngoài lề của sự phát triển mà có người trong thiên hạ(không biết là lú lẩn hay có dụng ý) gọi là “kỳ diệu”?!
Trong 3 thập niên phát triển “hài hòa” người ta thống kê được hàng năm ở Trung Quốc có hàng trăm ngàn những cuộc biểu tình lớn nhỏ,hàng trăm vụ tự sát từ nhảy lầu đến tự thiêu và hàng trăm những vụ tấn công vào các trường tiểu học, Trường mầm non,giết chết hàng tăm trẻ em. Hành động của những con người “quẩn chí,cùng đường’ và bị tước đoạt tất cả từ nhân phẩm đến tài sản và (nếu cần cả tính mạng)..Báo chí và dư luận gọi những cuộc tấn công này là “Sự báo thù của xã hội”
Chỉ mới đây thôi Ban lãnh đạo và những người CSTQ vẫn nghênh ngang tự cao tự đại trên đỉnh cao ngất ngưỡng của quyền lực,họ có thừa tự tin và tự mãn về những kết quả,thành tựu mà họ đạt được làm đã cả thế giới đều phải “ngã mũ kính trọng”!
Trong bài “Đồng thuận Bắc kinh” hay “Đồng thuận Washinton” của RFI nói về bài tiểu luận của học giả: Stefan Halper,thuộc Đại học Cambridge còn gọi mô hình của Trung Cộng ngày nay là lý tưởng nhất cho một sự phát triển cao “liên tục, ổn định”và khả tín có thể ngự trị thế giới trong thế kỷ 21 thay thế cho “Đồng thuận Washinton’(chủ trương đề cao những giá trị Tự do,Dân chủ và Nhân quyền)!?
Chỉ mới đây thôi những người CSTQ tưởng rằng họ là “Người dẫn đường” cho những quốc gia có cùng một mẫu số với họ.Độc tài về chính trị,chung sống và phát triển hài hòa cùng Kinh tế Tư bản!
Thế vận hội Bắc Kinh 2008 và Đại lễ kỷ niệm 60 năm ngày thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa-là hai dịp để người CSTQ phô trương sức mạnh kinh tế và quân sự mà họ đạt được trong 30 năm “cải cách”.
Cả Thế giới đều thán phục về sự hoành tráng của Thế vận hội Bắc kinh và sự hiện đại,tinh nhuệ của quân đội Trung Quốc được phô diễn trong Đại lễ kỷ niệm 60 Quốc Khánh Trung Cộng…Đến cuối năm 2010 Trung Cộng đã chính thức vượt Nhật Bản để trở thành nền Kinh tế lớn thứ 2 Thế giới và dự trữ ngoại tệ lên đến gần 3000 tỉ Mỹ kim…tất cả những thành quả đó đã đẩy những nhà lãnh đạo Đảng CSTQ lên tột đỉnh của “Vinh quang”?
Vậy tại sao từ “Tột đỉnh vinh quang” lại trở thành “Tột đỉnh lo sợ”?
Cuộc cách mạng Hoa Lài khởi đầu từ Tunisia sang Ai cập,Algerri ,Bahrain“ôn hòa” đã trở thành cách mạng vũ lực hiện nay tại Libya đẩy Libya đến bờ vực chiến tranh tàn phá và kết quả cuối cùng chưa ngã ngũ nhưng người ta đã nhìn thấy ngày tàn của chế độ Gaddfi .
Một câu hỏi nữa đặt ra,những cuộc cách mạng đang xảy ra tại Bắc Phi và Trung Đông là những xứ sở xa xôi,nhỏ bé và ít dân thì có ảnh hưởng gì đối với một anh Khổng lồ như Trung Cộng,có dân số đông hơn rất nhiều và quân đội mạnh hơn rất nhiều?
Câu trả lời sẽ là:Trung Cộng lo sợ đến hoảng loạn vì những cuộc cách mạng hiện nay tại Bắc Phi và Trung Đông là một bằng chứng,một chỉ dấu cho thấy sự sụp đổ của một Mô hình:Độc tài chính trị cộng kinh tế tư bản.Nó làm phá sản niềm tin và cả một hệ thống lý luận mà Trung Cộng và các chế độ độc tài xây dựng bấy lâu nay là:Mô hình độc tài về chính trị cộng với một nền kinh tế Tư bản sẽ bảo đảm cho đất nước phát triển tốt nhất,bền vững nhất,ổn định nhất,ưu việt nhất hiện nay…bất chấp sự phản đối của người dân
Những gì đang xảy ra tại Bắc Phi và Trung Đông hiện nay làm sụp đổ một mô hình xã hội tưởng như vững chắc,một chủ thuyết chính trị tưởng như “ổn định” và khả tín…Nhưng vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn rất nhiều vì Trung Cộng và các chế độ Độc tài trên khắp thế giới không tìm thấy một mô hình nào khác để thay thế (mà không làm phương hại đến sự độc tôn lãnh đạo của đảng CS) cho mô hình đã lỗi thời,tất yếu sẽ sụp đổ vì đi ngược lại lòng dân,đi ngược lại bản năng tự nhiên của con người là được sống tự do và được làm chủ vận mệnh của mình và đất nước mình.Không ai muốn bị người khác đè đầu cưỡi cổ,bị khinh miệt và bị gạt ra ngoài lề xã hội,bị tước đoạt cái quyền thiêng liêng nhất là quyền được hành xữ có trách nhiệm và lương tâm về những vấn đề thuộc về cá nhân mình và đất nước mình.
Tình hình hiện nay khác với năm 1989-1990-Khi Đông Âu và Liên Xô sụp đổ thì Trung Cộng và Việt Cộng vẫn “bình yên”…
Đầu thập niên 80 cuả thế kỷ XX Trung cộng đã nhận ra “tử huyệt” của mô hình Xã hội Chủ nghĩa theo kiểu Liên Xô và họ đã thay đổi bằng một mô hình khác như ta đã thấy.Trung Cộng và Việt Cộng đã “thoát hiểm” được khi hệ thống XHCN Đông Âu tan rã
Còn cuộc cách mạng Hoa Lài hiện nay là sự sụp đổ mang tính quy luật và tất yếu của Mô hình “Chính trị độc tài” cộng với “Kinh tế Tư bản”,điều này mới thực sự làm Trung Cộng và Việt Cộng lo sợ đến mất ăn mất ngủ
Trong tiến trình “Nhân-Duyên-Quả” này có yếu tố “Duyên”:Internet hiện nay đóng vai trò của yếu tố “Duyên”.Chính vì vậy mà Chính phủ Hoa kỳ cương quyết bảo vệ quyền tự do Internet
Nhận thức được điều này nên TC và VC ra sức trấn áp Tự do Internet,hòng có thể kéo dài cục diện,nhưng cho dù TC và VC có liều lĩnh xóa sổ mạng Internet thì cũng không làm chuyển hướng hay thay đổi được quy luật Nhân – Quả này
Con Người là con Người Tự do,không có Tự do,con Người không là con Người đúng nghĩa
Hiện nay tại Trung Quốc chưa có cuộc biểu tình nào thực sự xảy ra,người ta thấy ở những địa điểm như Bắc Kinh, Thượng Hải chỉ toàn là công an và nhà báo ngoại quốc,nhưng Trung Cộng đã run sợ một cách hoảng loạn vì họ nhận ra cái quy luật tất yếu này-cái tử huyệt của chế độ và họ đang cố gắn trong tuyệt vọng để thay đổi tình hình.
Nhưng thay đổi một quy luật tự nhiên là việc làm hoang tưởng và điên rồ.
Trái với dự báo của các nhà bình luận rằng:Quan hệ Mỹ – Trung năm 2011 sẽ bình yên và tốt hơn năm 2010.Thực tế không đúng như vậy…vì để chuyển hướng dư luận,ngăn chặn cái hiệu ứng từ cách mạng Hoa Lài,một mặt Trung Cộng sẽ ra sức trấn áp lực lượng Dân chủ tại Trung Hoa,tăng ngân sách dùng cho an ninh nội địa(Theo RFI ngân sách hiện nay là 85 Tỉ Dollar Mỹ-một con số kinh hoàng).Mặt khác tăng ngân sách quốc phòng và sẽ thực hiện chính sách gây hấn ở khắp nơi :Từ đông Bắc Á,cụ thể là với Nhật Bản-Hàn Quốc,Đông Á với Đài Loan và nhất là các nước Đông Nam Á.Việt Nam sẽ là nạn nhân trực tiếp và thê thảm nhất của chính sách gây hấn này.
Người xưa có câu: “Thuận thiên giả tồn-Ngịch thiên giả vong”(Thiên ở đây là quy luật tự nhiên-) Điều này là một chân lý!
Trung Cộng là những nhà cai trị có tầm nhìn chiến lược nên họ lo sợ.Còn Việt Cộng thì sao?
Không lo sợ mới là điều lạ!
Kẻ thức thời mới là tuấn kiệt,những người CSVN hãy tự cứu lấy mình và gia đình mình,ai chậm chân sẽ trả giá
Đừng chơi trò mị dân như:Trung cộng với chiêu bài hứa hẹn mang đến cho người dân TQ một cuộc sống hạnh phúc còn Ả rập Saudi thì Quốc vương Abdullah chi 37 tỉ Dollar Mỹ “tặng” cho người dân Ả rập và yêu cầu họ không nên biểu tình.
Các chế độ độc tài nhất là TC và VC đều coi người dân của mình như là một thứ “vật nuôi”. Đây là một điều sỉ nhục đối với người dân của họ và cũng là một sự ngu ngốc của nhà cầm quyền.
Xin khẳng định rằng cuộc cách mạng hiện nay tại Bắc Phi và Trung Đông không phải là yếu tố cơ hội (Đến rồi đi như ai đó lo sợ hoặc hi vọng) mà nó mang tính quy luật ,có nghĩa là tất yếu phải xảy ra…Còn về yếu tố “Duyên” tức là hoàn cảnh khách quan tác động từ bên ngoài thì tôi hoàn toàn đồng ý với nhận định của nhà tài phiệt Ros Soros là Hoa Kỳ và các nước phương Tây nên “đi trước cuộc Cách mạng”(chứ không đi sau hay theo đuôi).
Được sự hậu thuẫn tích cực và kiên quyết từ phía Hoa Kỳ và phương Tây,cuộc cách mạng đòi dân chủ,tự do của các Dân tộc bị áp bức bởi các chế độ độc tài sẽ nhanh chóng thành công và bớt đổ máu. Cái được của phương Tây và Hoa Kỳ là sẽ có thêm đồng minh và Thế giới này sẽ tốt đẹp hơn, an ninh hơn.
© Huỳnh Ngọc Tuấn
Trong cái gọi là chính sách Trung Quốc hạnh phúc họ hứa hẹn với người dân Trung Quốc là sẽ chấm dứt tệ nạn tham nhũng của chính quyền,chấm dứt tình trạng cướp đất của dân,và thu hẹp khoảng cách giàu nghèo hiện đã quá sức phi lý và chịu đựng của người dân,họ đưa ra mục tiêu phát triển trong 5 năm tới ( kế hoạch 5 năm 2011-2015) là sẽ mang lại giàu có thình vượng cho tất cả người dân Trung Quốc,không để ai phải bị thiệt thòi,bị bỏ quên trong sự “phát triển chung của đất nước”!
Chính quyền CSTQ hứa hẹn đầu tư mạnh vào giáo dục và y tế,cải thiện môi trường sống đang lâm nguy của Trung Quốc.
Trong gần 3 thập niên chuyển đổi mô hình xã hội từ Độc tài toàn trị cộng với kinh tế tập trung bao cấp sang mô hình xã hội Độc tài toàn trị cộng kinh tế tư bản,tuyệt đại bộ phận người dân Trung Quốc bị bỏ quên,bỏ gạt ra ngoài lề của sự phát triển mà có người trong thiên hạ(không biết là lú lẩn hay có dụng ý) gọi là “kỳ diệu”?!
Trong 3 thập niên phát triển “hài hòa” người ta thống kê được hàng năm ở Trung Quốc có hàng trăm ngàn những cuộc biểu tình lớn nhỏ,hàng trăm vụ tự sát từ nhảy lầu đến tự thiêu và hàng trăm những vụ tấn công vào các trường tiểu học, Trường mầm non,giết chết hàng tăm trẻ em. Hành động của những con người “quẩn chí,cùng đường’ và bị tước đoạt tất cả từ nhân phẩm đến tài sản và (nếu cần cả tính mạng)..Báo chí và dư luận gọi những cuộc tấn công này là “Sự báo thù của xã hội”
Chỉ mới đây thôi Ban lãnh đạo và những người CSTQ vẫn nghênh ngang tự cao tự đại trên đỉnh cao ngất ngưỡng của quyền lực,họ có thừa tự tin và tự mãn về những kết quả,thành tựu mà họ đạt được làm đã cả thế giới đều phải “ngã mũ kính trọng”!
Trong bài “Đồng thuận Bắc kinh” hay “Đồng thuận Washinton” của RFI nói về bài tiểu luận của học giả: Stefan Halper,thuộc Đại học Cambridge còn gọi mô hình của Trung Cộng ngày nay là lý tưởng nhất cho một sự phát triển cao “liên tục, ổn định”và khả tín có thể ngự trị thế giới trong thế kỷ 21 thay thế cho “Đồng thuận Washinton’(chủ trương đề cao những giá trị Tự do,Dân chủ và Nhân quyền)!?
Chỉ mới đây thôi những người CSTQ tưởng rằng họ là “Người dẫn đường” cho những quốc gia có cùng một mẫu số với họ.Độc tài về chính trị,chung sống và phát triển hài hòa cùng Kinh tế Tư bản!
Thế vận hội Bắc Kinh 2008 và Đại lễ kỷ niệm 60 năm ngày thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa-là hai dịp để người CSTQ phô trương sức mạnh kinh tế và quân sự mà họ đạt được trong 30 năm “cải cách”.
Cả Thế giới đều thán phục về sự hoành tráng của Thế vận hội Bắc kinh và sự hiện đại,tinh nhuệ của quân đội Trung Quốc được phô diễn trong Đại lễ kỷ niệm 60 Quốc Khánh Trung Cộng…Đến cuối năm 2010 Trung Cộng đã chính thức vượt Nhật Bản để trở thành nền Kinh tế lớn thứ 2 Thế giới và dự trữ ngoại tệ lên đến gần 3000 tỉ Mỹ kim…tất cả những thành quả đó đã đẩy những nhà lãnh đạo Đảng CSTQ lên tột đỉnh của “Vinh quang”?
Vậy tại sao từ “Tột đỉnh vinh quang” lại trở thành “Tột đỉnh lo sợ”?
Cuộc cách mạng Hoa Lài khởi đầu từ Tunisia sang Ai cập,Algerri ,Bahrain“ôn hòa” đã trở thành cách mạng vũ lực hiện nay tại Libya đẩy Libya đến bờ vực chiến tranh tàn phá và kết quả cuối cùng chưa ngã ngũ nhưng người ta đã nhìn thấy ngày tàn của chế độ Gaddfi .
Một câu hỏi nữa đặt ra,những cuộc cách mạng đang xảy ra tại Bắc Phi và Trung Đông là những xứ sở xa xôi,nhỏ bé và ít dân thì có ảnh hưởng gì đối với một anh Khổng lồ như Trung Cộng,có dân số đông hơn rất nhiều và quân đội mạnh hơn rất nhiều?
Câu trả lời sẽ là:Trung Cộng lo sợ đến hoảng loạn vì những cuộc cách mạng hiện nay tại Bắc Phi và Trung Đông là một bằng chứng,một chỉ dấu cho thấy sự sụp đổ của một Mô hình:Độc tài chính trị cộng kinh tế tư bản.Nó làm phá sản niềm tin và cả một hệ thống lý luận mà Trung Cộng và các chế độ độc tài xây dựng bấy lâu nay là:Mô hình độc tài về chính trị cộng với một nền kinh tế Tư bản sẽ bảo đảm cho đất nước phát triển tốt nhất,bền vững nhất,ổn định nhất,ưu việt nhất hiện nay…bất chấp sự phản đối của người dân
Những gì đang xảy ra tại Bắc Phi và Trung Đông hiện nay làm sụp đổ một mô hình xã hội tưởng như vững chắc,một chủ thuyết chính trị tưởng như “ổn định” và khả tín…Nhưng vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn rất nhiều vì Trung Cộng và các chế độ Độc tài trên khắp thế giới không tìm thấy một mô hình nào khác để thay thế (mà không làm phương hại đến sự độc tôn lãnh đạo của đảng CS) cho mô hình đã lỗi thời,tất yếu sẽ sụp đổ vì đi ngược lại lòng dân,đi ngược lại bản năng tự nhiên của con người là được sống tự do và được làm chủ vận mệnh của mình và đất nước mình.Không ai muốn bị người khác đè đầu cưỡi cổ,bị khinh miệt và bị gạt ra ngoài lề xã hội,bị tước đoạt cái quyền thiêng liêng nhất là quyền được hành xữ có trách nhiệm và lương tâm về những vấn đề thuộc về cá nhân mình và đất nước mình.
Tình hình hiện nay khác với năm 1989-1990-Khi Đông Âu và Liên Xô sụp đổ thì Trung Cộng và Việt Cộng vẫn “bình yên”…
Đầu thập niên 80 cuả thế kỷ XX Trung cộng đã nhận ra “tử huyệt” của mô hình Xã hội Chủ nghĩa theo kiểu Liên Xô và họ đã thay đổi bằng một mô hình khác như ta đã thấy.Trung Cộng và Việt Cộng đã “thoát hiểm” được khi hệ thống XHCN Đông Âu tan rã
Còn cuộc cách mạng Hoa Lài hiện nay là sự sụp đổ mang tính quy luật và tất yếu của Mô hình “Chính trị độc tài” cộng với “Kinh tế Tư bản”,điều này mới thực sự làm Trung Cộng và Việt Cộng lo sợ đến mất ăn mất ngủ
Trong tiến trình “Nhân-Duyên-Quả” này có yếu tố “Duyên”:Internet hiện nay đóng vai trò của yếu tố “Duyên”.Chính vì vậy mà Chính phủ Hoa kỳ cương quyết bảo vệ quyền tự do Internet
Nhận thức được điều này nên TC và VC ra sức trấn áp Tự do Internet,hòng có thể kéo dài cục diện,nhưng cho dù TC và VC có liều lĩnh xóa sổ mạng Internet thì cũng không làm chuyển hướng hay thay đổi được quy luật Nhân – Quả này
Con Người là con Người Tự do,không có Tự do,con Người không là con Người đúng nghĩa
Hiện nay tại Trung Quốc chưa có cuộc biểu tình nào thực sự xảy ra,người ta thấy ở những địa điểm như Bắc Kinh, Thượng Hải chỉ toàn là công an và nhà báo ngoại quốc,nhưng Trung Cộng đã run sợ một cách hoảng loạn vì họ nhận ra cái quy luật tất yếu này-cái tử huyệt của chế độ và họ đang cố gắn trong tuyệt vọng để thay đổi tình hình.
Nhưng thay đổi một quy luật tự nhiên là việc làm hoang tưởng và điên rồ.
Trái với dự báo của các nhà bình luận rằng:Quan hệ Mỹ – Trung năm 2011 sẽ bình yên và tốt hơn năm 2010.Thực tế không đúng như vậy…vì để chuyển hướng dư luận,ngăn chặn cái hiệu ứng từ cách mạng Hoa Lài,một mặt Trung Cộng sẽ ra sức trấn áp lực lượng Dân chủ tại Trung Hoa,tăng ngân sách dùng cho an ninh nội địa(Theo RFI ngân sách hiện nay là 85 Tỉ Dollar Mỹ-một con số kinh hoàng).Mặt khác tăng ngân sách quốc phòng và sẽ thực hiện chính sách gây hấn ở khắp nơi :Từ đông Bắc Á,cụ thể là với Nhật Bản-Hàn Quốc,Đông Á với Đài Loan và nhất là các nước Đông Nam Á.Việt Nam sẽ là nạn nhân trực tiếp và thê thảm nhất của chính sách gây hấn này.
Người xưa có câu: “Thuận thiên giả tồn-Ngịch thiên giả vong”(Thiên ở đây là quy luật tự nhiên-) Điều này là một chân lý!
Trung Cộng là những nhà cai trị có tầm nhìn chiến lược nên họ lo sợ.Còn Việt Cộng thì sao?
Không lo sợ mới là điều lạ!
Kẻ thức thời mới là tuấn kiệt,những người CSVN hãy tự cứu lấy mình và gia đình mình,ai chậm chân sẽ trả giá
Đừng chơi trò mị dân như:Trung cộng với chiêu bài hứa hẹn mang đến cho người dân TQ một cuộc sống hạnh phúc còn Ả rập Saudi thì Quốc vương Abdullah chi 37 tỉ Dollar Mỹ “tặng” cho người dân Ả rập và yêu cầu họ không nên biểu tình.
Các chế độ độc tài nhất là TC và VC đều coi người dân của mình như là một thứ “vật nuôi”. Đây là một điều sỉ nhục đối với người dân của họ và cũng là một sự ngu ngốc của nhà cầm quyền.
Xin khẳng định rằng cuộc cách mạng hiện nay tại Bắc Phi và Trung Đông không phải là yếu tố cơ hội (Đến rồi đi như ai đó lo sợ hoặc hi vọng) mà nó mang tính quy luật ,có nghĩa là tất yếu phải xảy ra…Còn về yếu tố “Duyên” tức là hoàn cảnh khách quan tác động từ bên ngoài thì tôi hoàn toàn đồng ý với nhận định của nhà tài phiệt Ros Soros là Hoa Kỳ và các nước phương Tây nên “đi trước cuộc Cách mạng”(chứ không đi sau hay theo đuôi).
Được sự hậu thuẫn tích cực và kiên quyết từ phía Hoa Kỳ và phương Tây,cuộc cách mạng đòi dân chủ,tự do của các Dân tộc bị áp bức bởi các chế độ độc tài sẽ nhanh chóng thành công và bớt đổ máu. Cái được của phương Tây và Hoa Kỳ là sẽ có thêm đồng minh và Thế giới này sẽ tốt đẹp hơn, an ninh hơn.
© Huỳnh Ngọc Tuấn
Phỏng vấn luật sư Trần Đình Triển về phiên tòa sắp tới liên quan đến ông Cù Huy Hà Vũ
Được biết Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ sẽ ra tòa vào ngày 24 tháng 3 sắp đến với tội danh "Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam", có khung hình phạt từ 3 đến 12 năm tù; và một trong những luật sư tham gia bào chữa cho ông Cù Huy Hà Vũ là luật sư của Văn phòng Luật sư Vì dân Trần Đình Triển. Bauxite Việt Nam phỏng vấn LS Trần Đình Triển về một số vấn đề liên quan đến phiên tòa.
Bauxite Việt Nam
- BVN: Xin Luật sư cho biết trong phiên tòa sắp tới liên quan đến ông CHHV có bao nhiêu LS được tham gia bào chữa? Là luật sư bào chữa cho ông CHHV, có điều gì làm LS trăn trở không?
- LS Trần Đình Triển: Số lượng LS tham gia bào chữa là do anh Vũ và gia đình mời và phải đươc Tòa án ND TP Hà Nội chấp thuận, điều này tôi không biết chính xác. BVN có thể hỏi chị Dương Hà để biết cụ thể hơn.
Tôi được anh Vũ và gia đình mời tham gia bào chữa. Đồng thời, đó cũng là trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, vì tôi và anh Vũ là cùng quê, trong cuôc sống thường nhật thân thiện như anh em trong nhà, do đó về đạo lý của dân tộc Việt Nam "Một con ngựa đau cả đàn bỏ cỏ, chị ngã em nâng, lá lành đùm lá rách, tối lửa tắt đèn có nhau”...; trong khúc hát của người xứ Nghệ có lời trách móc thấm đượm nghĩa tình "ngái ngôi chi mà anh nỏ về", hoặc có câu đã trở thành chân lý "rằng qua cơn hoạn nạn, rằng mới hiểu lòng nhau"; mặt khác, Hiến pháp, Bộ Luật hình sự, Bộ Luật tố tụng hình sự và Luật Luật sư,... khuyến khích và cho phép, đồng thời xác định trách nhiệm của luật sư phải góp phần bảo vệ công lý. Pháp luật là vậy, nghĩa tình là vậy, nhưng khi tôi nhận lời bào chữa cho anh CHHV thì rơi vãi đâu đó lời: là Luật sư phản động – đau lắm và buồn lắm quý vị ạ (trong quãng đường hoạt động vẻ vang của Bác Hồ có sự đóng góp của luật sư đó chứ). Tôi đã được Chánh án Tòa án Nhân dân TP. Hà Nội cấp giấy chứng nhận bào chữa cho anh CHHV, hôm nay tôi đã nhận được giấy thông báo của Tòa về phiên xử sơ thẩm, đó là vào 8 giờ ngày 24 tháng 3 này.
- BVN: Hiện nay người ta đang truy tố ông CHHV căn cứ vào các bài viết và các bài trả lời phỏng vấn của ông ấy. Thế theo luật pháp Việt Nam và các công ước quốc tế mà VN đã ký kết tham gia thì theo Luật sư, ông CHHV có tội hay không?
- LS Trần Đình Triển: Tôi đã nói rõ quan điểm của tôi rất nhiều lần là anh CHHV không có tội.
Trước hết ta phải xem xét đến động cơ và mục đích. Nếu xem xét một hành vi thì phải xem động cơ và mục đích của người thực hiện hành vi đó. Xem xét những quan điểm của anh Vũ đã nêu hay những bài viết của anh Vũ, tôi nhận thấy trong đó có những vụ việc anh đi vào cụ thể, kiến nghị vào những cái cụ thể, có những điều anh đưa ra như một luận điểm khoa học. Nếu người ta đi vào cái cụ thể để kiến nghị cái cụ thể thì không được khái quát thành cái chung.
Cái thứ hai là về việc chống nhà nước XHCNVN thì quan điểm của tôi là: khái niệm về CNXH là một khái niệm đang còn trừu tượng, đang được bàn luận rất nhiều kể cả về học thuật ở nhiều nước trên thế giới. Chúng ta hãy xem đó như một học thuyết. Có những học thuyết nếu có những quan điểm tốt thì ta áp dụng, còn nếu những quan điểm chưa chuẩn xác hay thậm chí đang còn là trừu tượng hay thậm chí đang là viễn tưởng, như khoa học viễn tưởng, thì chúng ta không nên mơ mộng vào đó, và hãy hiểu rằng chúng ta đang đi theo một khoa học viễn tưởng mà thôi. Tôi giả định nếu khái niệm nhà nước CHXHCN VN là của dân, do dân và vì dân là sự thật, thì những quan điểm và bài viết được nêu ở cáo trạng của anh Vũ nó chống lại của dân, chống lại do dân và chống lại vì dân ở đâu? Hậu quả ở đâu? Một hành vi phạm tội phải có nguyên nhân, hậu quả và mối quan hệ nhân quả. Hậu quả là cái gì? Ở đây hậu quả chỉ thấy nêu là các ý kiến tập hợp của Sở Văn hóa Thông tin đưa sang mà chưa thấy hậu quả cụ thể gì cả, thế thì mối quan hệ nhân quả nó ở đâu? Tôi chưa nói là nếu chúng ta đã tham gia các công ước quốc tế thì trong quy định pháp luật chúng ta về các điều ước quốc tế, trong bộ luật tố tụng hình sự, trong bộ luật ban hành quy phạm pháp luật cũng nói nếu có điều gì trái với các công ước quốc tế mà chúng ta đã tham gia thì phải thực hiện theo các điều của các công ước quốc tế đó. Những điều này khỏi phải bàn, nhưng tôi tin chắc rằng tại phiên tòa sắp tới họ sẽ bỏ qua những điều đó, dù có lập luận gì nữa thì người ta cũng bỏ!
Bây giờ nếu chúng ta xét theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, vì nói rằng chúng ta đang theo chủ nghĩa Mác mà, Mác nói rằng đấu tranh giữa các mặt đối lập là động lực của sự phát triển của xã hội. Vậy thì ở đây nếu có những quan điểm đối lập thì chúng ta phải cùng giải quyết, phải cùng mổ xẻ nó ra để thúc đẩy cho xã hội phát triển, chứ tại sao lại phải chỉ có một quan điểm duy nhất, và ai nói khác đi với quan điểm đó thì cho đó là phạm tội, là tuyên truyền chống phá? Điều đó chính là đã chống lại chủ nghĩa Mác.
Ngay chính như Đảng CSVN cũng nói rằng đấu tranh phê và tự phê là động lực của sự phát triển, nhưng nếu có người phê bình thì lại cho rằng người ta phạm tội, là chống lại đường lối. Trong vấn đề về đa nguyên đa đảng, tôi rất tán đồng quan điểm của đồng chí Nguyễn Phú Trọng khi đồng chí còn làm Chủ tịch QH. Khi đó đ/c NPT đã trả lời một phóng viên của báo ở Ấn Độ và nói rằng “ở VN trong giai đoạn hiện nay chúng tôi thấy chưa cần thiết phải đa đảng”; có nghĩa là hiện nay “chưa cần thiết”, như thế sẽ có thời điểm cần thiết. Và cũng đã có nhiều người có cùng quan điểm như anh Vũ vậy, tại sao không bắt và truy tố hết?
Và còn nữa, hiện nay chúng ta đang có phong trào học tập tấm gương Bác Hồ, thì Bác đã nói rằng “Đảng ta là đảng cầm quyền”, chứ Bác đâu có nói là đảng độc quyền đâu, đâu có nói độc đảng đâu?
Anh Vũ nêu lên một quan điểm như vậy, nếu như tôi là một lãnh đạo, tôi sẽ đưa quan điểm đó ra mổ xẻ, thảo luận ở những cơ quan nghiên cứu như Viện Mác - Lênin, Viện Triết học… để tranh luận với nhau và để đi đến một kết luận thống nhất, chứ tại sao khi người ta vừa đưa quan điểm đối lập thì lại cho là người ta chống? Nếu hành xử như vậy thì xã hội sẽ không bao giờ phát triển được. Nói trái là phải đi trái, nói phải là phải đi phải thì bao giờ xã hội mới phát triển được?
Một điều nữa là hiện nay, chúng ta đang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, và chính ngay Đại hội Đảng vừa qua cũng đã nói đến quyền sở hữu, nếu khái niệm về quyền sở hữu theo quan niệm của CNXH là công hữu nhà nước về tư liệu sản xuất, thì vừa rồi cũng tranh luận và cuối cùng đã phải bỏ, thì tại sao có những quan điểm đang tranh luận, đang xem xét, đang giải quyết với nhau mà lại đưa ra truy tố như vậy?
Một vấn đề nữa là theo chủ nghĩa Mác, tôi không nói gì khác ngoài chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Mác nói rằng: chính cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng luôn luôn đi sau cơ sở hạ tầng và nếu không thay đổi nó thì nó sẽ kìm hãm những động lực phát triển của cơ sở hạ tầng, còn khi cơ sở hạ tầng phát triển thì buộc kiến trúc thượng tầng phải thay đổi theo. Đó là quan điểm biện chứng giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng theo chủ nghĩa Mác. Rõ ràng với một nền kinh tế đa thành phần, đa loại hình sở hữu như chúng ta, các thiết chế về mặt xã hội, tổ chức nhà nước, thể chế chính trị phải theo các hình thức của cơ sở hạ tầng như quan điểm của chủ nghĩa Mác chứ. Thế tại sao khi anh Vũ đưa ra một quan điểm như vậy thì gọi là chống? Chúng ta phải căn cứ vào pháp luật, căn cứ vào đường lối của Đảng, căn cứ vào ý nguyện của người dân và với sự hòa hợp của dân tộc với văn minh của nhân loại để xem xét một hành vi, chứ không phải theo ý chí của những người đang cầm quyền.
- BVN: Như vậy theo phân tích của Luật sư thì dựa vào luật pháp VN, dựa vào các công ước quốc tế mà VN đã tham gia, dựa vào cả quan điểm của chủ nghĩa Mác, và vào tư tưởng Hồ Chí Minh thì ông CHHV không có tội?
- LS Trần Đình Triển: Vâng đúng vậy. Không những không có tội mà đó còn là những suy nghĩ và hành động rất tiến bộ và rất đáng khen.
- BVN: Trong phiên tòa sắp tới Luật sư dự đoán người ta sẽ xử ông CHHV như thế nào?
- LS Trần Đình Triển: Người ta sẽ vẫn xử anh Vũ có tội, bất chấp các luận điểm tôi vừa nêu trên. Và với thực tại như xã hội hiện nay, tôi dự đoán người ta sẽ xử CHHV với mức án 4 – 6 năm tù. Việc họ xử anh CHHV có tội sẽ lại càng khẳng định việc anh CHHV đòi đổi mới là đúng. Tôi cho rằng lịch sử rồi sẽ xét để khẳng định rằng anh Vũ đúng, quan điểm của tôi đúng.
- BVN: Với thực tế như thế, với dự kiến kết quả của phiên tòa sẽ như thế thì đó là một điều đáng buồn cho xã hội hiện nay phải không thưa ông?
- LS Trần Đình Triển: Vâng, không chỉ buồn mà tôi còn thấy vừa nhục, vừa đau.
- BVN: Bauxite Việt Nam xin chia sẻ tâm trạng của Luật sư, khi bào chữa cho thân chủ mình, biết thân chủ mình không sai, nắm chắc phần phải, nhưng không thể bảo vệ quyền lợi cho thân chủ mình, vì thật ra phiên tòa như thường lệ sẽ không hề căn cứ trên sự tranh tụng để tìm ra chân lý, mà bản án đã có sẵn.
- LS Trần Đình Triển: Tôi đoán được tất cả mọi việc đã được xếp đặt sẵn rồi, cho nên luật sư có nói đúng, có tranh tụng hay đi nữa thì cũng là để cho mọi người bàn luận lại sau này thôi, chứ để thay đổi được phiên tòa trong bối cảnh hiện nay là điều không tưởng. Bản án đã có sẵn. Tuy nhiên, trong vụ án này, tôi hoàn toàn cảm thông với các điều tra viên, kiểm sát viên và hội đồng xét xử.
- BVN: Xin cám ơn Luật sư đã dành thời gian để trả lời phỏng vấn.
Bauxite Việt Nam
- BVN: Xin Luật sư cho biết trong phiên tòa sắp tới liên quan đến ông CHHV có bao nhiêu LS được tham gia bào chữa? Là luật sư bào chữa cho ông CHHV, có điều gì làm LS trăn trở không?
- LS Trần Đình Triển: Số lượng LS tham gia bào chữa là do anh Vũ và gia đình mời và phải đươc Tòa án ND TP Hà Nội chấp thuận, điều này tôi không biết chính xác. BVN có thể hỏi chị Dương Hà để biết cụ thể hơn.
Tôi được anh Vũ và gia đình mời tham gia bào chữa. Đồng thời, đó cũng là trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, vì tôi và anh Vũ là cùng quê, trong cuôc sống thường nhật thân thiện như anh em trong nhà, do đó về đạo lý của dân tộc Việt Nam "Một con ngựa đau cả đàn bỏ cỏ, chị ngã em nâng, lá lành đùm lá rách, tối lửa tắt đèn có nhau”...; trong khúc hát của người xứ Nghệ có lời trách móc thấm đượm nghĩa tình "ngái ngôi chi mà anh nỏ về", hoặc có câu đã trở thành chân lý "rằng qua cơn hoạn nạn, rằng mới hiểu lòng nhau"; mặt khác, Hiến pháp, Bộ Luật hình sự, Bộ Luật tố tụng hình sự và Luật Luật sư,... khuyến khích và cho phép, đồng thời xác định trách nhiệm của luật sư phải góp phần bảo vệ công lý. Pháp luật là vậy, nghĩa tình là vậy, nhưng khi tôi nhận lời bào chữa cho anh CHHV thì rơi vãi đâu đó lời: là Luật sư phản động – đau lắm và buồn lắm quý vị ạ (trong quãng đường hoạt động vẻ vang của Bác Hồ có sự đóng góp của luật sư đó chứ). Tôi đã được Chánh án Tòa án Nhân dân TP. Hà Nội cấp giấy chứng nhận bào chữa cho anh CHHV, hôm nay tôi đã nhận được giấy thông báo của Tòa về phiên xử sơ thẩm, đó là vào 8 giờ ngày 24 tháng 3 này.
- BVN: Hiện nay người ta đang truy tố ông CHHV căn cứ vào các bài viết và các bài trả lời phỏng vấn của ông ấy. Thế theo luật pháp Việt Nam và các công ước quốc tế mà VN đã ký kết tham gia thì theo Luật sư, ông CHHV có tội hay không?
- LS Trần Đình Triển: Tôi đã nói rõ quan điểm của tôi rất nhiều lần là anh CHHV không có tội.
Trước hết ta phải xem xét đến động cơ và mục đích. Nếu xem xét một hành vi thì phải xem động cơ và mục đích của người thực hiện hành vi đó. Xem xét những quan điểm của anh Vũ đã nêu hay những bài viết của anh Vũ, tôi nhận thấy trong đó có những vụ việc anh đi vào cụ thể, kiến nghị vào những cái cụ thể, có những điều anh đưa ra như một luận điểm khoa học. Nếu người ta đi vào cái cụ thể để kiến nghị cái cụ thể thì không được khái quát thành cái chung.
Cái thứ hai là về việc chống nhà nước XHCNVN thì quan điểm của tôi là: khái niệm về CNXH là một khái niệm đang còn trừu tượng, đang được bàn luận rất nhiều kể cả về học thuật ở nhiều nước trên thế giới. Chúng ta hãy xem đó như một học thuyết. Có những học thuyết nếu có những quan điểm tốt thì ta áp dụng, còn nếu những quan điểm chưa chuẩn xác hay thậm chí đang còn là trừu tượng hay thậm chí đang là viễn tưởng, như khoa học viễn tưởng, thì chúng ta không nên mơ mộng vào đó, và hãy hiểu rằng chúng ta đang đi theo một khoa học viễn tưởng mà thôi. Tôi giả định nếu khái niệm nhà nước CHXHCN VN là của dân, do dân và vì dân là sự thật, thì những quan điểm và bài viết được nêu ở cáo trạng của anh Vũ nó chống lại của dân, chống lại do dân và chống lại vì dân ở đâu? Hậu quả ở đâu? Một hành vi phạm tội phải có nguyên nhân, hậu quả và mối quan hệ nhân quả. Hậu quả là cái gì? Ở đây hậu quả chỉ thấy nêu là các ý kiến tập hợp của Sở Văn hóa Thông tin đưa sang mà chưa thấy hậu quả cụ thể gì cả, thế thì mối quan hệ nhân quả nó ở đâu? Tôi chưa nói là nếu chúng ta đã tham gia các công ước quốc tế thì trong quy định pháp luật chúng ta về các điều ước quốc tế, trong bộ luật tố tụng hình sự, trong bộ luật ban hành quy phạm pháp luật cũng nói nếu có điều gì trái với các công ước quốc tế mà chúng ta đã tham gia thì phải thực hiện theo các điều của các công ước quốc tế đó. Những điều này khỏi phải bàn, nhưng tôi tin chắc rằng tại phiên tòa sắp tới họ sẽ bỏ qua những điều đó, dù có lập luận gì nữa thì người ta cũng bỏ!
Bây giờ nếu chúng ta xét theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, vì nói rằng chúng ta đang theo chủ nghĩa Mác mà, Mác nói rằng đấu tranh giữa các mặt đối lập là động lực của sự phát triển của xã hội. Vậy thì ở đây nếu có những quan điểm đối lập thì chúng ta phải cùng giải quyết, phải cùng mổ xẻ nó ra để thúc đẩy cho xã hội phát triển, chứ tại sao lại phải chỉ có một quan điểm duy nhất, và ai nói khác đi với quan điểm đó thì cho đó là phạm tội, là tuyên truyền chống phá? Điều đó chính là đã chống lại chủ nghĩa Mác.
Ngay chính như Đảng CSVN cũng nói rằng đấu tranh phê và tự phê là động lực của sự phát triển, nhưng nếu có người phê bình thì lại cho rằng người ta phạm tội, là chống lại đường lối. Trong vấn đề về đa nguyên đa đảng, tôi rất tán đồng quan điểm của đồng chí Nguyễn Phú Trọng khi đồng chí còn làm Chủ tịch QH. Khi đó đ/c NPT đã trả lời một phóng viên của báo ở Ấn Độ và nói rằng “ở VN trong giai đoạn hiện nay chúng tôi thấy chưa cần thiết phải đa đảng”; có nghĩa là hiện nay “chưa cần thiết”, như thế sẽ có thời điểm cần thiết. Và cũng đã có nhiều người có cùng quan điểm như anh Vũ vậy, tại sao không bắt và truy tố hết?
Và còn nữa, hiện nay chúng ta đang có phong trào học tập tấm gương Bác Hồ, thì Bác đã nói rằng “Đảng ta là đảng cầm quyền”, chứ Bác đâu có nói là đảng độc quyền đâu, đâu có nói độc đảng đâu?
Anh Vũ nêu lên một quan điểm như vậy, nếu như tôi là một lãnh đạo, tôi sẽ đưa quan điểm đó ra mổ xẻ, thảo luận ở những cơ quan nghiên cứu như Viện Mác - Lênin, Viện Triết học… để tranh luận với nhau và để đi đến một kết luận thống nhất, chứ tại sao khi người ta vừa đưa quan điểm đối lập thì lại cho là người ta chống? Nếu hành xử như vậy thì xã hội sẽ không bao giờ phát triển được. Nói trái là phải đi trái, nói phải là phải đi phải thì bao giờ xã hội mới phát triển được?
Một điều nữa là hiện nay, chúng ta đang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, và chính ngay Đại hội Đảng vừa qua cũng đã nói đến quyền sở hữu, nếu khái niệm về quyền sở hữu theo quan niệm của CNXH là công hữu nhà nước về tư liệu sản xuất, thì vừa rồi cũng tranh luận và cuối cùng đã phải bỏ, thì tại sao có những quan điểm đang tranh luận, đang xem xét, đang giải quyết với nhau mà lại đưa ra truy tố như vậy?
Một vấn đề nữa là theo chủ nghĩa Mác, tôi không nói gì khác ngoài chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Mác nói rằng: chính cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng luôn luôn đi sau cơ sở hạ tầng và nếu không thay đổi nó thì nó sẽ kìm hãm những động lực phát triển của cơ sở hạ tầng, còn khi cơ sở hạ tầng phát triển thì buộc kiến trúc thượng tầng phải thay đổi theo. Đó là quan điểm biện chứng giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng theo chủ nghĩa Mác. Rõ ràng với một nền kinh tế đa thành phần, đa loại hình sở hữu như chúng ta, các thiết chế về mặt xã hội, tổ chức nhà nước, thể chế chính trị phải theo các hình thức của cơ sở hạ tầng như quan điểm của chủ nghĩa Mác chứ. Thế tại sao khi anh Vũ đưa ra một quan điểm như vậy thì gọi là chống? Chúng ta phải căn cứ vào pháp luật, căn cứ vào đường lối của Đảng, căn cứ vào ý nguyện của người dân và với sự hòa hợp của dân tộc với văn minh của nhân loại để xem xét một hành vi, chứ không phải theo ý chí của những người đang cầm quyền.
- BVN: Như vậy theo phân tích của Luật sư thì dựa vào luật pháp VN, dựa vào các công ước quốc tế mà VN đã tham gia, dựa vào cả quan điểm của chủ nghĩa Mác, và vào tư tưởng Hồ Chí Minh thì ông CHHV không có tội?
- LS Trần Đình Triển: Vâng đúng vậy. Không những không có tội mà đó còn là những suy nghĩ và hành động rất tiến bộ và rất đáng khen.
- BVN: Trong phiên tòa sắp tới Luật sư dự đoán người ta sẽ xử ông CHHV như thế nào?
- LS Trần Đình Triển: Người ta sẽ vẫn xử anh Vũ có tội, bất chấp các luận điểm tôi vừa nêu trên. Và với thực tại như xã hội hiện nay, tôi dự đoán người ta sẽ xử CHHV với mức án 4 – 6 năm tù. Việc họ xử anh CHHV có tội sẽ lại càng khẳng định việc anh CHHV đòi đổi mới là đúng. Tôi cho rằng lịch sử rồi sẽ xét để khẳng định rằng anh Vũ đúng, quan điểm của tôi đúng.
- BVN: Với thực tế như thế, với dự kiến kết quả của phiên tòa sẽ như thế thì đó là một điều đáng buồn cho xã hội hiện nay phải không thưa ông?
- LS Trần Đình Triển: Vâng, không chỉ buồn mà tôi còn thấy vừa nhục, vừa đau.
- BVN: Bauxite Việt Nam xin chia sẻ tâm trạng của Luật sư, khi bào chữa cho thân chủ mình, biết thân chủ mình không sai, nắm chắc phần phải, nhưng không thể bảo vệ quyền lợi cho thân chủ mình, vì thật ra phiên tòa như thường lệ sẽ không hề căn cứ trên sự tranh tụng để tìm ra chân lý, mà bản án đã có sẵn.
- LS Trần Đình Triển: Tôi đoán được tất cả mọi việc đã được xếp đặt sẵn rồi, cho nên luật sư có nói đúng, có tranh tụng hay đi nữa thì cũng là để cho mọi người bàn luận lại sau này thôi, chứ để thay đổi được phiên tòa trong bối cảnh hiện nay là điều không tưởng. Bản án đã có sẵn. Tuy nhiên, trong vụ án này, tôi hoàn toàn cảm thông với các điều tra viên, kiểm sát viên và hội đồng xét xử.
- BVN: Xin cám ơn Luật sư đã dành thời gian để trả lời phỏng vấn.
Lời khuyên chân tình
(Điều trần và thỉnh cầu của Bauxite Việt Nam về vụ Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ)
Phiên tòa đầu tiên xét xử Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ với tội danh “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” sẽ được tiến hành vào ngày 24/3. Để bạn đọc hiểu rõ quan điểm của Bauxite Việt Nam về vụ án này, chúng tôi cho đăng lại bài Lời khuyên chân tình, vốn đã được công bố cách đây hai tháng.
Bauxite Việt Nam
Thưa quý vị lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Chúng tôi trân trọng gửi quý vị văn bản này, vừa có lời bàn bạc cùng quý vị, vừa có mấy điều thỉnh cầu quý vị về vụ Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ.
Thưa quý vị,
Những công dân Việt Nam có tinh thần trách nhiệm ở trong nước và nhiều kiều dân Việt Nam ở nước ngoài, cùng với đông đảo bè bạn thuộc nhiều quốc tịch ở khắp nơi trên thế giới, vẫn theo dõi với một nỗi lo lắng sâu sắc vụ bắt và khởi tố Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ.
Nỗi lo lắng này là cho cả hai phía: lo cho sức khỏe của Luật gia Cù Huy Hà Vũ và cái bản án có thể đến với vị Tiến sĩ Luật còn trẻ và sung sức này – nỗi lo lắng đó không chỉ dừng lại ở một phía bên này, nỗi lo lắng cũng hướng sang cả phía những người đang nắm vận mệnh Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ trong tay, lo rằng một hành động khôn ngoan hay thiếu khôn ngoan, một thái độ công minh đúng mực đúng lúc hay một thái độ cố tình đàn áp ông Cù Huy Hà Vũ sẽ để lại hoặc là tiếng khen và lòng biết ơn hoặc là để lại tiếng xấu khó gột rửa trong muôn đời con cháu, hơn thế còn tiếp tục đào sâu hố ngăn cách giữa người quan tâm đến vận mệnh đất nước và kẻ cai trị chỉ bằng quyền lực tuyệt đối.
Chỉ những ai nhắm mắt làm ngơ mới không thấy những hoạt động xã hội của Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ đã đem lại nhiều cảnh báo tích cực cho đời sống xã hội nước ta lâu nay – xin điểm qua một vài vụ việc nổi tiếng cả nước như sau:
- Vụ kiện đòi duy trì cảnh quan đồi Vọng Cảnh Huế chống lại việc xây dựng trục lợi trái phép;
- Vụ phát hiện đàn Âm Hồn tại Thừa Thiên thờ các chiến sĩ trận vong chống giặc Pháp xâm lược từ cuối thế kỷ XIX;
- Vụ nhận cãi cho giáo dân xứ đạo Cồn Dầu Đà Nẵng;
- Vụ kiện rầm trời đất đòi công lý cho bà Mẹ Việt Nam Anh hùng bị mất đất oan ức đến chết ở thành phố Hồ Chí Minh;
- Vụ kiện Trung tướng Vũ Hải Triều về việc vị tướng này tuyên bố công khai tại một hội nghị là đã đánh sập hàng trăm trang mạng;
- Vụ nhận làm cố vấn pháp lý cho trang mạngBauxite Việt Nam đòi ngừng khai thác bô-xit bán nguyên liệu thô của đất nước, cũng như lên tiếng bảo vệ người điều hành trang mạng vô cớ bị lục soát nhà và thẩm vấn vào ngày 13 tháng Giêng năm 2010 và kéo dài trong suốt 22 ngày – tính đến nay vừa tròn một năm; đặc biệt là vụ tự mình dũng cảm khởi kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vì đã ký quyết định khai thác bô-xít vừa sai luật vừa có khả năng tác hại tới cả kinh tế, văn hóa và quốc phòng của đất nước gần như ra đời chỉ ít lâu sau bản Kiến nghị xin ngừng khai thác bô-xít với hàng mấy ngàn chữ ký của trí thức và các tầng lớp dân chúng trong ngoài nước xuất hiện vào ngày 12 tháng Tư năm 2009;
- Và rất nhiều lần phát biểu trên các phương tiện truyền thông cả trong và ngoài nước mà chủ đề không bao giờ đi xa khỏi những lo lắng cho vận mệnh đất nước của một trí thức trẻ…
Thưa quý vị,
Trong bức thư khuyến cáo và thỉnh cầu này, chúng tôi không muốn dừng lại để lập luận rằng Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ đúng hay sai – đúng sai là khái niệm không chỉ tùy thuộc vào “chân lý khách quan” mà còn tùy thuộc vào không gian và thời gian nữa.
Về thời gian, cách nay vài chục năm, thử hỏi có ai dám công khai đăng báo bàn về việc học thuyết có tên gọi chủ nghĩa xã hội và việc xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa là đúng hay sai? Chỉ riêng một ý nghĩ ngờ vực mới thoáng qua trong đầu, mỗi con người định bụng tư duy theo hướng đó đã vội vàng “tự kiểm duyệt bỏ” để tránh tai họa – tấm gương Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Dần… vẫn còn nguyên giá trị cảnh báo.
Về không gian, chỉ cần cách nay mươi năm thôi, thử hỏi nào có ai dám đứng giữa Hội trường Ba Đình tỏ ý nghi ngờ sự trong sáng về đạo đức của vô số người cộng sản, hoặc cất lời phê phán sự thiếu năng lực của cán bộ lãnh đạo do Đảng Cộng sản cắt cử, hoặc dám đặt bút viết ra nhiều điều “trung ngôn nghịch nhĩ” công bố ở trong nước và ở ngoài nước?
Nói thế để thấy các khái niệm khoa học xã hội liên quan đến sự phát triển của đất nước ta đã tự chúng lột xác rất mạnh. Phải là những đầu óc chây ì lắm thì mới khăng khăng cự tuyệt đổi mới cách tư duy, nhờ đó mà có hy vọng đổi mới cách làm việc.
Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ là một trong vô số người Việt Nam thời nay đứng ra tham gia vào những cơ hội lột xác tư duy đó. Chúng tôi không nói Cù Huy Hà Vũ đã “thành công” hay “thắng lợi” – chúng tôi chỉ nói đến sự cảnh báo tích cực đến nhận thức của công chúng Việt Nam đương đại nhờ những bài viết và nhờ cả những hành động của vị Tiến sĩ Luật trẻ tuổi này.
Chúng tôi xin phép đưa ra phân tích ba chi tiết sau đây.
Như mọi người đều biết, vụ đồi Vọng Cảnh ở Huế, nếu không có Cù Huy Hà Vũ và nhiều người khác lên tiếng, và cứ làm ăn theo lối ém nhẹm của Bộ Văn hóa và các giới chức Huế, thì các nhà đầu tư đã vì mối lợi của họ mà làm dân ta mất đi vĩnh viễn một di sản văn hóa vật chất và tinh thần vô giá. Điều trớ trêu, người đứng đầu giới chức ở Huế, đã không động thủ gì để làm điều tốt thì chớ, lại vẫn nhận phần thưởng cao quý vì thành tích học tập đạo đức Bác Hồ, mà hình như Ban chấm giải quên mất rằng kẻ được trao phần thưởng danh dự kia chỉ mới trước đây dăm năm đã bị dư luận cực lực lên án sau khi nhận một cái tát trời giáng của một cô gái trẻ phục vụ nhà hàng vì có hành vi sàm sỡ với cô ta, để rồi cô ta phải chấp nhận lệnh đuổi việc ban hành từ cửa công sấm sét ngay sau đó!
Như mọi người đều biết, vụ kiện cáo đất đai của giáo dân xứ đạo Cồn Dầu và việc đàn áp kinh hoàng người dân đã khiến có người cứ thấy bóng Công An là hoảng loạn, và làm cho nhiều người phải bỏ trốn ra nước ngoài. Trong vụ này, không cấp phép cho Văn phòng Luật sư Cù Huy Hà Vũ tranh biện bảo vệ giáo dân là một việc làm thất sách. Cứ cho là Cù Huy Hà Vũ và giáo dân đã sai và sẽ thua kiện, thì một sự tranh tụng công khai nghiêm chỉnh vẫn giúp xóa tai tiếng một đất nước đang đối diện sự than phiền của nhiều chính phủ cũng như tổ chức phi chính phủ trên thế giới về vấn đề nhân quyền cũng như pháp luật không nghiêm minh.
Việc thứ ba, như mọi người chẳng ai là không rõ, công dân Cù Huy Hà Vũ đã khởi kiện công dân Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Trong việc này, nếu cư xử cao tay và đàng hoàng, Thủ tướng có thể mời “ông nhân sĩ” thuộc dòng họ Cù Huy tới tận nhà mình hoặc tới tận phòng khách cơ quan mình để giải quyết vấn đề đúng sai và hướng xử lý. Tiếc rằng sự việc đã không đi theo hướng lành mạnh đó. Cũng giống như vụ xử lý đối phó với các nhà trí thức của Viện IDS, ông Thủ tướng đã ưng chọn cách xử lý ít sức thuyết phục.
Thưa quý vị,
Không chỉ ít sức thuyết phục, mà hoàn toàn khó thuyết phục là nhà cầm quyền có chính nghĩa khi tìm cách bắt Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ trong vụ việc gán ghép thô kệch với một “gái bán dâm” mà về sau mới lộ ra là một trí thức con nhà lành, và việc “mua dâm bán dâm” mất vệ sinh đó lại đã được một vị Trung tướng vội vã công bố trên truyền hình vào giờ đông người xem nhất.
Như ở bên trên chúng tôi đã trình bày, chúng tôi thực sự lo lắng cho sức khỏe và sinh mệnh của Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ khi ông nằm trong tay những thế lực đã bị Cù Huy Hà Vũ làm bẽ mặt nay có đủ cơ hội trả thù – mặt khác chúng tôi cũng thực sự lo lắng cho uy tín của quý vị nếu để sự việc trôi đi theo chiều hướng xấu, chiều hướng của những việc làm quá thấp so với hành vi nghiêm minh tối thiểu buộc người chức việc nhà nước nào cũng phải có mà vụ hai cái bao cao su “đã qua sử dụng” là một dẫn chứng đáng xấu hổ.
Chúng tôi theo dõi vụ việc và thấy có thông tin rằng việc hỏi cung đã hoàn tất. Chúng tôi xin mạnh dạn góp ý kiến khuyến nghị quý vị:
1./ Căn cứ sức khỏe Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ (ông mắc chứng đau tim), xin thỉnh cầu quý vị ra lệnh cho tạm tha ông Hà Vũ để ông được tại ngoại hầu tra;
2./ Xin quý vị ra lệnh bảo đảm sao cho việc xét xử được công khai, công bằng và văn minh, xứng với một dân tộc vừa kỷ niệm 1.000 năm Thủ đô nước mình.
Chỉ với hai đề xuất như trên, thật ra chúng tôi hoàn toàn không muốn tính những điểm mạnh về nhân thân của bị cáo mà cơ quan pháp luật Việt Nam thường viện đến trước tiên mỗi khi xét xử các quan chức có tội: Luật gia Cù Huy Hà Vũ, con trai của ông bà Cù Huy Cận mà người cha là công thần của chế độ và người mẹ là nữ y tá của cố Chủ tịch Hồ Chí Minh, con nuôi của nhà văn hóa Giải thưởng Hồ Chí Minh thi sĩ Xuân Diệu.
Cho phép chúng tôi nói một lời nói thẳng cuối cùng: một Cù Huy Hà Vũ (dù có là tên “nghịch tử”), thì cũng không tạo thành mối nguy mất nước ta – trái lại, chính sự dốt nát, ngạo mạn và tham lam vô độ mới dẫn tới một vụ Vinashin và sẽ dẫn tới những vụ Vinashin khác vẫn có nhiều khả năng tiếp tục bùng nổ, sẽ đẩy dân tộc nợ nần này vào bàn tay người chủ nợ Bắc Kinh, và đó mới chính là nguy cơ mất nước nhỡn tiền.
Thưa quý vị,
Chúng tôi rất tin tưởng vào sự chính trực của quý vị nên mới viết văn bản này hầu quý vị. Nhưng để đề phòng một thiện chí sẽ được đối xử lại bằng một phản ứng không trông đợi, chúng tôi xin phép công bố văn bản này lên trang mạng của mình. Nếu cả chúng tôi nữa cũng bị đàn áp, thì văn bản này vẫn sẽ còn nguyên giá trị nâng cao nhận thức của người đọc.
Xin kính chào quý vị,
BAUXITE VIỆT NAM
Phiên tòa đầu tiên xét xử Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ với tội danh “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” sẽ được tiến hành vào ngày 24/3. Để bạn đọc hiểu rõ quan điểm của Bauxite Việt Nam về vụ án này, chúng tôi cho đăng lại bài Lời khuyên chân tình, vốn đã được công bố cách đây hai tháng.
Bauxite Việt Nam
Thưa quý vị lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Chúng tôi trân trọng gửi quý vị văn bản này, vừa có lời bàn bạc cùng quý vị, vừa có mấy điều thỉnh cầu quý vị về vụ Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ.
Thưa quý vị,
Những công dân Việt Nam có tinh thần trách nhiệm ở trong nước và nhiều kiều dân Việt Nam ở nước ngoài, cùng với đông đảo bè bạn thuộc nhiều quốc tịch ở khắp nơi trên thế giới, vẫn theo dõi với một nỗi lo lắng sâu sắc vụ bắt và khởi tố Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ.
Nỗi lo lắng này là cho cả hai phía: lo cho sức khỏe của Luật gia Cù Huy Hà Vũ và cái bản án có thể đến với vị Tiến sĩ Luật còn trẻ và sung sức này – nỗi lo lắng đó không chỉ dừng lại ở một phía bên này, nỗi lo lắng cũng hướng sang cả phía những người đang nắm vận mệnh Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ trong tay, lo rằng một hành động khôn ngoan hay thiếu khôn ngoan, một thái độ công minh đúng mực đúng lúc hay một thái độ cố tình đàn áp ông Cù Huy Hà Vũ sẽ để lại hoặc là tiếng khen và lòng biết ơn hoặc là để lại tiếng xấu khó gột rửa trong muôn đời con cháu, hơn thế còn tiếp tục đào sâu hố ngăn cách giữa người quan tâm đến vận mệnh đất nước và kẻ cai trị chỉ bằng quyền lực tuyệt đối.
Chỉ những ai nhắm mắt làm ngơ mới không thấy những hoạt động xã hội của Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ đã đem lại nhiều cảnh báo tích cực cho đời sống xã hội nước ta lâu nay – xin điểm qua một vài vụ việc nổi tiếng cả nước như sau:
- Vụ kiện đòi duy trì cảnh quan đồi Vọng Cảnh Huế chống lại việc xây dựng trục lợi trái phép;
- Vụ phát hiện đàn Âm Hồn tại Thừa Thiên thờ các chiến sĩ trận vong chống giặc Pháp xâm lược từ cuối thế kỷ XIX;
- Vụ nhận cãi cho giáo dân xứ đạo Cồn Dầu Đà Nẵng;
- Vụ kiện rầm trời đất đòi công lý cho bà Mẹ Việt Nam Anh hùng bị mất đất oan ức đến chết ở thành phố Hồ Chí Minh;
- Vụ kiện Trung tướng Vũ Hải Triều về việc vị tướng này tuyên bố công khai tại một hội nghị là đã đánh sập hàng trăm trang mạng;
- Vụ nhận làm cố vấn pháp lý cho trang mạngBauxite Việt Nam đòi ngừng khai thác bô-xit bán nguyên liệu thô của đất nước, cũng như lên tiếng bảo vệ người điều hành trang mạng vô cớ bị lục soát nhà và thẩm vấn vào ngày 13 tháng Giêng năm 2010 và kéo dài trong suốt 22 ngày – tính đến nay vừa tròn một năm; đặc biệt là vụ tự mình dũng cảm khởi kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vì đã ký quyết định khai thác bô-xít vừa sai luật vừa có khả năng tác hại tới cả kinh tế, văn hóa và quốc phòng của đất nước gần như ra đời chỉ ít lâu sau bản Kiến nghị xin ngừng khai thác bô-xít với hàng mấy ngàn chữ ký của trí thức và các tầng lớp dân chúng trong ngoài nước xuất hiện vào ngày 12 tháng Tư năm 2009;
- Và rất nhiều lần phát biểu trên các phương tiện truyền thông cả trong và ngoài nước mà chủ đề không bao giờ đi xa khỏi những lo lắng cho vận mệnh đất nước của một trí thức trẻ…
Thưa quý vị,
Trong bức thư khuyến cáo và thỉnh cầu này, chúng tôi không muốn dừng lại để lập luận rằng Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ đúng hay sai – đúng sai là khái niệm không chỉ tùy thuộc vào “chân lý khách quan” mà còn tùy thuộc vào không gian và thời gian nữa.
Về thời gian, cách nay vài chục năm, thử hỏi có ai dám công khai đăng báo bàn về việc học thuyết có tên gọi chủ nghĩa xã hội và việc xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa là đúng hay sai? Chỉ riêng một ý nghĩ ngờ vực mới thoáng qua trong đầu, mỗi con người định bụng tư duy theo hướng đó đã vội vàng “tự kiểm duyệt bỏ” để tránh tai họa – tấm gương Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Dần… vẫn còn nguyên giá trị cảnh báo.
Về không gian, chỉ cần cách nay mươi năm thôi, thử hỏi nào có ai dám đứng giữa Hội trường Ba Đình tỏ ý nghi ngờ sự trong sáng về đạo đức của vô số người cộng sản, hoặc cất lời phê phán sự thiếu năng lực của cán bộ lãnh đạo do Đảng Cộng sản cắt cử, hoặc dám đặt bút viết ra nhiều điều “trung ngôn nghịch nhĩ” công bố ở trong nước và ở ngoài nước?
Nói thế để thấy các khái niệm khoa học xã hội liên quan đến sự phát triển của đất nước ta đã tự chúng lột xác rất mạnh. Phải là những đầu óc chây ì lắm thì mới khăng khăng cự tuyệt đổi mới cách tư duy, nhờ đó mà có hy vọng đổi mới cách làm việc.
Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ là một trong vô số người Việt Nam thời nay đứng ra tham gia vào những cơ hội lột xác tư duy đó. Chúng tôi không nói Cù Huy Hà Vũ đã “thành công” hay “thắng lợi” – chúng tôi chỉ nói đến sự cảnh báo tích cực đến nhận thức của công chúng Việt Nam đương đại nhờ những bài viết và nhờ cả những hành động của vị Tiến sĩ Luật trẻ tuổi này.
Chúng tôi xin phép đưa ra phân tích ba chi tiết sau đây.
Như mọi người đều biết, vụ đồi Vọng Cảnh ở Huế, nếu không có Cù Huy Hà Vũ và nhiều người khác lên tiếng, và cứ làm ăn theo lối ém nhẹm của Bộ Văn hóa và các giới chức Huế, thì các nhà đầu tư đã vì mối lợi của họ mà làm dân ta mất đi vĩnh viễn một di sản văn hóa vật chất và tinh thần vô giá. Điều trớ trêu, người đứng đầu giới chức ở Huế, đã không động thủ gì để làm điều tốt thì chớ, lại vẫn nhận phần thưởng cao quý vì thành tích học tập đạo đức Bác Hồ, mà hình như Ban chấm giải quên mất rằng kẻ được trao phần thưởng danh dự kia chỉ mới trước đây dăm năm đã bị dư luận cực lực lên án sau khi nhận một cái tát trời giáng của một cô gái trẻ phục vụ nhà hàng vì có hành vi sàm sỡ với cô ta, để rồi cô ta phải chấp nhận lệnh đuổi việc ban hành từ cửa công sấm sét ngay sau đó!
Như mọi người đều biết, vụ kiện cáo đất đai của giáo dân xứ đạo Cồn Dầu và việc đàn áp kinh hoàng người dân đã khiến có người cứ thấy bóng Công An là hoảng loạn, và làm cho nhiều người phải bỏ trốn ra nước ngoài. Trong vụ này, không cấp phép cho Văn phòng Luật sư Cù Huy Hà Vũ tranh biện bảo vệ giáo dân là một việc làm thất sách. Cứ cho là Cù Huy Hà Vũ và giáo dân đã sai và sẽ thua kiện, thì một sự tranh tụng công khai nghiêm chỉnh vẫn giúp xóa tai tiếng một đất nước đang đối diện sự than phiền của nhiều chính phủ cũng như tổ chức phi chính phủ trên thế giới về vấn đề nhân quyền cũng như pháp luật không nghiêm minh.
Việc thứ ba, như mọi người chẳng ai là không rõ, công dân Cù Huy Hà Vũ đã khởi kiện công dân Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Trong việc này, nếu cư xử cao tay và đàng hoàng, Thủ tướng có thể mời “ông nhân sĩ” thuộc dòng họ Cù Huy tới tận nhà mình hoặc tới tận phòng khách cơ quan mình để giải quyết vấn đề đúng sai và hướng xử lý. Tiếc rằng sự việc đã không đi theo hướng lành mạnh đó. Cũng giống như vụ xử lý đối phó với các nhà trí thức của Viện IDS, ông Thủ tướng đã ưng chọn cách xử lý ít sức thuyết phục.
Thưa quý vị,
Không chỉ ít sức thuyết phục, mà hoàn toàn khó thuyết phục là nhà cầm quyền có chính nghĩa khi tìm cách bắt Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ trong vụ việc gán ghép thô kệch với một “gái bán dâm” mà về sau mới lộ ra là một trí thức con nhà lành, và việc “mua dâm bán dâm” mất vệ sinh đó lại đã được một vị Trung tướng vội vã công bố trên truyền hình vào giờ đông người xem nhất.
Như ở bên trên chúng tôi đã trình bày, chúng tôi thực sự lo lắng cho sức khỏe và sinh mệnh của Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ khi ông nằm trong tay những thế lực đã bị Cù Huy Hà Vũ làm bẽ mặt nay có đủ cơ hội trả thù – mặt khác chúng tôi cũng thực sự lo lắng cho uy tín của quý vị nếu để sự việc trôi đi theo chiều hướng xấu, chiều hướng của những việc làm quá thấp so với hành vi nghiêm minh tối thiểu buộc người chức việc nhà nước nào cũng phải có mà vụ hai cái bao cao su “đã qua sử dụng” là một dẫn chứng đáng xấu hổ.
Chúng tôi theo dõi vụ việc và thấy có thông tin rằng việc hỏi cung đã hoàn tất. Chúng tôi xin mạnh dạn góp ý kiến khuyến nghị quý vị:
1./ Căn cứ sức khỏe Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ (ông mắc chứng đau tim), xin thỉnh cầu quý vị ra lệnh cho tạm tha ông Hà Vũ để ông được tại ngoại hầu tra;
2./ Xin quý vị ra lệnh bảo đảm sao cho việc xét xử được công khai, công bằng và văn minh, xứng với một dân tộc vừa kỷ niệm 1.000 năm Thủ đô nước mình.
Chỉ với hai đề xuất như trên, thật ra chúng tôi hoàn toàn không muốn tính những điểm mạnh về nhân thân của bị cáo mà cơ quan pháp luật Việt Nam thường viện đến trước tiên mỗi khi xét xử các quan chức có tội: Luật gia Cù Huy Hà Vũ, con trai của ông bà Cù Huy Cận mà người cha là công thần của chế độ và người mẹ là nữ y tá của cố Chủ tịch Hồ Chí Minh, con nuôi của nhà văn hóa Giải thưởng Hồ Chí Minh thi sĩ Xuân Diệu.
Cho phép chúng tôi nói một lời nói thẳng cuối cùng: một Cù Huy Hà Vũ (dù có là tên “nghịch tử”), thì cũng không tạo thành mối nguy mất nước ta – trái lại, chính sự dốt nát, ngạo mạn và tham lam vô độ mới dẫn tới một vụ Vinashin và sẽ dẫn tới những vụ Vinashin khác vẫn có nhiều khả năng tiếp tục bùng nổ, sẽ đẩy dân tộc nợ nần này vào bàn tay người chủ nợ Bắc Kinh, và đó mới chính là nguy cơ mất nước nhỡn tiền.
Thưa quý vị,
Chúng tôi rất tin tưởng vào sự chính trực của quý vị nên mới viết văn bản này hầu quý vị. Nhưng để đề phòng một thiện chí sẽ được đối xử lại bằng một phản ứng không trông đợi, chúng tôi xin phép công bố văn bản này lên trang mạng của mình. Nếu cả chúng tôi nữa cũng bị đàn áp, thì văn bản này vẫn sẽ còn nguyên giá trị nâng cao nhận thức của người đọc.
Xin kính chào quý vị,
BAUXITE VIỆT NAM
Trung Quốc: Tiền nợ làm ĐSCT "trong tầm kiểm soát"
Trà My (tổng hợp)
Bộ trưởng Sheng khẳng định số tiền nợ 1,8 nghìn tỷ Nhân dân tệ vẫn nằm trong “tầm kiểm soát”.
Tân Bộ trưởng Đường sắt Trung Quốc, ông Sheng Guangzu đã khẳng định rằng nước này sẽ tiếp tục phát triển hệ thống đường sắt cao tốc theo chương trình đã đề ra trước đó. Ông Sheng, người mới lên thay cựu bộ trưởng Liu Zhijun, đã có buổi trả lời phỏng vấn báo chí hôm 8/3 về chiến lược phát triển đường sắt cao tốc của Trung Quốc trong thời gian sắp tới.
Bộ trưởng Sheng khẳng định số tiền nợ 1,8 nghìn tỷ Nhân dân tệ (NDT), vốn được sử dụng phục vụ quá trình xây dựng hệ thống đường sắt cao tốc ở quốc gia đông dân nhất thế giới, vẫn nằm trong “tầm kiểm soát”. Ông cho biết: “Tôi tin rằng thị trường đường sắt cao tốc sẽ trở nên nhộn nhịp hơn khi các dự án đi vào hoạt động”.
Theo kế hoạch, Trung Quốc sẽ mở rộng hệ thống đường sắt cao tốc ở nước này lên 13.000 km vào năm 2012 và 16.000 km vào năm 2020. Tính đến cuối năm 2010, hệ thống này đã đạt chiều dài 8.358 km, dài nhất trên thế giới.
Hiện nay, dư luận Trung Quốc đang lo ngại về khả năng hoạt động của hệ thống đường sắt cao tốc khi giá vé của loại hình phương tiện này thường đắt hơn các dịch vụ truyền thống, thậm chí cả máy bay. Giá vé tàu tuyến từ Vũ Hán tới Quảng Châu là 490 NDT/vé hạng hai và tuyến này bị coi là “đường sắt cổ cồn trắng”, ngụ ý dành riêng cho người có tiền, sau khi nó đi vào hoạt động hồi tháng 12/2009. Trong khi, giá vé giường nằm tuyến Thượng Hải – Thành Đô là 2.330 NDT, gấp hơn hai lần giá vé máy bay cho hành trình tương tự.
Đa số các tuyến đường sắt cao tốc của Trung Quốc đều chưa thể hòa vốn. Tuyến Bắc Kinh-Thiên Tân cần bán được 30 triệu vé mỗi năm mới có thể giải quyết được vấn đề chi phí, nhưng năm ngoái mới có 25 triệu vé được bán ra.
T. M.
Nguồn: bee.net.vn
Bộ trưởng Sheng khẳng định số tiền nợ 1,8 nghìn tỷ Nhân dân tệ vẫn nằm trong “tầm kiểm soát”.
Tân Bộ trưởng Đường sắt Trung Quốc, ông Sheng Guangzu đã khẳng định rằng nước này sẽ tiếp tục phát triển hệ thống đường sắt cao tốc theo chương trình đã đề ra trước đó. Ông Sheng, người mới lên thay cựu bộ trưởng Liu Zhijun, đã có buổi trả lời phỏng vấn báo chí hôm 8/3 về chiến lược phát triển đường sắt cao tốc của Trung Quốc trong thời gian sắp tới.
Bộ trưởng Sheng khẳng định số tiền nợ 1,8 nghìn tỷ Nhân dân tệ (NDT), vốn được sử dụng phục vụ quá trình xây dựng hệ thống đường sắt cao tốc ở quốc gia đông dân nhất thế giới, vẫn nằm trong “tầm kiểm soát”. Ông cho biết: “Tôi tin rằng thị trường đường sắt cao tốc sẽ trở nên nhộn nhịp hơn khi các dự án đi vào hoạt động”.
Theo kế hoạch, Trung Quốc sẽ mở rộng hệ thống đường sắt cao tốc ở nước này lên 13.000 km vào năm 2012 và 16.000 km vào năm 2020. Tính đến cuối năm 2010, hệ thống này đã đạt chiều dài 8.358 km, dài nhất trên thế giới.
Hiện nay, dư luận Trung Quốc đang lo ngại về khả năng hoạt động của hệ thống đường sắt cao tốc khi giá vé của loại hình phương tiện này thường đắt hơn các dịch vụ truyền thống, thậm chí cả máy bay. Giá vé tàu tuyến từ Vũ Hán tới Quảng Châu là 490 NDT/vé hạng hai và tuyến này bị coi là “đường sắt cổ cồn trắng”, ngụ ý dành riêng cho người có tiền, sau khi nó đi vào hoạt động hồi tháng 12/2009. Trong khi, giá vé giường nằm tuyến Thượng Hải – Thành Đô là 2.330 NDT, gấp hơn hai lần giá vé máy bay cho hành trình tương tự.
Đa số các tuyến đường sắt cao tốc của Trung Quốc đều chưa thể hòa vốn. Tuyến Bắc Kinh-Thiên Tân cần bán được 30 triệu vé mỗi năm mới có thể giải quyết được vấn đề chi phí, nhưng năm ngoái mới có 25 triệu vé được bán ra.
T. M.
Nguồn: bee.net.vn
Từ vụ đụng độ tàu Trung Quốc và Philippines: Chiến lược đại hải quân và vùng biển hoà bình
TS Nguyễn Ngọc Trường
Tàu Blue Ridge thuộc hạm đội 7 của Mỹ được điều từ Philippines đến Hong Kong sau khi xảy ra sự kiện bãi Cỏ Rong. Ảnh: Reuters
SGTT.VN - Vụ đụng độ mới đây giữa hai tàu tuần tra của Trung Quốc và một tàu khảo sát dầu khí của Philippines tại khu vực Reed Bank (bãi Cỏ Rong) do Philippines tuyên bố chủ quyền là một phần của bức tranh toàn cảnh chính trị an ninh Đông Á. Giới quan sát đang theo dõi kỹ việc triển khai chiến lược đại hải quân của Trung Quốc ảnh hưởng thế nào đến viễn cảnh Biển Đông, vùng biển hoà bình và hợp tác, mà Trung Quốc đưa ra.
Khi bị tàu Trung Quốc đe doạ, tàu nghiên cứu thuộc bộ Năng lượng Philippines đã yêu cầu lực lượng vũ trang và lực lượng tuần duyên của nước này hỗ trợ. Xung đột đã có thể nổ ra nếu tàu Trung Quốc đâm chìm tàu nghiên cứu Philippines như họ đe doạ. Hai tàu này đã rút lui khi hai máy bay trinh sát quân sự Philippines tới Reed Bank. Liên hệ với giá dầu lửa leo thang do biến động Bắc Phi – Trung Đông, sự cố này quả là có mùi dầu.
Trong sáu tháng đầu năm 2010, công ty Forum Energy (Anh) tiến hành nghiên cứu địa chấn ba chiều ở khu vực xung quanh mỏ khí đốt Sampaguita và địa chấn hai chiều tại những nơi khác trong khu vực Reed Bank. Kết quả cho thấy trữ lượng tiềm năng trong khu vực SC72 là 96 tỉ m3 khí đốt tự nhiên và 440 triệu thùng dầu thô. Philippines đã cấp phép cho công ty Forum tiếp tục việc thăm dò.
Gia tăng các vụ cọ xát trên biển
Về phía Trung Quốc, theo mạng Đa chiều (Hong Kong) ngày 8.3, gần đây Bắc Kinh gia tăng không bình thường các vụ cọ xát trên biển với các nước láng giềng. Ngày 17.2.2011, Việt Nam cực lực phản đối việc Trung Quốc tiến hành diễn tập phòng ngự tại quần đảo Hoàng Sa. Ngày 2.3, Việt Nam lại phản đối cuộc tập trận của hải quân Trung Quốc ngày 24.2 ở Trường Sa. Ngoài vụ “nhũng nhiễu” đối với tàu nghiên cứu của Philippines nêu trên, ngày 3.3, tàu đánh cá của Trung Quốc lại tiến vào vùng biển của Hàn Quốc, dẫn tới sự kiện lần đầu tiên lực lượng cảnh giới biển của Hàn Quốc nổ súng vào ngư dân Trung Quốc. Ngày 9.3, tàu Ngư Chính của Trung Quốc tiến sát quần đảo Senkaku (Điếu Ngư) – là lần thứ tám từ khi xảy ra vụ va chạm trên biển Hoa Đông tháng 9.2010, và là lần thứ ba từ ngày 5.3. Trước đó ít lâu, một máy bay trinh sát và một máy bay do thám của hải quân Trung Quốc tiếp cận không phận đảo Điếu Ngư, buộc Nhật Bản phải điều hai máy bay chiến đấu F-15 lên cảnh giới.
Chiến lược đại hải quân
Nguyên nhân sâu xa là Trung Quốc tiếp tục chính sách thực lực đòi hỏi chủ quyền biển đảo và triển khai chiến lược “đại hải quân”. Từ mấy năm qua, lực lượng tàu ngư chính Trung Quốc đã được bổ sung số lượng và chất lượng hùng hậu để thực hiện tuần tra dài ngày từ biển Hoa Đông tới Biển Đông. Hải quân Trung Quốc tiến hành các cuộc tập trận quy mô chưa từng có, gắn với các tình huống chiến đấu thực tế, phòng vệ duyên hải, huy động nhanh, linh hoạt trong chỉ huy, nhằm kiểm soát các vùng biển kế cận và triển khai hải quân tầm xa. Căn cứ Tam Á (Hải Nam) tiếp tục nâng cấp thành cứ điểm hải quân trọng yếu phục vụ ý đồ tiến ra biển lớn Tây Thái Bình Dương, trong đó có Biển Đông. Các tên lửa diệt hạm và tàu ngầm tấn công đã đặt các lực lượng vũ trang Mỹ ở Đông Á trước thách thức thực tế.
Ngân sách quốc phòng của Trung Quốc năm nay tăng 12,7% thể hiện quyết tâm cao của Bắc Kinh tiếp tục hiện đại hoá năng lực quân sự của họ, phục vụ cuộc tranh chấp và mở rộng ảnh hưởng tại châu Á – Thái Bình Dương. Nó cũng cho thấy ảnh hưởng vượt trội của các tướng lĩnh trong chính trị Trung Quốc. Hải quân tiếp tục được phân chia phần lớn nhất trong “chiếc bánh” ngân sách quốc phòng.
Trung Quốc bước vào thời kỳ “đại hải quân”. Mục tiêu dài hạn là đưa Trung Quốc trở thành siêu cường hàng hải; trung hạn (2010 – 2020) là thành quốc gia hàng hải “bậc trung”. Chi phí cho các chương trình đầy tham vọng này là rất tốn kém. Nước này đang gấp rút đóng hai tàu sân bay có trọng tải khoảng 50.000 – 60.000 tấn để đưa vào sử dụng từ năm 2014 – 2015. Tháng 7 này dự kiến sẽ đưa vào sử dụng tàu sân bay mua của nước ngoài được tân trang để phục vụ huấn luyện. Hiện đại hoá hạm đội tàu ngầm cũng được chú trọng. Theo phương châm hải chiến cổ điển, muốn đánh chìm một chiến hạm thì đơn giản là tạo ra một lỗ thủng dưới đáy tàu. Đó là việc của tàu ngầm trang bị ngư lôi. Vì vậy, các nước Đông Á khác theo gương Trung Quốc hiện đại hoá tàu ngầm. Lầu Năm Góc ước tính, hải quân Trung Quốc có ít nhất 60 tàu ngầm; 12 tàu lớp Kilo mua của Nga đa phần đã cũ, chỉ phục vụ huấn luyện. Đóng các tàu ngầm ít tiếng động là một thách thức công nghệ không dễ vượt qua và cần nhiều tiền. Mỹ vẫn duy trì ưu thế công nghệ trong các lĩnh vực quân sự. Việc tăng đột biến ngân sách quốc phòng trong năm nay phản ánh sự khẩn trương của Trung Quốc, nhằm rút ngắn khoảng cách công nghệ kỹ thuật quân sự của Trung Quốc với Mỹ, Nhật Bản và Nga.
Từ năm 2010, Mỹ điều chỉnh trọng tâm chiến lược quân sự toàn cầu. Nhưng hiện phải đối phó với biến loạn Trung Đông, chiến lược chuyển trọng tâm sang châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ có thể bị phân tâm. Vụ va chạm ngày 2.3 giữa tàu Trung Quốc và Philippines tại Reed Bank thử thách cam kết của Mỹ, do tư lệnh bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ Robert Willard đưa ra tại Manila ngày 22.2, là tiếp tục hỗ trợ Philippines “bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và an ninh, nhất là hỗ trợ việc tuần tra tại Biển Đông”.
Ngày 8.3, phát biểu tại cuộc họp báo chung với Tổng thống Philippines Aquino đang thăm Indonesia, Tổng thống Susilo Yudhoyono, cho biết, với tư cách là chủ tịch luân phiên ASEAN, Indonesia có thể đưa những vấn đề địa chính trị gay cấn, như quần đảo Trường Sa ra trước hội nghị cấp cao ASEAN và cấp cao Đông Á. Tổng thống Aquino nhấn mạnh “sẽ không có chỗ cho một hành động đơn phương tại vùng đặc biệt này”.
Về phía Trung Quốc, thái độ của họ đối với cuộc đàm phán về một bộ quy tắc ứng xử mới về Biển Đông sẽ là phép thử đối với tuyên bố của Thủ tướng Ôn Gia Bảo đưa ra tại hội nghị cấp cao Trung Quốc – ASEAN lần thứ 13 tại Hà Nội, rằng Trung Quốc muốn Biển Đông “thành vùng biển hoà bình và hợp tác”.
N. N. T.
Nguồn: sgtt.vn
Tàu Blue Ridge thuộc hạm đội 7 của Mỹ được điều từ Philippines đến Hong Kong sau khi xảy ra sự kiện bãi Cỏ Rong. Ảnh: Reuters
SGTT.VN - Vụ đụng độ mới đây giữa hai tàu tuần tra của Trung Quốc và một tàu khảo sát dầu khí của Philippines tại khu vực Reed Bank (bãi Cỏ Rong) do Philippines tuyên bố chủ quyền là một phần của bức tranh toàn cảnh chính trị an ninh Đông Á. Giới quan sát đang theo dõi kỹ việc triển khai chiến lược đại hải quân của Trung Quốc ảnh hưởng thế nào đến viễn cảnh Biển Đông, vùng biển hoà bình và hợp tác, mà Trung Quốc đưa ra.
Khi bị tàu Trung Quốc đe doạ, tàu nghiên cứu thuộc bộ Năng lượng Philippines đã yêu cầu lực lượng vũ trang và lực lượng tuần duyên của nước này hỗ trợ. Xung đột đã có thể nổ ra nếu tàu Trung Quốc đâm chìm tàu nghiên cứu Philippines như họ đe doạ. Hai tàu này đã rút lui khi hai máy bay trinh sát quân sự Philippines tới Reed Bank. Liên hệ với giá dầu lửa leo thang do biến động Bắc Phi – Trung Đông, sự cố này quả là có mùi dầu.
Trong sáu tháng đầu năm 2010, công ty Forum Energy (Anh) tiến hành nghiên cứu địa chấn ba chiều ở khu vực xung quanh mỏ khí đốt Sampaguita và địa chấn hai chiều tại những nơi khác trong khu vực Reed Bank. Kết quả cho thấy trữ lượng tiềm năng trong khu vực SC72 là 96 tỉ m3 khí đốt tự nhiên và 440 triệu thùng dầu thô. Philippines đã cấp phép cho công ty Forum tiếp tục việc thăm dò.
Gia tăng các vụ cọ xát trên biển
Về phía Trung Quốc, theo mạng Đa chiều (Hong Kong) ngày 8.3, gần đây Bắc Kinh gia tăng không bình thường các vụ cọ xát trên biển với các nước láng giềng. Ngày 17.2.2011, Việt Nam cực lực phản đối việc Trung Quốc tiến hành diễn tập phòng ngự tại quần đảo Hoàng Sa. Ngày 2.3, Việt Nam lại phản đối cuộc tập trận của hải quân Trung Quốc ngày 24.2 ở Trường Sa. Ngoài vụ “nhũng nhiễu” đối với tàu nghiên cứu của Philippines nêu trên, ngày 3.3, tàu đánh cá của Trung Quốc lại tiến vào vùng biển của Hàn Quốc, dẫn tới sự kiện lần đầu tiên lực lượng cảnh giới biển của Hàn Quốc nổ súng vào ngư dân Trung Quốc. Ngày 9.3, tàu Ngư Chính của Trung Quốc tiến sát quần đảo Senkaku (Điếu Ngư) – là lần thứ tám từ khi xảy ra vụ va chạm trên biển Hoa Đông tháng 9.2010, và là lần thứ ba từ ngày 5.3. Trước đó ít lâu, một máy bay trinh sát và một máy bay do thám của hải quân Trung Quốc tiếp cận không phận đảo Điếu Ngư, buộc Nhật Bản phải điều hai máy bay chiến đấu F-15 lên cảnh giới.
Chiến lược đại hải quân
Nguyên nhân sâu xa là Trung Quốc tiếp tục chính sách thực lực đòi hỏi chủ quyền biển đảo và triển khai chiến lược “đại hải quân”. Từ mấy năm qua, lực lượng tàu ngư chính Trung Quốc đã được bổ sung số lượng và chất lượng hùng hậu để thực hiện tuần tra dài ngày từ biển Hoa Đông tới Biển Đông. Hải quân Trung Quốc tiến hành các cuộc tập trận quy mô chưa từng có, gắn với các tình huống chiến đấu thực tế, phòng vệ duyên hải, huy động nhanh, linh hoạt trong chỉ huy, nhằm kiểm soát các vùng biển kế cận và triển khai hải quân tầm xa. Căn cứ Tam Á (Hải Nam) tiếp tục nâng cấp thành cứ điểm hải quân trọng yếu phục vụ ý đồ tiến ra biển lớn Tây Thái Bình Dương, trong đó có Biển Đông. Các tên lửa diệt hạm và tàu ngầm tấn công đã đặt các lực lượng vũ trang Mỹ ở Đông Á trước thách thức thực tế.
Ngân sách quốc phòng của Trung Quốc năm nay tăng 12,7% thể hiện quyết tâm cao của Bắc Kinh tiếp tục hiện đại hoá năng lực quân sự của họ, phục vụ cuộc tranh chấp và mở rộng ảnh hưởng tại châu Á – Thái Bình Dương. Nó cũng cho thấy ảnh hưởng vượt trội của các tướng lĩnh trong chính trị Trung Quốc. Hải quân tiếp tục được phân chia phần lớn nhất trong “chiếc bánh” ngân sách quốc phòng.
Trung Quốc bước vào thời kỳ “đại hải quân”. Mục tiêu dài hạn là đưa Trung Quốc trở thành siêu cường hàng hải; trung hạn (2010 – 2020) là thành quốc gia hàng hải “bậc trung”. Chi phí cho các chương trình đầy tham vọng này là rất tốn kém. Nước này đang gấp rút đóng hai tàu sân bay có trọng tải khoảng 50.000 – 60.000 tấn để đưa vào sử dụng từ năm 2014 – 2015. Tháng 7 này dự kiến sẽ đưa vào sử dụng tàu sân bay mua của nước ngoài được tân trang để phục vụ huấn luyện. Hiện đại hoá hạm đội tàu ngầm cũng được chú trọng. Theo phương châm hải chiến cổ điển, muốn đánh chìm một chiến hạm thì đơn giản là tạo ra một lỗ thủng dưới đáy tàu. Đó là việc của tàu ngầm trang bị ngư lôi. Vì vậy, các nước Đông Á khác theo gương Trung Quốc hiện đại hoá tàu ngầm. Lầu Năm Góc ước tính, hải quân Trung Quốc có ít nhất 60 tàu ngầm; 12 tàu lớp Kilo mua của Nga đa phần đã cũ, chỉ phục vụ huấn luyện. Đóng các tàu ngầm ít tiếng động là một thách thức công nghệ không dễ vượt qua và cần nhiều tiền. Mỹ vẫn duy trì ưu thế công nghệ trong các lĩnh vực quân sự. Việc tăng đột biến ngân sách quốc phòng trong năm nay phản ánh sự khẩn trương của Trung Quốc, nhằm rút ngắn khoảng cách công nghệ kỹ thuật quân sự của Trung Quốc với Mỹ, Nhật Bản và Nga.
Từ năm 2010, Mỹ điều chỉnh trọng tâm chiến lược quân sự toàn cầu. Nhưng hiện phải đối phó với biến loạn Trung Đông, chiến lược chuyển trọng tâm sang châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ có thể bị phân tâm. Vụ va chạm ngày 2.3 giữa tàu Trung Quốc và Philippines tại Reed Bank thử thách cam kết của Mỹ, do tư lệnh bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ Robert Willard đưa ra tại Manila ngày 22.2, là tiếp tục hỗ trợ Philippines “bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và an ninh, nhất là hỗ trợ việc tuần tra tại Biển Đông”.
Ngày 8.3, phát biểu tại cuộc họp báo chung với Tổng thống Philippines Aquino đang thăm Indonesia, Tổng thống Susilo Yudhoyono, cho biết, với tư cách là chủ tịch luân phiên ASEAN, Indonesia có thể đưa những vấn đề địa chính trị gay cấn, như quần đảo Trường Sa ra trước hội nghị cấp cao ASEAN và cấp cao Đông Á. Tổng thống Aquino nhấn mạnh “sẽ không có chỗ cho một hành động đơn phương tại vùng đặc biệt này”.
Về phía Trung Quốc, thái độ của họ đối với cuộc đàm phán về một bộ quy tắc ứng xử mới về Biển Đông sẽ là phép thử đối với tuyên bố của Thủ tướng Ôn Gia Bảo đưa ra tại hội nghị cấp cao Trung Quốc – ASEAN lần thứ 13 tại Hà Nội, rằng Trung Quốc muốn Biển Đông “thành vùng biển hoà bình và hợp tác”.
N. N. T.
Nguồn: sgtt.vn
Xin lỗi và đổ lỗi
Posted by truongthondlb1
Nguyễn Quang Lập – Thế là đã rõ. Qua sự đổ bể này, ta biết văn hoá ứng xử của một cô bé lớp 9 và văn hoá ứng xử của Nhóm biên tập chương trình Người xây tổ ấm là thế nào, ai sẽ được mọi người thể tất và ai sẽ tiếp tục gây thất vọng người hâm mộ…
Cuối cùng thì Biên tập chương trình “Người xây tổ ấm” của VTV1, chị Kim Ngân, cũng chịu trần tình về chương trình “Mối tình đầu của Lượm”, chương trình đã gây sốc cho hàng triệu khán giả khi đã xây tổ nhầm người, Lượm là một nhân vật không có thật. Cứ tưởng đây là lời nói cuối cùng khép lại tấn bi hài cười ra nước mắt kéo dài cả tuần qua, không ngờ chính nó lại thêm một lần nữa gây sốc. “Trong hơn 2 phút 30 giây, đại diện Nhà đài chỉ kể lại “hành trình” ra đời của Mối tình đầu bất hạnh của cô bé mồ côi, trong đó quy trách nhiệm cho “cô Lượm” là chính, đồng thời lên án sự bịa đặt của cô mà không một tiếng xin lỗi gửi đến khán giả” ( Báo Lao động).
Dễ thấy scandal nói trên, đầu tiên do sai lầm của cô Trần Thuỳ Dương, tác giả bài ““Mối tình của cô bé bụi đời” đăng trên Tintứconline, sau đó là sai lầm của nhóm biên tập Người xây tổ ấm đã biến một hồi ức bịa đặt thành chương trình dành cho những người có thật, bất luận vì lý do gì. Thế nhưng, mặc dù “ lấy làm tiếc khi để xẩy ra sơ suất này” và thừa nhận “Đây cũng là một kinh nghiệm quý báu ”, chị Kim Ngân, đại diện cho nhóm biên tập, đã cố tình bỏ qua một lời xin lỗi.
Lý do để Nhóm biên tập không xin lỗi, theo chị Kim Ngân, là vì “ tin tưởng vào bản cam kết của nhân vật Lượm với ban tổ chức cuộc thi là câu chuyện này hoàn toàn có thật” và vì “trong suốt thời gian bài dự thi này được đăng tải trên Tintuconline… cho đến khi phát sóng chương trình, nghĩa là hơn 3 tháng chúng tôi không nhận được một phản hồi nào khác với câu chuyện mà Lượm đã kể.” Người ta quá ngạc nhiên về lập luận “chạy tội” kiểu này.
Có hay không một “bản cam kết nhân vật Lượm với ban tổ chức cuộc thi” khi mà toàn bộ Thể lệ cuộc thi “ Mối tình đầu của tôi” không có một chữ nào yêu cầu tác giả phải viết chuyện thật của chính tác giả? Giả sử có bản cam kết ấy và vì tin tưởng vào nó mà nhóm biên tập đã làm một chương trình bịa đặt, thì vô lẽ nhóm biên tập không có lỗi hay sao? Còn lý do thứ hai nghiã là thế nào, vì “không có phản hồi nào” nên nhóm biên tập không chịu trách nhiệm về cái lỗi nói trên? Rõ hài hước, nó giống như một cô gái chửa hoang kêu ca: “ Tôi có chửa chỉ vì từ khi tôi yêu anh ấy đến khi tôi có chửa… không một ai nói với tôi anh ấy lừa tôi.”
Từ việc một MC đã kiên quyết không một lời xin lỗi khi cố tình dịch bịa lời phát biểu của diễn viên Hồng Kông Ngô Ngạn Tổ, trong một chương trình truyền hình trực tiếp đến việc tạo ra một nhân vật Lượm bịa này, cho thấy việc xin lỗi của một số nhân viên Nhà đài là quá khó khăn. Nói như tiến sĩ Khuất Thị Hồng, ở đời “vẫn luôn có một số người nghĩ rằng họ không phải xin lỗi ai cả!” Và cái “ số người” ấy ở Nhà đài là không hiếm, có lẽ họ đã đánh đồng vai trò số 1 của Nhà đài với thân phận của họ chăng?
Để không phải xin lỗi, chị Kim Ngân đã lên án mạnh mẽ cô Trần Thuỳ Dương, rằng “cho dù động cơ của nhân vật Lượm là gì thì đây là hành động không thể chấp nhận được và đáng lên án mạnh mẽ.” Chị Kim Ngân đã đổ lỗi quá muộn, trước đó cô Trần Thùy Dương đã viết thư xin lỗi gửi tới độc giả và khán giả cả nước rồi. Trong bức thư ấy, cô Thuỳ Dương “chỉ ngàn lần vạn lần xin lỗi tất cả mọi người” mà không hề đổ lỗi cho ai hết.
Thế là đã rõ. Qua sự đổ bể này, ta biết văn hoá ứng xử của một cô bé lớp 9 và văn hoá ứng xử của Nhóm biên tập chương trình Người xây tổ ấm là thế nào, ai sẽ được mọi người thể tất và ai sẽ tiếp tục gây thất vọng người hâm mộ.
Nguyễn Quang Lập
http://quechoa.info/2011/03/11/xin-l%E1%BB%97i-va-d%E1%BB%95-l%E1%BB%97i/#more-10106
Nguyễn Quang Lập – Thế là đã rõ. Qua sự đổ bể này, ta biết văn hoá ứng xử của một cô bé lớp 9 và văn hoá ứng xử của Nhóm biên tập chương trình Người xây tổ ấm là thế nào, ai sẽ được mọi người thể tất và ai sẽ tiếp tục gây thất vọng người hâm mộ…
Cuối cùng thì Biên tập chương trình “Người xây tổ ấm” của VTV1, chị Kim Ngân, cũng chịu trần tình về chương trình “Mối tình đầu của Lượm”, chương trình đã gây sốc cho hàng triệu khán giả khi đã xây tổ nhầm người, Lượm là một nhân vật không có thật. Cứ tưởng đây là lời nói cuối cùng khép lại tấn bi hài cười ra nước mắt kéo dài cả tuần qua, không ngờ chính nó lại thêm một lần nữa gây sốc. “Trong hơn 2 phút 30 giây, đại diện Nhà đài chỉ kể lại “hành trình” ra đời của Mối tình đầu bất hạnh của cô bé mồ côi, trong đó quy trách nhiệm cho “cô Lượm” là chính, đồng thời lên án sự bịa đặt của cô mà không một tiếng xin lỗi gửi đến khán giả” ( Báo Lao động).
Dễ thấy scandal nói trên, đầu tiên do sai lầm của cô Trần Thuỳ Dương, tác giả bài ““Mối tình của cô bé bụi đời” đăng trên Tintứconline, sau đó là sai lầm của nhóm biên tập Người xây tổ ấm đã biến một hồi ức bịa đặt thành chương trình dành cho những người có thật, bất luận vì lý do gì. Thế nhưng, mặc dù “ lấy làm tiếc khi để xẩy ra sơ suất này” và thừa nhận “Đây cũng là một kinh nghiệm quý báu ”, chị Kim Ngân, đại diện cho nhóm biên tập, đã cố tình bỏ qua một lời xin lỗi.
Lý do để Nhóm biên tập không xin lỗi, theo chị Kim Ngân, là vì “ tin tưởng vào bản cam kết của nhân vật Lượm với ban tổ chức cuộc thi là câu chuyện này hoàn toàn có thật” và vì “trong suốt thời gian bài dự thi này được đăng tải trên Tintuconline… cho đến khi phát sóng chương trình, nghĩa là hơn 3 tháng chúng tôi không nhận được một phản hồi nào khác với câu chuyện mà Lượm đã kể.” Người ta quá ngạc nhiên về lập luận “chạy tội” kiểu này.
Có hay không một “bản cam kết nhân vật Lượm với ban tổ chức cuộc thi” khi mà toàn bộ Thể lệ cuộc thi “ Mối tình đầu của tôi” không có một chữ nào yêu cầu tác giả phải viết chuyện thật của chính tác giả? Giả sử có bản cam kết ấy và vì tin tưởng vào nó mà nhóm biên tập đã làm một chương trình bịa đặt, thì vô lẽ nhóm biên tập không có lỗi hay sao? Còn lý do thứ hai nghiã là thế nào, vì “không có phản hồi nào” nên nhóm biên tập không chịu trách nhiệm về cái lỗi nói trên? Rõ hài hước, nó giống như một cô gái chửa hoang kêu ca: “ Tôi có chửa chỉ vì từ khi tôi yêu anh ấy đến khi tôi có chửa… không một ai nói với tôi anh ấy lừa tôi.”
Từ việc một MC đã kiên quyết không một lời xin lỗi khi cố tình dịch bịa lời phát biểu của diễn viên Hồng Kông Ngô Ngạn Tổ, trong một chương trình truyền hình trực tiếp đến việc tạo ra một nhân vật Lượm bịa này, cho thấy việc xin lỗi của một số nhân viên Nhà đài là quá khó khăn. Nói như tiến sĩ Khuất Thị Hồng, ở đời “vẫn luôn có một số người nghĩ rằng họ không phải xin lỗi ai cả!” Và cái “ số người” ấy ở Nhà đài là không hiếm, có lẽ họ đã đánh đồng vai trò số 1 của Nhà đài với thân phận của họ chăng?
Để không phải xin lỗi, chị Kim Ngân đã lên án mạnh mẽ cô Trần Thuỳ Dương, rằng “cho dù động cơ của nhân vật Lượm là gì thì đây là hành động không thể chấp nhận được và đáng lên án mạnh mẽ.” Chị Kim Ngân đã đổ lỗi quá muộn, trước đó cô Trần Thùy Dương đã viết thư xin lỗi gửi tới độc giả và khán giả cả nước rồi. Trong bức thư ấy, cô Thuỳ Dương “chỉ ngàn lần vạn lần xin lỗi tất cả mọi người” mà không hề đổ lỗi cho ai hết.
Thế là đã rõ. Qua sự đổ bể này, ta biết văn hoá ứng xử của một cô bé lớp 9 và văn hoá ứng xử của Nhóm biên tập chương trình Người xây tổ ấm là thế nào, ai sẽ được mọi người thể tất và ai sẽ tiếp tục gây thất vọng người hâm mộ.
Nguyễn Quang Lập
http://quechoa.info/2011/03/11/xin-l%E1%BB%97i-va-d%E1%BB%95-l%E1%BB%97i/#more-10106
Đổi tên dân
Posted by truongthondlb1
Nguoivosanmoi (danlambao) – Hội nghị đang ở mức cao trào. Một vị trong chủ tịch đoàn phát biểu: “Chúng ta có nhiều chức danh, tên tuổi đa dạng: giám đốc, tổ trưởng, chủ nhiệm, trưởng ban… rồi tổng… phó… chánh… Ai cũng biết công cuộc đổi mới cần bắt đầu từ nhân dân, mà dân thì có mỗi một cái tên: Quần chúng. Như vậy không công bằng, cần chấn chỉnh, tìm một cái tên khác ngay”.
Hoan hô nhiệt liệt. Một người lên diễn đàn:
- Đặc tính của dân là giản dị. Có sao nói vậy. Xưa nay, chúng ta bảo: dân là chủ. Vậy cứ lấy tên ấy mà kêu.
Nhiều vị gật gù. Song có một ý kiến bàn ra:
- Được thôi. Nhưng như vậy e lãng phí.
- Sao lại lãng phí ? –Tiếng xôn xao nổi lên.
Người nói liền rút máy tính, bấm tanh tách:
- Này nhé, đầu tiên hẳn tính tiền sơn: Rất nhiều nơi tiếp dân, phải kẻ lại thành: Nơi tiếp ông chủ. Bao nhiêu dòng viết: Giảm phiền hà cho dân, phải chữa là Giảm phiền hà cho chủ. Đó là chưa kể những văn bản, những phong trào phải thay đổi, chẳng lẽ Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phải chuyển thành Phát huy quyền làm chủ của ông chủ !
- Ừ nhỉ ! – Cả hội nghị thở dài.
Người nói vẫn chưa chịu ngồi xuống:- Tôi còn chưa dám tính tới những bất tiện khác. Ví dụ: Xin hỏi Hội nghị, người lạ có phải dân không ?
- Có ! – Nhiều ý kiến đồng tình – Chả lẽ dân chỉ toàn người quen sao ?
- Vậy thì giải quyết sao với tấm biển “người lạ cấm vào “? Chữa thành “ Ông chủ cấm vào “ hay sao ?
Im lặng. Nhiều cái chép miệng. Có tiếng than:
- Đúng là đổi mới chẳng dễ chút nào. Càng chẳng nên nóng vội.
- Chưa hết –Đại biểu nọ vẫn tiếp tục – Liệu có nên không nếu cứ gọi tên vài công trình là Nhà nước và ông chủ cùng làm ?
Bỗng thêm một người đứng lên:
Thử tìm cách khác coi. Chúng ta vẫn thường khẳng định: Dân là gốc. Hay dùng luôn tên đó ?Nó có ưu điểm là ngắn gọn, mạnh mẽ và có ý nghĩa.
Ồn ào thảo luận. Một lời bàn:
Ý đó cũng hay, nhưng cần tham khảo Phòng Thuế như thuật ngữ: “Truy thu tận gốc”, chẳng lẽ được hiểu là: Truy thu tận dân ư ?
Một lời bàn khác:
- Vấn đề “giá gốc” hiện nay còn lộn xộn lắm, lúc thấp lúc cao, sẽ có kẻ xuyên tạc dân có lúc lên giá, xuống giá sao ? Còn tín dụng, những người đang đòi “Trả gốc lẫn lãi” sẽ nhân dịp này làm tình hình thêm phức tạp.
Một lời bàn tiếp theo nữa:
- Đúng đấy. Chưa tính bọn suy diễn. Dân là gốc, đương nhiên chúng ta là ngọn, là cành cây, mà tiếng “cây” gần đây mang ý nghĩa xấu…
Trên chủ tịch đoàn có ý kiến đưa xuống:
- Đừng bó hẹp từ Dân trong nghĩa đen. Chúng ta vẫn nói dân sáng suốt. Hay dùng chữ “sáng suốt “đó làm tên ?
- Đại biểu Phòng giáo dục đứng phắt dậy:
- Không. Nói thế làm sao chúng tôi thực hiện được chương trình: Xóa nạn mù chữ trong “sáng suốt” ?
- Nhưng tôi đồng ý. Một trưởng đoàn nghệ thuật kêu to:
- Làm sao có thể kết tội nghệ sĩ là chạy theo thị hiếu tầm thường của sáng suốt được nữa ?
- Tôi cũng đồng ý. Một giám đốc nhà xuất bản reo lên: Khi dân “sáng suốt”, có in sách thế nào cũng không làm họ mất định hướng.
Tranh luận sôi nổi. Một đại biểu chợt nghĩ:
- Theo tôi, để đổi mới, phải đổi mới hoàn toàn. Những cái tên vừa nêu, suy cho cùng, đã từng nghe tới cả. Sao ta không đặt hẳn một cái tên thật đẹp, thật phi thường ? Hãy gọi Dân là “Hoa Hồng“ coi sao ?
- Hay chứ sao ! Nhưng phiền nỗi, đã là hoa thì lúc nở lúc tàn, chẳng lẽ lại phải thêm một chữ “tươi” vào nữa ?
- Đó là chưa kể “Hoa Hồng” sao lại ngủ ngoài đường một số, một số khác lại mọc trong những ngôi nhà thiếu vệ sinh.
- Thôi, không hoa thì chim. Gọi Dân là “Sơn Ca” vậy !
- “Sơn ca” sao có lúc lai nghe nhạc hải ngoại ?
Cứ như thế ba giờ đồng hồ, hội nghị thảo luận không đi tới nhất trí.
Thấy chiều hướng hết thời gian cũng chưa ngả ngủ. Chủ tịch đoàn cắt ngang:
- Thôi, không bàn nữa. Để tôn trọng ý Dân, tốt nhất ta gọi một người vào đây, xem họ muốn đổi tên thành gì ?
Các đại biểu ra đường, tìm mãi mới thấy một người. Người ấy nghe xong rất thông cảm:
- Nếu cái tên khó thế, xin các bác cứ để sau đổi cũng được. Mấy cái dễ là cơm áo, nhà cửa, trường lớp xin các bác đổi trước cho em !
nguoivosanmoi sưu tầm
danlambao1.wordpress.com
Nguoivosanmoi (danlambao) – Hội nghị đang ở mức cao trào. Một vị trong chủ tịch đoàn phát biểu: “Chúng ta có nhiều chức danh, tên tuổi đa dạng: giám đốc, tổ trưởng, chủ nhiệm, trưởng ban… rồi tổng… phó… chánh… Ai cũng biết công cuộc đổi mới cần bắt đầu từ nhân dân, mà dân thì có mỗi một cái tên: Quần chúng. Như vậy không công bằng, cần chấn chỉnh, tìm một cái tên khác ngay”.
Hoan hô nhiệt liệt. Một người lên diễn đàn:
- Đặc tính của dân là giản dị. Có sao nói vậy. Xưa nay, chúng ta bảo: dân là chủ. Vậy cứ lấy tên ấy mà kêu.
Nhiều vị gật gù. Song có một ý kiến bàn ra:
- Được thôi. Nhưng như vậy e lãng phí.
- Sao lại lãng phí ? –Tiếng xôn xao nổi lên.
Người nói liền rút máy tính, bấm tanh tách:
- Này nhé, đầu tiên hẳn tính tiền sơn: Rất nhiều nơi tiếp dân, phải kẻ lại thành: Nơi tiếp ông chủ. Bao nhiêu dòng viết: Giảm phiền hà cho dân, phải chữa là Giảm phiền hà cho chủ. Đó là chưa kể những văn bản, những phong trào phải thay đổi, chẳng lẽ Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phải chuyển thành Phát huy quyền làm chủ của ông chủ !
- Ừ nhỉ ! – Cả hội nghị thở dài.
Người nói vẫn chưa chịu ngồi xuống:- Tôi còn chưa dám tính tới những bất tiện khác. Ví dụ: Xin hỏi Hội nghị, người lạ có phải dân không ?
- Có ! – Nhiều ý kiến đồng tình – Chả lẽ dân chỉ toàn người quen sao ?
- Vậy thì giải quyết sao với tấm biển “người lạ cấm vào “? Chữa thành “ Ông chủ cấm vào “ hay sao ?
Im lặng. Nhiều cái chép miệng. Có tiếng than:
- Đúng là đổi mới chẳng dễ chút nào. Càng chẳng nên nóng vội.
- Chưa hết –Đại biểu nọ vẫn tiếp tục – Liệu có nên không nếu cứ gọi tên vài công trình là Nhà nước và ông chủ cùng làm ?
Bỗng thêm một người đứng lên:
Thử tìm cách khác coi. Chúng ta vẫn thường khẳng định: Dân là gốc. Hay dùng luôn tên đó ?Nó có ưu điểm là ngắn gọn, mạnh mẽ và có ý nghĩa.
Ồn ào thảo luận. Một lời bàn:
Ý đó cũng hay, nhưng cần tham khảo Phòng Thuế như thuật ngữ: “Truy thu tận gốc”, chẳng lẽ được hiểu là: Truy thu tận dân ư ?
Một lời bàn khác:
- Vấn đề “giá gốc” hiện nay còn lộn xộn lắm, lúc thấp lúc cao, sẽ có kẻ xuyên tạc dân có lúc lên giá, xuống giá sao ? Còn tín dụng, những người đang đòi “Trả gốc lẫn lãi” sẽ nhân dịp này làm tình hình thêm phức tạp.
Một lời bàn tiếp theo nữa:
- Đúng đấy. Chưa tính bọn suy diễn. Dân là gốc, đương nhiên chúng ta là ngọn, là cành cây, mà tiếng “cây” gần đây mang ý nghĩa xấu…
Trên chủ tịch đoàn có ý kiến đưa xuống:
- Đừng bó hẹp từ Dân trong nghĩa đen. Chúng ta vẫn nói dân sáng suốt. Hay dùng chữ “sáng suốt “đó làm tên ?
- Đại biểu Phòng giáo dục đứng phắt dậy:
- Không. Nói thế làm sao chúng tôi thực hiện được chương trình: Xóa nạn mù chữ trong “sáng suốt” ?
- Nhưng tôi đồng ý. Một trưởng đoàn nghệ thuật kêu to:
- Làm sao có thể kết tội nghệ sĩ là chạy theo thị hiếu tầm thường của sáng suốt được nữa ?
- Tôi cũng đồng ý. Một giám đốc nhà xuất bản reo lên: Khi dân “sáng suốt”, có in sách thế nào cũng không làm họ mất định hướng.
Tranh luận sôi nổi. Một đại biểu chợt nghĩ:
- Theo tôi, để đổi mới, phải đổi mới hoàn toàn. Những cái tên vừa nêu, suy cho cùng, đã từng nghe tới cả. Sao ta không đặt hẳn một cái tên thật đẹp, thật phi thường ? Hãy gọi Dân là “Hoa Hồng“ coi sao ?
- Hay chứ sao ! Nhưng phiền nỗi, đã là hoa thì lúc nở lúc tàn, chẳng lẽ lại phải thêm một chữ “tươi” vào nữa ?
- Đó là chưa kể “Hoa Hồng” sao lại ngủ ngoài đường một số, một số khác lại mọc trong những ngôi nhà thiếu vệ sinh.
- Thôi, không hoa thì chim. Gọi Dân là “Sơn Ca” vậy !
- “Sơn ca” sao có lúc lai nghe nhạc hải ngoại ?
Cứ như thế ba giờ đồng hồ, hội nghị thảo luận không đi tới nhất trí.
Thấy chiều hướng hết thời gian cũng chưa ngả ngủ. Chủ tịch đoàn cắt ngang:
- Thôi, không bàn nữa. Để tôn trọng ý Dân, tốt nhất ta gọi một người vào đây, xem họ muốn đổi tên thành gì ?
Các đại biểu ra đường, tìm mãi mới thấy một người. Người ấy nghe xong rất thông cảm:
- Nếu cái tên khó thế, xin các bác cứ để sau đổi cũng được. Mấy cái dễ là cơm áo, nhà cửa, trường lớp xin các bác đổi trước cho em !
nguoivosanmoi sưu tầm
danlambao1.wordpress.com
Tiền, lạm phát, đô la và lòng tin
Posted on Tháng Ba 12, 2011 by truongthondlb1
Ngô Nhân Dụng - Những người có hàng tỷ để đổi đô la cũng là những người có thế lực để chạy nhanh hơn đám quần chúng nhân dân thấp cổ bé miệng. Không biết các người có thế, có quyền đang đi tìm cửa nào khác để vẫn chuyển được tiền sang đô la!…
*
Từ 25 thế kỷ trước, Khổng Tử đã nói: Dân vô tín bất lập. Chắc ông cụ có mắt thần nên đã thấy trước tình cảnh của đồng bạc Việt Nam bây giờ. Từ giữa năm 2008 đến nay, đồng tiền Việt Nam đã mất 20% giá trị so với đô la Mỹ.
Trong vòng 14 tháng, tính đến ngày 11 tháng 2 vừa qua, nhà nước đã thay đổi tỷ giá đô la tới 4 lần; trung bình cứ 3 tháng rưỡi lại phá giá đồng bạc một lần.
Vì người dân và các xí nghiệp ở Việt Nam không tin ở giá trị đồng tiền họ kiếm được – phần lớn phải kiếm bằng mồ hôi nước mắt. Dân không tin thì đồng tiền không thể đứng vững, đúng như Khổng Tử nói. Hãy lấy thí dụ một người trên mức trung lưu ở Việt Nam, trước Tết tính mua một chiếc xe Toyota để “thể hiện đẳng cấp” của mình, tách mình ra khỏi đám quần chúng lau nhau cưỡi xe gắn máy. Trước Tết đi hỏi giá, người bán xe đòi 700 triệu đồng bạc Việt Nam. Vợ chồng bàn nhau chưa quyết định được, sau Tết đi coi lại chiếc xe, hỏi đến giá thì nó đã leo lên tới 900 triệu đồng rồi! Ai còn muốn giữ đồng tiền trong mình nữa? Cho nên đua nhau đi mua đô la – dù đồng đô la Mỹ cũng đang xuống giá trên thị trường thế giới! Không mua được đô la ở các ngân hàng thương mại thì người ta đi mua “chợ đen,” gọi là “đen” mặc dù việc mua bán diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật, trong các tiệm vàng.
Người ta mất lòng tin vào đồng tiền vì giá cả tăng vọt, gọi là lạm phát. Trong tháng 2, chỉ số giá cả CPI đã tăng 12.3%. Nhưng tới giờ này mọi người tiên đoán trong tháng 3 mức lạm phát sẽ lên tới 13.5%. Vì ngay từ đầu tháng, giá điện đã tăng 15.3% và giá xăng dầu tăng trung bình 24%. Ở Miến Ðiện năm ngoái dân chúng đã đi biểu tình khi xăng dầu lên giá, kéo theo hàng ngàn nhà sư từ các chùa ra đường, cùng tham dự với dân chúng vào một phong trào chống giá sinh hoạt gia tăng! Ở Việt Nam, xăng dầu và điện là hai món tiêu thụ tăng giá mạnh nhất; nhưng còn nhiều món hàng khác cũng sẽ tăng theo. Ðặc biệt là thực phẩm, trung bình chiếm tới một nửa ngân sách các gia đình. Giới trung lưu và người nghèo còn phải chi hơn 50% vào thực phẩm. Một tổ chức quốc tế, Nomura, mới đưa ra danh sách 25 chính phủ các nước có thể bị dân biểu tình phản đối về giá lương thực và thực phẩm gia tăng. Việt Nam đứng hàng thứ 24 trong danh sách này, mức nguy hiểm thấp như vậy bởi vì Việt Nam vẫn còn là một nước xuất cảng gạo. Nhưng trong số 25 nước kể trên, có những nước như Tunisie (hàng thứ 18), Libya (thứ 16), Ai Cập (thứ 6), Liban (thứ 5), Algerie (thứ 3) thì dân chúng đã biểu tình phản đối chính phủ rồi; ít nhất chính quyền đã bị lật đổ ở 2 nước, Ai Cập và Tunisie.
Ðặc biệt là lợi tức bình quân theo đầu người ở Ai Cập cao gấp hai lần người Việt Nam, và Tunisie cao gấp 4 lần. Khi bị nạn lạm phát nó đạp, nó “xéo” trên mình mãi, không ai biết được lúc nào “con giun” Việt Nam sẽ quằn lên. Biết như vậy, cho nên nhà nước cộng sản đã phải đưa ra nhiều biện pháp chống lạm phát liên tiếp trong mấy tháng nay.
Một quyết định mới ban hành hôm Thứ Ba vừa qua là Ngân Hàng Nhà Nước tăng đồng loạt ba thứ lãi suất căn bản lên 12%. Ðây là lần tăng lãi suất thứ ba kể từ ngày 17 tháng 2, cho thấy toàn thể nhóm người cầm đầu nước Việt Nam đang lo lắng như thế nào. Lo lắng trước cảnh lạm phát sẽ còn tăng thêm nữa, nhưng không ai nhìn thấy một con đường nào rõ rệt để thoát khỏi mối đe dọa lạm phát trong khi vẫn tiếp tục chủ trương đưa tiên cho các doanh nghiệp nhà nuớc làm ăn không hiệu quả! Cả bộ máy điều khiển nền kinh tế nước ta đang bị đẩy vào ngõ bí. Mở sách vở kinh tế học ra, họ đem thử các món võ chống lạm phát cổ điển ai ai cũng biết: Giảm tín dụng, tăng lãi suất, kiểm soát việc mua bán ngoại tệ và vàng, vân vân. Hôm nay họ đưa ra một biện pháp, ngày mai lại thử một biện pháp khác, cứ đem thử, rồi coi bộ máy chạy ra sao, nếu nó không chạy, lại thử một trò mới.
Dù không đi học về kinh tế và không đọc Khổng Tử, ai cũng biết: Ðiều quan trọng nhất lòng tin. Khi một chính quyền loay hoay không làm gì được để ngăn chặn giá cả gia tăng triền miên, thì người dân không còn tin nữa. Trong một bài đề nghị các biện pháp ổn định kinh tế toàn thể (vĩ mô), Tiến Sĩ Trần Du Lịch nhắc đến việc thay đổi hối suất, đã cảnh cáo rằng điều quan trọng nhất là phải “phá vỡ tâm lý lạm phát kỳ vọng,” (tức là lòng người cứ nghĩ rằng tỷ lệ lạm phát sẽ còn nhích lên, nhích lên không biết bao giờ mới ngừng – cũng gọi là kỳ vọng lạm phát). Ông Trần Du Lịch viết: “Ðầu tiên, phải cho thị trường thấy rằng, việc điều chỉnh tỷ giá lần này là ổn định và giữ được giá VND (đồng bạc Việt Nam) như mức hiện nay trong cả năm 2011.” Ở Việt Nam, chính quyền không nghe lời một cố vấn kinh tế của chính họ! Họ giảm giá trị đồng tiền 4 lần trong 14 tháng, mỗi lần giảm một tý. Họ tăng lãi suất cũng theo lối từ từ nhích từng bước một: Trong vòng một tháng tăng 3 lần (ngày 17 tháng 2 tăng một lãi suất từ 9% lên 11%, ngày 22 tháng 2 tăng một lãi suất khác lên 12%, ngày 8 tháng 3 tăng cả ba thứ lên 12%). Hậu quả đầu tiên là người dân cũng như giới kinh doanh, trong nước và ngoại quốc, không ai biết đâu mà lần!
Ðến lần tăng lãi suất cuối cùng này, Ngân Hàng Nhà Nước không đưa ra một lời giải thích nào cả. Mà giới đầu tư quốc tế thì người ta trông vào để tìm hiểu trong tương lai nhà nước Việt Nam sẽ làm gì, muốn biết kinh tế Việt Nam sẽ đi về đâu. Ông Mark Hildebrandt thuộc ngân hàng JP Morgan Chase ở Singapore nhận thấy là quyết định tăng lãi suất mới nhất này “khó hiểu” (puzzling). Trong bức thư gửi cho các khách hàng của mình, Hildebrandt đã viết: “Thị trường không chờ đợi quyết định (tăng lãi suất) này của Ngân Hàng Trung Ương Việt Nam, và Ngân Hàng Trung Ương cũng chưa giải thích gì cả.” Muốn tạo được niềm tin trong giới đầu tư (market confidence), Hildebrandt nhận xét, nhà nước Việt Nam phải “cải thiện trong việc giải thích về cái khung chính sách (policy framework) của họ, truyền đạt cho thị trường biết những quyết định của họ và lý do của các quyết định đó.”
Tại sao Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam đã không làm cái bổn phận tối thiểu này? Có thể vì chính họ cũng không biết gì cả. Không ai có một cái “khung chính sách.” Cũng không biết rõ những lý do tại sao mình phải làm cái gì, vào lúc nào. Cứ theo cái “thực đơn chống lạm phát,” nay làm một tý, mai làm một tý nữa!
Xin nói rõ: Lý do không phải vì các chuyên gia ở Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam không học kinh tế, xin đừng ai nghi oan cho họ. Lý do chính là vì cấp trên của họ, những người nắm quyền tuyệt đối ngồi trong Bộ Chính Trị, không ai dám đưa ra một quyết định nào dứt khoát! Trên mù mờ, ngập ngừng, sợ hãi, thì bên dưới còn biết đâu là lần! Những người nắm quyền tối hậu trên đó không dám dứt khoát mổ xẻ để chữa trị tận cơ cấu cả nền kinh tế nửa tự do, nửa chỉ huy này. Không dám quyết định điều gì có thể làm thiệt thòi tới quý vị quan chức, nhất là những người ngồi trong Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng.
Sách vở kinh tế khắp thế giới không thể đem áp dụng ở Việt Nam được, vì cơ cấu nền kinh tế nước ta chưa thực sự là kinh tế thị trường. Việc tăng lãi suất ở Mỹ có thể tạo ra một tác động dây chuyền, là tất cả các xí nghiệp và tư nhân cùng phản ứng theo một hướng: Họ đều giảm chi tiêu. Vì họ khó vay được tiền dễ dãi như trước. Nhưng ở Việt Nam và Trung Quốc thì khác. Nhà nước Việt Nam định giảm tốc độ gia tăng của tín dụng, từ mức 23% năm ngoái sẽ xuống chỉ còn tăng 20% thôi. Nhưng liệu chỉ tiêu đó có đạt được hay không? Ở bên Tàu người ta đã tăng lãi suất nhiều lần, đã tăng dự trữ tối thiểu ở các ngân hàng thương mại nhiều lần, nhưng vẫn chưa giảm được số nợ mới phát hành và cơn sốt nhà cửa đang đe dọa nổ bùng như bong bóng. Lý do vì các ngân hàng thương mại ở các nước cộng sản không hành động như các ngân hàng tư bản; các xí nghiệp ở đó lại càng khác các nước tư bản. Lãi suất tăng nhưng người ta vẫn đi vay và cho vay thoải mái, vô tư! Bởi vì không ai cần quan tâm đến mức lời lỗ của xí nghiệp hay ngân hàng mình cả! Ðằng nào thì việc thăng quan tiến chức của họ chỉ được đặt trên “quan điểm, lập trường” và sức mạnh của phe cánh, chứ không tùy thuộc con số lời lỗ! Mất chức quản đốc xí nghiệp hay ngân hàng thì có khi họ lại được đưa lên ngồi ở một địa vị khác, an nhàn hoặc béo bở hơn nhiều!
Cứ như thế, kinh tế Việt Nam bước chập chờn trong cảnh tương lai bất định. Ðảng Cộng Sản không thể nghe khuyến cáo của ông Trần Du Lịch: “Nếu chúng ta tăng giá theo kiểu lâu lâu nhích một tí thì chỉ tin đồn thôi cũng khiến không ít người sợ. Thà là tăng một lần rồi giữ ổn định mức tăng đó trong một thời gian dài để người dân, doanh nghiệp có kế hoạch sản xuất, kinh doanh lâu dài của mình. Như vậy, mới có thể chấm dứt được lạm phát kỳ vọng hiện nay.” Ông Sherman Chan, một nhà kinh tế thuộc ngân hàng HSBC ở Hong Kong nhận xét sau lần tăng lãi suất vừa qua ở Việt Nam: “Chúng tôi nghĩ lãi suất sẽ còn tăng thêm nữa. Lý do chính là áp lực lạm phát còn tiếp tục tăng tốc độ (continue to accelerate).”
Bây giờ nhà nước Việt Nam lại đưa ra một quyết định cứng rắn khác: Cấm mua bán đô la. Hiện nay trong dân gian, người ta giữ 22 tỷ rưỡi đô la Mỹ. Trong khi kho dự trữ ngoại tệ của nhà nước chỉ còn từ 10 đến 14 tỷ thôi. Nếu một số bạn hàng bán cho Việt Nam ngưng không cho các nhà nhập cảng ở nước ta mua chịu, hay các chủ nợ không cho tạm ngưng trả tiền lãi nữa, thì con số 14 tỷ đó sẽ tiêu tan trong một tháng. Hỏi các chủ nợ của Vinashin thì biết tại sao người ta không muốn cho người Việt Nam mua chịu hay hoãn trả nợ!
Nhà nước phải thu đô la vào túi. Cho nên đài truyền hình công bố tin bốn người đã bị bắt vì đổi 8 tỷ rưỡi đồng lấy 400,000 đô la. Cho thiên hạ sợ. Tại Hà Nội, các cửa hàng vàng ở phố Trần Nhân Tôn, phố Hà Trung không ai lai vãng mua bán đô la nữa. Các cửa hàng vẫn mua bán đô la với du khách ngoại quốc, họ chỉ là những cái cửa cho những ngân hàng của nhà nước làm ăn thêm. Bây giờ nhà nước “bị đẩy đến chân tường” (backed into a corner theo một nhà phân tích nước ngoài), cấm mua bán đô la là một biện pháp “bắt buộc dân Việt Nam phải dùng tiền Việt Nam!”
Nhưng, đúng như ông Khổng Tử đã nói, điều quan trọng nhất là Lòng Tin. Hồi đầu tháng, ông Trần Du Lịch viết: “Chúng ta phải trả lời được câu hỏi, bao giờ tốc độ tăng giá được kìm lại?” Ðây là nỗi thắc mắc của tất cả mọi người dân, mọi nhà đầu tư người Việt cũng như người ngoại quốc. Nếu người dân không tin ở đồng tiền thì họ sẽ tìm cách chạy. Những người có hàng tỷ để đổi đô la cũng là những người có thế lực để chạy nhanh hơn đám quần chúng nhân dân thấp cổ bé miệng. Không biết các người có thế, có quyền đang đi tìm cửa nào khác để vẫn chuyển được tiền sang đô la! Còn đám người nghèo khổ đang đình công đòi tăng lương khắp nơi cũng biết cách tự bảo vệ trước cảnh lạm phát gia tăng. Không đủ tiền để mua vàng hay đô la, mỗi khi lãnh lương về người ta có thể sẽ đổi ngay tiền lấy các thứ khác. Họ sẽ đi mua gạo, mua dầu, mua đường, mua và tích trữ bất cứ cái gì mà giá trị không bị mất vì chế độ kinh tế thị trường theo định hướng vớ vẩn. Cứ như vậy, thì lạm phát sẽ còn tăng thêm nữa. “Bao giờ tốc độ tăng giá được kìm lại?” Bao giờ lòng người tin tưởng. Như ông Người Buôn Gió mô tả, khi mà người dân nghe nhà nước nói gì cũng nghĩ: “Lại nói như Sản” thì lòng tin rất khó được dựng lại.
Ngô Nhân Dụng
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/?a=127949&z=7
Ngô Nhân Dụng - Những người có hàng tỷ để đổi đô la cũng là những người có thế lực để chạy nhanh hơn đám quần chúng nhân dân thấp cổ bé miệng. Không biết các người có thế, có quyền đang đi tìm cửa nào khác để vẫn chuyển được tiền sang đô la!…
*
Từ 25 thế kỷ trước, Khổng Tử đã nói: Dân vô tín bất lập. Chắc ông cụ có mắt thần nên đã thấy trước tình cảnh của đồng bạc Việt Nam bây giờ. Từ giữa năm 2008 đến nay, đồng tiền Việt Nam đã mất 20% giá trị so với đô la Mỹ.
Trong vòng 14 tháng, tính đến ngày 11 tháng 2 vừa qua, nhà nước đã thay đổi tỷ giá đô la tới 4 lần; trung bình cứ 3 tháng rưỡi lại phá giá đồng bạc một lần.
Vì người dân và các xí nghiệp ở Việt Nam không tin ở giá trị đồng tiền họ kiếm được – phần lớn phải kiếm bằng mồ hôi nước mắt. Dân không tin thì đồng tiền không thể đứng vững, đúng như Khổng Tử nói. Hãy lấy thí dụ một người trên mức trung lưu ở Việt Nam, trước Tết tính mua một chiếc xe Toyota để “thể hiện đẳng cấp” của mình, tách mình ra khỏi đám quần chúng lau nhau cưỡi xe gắn máy. Trước Tết đi hỏi giá, người bán xe đòi 700 triệu đồng bạc Việt Nam. Vợ chồng bàn nhau chưa quyết định được, sau Tết đi coi lại chiếc xe, hỏi đến giá thì nó đã leo lên tới 900 triệu đồng rồi! Ai còn muốn giữ đồng tiền trong mình nữa? Cho nên đua nhau đi mua đô la – dù đồng đô la Mỹ cũng đang xuống giá trên thị trường thế giới! Không mua được đô la ở các ngân hàng thương mại thì người ta đi mua “chợ đen,” gọi là “đen” mặc dù việc mua bán diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật, trong các tiệm vàng.
Người ta mất lòng tin vào đồng tiền vì giá cả tăng vọt, gọi là lạm phát. Trong tháng 2, chỉ số giá cả CPI đã tăng 12.3%. Nhưng tới giờ này mọi người tiên đoán trong tháng 3 mức lạm phát sẽ lên tới 13.5%. Vì ngay từ đầu tháng, giá điện đã tăng 15.3% và giá xăng dầu tăng trung bình 24%. Ở Miến Ðiện năm ngoái dân chúng đã đi biểu tình khi xăng dầu lên giá, kéo theo hàng ngàn nhà sư từ các chùa ra đường, cùng tham dự với dân chúng vào một phong trào chống giá sinh hoạt gia tăng! Ở Việt Nam, xăng dầu và điện là hai món tiêu thụ tăng giá mạnh nhất; nhưng còn nhiều món hàng khác cũng sẽ tăng theo. Ðặc biệt là thực phẩm, trung bình chiếm tới một nửa ngân sách các gia đình. Giới trung lưu và người nghèo còn phải chi hơn 50% vào thực phẩm. Một tổ chức quốc tế, Nomura, mới đưa ra danh sách 25 chính phủ các nước có thể bị dân biểu tình phản đối về giá lương thực và thực phẩm gia tăng. Việt Nam đứng hàng thứ 24 trong danh sách này, mức nguy hiểm thấp như vậy bởi vì Việt Nam vẫn còn là một nước xuất cảng gạo. Nhưng trong số 25 nước kể trên, có những nước như Tunisie (hàng thứ 18), Libya (thứ 16), Ai Cập (thứ 6), Liban (thứ 5), Algerie (thứ 3) thì dân chúng đã biểu tình phản đối chính phủ rồi; ít nhất chính quyền đã bị lật đổ ở 2 nước, Ai Cập và Tunisie.
Ðặc biệt là lợi tức bình quân theo đầu người ở Ai Cập cao gấp hai lần người Việt Nam, và Tunisie cao gấp 4 lần. Khi bị nạn lạm phát nó đạp, nó “xéo” trên mình mãi, không ai biết được lúc nào “con giun” Việt Nam sẽ quằn lên. Biết như vậy, cho nên nhà nước cộng sản đã phải đưa ra nhiều biện pháp chống lạm phát liên tiếp trong mấy tháng nay.
Một quyết định mới ban hành hôm Thứ Ba vừa qua là Ngân Hàng Nhà Nước tăng đồng loạt ba thứ lãi suất căn bản lên 12%. Ðây là lần tăng lãi suất thứ ba kể từ ngày 17 tháng 2, cho thấy toàn thể nhóm người cầm đầu nước Việt Nam đang lo lắng như thế nào. Lo lắng trước cảnh lạm phát sẽ còn tăng thêm nữa, nhưng không ai nhìn thấy một con đường nào rõ rệt để thoát khỏi mối đe dọa lạm phát trong khi vẫn tiếp tục chủ trương đưa tiên cho các doanh nghiệp nhà nuớc làm ăn không hiệu quả! Cả bộ máy điều khiển nền kinh tế nước ta đang bị đẩy vào ngõ bí. Mở sách vở kinh tế học ra, họ đem thử các món võ chống lạm phát cổ điển ai ai cũng biết: Giảm tín dụng, tăng lãi suất, kiểm soát việc mua bán ngoại tệ và vàng, vân vân. Hôm nay họ đưa ra một biện pháp, ngày mai lại thử một biện pháp khác, cứ đem thử, rồi coi bộ máy chạy ra sao, nếu nó không chạy, lại thử một trò mới.
Dù không đi học về kinh tế và không đọc Khổng Tử, ai cũng biết: Ðiều quan trọng nhất lòng tin. Khi một chính quyền loay hoay không làm gì được để ngăn chặn giá cả gia tăng triền miên, thì người dân không còn tin nữa. Trong một bài đề nghị các biện pháp ổn định kinh tế toàn thể (vĩ mô), Tiến Sĩ Trần Du Lịch nhắc đến việc thay đổi hối suất, đã cảnh cáo rằng điều quan trọng nhất là phải “phá vỡ tâm lý lạm phát kỳ vọng,” (tức là lòng người cứ nghĩ rằng tỷ lệ lạm phát sẽ còn nhích lên, nhích lên không biết bao giờ mới ngừng – cũng gọi là kỳ vọng lạm phát). Ông Trần Du Lịch viết: “Ðầu tiên, phải cho thị trường thấy rằng, việc điều chỉnh tỷ giá lần này là ổn định và giữ được giá VND (đồng bạc Việt Nam) như mức hiện nay trong cả năm 2011.” Ở Việt Nam, chính quyền không nghe lời một cố vấn kinh tế của chính họ! Họ giảm giá trị đồng tiền 4 lần trong 14 tháng, mỗi lần giảm một tý. Họ tăng lãi suất cũng theo lối từ từ nhích từng bước một: Trong vòng một tháng tăng 3 lần (ngày 17 tháng 2 tăng một lãi suất từ 9% lên 11%, ngày 22 tháng 2 tăng một lãi suất khác lên 12%, ngày 8 tháng 3 tăng cả ba thứ lên 12%). Hậu quả đầu tiên là người dân cũng như giới kinh doanh, trong nước và ngoại quốc, không ai biết đâu mà lần!
Ðến lần tăng lãi suất cuối cùng này, Ngân Hàng Nhà Nước không đưa ra một lời giải thích nào cả. Mà giới đầu tư quốc tế thì người ta trông vào để tìm hiểu trong tương lai nhà nước Việt Nam sẽ làm gì, muốn biết kinh tế Việt Nam sẽ đi về đâu. Ông Mark Hildebrandt thuộc ngân hàng JP Morgan Chase ở Singapore nhận thấy là quyết định tăng lãi suất mới nhất này “khó hiểu” (puzzling). Trong bức thư gửi cho các khách hàng của mình, Hildebrandt đã viết: “Thị trường không chờ đợi quyết định (tăng lãi suất) này của Ngân Hàng Trung Ương Việt Nam, và Ngân Hàng Trung Ương cũng chưa giải thích gì cả.” Muốn tạo được niềm tin trong giới đầu tư (market confidence), Hildebrandt nhận xét, nhà nước Việt Nam phải “cải thiện trong việc giải thích về cái khung chính sách (policy framework) của họ, truyền đạt cho thị trường biết những quyết định của họ và lý do của các quyết định đó.”
Tại sao Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam đã không làm cái bổn phận tối thiểu này? Có thể vì chính họ cũng không biết gì cả. Không ai có một cái “khung chính sách.” Cũng không biết rõ những lý do tại sao mình phải làm cái gì, vào lúc nào. Cứ theo cái “thực đơn chống lạm phát,” nay làm một tý, mai làm một tý nữa!
Xin nói rõ: Lý do không phải vì các chuyên gia ở Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam không học kinh tế, xin đừng ai nghi oan cho họ. Lý do chính là vì cấp trên của họ, những người nắm quyền tuyệt đối ngồi trong Bộ Chính Trị, không ai dám đưa ra một quyết định nào dứt khoát! Trên mù mờ, ngập ngừng, sợ hãi, thì bên dưới còn biết đâu là lần! Những người nắm quyền tối hậu trên đó không dám dứt khoát mổ xẻ để chữa trị tận cơ cấu cả nền kinh tế nửa tự do, nửa chỉ huy này. Không dám quyết định điều gì có thể làm thiệt thòi tới quý vị quan chức, nhất là những người ngồi trong Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng.
Sách vở kinh tế khắp thế giới không thể đem áp dụng ở Việt Nam được, vì cơ cấu nền kinh tế nước ta chưa thực sự là kinh tế thị trường. Việc tăng lãi suất ở Mỹ có thể tạo ra một tác động dây chuyền, là tất cả các xí nghiệp và tư nhân cùng phản ứng theo một hướng: Họ đều giảm chi tiêu. Vì họ khó vay được tiền dễ dãi như trước. Nhưng ở Việt Nam và Trung Quốc thì khác. Nhà nước Việt Nam định giảm tốc độ gia tăng của tín dụng, từ mức 23% năm ngoái sẽ xuống chỉ còn tăng 20% thôi. Nhưng liệu chỉ tiêu đó có đạt được hay không? Ở bên Tàu người ta đã tăng lãi suất nhiều lần, đã tăng dự trữ tối thiểu ở các ngân hàng thương mại nhiều lần, nhưng vẫn chưa giảm được số nợ mới phát hành và cơn sốt nhà cửa đang đe dọa nổ bùng như bong bóng. Lý do vì các ngân hàng thương mại ở các nước cộng sản không hành động như các ngân hàng tư bản; các xí nghiệp ở đó lại càng khác các nước tư bản. Lãi suất tăng nhưng người ta vẫn đi vay và cho vay thoải mái, vô tư! Bởi vì không ai cần quan tâm đến mức lời lỗ của xí nghiệp hay ngân hàng mình cả! Ðằng nào thì việc thăng quan tiến chức của họ chỉ được đặt trên “quan điểm, lập trường” và sức mạnh của phe cánh, chứ không tùy thuộc con số lời lỗ! Mất chức quản đốc xí nghiệp hay ngân hàng thì có khi họ lại được đưa lên ngồi ở một địa vị khác, an nhàn hoặc béo bở hơn nhiều!
Cứ như thế, kinh tế Việt Nam bước chập chờn trong cảnh tương lai bất định. Ðảng Cộng Sản không thể nghe khuyến cáo của ông Trần Du Lịch: “Nếu chúng ta tăng giá theo kiểu lâu lâu nhích một tí thì chỉ tin đồn thôi cũng khiến không ít người sợ. Thà là tăng một lần rồi giữ ổn định mức tăng đó trong một thời gian dài để người dân, doanh nghiệp có kế hoạch sản xuất, kinh doanh lâu dài của mình. Như vậy, mới có thể chấm dứt được lạm phát kỳ vọng hiện nay.” Ông Sherman Chan, một nhà kinh tế thuộc ngân hàng HSBC ở Hong Kong nhận xét sau lần tăng lãi suất vừa qua ở Việt Nam: “Chúng tôi nghĩ lãi suất sẽ còn tăng thêm nữa. Lý do chính là áp lực lạm phát còn tiếp tục tăng tốc độ (continue to accelerate).”
Bây giờ nhà nước Việt Nam lại đưa ra một quyết định cứng rắn khác: Cấm mua bán đô la. Hiện nay trong dân gian, người ta giữ 22 tỷ rưỡi đô la Mỹ. Trong khi kho dự trữ ngoại tệ của nhà nước chỉ còn từ 10 đến 14 tỷ thôi. Nếu một số bạn hàng bán cho Việt Nam ngưng không cho các nhà nhập cảng ở nước ta mua chịu, hay các chủ nợ không cho tạm ngưng trả tiền lãi nữa, thì con số 14 tỷ đó sẽ tiêu tan trong một tháng. Hỏi các chủ nợ của Vinashin thì biết tại sao người ta không muốn cho người Việt Nam mua chịu hay hoãn trả nợ!
Nhà nước phải thu đô la vào túi. Cho nên đài truyền hình công bố tin bốn người đã bị bắt vì đổi 8 tỷ rưỡi đồng lấy 400,000 đô la. Cho thiên hạ sợ. Tại Hà Nội, các cửa hàng vàng ở phố Trần Nhân Tôn, phố Hà Trung không ai lai vãng mua bán đô la nữa. Các cửa hàng vẫn mua bán đô la với du khách ngoại quốc, họ chỉ là những cái cửa cho những ngân hàng của nhà nước làm ăn thêm. Bây giờ nhà nước “bị đẩy đến chân tường” (backed into a corner theo một nhà phân tích nước ngoài), cấm mua bán đô la là một biện pháp “bắt buộc dân Việt Nam phải dùng tiền Việt Nam!”
Nhưng, đúng như ông Khổng Tử đã nói, điều quan trọng nhất là Lòng Tin. Hồi đầu tháng, ông Trần Du Lịch viết: “Chúng ta phải trả lời được câu hỏi, bao giờ tốc độ tăng giá được kìm lại?” Ðây là nỗi thắc mắc của tất cả mọi người dân, mọi nhà đầu tư người Việt cũng như người ngoại quốc. Nếu người dân không tin ở đồng tiền thì họ sẽ tìm cách chạy. Những người có hàng tỷ để đổi đô la cũng là những người có thế lực để chạy nhanh hơn đám quần chúng nhân dân thấp cổ bé miệng. Không biết các người có thế, có quyền đang đi tìm cửa nào khác để vẫn chuyển được tiền sang đô la! Còn đám người nghèo khổ đang đình công đòi tăng lương khắp nơi cũng biết cách tự bảo vệ trước cảnh lạm phát gia tăng. Không đủ tiền để mua vàng hay đô la, mỗi khi lãnh lương về người ta có thể sẽ đổi ngay tiền lấy các thứ khác. Họ sẽ đi mua gạo, mua dầu, mua đường, mua và tích trữ bất cứ cái gì mà giá trị không bị mất vì chế độ kinh tế thị trường theo định hướng vớ vẩn. Cứ như vậy, thì lạm phát sẽ còn tăng thêm nữa. “Bao giờ tốc độ tăng giá được kìm lại?” Bao giờ lòng người tin tưởng. Như ông Người Buôn Gió mô tả, khi mà người dân nghe nhà nước nói gì cũng nghĩ: “Lại nói như Sản” thì lòng tin rất khó được dựng lại.
Ngô Nhân Dụng
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/?a=127949&z=7
Đừng làm hoen ố lương tâm duy nhất
Posted by truongthondlb1
Trần Quốc Việt (danlambao) – Đây là lời tâm niệm của tôi trong cuộc đời tôi muốn chia xẻ với các bạn đọc: “Từ bước đi chập chững đầu đời đến bước đi run rẩy cuối đời là trập trùng bao lớp sóng đời vỗ dưới chân người. Đôi lúc ta đi không vững, đôi lúc ta đi vô tình bên số phận người khác, đôi lúc ta đi đầu cúi xuống, đôi lúc ta đi đầu ngẩng lên. Vẫn là đi…, chỉ mong sao ta đi theo đúng hướng tiến hoá của lương tâm Con Người.”
Và từ ngày tôi bắt đầu viết và dịch cho đến nay tôi luôn luôn cố gắng đi theo ánh sáng lương tâm soi đường ấy.
Sau khi ra trường đại học, tôi bắt đầu viết các tiểu phẩm. Tiểu phẩm đầu tiên tôi viết về rào cản lý lịch đã ngăn cản biết bao nhiêu người trẻ vào đại học. Tiểu phẩm ấy có tựa đề Sự tích chàng Tử viết về chàng trai tên Tống Ngọc Tử vào thời phong kiến. Tử thi đậu nhưng triều đình không cho lên kinh học tiếp. Ngày ngày trên hòn núi nhỏ Tử đứng nhìn ra biển để hy vọng thấy bóng thuyền của các quan từ kinh đô đến. Cuối cùng Tử biến thành đá. Người làng không dám đặt tên Tống Ngọc Tử cho tượng đá vì sợ triều đình trừng phạt. Họ đặt tên tượng là “Con mong Mẹ về”. Đây là lý do đằng sau cái tên ấy. Tử nghĩa là con. Tử rất mong quan mang giấy báo thi đậu đến cho mình như con mong mẹ về nhà, và quan lại thường được người dân kính sợ cho nên có câu nói “quan chi phụ mẫu”. Thế là cái tên Tống Ngọc Tử biến thành Con Mong Mẹ Về. Dưới bài tiểu phẩm, tôi viết “Theo Trần Hồng Quân Tử” và tên tôi, người chép lại truyện. Bộ trưởng giáo dục thời đó tên Trần Hồng Quân. Còn người thật ngoài đời mà tôi dựa vào đó để viết tiểu phẩm ấy từng được báo Thanh Niên bênh vực tên là Tống Châu Sinh ở Huế. Sinh không được vào đại học vì lý lịch xấu.
Sau khi báo ra hai tuần, Sinh được nhận giấy báo đi học đại học Y Khoa Huế. Tôi không dám nhận công lao của mình đã giúp Sinh vào đại học. Công lao chính là của những người làm báo Thanh Niên hồi ấy. Họ dám nêu ra trường hợp của Sinh, và kêu gọi chính quyền địa phương nên cho Sinh đi học đại học. Tôi không phải là giọt nước cuối cùng làm tràn ly hay cọng rơm cuối cùng làm gãy lưng con lạc đà. Tôi chỉ làm những gì minh nên làm.
Bài tiểu phẩm thứ hai, cũng được đăng trên Thanh Niên, tôi viết về cảnh những người thất nghiệp. Câu chuyện như sau: trong cuộc đua chạy đường trường, người về nhất là cụ già 80 tuổi. Khi ban giám khảo hỏi bí quyết gì giúp cụ thành công không ngờ khi tranh tài với biết bao trai trẻ khác. Quá sững sờ, cụ đáp cụ có biết gì đâu! Rồi cụ phều phào giải thích rằng ngày xưa khi còn thanh niên, cụ có yêu một cô gái gần nhà. Cha cô gái ra điều kiện là khi nào có việc làm đàng hoàng thì ông ta mới gả con gái cho cụ. Do thời buổi việc ít người đông, cụ tìm hoài không ra việc. Năm tháng qua đi hai người vẫn không đến nhau được mà tóc xanh ngày nào giờ thành tóc bạc. Thế rồi một hôm trên đường đi tìm việc, cụ thấy rất có đông người chạy trên đường. Tưởng đâu họ chạy đi xin việc nên cụ cố gắng chạy theo để hy vọng may ra lấy được người yêu hiện vẫn chung thuỷ chờ đợi.
Rồi tôi viết tiểu phẩm thứ ba và cũng gởi cho báo Thanh Niên. Tiểu phẩm này không bao giờ được đăng. Nội dung như sau: các nhà khảo cổ tình cờ phát hiện một nền văn minh rất xưa ở tận sâu trong rừng. Các di vật tìm được chứng tỏ nền văn minh ấy một thời khá phát triến, song không ai biết được nguyên nhân đưa đến sự tàn lụi của nền văn minh này. Nhiều năm sau một nhà khảo cổ tìm thấy một tảng đá rất lớn mà mặt sau của nó có khắc dòng chữ “sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật.” Từ đấy, vì không thể tìm ra lời giải hợp lý khả dĩ nào về sự suy tàn của nền văn minh nên giới khảo cổ tin rằng nền văn minh này chết vì con người thời ấy không làm đúng như khẩu hiệu đươc khắc trên đá.
Đường chân trởi lãng mạn của tuổi trẻ giờ thu hẹp lại vì tôi bắt đầu thấy đường biên giới của tự do gần hơn, lớn hơn, và đáng sợ hơn.
Từ đấy tôi không viết gì nữa vì tôi không muốn thoả hiệp. Tôi bắt đầu dịch bài cho các báo cho đến ngày tôi rời Việt Nam.
Sang đến đất nước đầy nhân ái và cơ hội này, tôi đi học trở lại. Năm cuối ở trường Berkeley, tôi đọc được bài du ký về Tây Tạng của một sinh viên MBA trong đó anh kể rằng anh thấy nhiều người Tây Tạng hay nằm vật ra đường khóc than cho thân phận quê hương. Bài báo khiến tôi bồi hồi xúc động. Tôi liền viết một bài về Tây Tạng trong đó tôi bày tỏ lòng lo lắng của mình về sự đổ vỡ tất yếu của nền văn minh độc đáo này trước làn sóng di dân từ Trung Quốc và trước sự bùng nổ về du lịch. Một khi ngôn ngữ và nền văn hoá lâu đời biến mất thì những thế hệ sau chỉ thấy Tây Tạng qua những di vật sót lại nằm rải rác trong các viện bào tàng Tây Phương. Tôi gởi bài cho tờ báo của trường. Khi tờ báo ra nhiều người Tây Tạng đến cảm ơn tôi đã nói giùm cho họ. Họ đưa tôi đến dùng cơm tối ở một nhà hàng Tây Tạng và rồi đưa tôi đến thăm nhà họ. Họ hỏi tôi có phải tôi là Phật tử và tại sao tôi viết về Tây Tạng. Tuy không theo đạo Phật, tôi vẫn cảm thông cho tình cảnh tưởng chừng như tuyệt vọng của họ và vì thế tôi viết về họ để san sẽ phần nào nỗi đau tinh thần ấy. Tôi nói với họ tôi chỉ làm những gì minh nên làm.
Hôm nay nhìn lại tôi thấy tôi không đi chệch xa con đường ngay thẳng ấy. Sau này trong thời gian cộng tác với Talawas bằng các bài dịch và bài viết tôi cũng đặt ra chuẩn mực và trách nhiệm của mình là chỉ nói lên sự thật.
Người cầm bút trong hoàn cảnh nào chỉ nên viết những gì mình nên viết, và đừng biến đường thẳng của lương tâm và trách nhiệm thành đường xiên xẹo của nguỵ biện và dối trá. Đừng cầm bút nếu những gì mình viết ra là không đúng hay có hại người khác, và nhất là đừng vẩy mực đen tung toé lên tâm hồn trinh bạch của trẻ thơ. Qua từng dòng chữ của mình, mỗi người cầm bút hãy thắp lên từng chiếc que diêm của lương tâm để đẩy xa dần bóng tối của cái ác trong xã hội. Ánh sáng của các đốm lửa nhỏ nhoi mong manh này có thể không đâm thủng bóng tối nhưng ít ra nó cho người ta hy vọng về sự tồn tại của ánh sáng đạo đức và lương tâm trong bóng tối mịt mùng vây bủa quanh mình.
Vì chúng ta chỉ có một lương tâm duy nhất nên chúng ta không thể nào làm hoen ố nó được.
Trần Quốc Việt (danlambao)
Trần Quốc Việt (danlambao) – Đây là lời tâm niệm của tôi trong cuộc đời tôi muốn chia xẻ với các bạn đọc: “Từ bước đi chập chững đầu đời đến bước đi run rẩy cuối đời là trập trùng bao lớp sóng đời vỗ dưới chân người. Đôi lúc ta đi không vững, đôi lúc ta đi vô tình bên số phận người khác, đôi lúc ta đi đầu cúi xuống, đôi lúc ta đi đầu ngẩng lên. Vẫn là đi…, chỉ mong sao ta đi theo đúng hướng tiến hoá của lương tâm Con Người.”
Và từ ngày tôi bắt đầu viết và dịch cho đến nay tôi luôn luôn cố gắng đi theo ánh sáng lương tâm soi đường ấy.
Sau khi ra trường đại học, tôi bắt đầu viết các tiểu phẩm. Tiểu phẩm đầu tiên tôi viết về rào cản lý lịch đã ngăn cản biết bao nhiêu người trẻ vào đại học. Tiểu phẩm ấy có tựa đề Sự tích chàng Tử viết về chàng trai tên Tống Ngọc Tử vào thời phong kiến. Tử thi đậu nhưng triều đình không cho lên kinh học tiếp. Ngày ngày trên hòn núi nhỏ Tử đứng nhìn ra biển để hy vọng thấy bóng thuyền của các quan từ kinh đô đến. Cuối cùng Tử biến thành đá. Người làng không dám đặt tên Tống Ngọc Tử cho tượng đá vì sợ triều đình trừng phạt. Họ đặt tên tượng là “Con mong Mẹ về”. Đây là lý do đằng sau cái tên ấy. Tử nghĩa là con. Tử rất mong quan mang giấy báo thi đậu đến cho mình như con mong mẹ về nhà, và quan lại thường được người dân kính sợ cho nên có câu nói “quan chi phụ mẫu”. Thế là cái tên Tống Ngọc Tử biến thành Con Mong Mẹ Về. Dưới bài tiểu phẩm, tôi viết “Theo Trần Hồng Quân Tử” và tên tôi, người chép lại truyện. Bộ trưởng giáo dục thời đó tên Trần Hồng Quân. Còn người thật ngoài đời mà tôi dựa vào đó để viết tiểu phẩm ấy từng được báo Thanh Niên bênh vực tên là Tống Châu Sinh ở Huế. Sinh không được vào đại học vì lý lịch xấu.
Sau khi báo ra hai tuần, Sinh được nhận giấy báo đi học đại học Y Khoa Huế. Tôi không dám nhận công lao của mình đã giúp Sinh vào đại học. Công lao chính là của những người làm báo Thanh Niên hồi ấy. Họ dám nêu ra trường hợp của Sinh, và kêu gọi chính quyền địa phương nên cho Sinh đi học đại học. Tôi không phải là giọt nước cuối cùng làm tràn ly hay cọng rơm cuối cùng làm gãy lưng con lạc đà. Tôi chỉ làm những gì minh nên làm.
Bài tiểu phẩm thứ hai, cũng được đăng trên Thanh Niên, tôi viết về cảnh những người thất nghiệp. Câu chuyện như sau: trong cuộc đua chạy đường trường, người về nhất là cụ già 80 tuổi. Khi ban giám khảo hỏi bí quyết gì giúp cụ thành công không ngờ khi tranh tài với biết bao trai trẻ khác. Quá sững sờ, cụ đáp cụ có biết gì đâu! Rồi cụ phều phào giải thích rằng ngày xưa khi còn thanh niên, cụ có yêu một cô gái gần nhà. Cha cô gái ra điều kiện là khi nào có việc làm đàng hoàng thì ông ta mới gả con gái cho cụ. Do thời buổi việc ít người đông, cụ tìm hoài không ra việc. Năm tháng qua đi hai người vẫn không đến nhau được mà tóc xanh ngày nào giờ thành tóc bạc. Thế rồi một hôm trên đường đi tìm việc, cụ thấy rất có đông người chạy trên đường. Tưởng đâu họ chạy đi xin việc nên cụ cố gắng chạy theo để hy vọng may ra lấy được người yêu hiện vẫn chung thuỷ chờ đợi.
Rồi tôi viết tiểu phẩm thứ ba và cũng gởi cho báo Thanh Niên. Tiểu phẩm này không bao giờ được đăng. Nội dung như sau: các nhà khảo cổ tình cờ phát hiện một nền văn minh rất xưa ở tận sâu trong rừng. Các di vật tìm được chứng tỏ nền văn minh ấy một thời khá phát triến, song không ai biết được nguyên nhân đưa đến sự tàn lụi của nền văn minh này. Nhiều năm sau một nhà khảo cổ tìm thấy một tảng đá rất lớn mà mặt sau của nó có khắc dòng chữ “sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật.” Từ đấy, vì không thể tìm ra lời giải hợp lý khả dĩ nào về sự suy tàn của nền văn minh nên giới khảo cổ tin rằng nền văn minh này chết vì con người thời ấy không làm đúng như khẩu hiệu đươc khắc trên đá.
Đường chân trởi lãng mạn của tuổi trẻ giờ thu hẹp lại vì tôi bắt đầu thấy đường biên giới của tự do gần hơn, lớn hơn, và đáng sợ hơn.
Từ đấy tôi không viết gì nữa vì tôi không muốn thoả hiệp. Tôi bắt đầu dịch bài cho các báo cho đến ngày tôi rời Việt Nam.
Sang đến đất nước đầy nhân ái và cơ hội này, tôi đi học trở lại. Năm cuối ở trường Berkeley, tôi đọc được bài du ký về Tây Tạng của một sinh viên MBA trong đó anh kể rằng anh thấy nhiều người Tây Tạng hay nằm vật ra đường khóc than cho thân phận quê hương. Bài báo khiến tôi bồi hồi xúc động. Tôi liền viết một bài về Tây Tạng trong đó tôi bày tỏ lòng lo lắng của mình về sự đổ vỡ tất yếu của nền văn minh độc đáo này trước làn sóng di dân từ Trung Quốc và trước sự bùng nổ về du lịch. Một khi ngôn ngữ và nền văn hoá lâu đời biến mất thì những thế hệ sau chỉ thấy Tây Tạng qua những di vật sót lại nằm rải rác trong các viện bào tàng Tây Phương. Tôi gởi bài cho tờ báo của trường. Khi tờ báo ra nhiều người Tây Tạng đến cảm ơn tôi đã nói giùm cho họ. Họ đưa tôi đến dùng cơm tối ở một nhà hàng Tây Tạng và rồi đưa tôi đến thăm nhà họ. Họ hỏi tôi có phải tôi là Phật tử và tại sao tôi viết về Tây Tạng. Tuy không theo đạo Phật, tôi vẫn cảm thông cho tình cảnh tưởng chừng như tuyệt vọng của họ và vì thế tôi viết về họ để san sẽ phần nào nỗi đau tinh thần ấy. Tôi nói với họ tôi chỉ làm những gì minh nên làm.
Hôm nay nhìn lại tôi thấy tôi không đi chệch xa con đường ngay thẳng ấy. Sau này trong thời gian cộng tác với Talawas bằng các bài dịch và bài viết tôi cũng đặt ra chuẩn mực và trách nhiệm của mình là chỉ nói lên sự thật.
Người cầm bút trong hoàn cảnh nào chỉ nên viết những gì mình nên viết, và đừng biến đường thẳng của lương tâm và trách nhiệm thành đường xiên xẹo của nguỵ biện và dối trá. Đừng cầm bút nếu những gì mình viết ra là không đúng hay có hại người khác, và nhất là đừng vẩy mực đen tung toé lên tâm hồn trinh bạch của trẻ thơ. Qua từng dòng chữ của mình, mỗi người cầm bút hãy thắp lên từng chiếc que diêm của lương tâm để đẩy xa dần bóng tối của cái ác trong xã hội. Ánh sáng của các đốm lửa nhỏ nhoi mong manh này có thể không đâm thủng bóng tối nhưng ít ra nó cho người ta hy vọng về sự tồn tại của ánh sáng đạo đức và lương tâm trong bóng tối mịt mùng vây bủa quanh mình.
Vì chúng ta chỉ có một lương tâm duy nhất nên chúng ta không thể nào làm hoen ố nó được.
Trần Quốc Việt (danlambao)
Xin lỗi và đổ lỗi
Nguyễn Quang Lập blog
Cuối cùng thì Biên tập chương trình “Người xây tổ ấm” của VTV1, chị Kim Ngân, cũng chịu trần tình về chương trình “Mối tình đầu của Lượm”, chương trình đã gây sốc cho hàng triệu khán giả khi đã xây tổ nhầm người, Lượm là một nhân vật không có thật. Cứ tưởng đây là lời nói cuối cùng khép lại tấn bi hài cười ra nước mắt kéo dài cả tuần qua, không ngờ chính nó lại thêm một lần nữa gây sốc. “Trong hơn 2 phút 30 giây, đại diện Nhà đài chỉ kể lại “hành trình” ra đời của Mối tình đầu bất hạnh của cô bé mồ côi, trong đó quy trách nhiệm cho “cô Lượm” là chính, đồng thời lên án sự bịa đặt của cô mà không một tiếng xin lỗi gửi đến khán giả” ( Báo Lao động).
Dễ thấy scandal nói trên, đầu tiên do sai lầm của cô Trần Thuỳ Dương, tác giả bài ““Mối tình của cô bé bụi đời” đăng trên Tintứconline, sau đó là sai lầm của nhóm biên tập Người xây tổ ấm đã biến một hồi ức bịa đặt thành chương trình dành cho những người có thật, bất luận vì lý do gì. Thế nhưng, mặc dù “ lấy làm tiếc khi để xẩy ra sơ suất này” và thừa nhận “Đây cũng là một kinh nghiệm quý báu ”, chị Kim Ngân, đại diện cho nhóm biên tập, đã cố tình bỏ qua một lời xin lỗi.
Lý do để Nhóm biên tập không xin lỗi, theo chị Kim Ngân, là vì “ tin tưởng vào bản cam kết của nhân vật Lượm với ban tổ chức cuộc thi là câu chuyện này hoàn toàn có thật” và vì “trong suốt thời gian bài dự thi này được đăng tải trên Tintuconline… cho đến khi phát sóng chương trình, nghĩa là hơn 3 tháng chúng tôi không nhận được một phản hồi nào khác với câu chuyện mà Lượm đã kể.” Người ta quá ngạc nhiên về lập luận “chạy tội” kiểu này.
Có hay không một “bản cam kết nhân vật Lượm với ban tổ chức cuộc thi” khi mà toàn bộ Thể lệ cuộc thi “ Mối tình đầu của tôi” không có một chữ nào yêu cầu tác giả phải viết chuyện thật của chính tác giả? Giả sử có bản cam kết ấy và vì tin tưởng vào nó mà nhóm biên tập đã làm một chương trình bịa đặt, thì vô lẽ nhóm biên tập không có lỗi hay sao? Còn lý do thứ hai nghiã là thế nào, vì “không có phản hồi nào” nên nhóm biên tập không chịu trách nhiệm về cái lỗi nói trên? Rõ hài hước, nó giống như một cô gái chửa hoang kêu ca: “ Tôi có chửa chỉ vì từ khi tôi yêu anh ấy đến khi tôi có chửa… không một ai nói với tôi anh ấy lừa tôi.”
Từ việc một MC đã kiên quyết không một lời xin lỗi khi cố tình dịch bịa lời phát biểu của diễn viên Hồng Kông Ngô Ngạn Tổ, trong một chương trình truyền hình trực tiếp đến việc tạo ra một nhân vật Lượm bịa này, cho thấy việc xin lỗi của một số nhân viên Nhà đài là quá khó khăn. Nói như tiến sĩ Khuất Thị Hồng, ở đời “vẫn luôn có một số người nghĩ rằng họ không phải xin lỗi ai cả!” Và cái “ số người” ấy ở Nhà đài là không hiếm, có lẽ họ đã đánh đồng vai trò số 1 của Nhà đài với thân phận của họ chăng?
Để không phải xin lỗi, chị Kim Ngân đã lên án mạnh mẽ cô Trần Thuỳ Dương, rằng “cho dù động cơ của nhân vật Lượm là gì thì đây là hành động không thể chấp nhận được và đáng lên án mạnh mẽ.” Chị Kim Ngân đã đổ lỗi quá muộn, trước đó cô Trần Thùy Dương đã viết thư xin lỗi gửi tới độc giả và khán giả cả nước rồi. Trong bức thư ấy, cô Thuỳ Dương “chỉ ngàn lần vạn lần xin lỗi tất cả mọi người” mà không hề đổ lỗi cho ai hết.
Thế là đã rõ. Qua sự đổ bể này, ta biết văn hoá ứng xử của một cô bé lớp 9 và văn hoá ứng xử của Nhóm biên tập chương trình Người xây tổ ấm là thế nào, ai sẽ được mọi người thể tất và ai sẽ tiếp tục gây thất vọng người hâm mộ.
Cuối cùng thì Biên tập chương trình “Người xây tổ ấm” của VTV1, chị Kim Ngân, cũng chịu trần tình về chương trình “Mối tình đầu của Lượm”, chương trình đã gây sốc cho hàng triệu khán giả khi đã xây tổ nhầm người, Lượm là một nhân vật không có thật. Cứ tưởng đây là lời nói cuối cùng khép lại tấn bi hài cười ra nước mắt kéo dài cả tuần qua, không ngờ chính nó lại thêm một lần nữa gây sốc. “Trong hơn 2 phút 30 giây, đại diện Nhà đài chỉ kể lại “hành trình” ra đời của Mối tình đầu bất hạnh của cô bé mồ côi, trong đó quy trách nhiệm cho “cô Lượm” là chính, đồng thời lên án sự bịa đặt của cô mà không một tiếng xin lỗi gửi đến khán giả” ( Báo Lao động).
Dễ thấy scandal nói trên, đầu tiên do sai lầm của cô Trần Thuỳ Dương, tác giả bài ““Mối tình của cô bé bụi đời” đăng trên Tintứconline, sau đó là sai lầm của nhóm biên tập Người xây tổ ấm đã biến một hồi ức bịa đặt thành chương trình dành cho những người có thật, bất luận vì lý do gì. Thế nhưng, mặc dù “ lấy làm tiếc khi để xẩy ra sơ suất này” và thừa nhận “Đây cũng là một kinh nghiệm quý báu ”, chị Kim Ngân, đại diện cho nhóm biên tập, đã cố tình bỏ qua một lời xin lỗi.
Lý do để Nhóm biên tập không xin lỗi, theo chị Kim Ngân, là vì “ tin tưởng vào bản cam kết của nhân vật Lượm với ban tổ chức cuộc thi là câu chuyện này hoàn toàn có thật” và vì “trong suốt thời gian bài dự thi này được đăng tải trên Tintuconline… cho đến khi phát sóng chương trình, nghĩa là hơn 3 tháng chúng tôi không nhận được một phản hồi nào khác với câu chuyện mà Lượm đã kể.” Người ta quá ngạc nhiên về lập luận “chạy tội” kiểu này.
Có hay không một “bản cam kết nhân vật Lượm với ban tổ chức cuộc thi” khi mà toàn bộ Thể lệ cuộc thi “ Mối tình đầu của tôi” không có một chữ nào yêu cầu tác giả phải viết chuyện thật của chính tác giả? Giả sử có bản cam kết ấy và vì tin tưởng vào nó mà nhóm biên tập đã làm một chương trình bịa đặt, thì vô lẽ nhóm biên tập không có lỗi hay sao? Còn lý do thứ hai nghiã là thế nào, vì “không có phản hồi nào” nên nhóm biên tập không chịu trách nhiệm về cái lỗi nói trên? Rõ hài hước, nó giống như một cô gái chửa hoang kêu ca: “ Tôi có chửa chỉ vì từ khi tôi yêu anh ấy đến khi tôi có chửa… không một ai nói với tôi anh ấy lừa tôi.”
Từ việc một MC đã kiên quyết không một lời xin lỗi khi cố tình dịch bịa lời phát biểu của diễn viên Hồng Kông Ngô Ngạn Tổ, trong một chương trình truyền hình trực tiếp đến việc tạo ra một nhân vật Lượm bịa này, cho thấy việc xin lỗi của một số nhân viên Nhà đài là quá khó khăn. Nói như tiến sĩ Khuất Thị Hồng, ở đời “vẫn luôn có một số người nghĩ rằng họ không phải xin lỗi ai cả!” Và cái “ số người” ấy ở Nhà đài là không hiếm, có lẽ họ đã đánh đồng vai trò số 1 của Nhà đài với thân phận của họ chăng?
Để không phải xin lỗi, chị Kim Ngân đã lên án mạnh mẽ cô Trần Thuỳ Dương, rằng “cho dù động cơ của nhân vật Lượm là gì thì đây là hành động không thể chấp nhận được và đáng lên án mạnh mẽ.” Chị Kim Ngân đã đổ lỗi quá muộn, trước đó cô Trần Thùy Dương đã viết thư xin lỗi gửi tới độc giả và khán giả cả nước rồi. Trong bức thư ấy, cô Thuỳ Dương “chỉ ngàn lần vạn lần xin lỗi tất cả mọi người” mà không hề đổ lỗi cho ai hết.
Thế là đã rõ. Qua sự đổ bể này, ta biết văn hoá ứng xử của một cô bé lớp 9 và văn hoá ứng xử của Nhóm biên tập chương trình Người xây tổ ấm là thế nào, ai sẽ được mọi người thể tất và ai sẽ tiếp tục gây thất vọng người hâm mộ.
Căn bệnh khó chữa
Đỗ Trường -
Mấy ngày nay báo chí trong nước lại đồng loạt đưa tin về
việc Gs Ngô Bảo Châu được cử làm Viện trưởng Toán học,
và hình ảnh các trường đại học băng rôn khẩu hiệu rầm
rộ chào mừng Gs Châu đến giao lưu... tọa đàm. Trí thức
được chào đón nâng niu ai mà chả mát lòng mát ruột. Nhưng
dường như hiện tượng Gs Châu, chúng ta đang đi quá đà.
Tôi có anh bạn cũng là cựu học sinh chuyên toán, học trước
Ngô Bảo Châu trên chục năm. Sau đó anh sang Nga du học, lấy
vợ Nga ở lại, hiện đang làm nghề kinh doanh, hôm rồi sang
Đức chơi, anh bảo:
- Với tôi, việc nghiên cứu toán học của Ngô Bảo Châu sẽ
kém hiệu quả, sau khi nhận giải Felds.
Tôi lấy làm ngạc nhiên, hỏi lại anh:
- Tại sao ông lại nhận định như vậy, có bi quan không đấy?
- Hoàn toàn không bi quan, ông thấy nước nào có người nhận
được giải Fields mà làm rùm beng như chúng ta không? Báo chí,
rồi có ông Giáo sư lại còn viết thành sách hô biến giải
Fields thành giải Nobel toán học nữa chứ. Thành thật mà nói
giải Fields rất quí, là đỉnh cao của toán học, nhưng không
thể so sánh với giải Nobel về cả vật chất lẫn tiếng tăm,
tinh thần. Nên chúng ta cứ ghép chữ Nobel vào để tự ru nhau
thôi. Hơn nữa Châu chỉ giỏi, chuyên sâu vào môn rất nhỏ
trong ngành toán học mênh mông rộng lớn. Bây giờ Châu lại
làm viện trưởng, rồi suốt ngày đón đưa hội thảo, giao
lưu, báo chí… ngất ngây, thời gian, sức lực đâu mà nghiên
cứu? Đây là bản tính của người Việt mình khó ai thoát
khỏi cái ải này. Hơn nữa nghiên cứu, lãnh đạo quản lý là
hai ngành hoàn toàn khác nhau.
Có một điều kỳ lạ nữa, một người bình thường không sao,
nhưng cứ có chút chức tước, tiếng tăm, câu nói rất bình
thường cũng trở thành châm ngôn, bình luận. Cách nay ít lâu
trên trang trannhuong.com, có ông nhà văn, nhà báo còn đưa dẫn
chứng câu nói đại ý (lề trái, lề phải là việc của con
cừu) của Gs.Châu, ông còn cho đó là câu nói bất hủ. Xin
lỗi bác nhà văn nhé, câu nói này tôi được nghe hàng ngày từ
miệng của mấy ông khách người Đức say rượu trong quán nơi
tôi làm việc. Công việc của tôi thường dìu mấy ông say ra
khỏi quán. Trước quán có cái đèn xanh đỏ, cho người đi
bộ sang đường. Ra khỏi quán ông khách nào cũng dúi dụi, đi
lao về phía trước như trực ngã, ấy vậy mà khi nhìn thấy
đèn đường đỏ, đứng khựng lại như chào cờ, mặc dù trên
đường không có chiếc xe nào qua lại, chẳng có bóng dáng ông
cảnh sát nào cả. Tôi đùa:
- Ông còn nhận ra đèn đỏ sao?
- Chỉ có con cừu mới không nhận ra trái, phải, đúng sai mà
thôi.
Không biết câu nói này có phải là ngạn ngữ, hay thành ngữ
của người Đức không? Nhưng sao tôi thấy nó giông giống câu
nói của Gs Châu, khác chăng ông chỉ đổi ý đi mà thôi. Ông
nhà văn, nhà báo này cho là bất hủ, quả thật chẳng còn gì
để nói nữa.
Đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, ngày tôi chưa sang
Đức, có anh Nguyễn đình C. Tiến sĩ địa chất làm việc cùng
cơ quan với ông anh tôi, nên hay tụ tập ở nhà anh tôi. Không
rõ anh có phải là đảng viên không? Nhưng anh chỉ là nhân viên
của ông anh tôi, mặc dù anh tôi chỉ là phó tiến sĩ, nhưng là
đảng viên. Tôi rất quí anh vì tính ngang ngang, nhưng nói
chuyện rất hay. Anh người miền Trung, hình như là học sinh
trường miền Nam. Anh học rất giỏi, sau đó anh sang Nga học,
trở thành tiến sĩ. Anh về nước giữa thập niên bảy mươi,
ngày đó Tiến sĩ, hoặc nghiên cứu sinh còn ít lắm. Theo anh
kể anh hay được gặp các vị lãnh đạo cấp cao nhất của
nhà nước từ ngày còn là học sinh, sau này đi du học và về
nước cũng vậy. Nhưng hình như anh cũng không lợi dụng việc
này cho con đường công danh của mình. Vào những năm 1995,
1996… tôi thấy anh thường viết bài cho các báo Dân trí, hay
khoa học gì đó. Có lần tôi đọc anh viết về anh, đại ý
như thế này, nhờ có bác.. (tên một vị lãnh đạo nhà nước)
hướng dẫn, chỉ bảo anh mới hoàn thành được luận văn
tiến sĩ của mình.
Thật sự đọc xong tôi cũng chẳng hiểu ra sao nữa. Được
biết bác lãnh tụ đó trình độ trung học thời Pháp, qua năm
tháng hoạt động, tự học, trao dồi lý luận có thể bác
giỏi về chính trị, nhưng bác không phải là giáo sư địa
chất học. Sau này về phép, tôi thắc mắc, sao anh Nguyễn
Đình C lại viết như vậy, anh tôi trả lời úp mở:
- Có thể viết do yêu cầu của người đặt bài.. hoặc lý do
gì đó.
Thì ra vậy, cái gì cũng có nguyên nhân của nó.
Tôi có quen anh Đ, trung tá an ninh bảo vệ cho ông bác họ, họ
hàng bên mẹ tôi. Vợ anh ốm đau ở quê, con còn nhỏ không có
người chăm sóc. Anh muốn chuyển vợ con ra Hà Nội, nhưng về
nguyên tắc vợ con anh không đủ tiêu chuẩn nhập hộ khẩu ở
Hà nội. Ngày đó còn bao cấp, hộ khẩu gắn liền với tem
phiếu, sổ gạo nên vô cùng khó khăn. Nếu như anh dùng sức ép
từ trên xuống phòng hộ khẩu, có thể được việc nhưng
chắc chắn rất lâu, và phiền hà. Biết bên nội tôi có ông
chú làm phó phòng hành chính, trật tự, chuyên phụ trách hộ
khẩu, nên anh đến nhờ, sau đó thỉnh thoảng đến chơi. Có
hôm anh kể về ông bác họ tôi đang là lãnh đạo cấp cao,
tuổi đã trên bảy nhăm:
- Có hôm mình mình thấy bác vào nhà vệ sinh lâu lắm không
thấy ra, mình liền cậy cửa vào, thấy bác vẫn còn ngồi đó,
hình như mải suy nghĩ điều gì sâu lắm.
Lúc đó tôi cũng buột miệng:
- Có lẽ bác lẫn, tưởng đang ngồi trong phòng làm việc.
Nghe tôi nói có lẽ anh buồn, bắt tay tôi, anh đứng dậy ra
về. Một người học cao, được đào tạo cơ bản về y, và
võ thuật nghiệp vụ như anh lẽ nào không hiểu về sinh học
của con người?
Những sự việc trên, quả thật tôi không biết đặt tên là
gì, tôi thì chỉ biết gọi đó là những căn bệnh khó chữa
mà thôi. Ai hiểu thế nào thì tùy.
Ai cũng biết sau năm 1975 Sài Gòn đã đổi tên thành, thành phố
Hồ Chí Minh. Về nguyên tắc hành chánh thành phố Sài Gòn không
còn nữa, hay nó cách khác khó nghe một chút tên Sài Gòn đã
theo ông sáu tấm. Gần đây đài truyền hình Việt Nam có
chương trình Sài Gòn tôi yêu, Sài Gòn và tôi. Tôi thấy hình
như hơi bị kỳ cục. Như vậy vô tình hay hữu ý nhà đài cho
rằng thành phố Hồ Chí Minh không đáng yêu hay sao? Không như
Hà Nội, các cụ nhà ta lấy địa danh, hoặc một hiện tương,
sự kiện lịch sử đặt tên, nên các bác có thể dùng Hà
Nội, hay Thăng Long, Đông Đô, nhưng Sài Gòn đã lấy tên danh
nhân đổi( đặt tên). Làm như vậy nhà đài xúc phạm đến
chủ tịch Hồ Chí Minh. Chúng tôi đã được học từ tiểu
học bài thơ của nhà thơ Miền Nam Bảo Định Giang trong đó có
câu "Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ". Cho nên nhà đài
không thể vịn lý do lấy tên Sài Gòn sẽ hoài niệm, hay và
nên thơ hơn để biện hộ cho việc làm có dụng ý của mình.
Truyền hình là bộ mặt, tiếng nói của nhà nước và nhân dân
Việt Nam, nên muốn sử dụng tên Sài Gòn trên truyền thông
phải được phép đồng ý đổi lại tên của quốc hội và
nhà nước. Tất nhiên một số cá nhân họ vẫn có thể viết,
nói Sài Gòn thay cho thành phố Hồ chí Minh (nhất là bác nhà
thơ Trần Mạnh Hảo luôn luôn sử dụng Sài Gòn trong bài viết
của mình) vì họ chẳng thay mặt cho ai cả, đó là ý thích cá
nhân.
Anh bạn gần nhà, nguyên là giáo viên trường đảng, còn dọa,
nếu như đài truyền hình còn tiếp tục sử dụng danh từ Sài
Gòn thay cho thành phố Hồ Chí Minh anh sẽ về Việt Nam thuê
luật sư kiện. Nếu không có luật sư nào nhận, anh sẽ chờ
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ ra tù, thuê công ty luật của anh. Anh bạn
tôi tin rằng ban văn hóa tư tưởng sẽ ủng hộ anh.
Đức quốc 9-3-2011
ĐỖ TRƯỜNG
Mấy ngày nay báo chí trong nước lại đồng loạt đưa tin về
việc Gs Ngô Bảo Châu được cử làm Viện trưởng Toán học,
và hình ảnh các trường đại học băng rôn khẩu hiệu rầm
rộ chào mừng Gs Châu đến giao lưu... tọa đàm. Trí thức
được chào đón nâng niu ai mà chả mát lòng mát ruột. Nhưng
dường như hiện tượng Gs Châu, chúng ta đang đi quá đà.
Tôi có anh bạn cũng là cựu học sinh chuyên toán, học trước
Ngô Bảo Châu trên chục năm. Sau đó anh sang Nga du học, lấy
vợ Nga ở lại, hiện đang làm nghề kinh doanh, hôm rồi sang
Đức chơi, anh bảo:
- Với tôi, việc nghiên cứu toán học của Ngô Bảo Châu sẽ
kém hiệu quả, sau khi nhận giải Felds.
Tôi lấy làm ngạc nhiên, hỏi lại anh:
- Tại sao ông lại nhận định như vậy, có bi quan không đấy?
- Hoàn toàn không bi quan, ông thấy nước nào có người nhận
được giải Fields mà làm rùm beng như chúng ta không? Báo chí,
rồi có ông Giáo sư lại còn viết thành sách hô biến giải
Fields thành giải Nobel toán học nữa chứ. Thành thật mà nói
giải Fields rất quí, là đỉnh cao của toán học, nhưng không
thể so sánh với giải Nobel về cả vật chất lẫn tiếng tăm,
tinh thần. Nên chúng ta cứ ghép chữ Nobel vào để tự ru nhau
thôi. Hơn nữa Châu chỉ giỏi, chuyên sâu vào môn rất nhỏ
trong ngành toán học mênh mông rộng lớn. Bây giờ Châu lại
làm viện trưởng, rồi suốt ngày đón đưa hội thảo, giao
lưu, báo chí… ngất ngây, thời gian, sức lực đâu mà nghiên
cứu? Đây là bản tính của người Việt mình khó ai thoát
khỏi cái ải này. Hơn nữa nghiên cứu, lãnh đạo quản lý là
hai ngành hoàn toàn khác nhau.
Có một điều kỳ lạ nữa, một người bình thường không sao,
nhưng cứ có chút chức tước, tiếng tăm, câu nói rất bình
thường cũng trở thành châm ngôn, bình luận. Cách nay ít lâu
trên trang trannhuong.com, có ông nhà văn, nhà báo còn đưa dẫn
chứng câu nói đại ý (lề trái, lề phải là việc của con
cừu) của Gs.Châu, ông còn cho đó là câu nói bất hủ. Xin
lỗi bác nhà văn nhé, câu nói này tôi được nghe hàng ngày từ
miệng của mấy ông khách người Đức say rượu trong quán nơi
tôi làm việc. Công việc của tôi thường dìu mấy ông say ra
khỏi quán. Trước quán có cái đèn xanh đỏ, cho người đi
bộ sang đường. Ra khỏi quán ông khách nào cũng dúi dụi, đi
lao về phía trước như trực ngã, ấy vậy mà khi nhìn thấy
đèn đường đỏ, đứng khựng lại như chào cờ, mặc dù trên
đường không có chiếc xe nào qua lại, chẳng có bóng dáng ông
cảnh sát nào cả. Tôi đùa:
- Ông còn nhận ra đèn đỏ sao?
- Chỉ có con cừu mới không nhận ra trái, phải, đúng sai mà
thôi.
Không biết câu nói này có phải là ngạn ngữ, hay thành ngữ
của người Đức không? Nhưng sao tôi thấy nó giông giống câu
nói của Gs Châu, khác chăng ông chỉ đổi ý đi mà thôi. Ông
nhà văn, nhà báo này cho là bất hủ, quả thật chẳng còn gì
để nói nữa.
Đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, ngày tôi chưa sang
Đức, có anh Nguyễn đình C. Tiến sĩ địa chất làm việc cùng
cơ quan với ông anh tôi, nên hay tụ tập ở nhà anh tôi. Không
rõ anh có phải là đảng viên không? Nhưng anh chỉ là nhân viên
của ông anh tôi, mặc dù anh tôi chỉ là phó tiến sĩ, nhưng là
đảng viên. Tôi rất quí anh vì tính ngang ngang, nhưng nói
chuyện rất hay. Anh người miền Trung, hình như là học sinh
trường miền Nam. Anh học rất giỏi, sau đó anh sang Nga học,
trở thành tiến sĩ. Anh về nước giữa thập niên bảy mươi,
ngày đó Tiến sĩ, hoặc nghiên cứu sinh còn ít lắm. Theo anh
kể anh hay được gặp các vị lãnh đạo cấp cao nhất của
nhà nước từ ngày còn là học sinh, sau này đi du học và về
nước cũng vậy. Nhưng hình như anh cũng không lợi dụng việc
này cho con đường công danh của mình. Vào những năm 1995,
1996… tôi thấy anh thường viết bài cho các báo Dân trí, hay
khoa học gì đó. Có lần tôi đọc anh viết về anh, đại ý
như thế này, nhờ có bác.. (tên một vị lãnh đạo nhà nước)
hướng dẫn, chỉ bảo anh mới hoàn thành được luận văn
tiến sĩ của mình.
Thật sự đọc xong tôi cũng chẳng hiểu ra sao nữa. Được
biết bác lãnh tụ đó trình độ trung học thời Pháp, qua năm
tháng hoạt động, tự học, trao dồi lý luận có thể bác
giỏi về chính trị, nhưng bác không phải là giáo sư địa
chất học. Sau này về phép, tôi thắc mắc, sao anh Nguyễn
Đình C lại viết như vậy, anh tôi trả lời úp mở:
- Có thể viết do yêu cầu của người đặt bài.. hoặc lý do
gì đó.
Thì ra vậy, cái gì cũng có nguyên nhân của nó.
Tôi có quen anh Đ, trung tá an ninh bảo vệ cho ông bác họ, họ
hàng bên mẹ tôi. Vợ anh ốm đau ở quê, con còn nhỏ không có
người chăm sóc. Anh muốn chuyển vợ con ra Hà Nội, nhưng về
nguyên tắc vợ con anh không đủ tiêu chuẩn nhập hộ khẩu ở
Hà nội. Ngày đó còn bao cấp, hộ khẩu gắn liền với tem
phiếu, sổ gạo nên vô cùng khó khăn. Nếu như anh dùng sức ép
từ trên xuống phòng hộ khẩu, có thể được việc nhưng
chắc chắn rất lâu, và phiền hà. Biết bên nội tôi có ông
chú làm phó phòng hành chính, trật tự, chuyên phụ trách hộ
khẩu, nên anh đến nhờ, sau đó thỉnh thoảng đến chơi. Có
hôm anh kể về ông bác họ tôi đang là lãnh đạo cấp cao,
tuổi đã trên bảy nhăm:
- Có hôm mình mình thấy bác vào nhà vệ sinh lâu lắm không
thấy ra, mình liền cậy cửa vào, thấy bác vẫn còn ngồi đó,
hình như mải suy nghĩ điều gì sâu lắm.
Lúc đó tôi cũng buột miệng:
- Có lẽ bác lẫn, tưởng đang ngồi trong phòng làm việc.
Nghe tôi nói có lẽ anh buồn, bắt tay tôi, anh đứng dậy ra
về. Một người học cao, được đào tạo cơ bản về y, và
võ thuật nghiệp vụ như anh lẽ nào không hiểu về sinh học
của con người?
Những sự việc trên, quả thật tôi không biết đặt tên là
gì, tôi thì chỉ biết gọi đó là những căn bệnh khó chữa
mà thôi. Ai hiểu thế nào thì tùy.
Ai cũng biết sau năm 1975 Sài Gòn đã đổi tên thành, thành phố
Hồ Chí Minh. Về nguyên tắc hành chánh thành phố Sài Gòn không
còn nữa, hay nó cách khác khó nghe một chút tên Sài Gòn đã
theo ông sáu tấm. Gần đây đài truyền hình Việt Nam có
chương trình Sài Gòn tôi yêu, Sài Gòn và tôi. Tôi thấy hình
như hơi bị kỳ cục. Như vậy vô tình hay hữu ý nhà đài cho
rằng thành phố Hồ Chí Minh không đáng yêu hay sao? Không như
Hà Nội, các cụ nhà ta lấy địa danh, hoặc một hiện tương,
sự kiện lịch sử đặt tên, nên các bác có thể dùng Hà
Nội, hay Thăng Long, Đông Đô, nhưng Sài Gòn đã lấy tên danh
nhân đổi( đặt tên). Làm như vậy nhà đài xúc phạm đến
chủ tịch Hồ Chí Minh. Chúng tôi đã được học từ tiểu
học bài thơ của nhà thơ Miền Nam Bảo Định Giang trong đó có
câu "Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ". Cho nên nhà đài
không thể vịn lý do lấy tên Sài Gòn sẽ hoài niệm, hay và
nên thơ hơn để biện hộ cho việc làm có dụng ý của mình.
Truyền hình là bộ mặt, tiếng nói của nhà nước và nhân dân
Việt Nam, nên muốn sử dụng tên Sài Gòn trên truyền thông
phải được phép đồng ý đổi lại tên của quốc hội và
nhà nước. Tất nhiên một số cá nhân họ vẫn có thể viết,
nói Sài Gòn thay cho thành phố Hồ chí Minh (nhất là bác nhà
thơ Trần Mạnh Hảo luôn luôn sử dụng Sài Gòn trong bài viết
của mình) vì họ chẳng thay mặt cho ai cả, đó là ý thích cá
nhân.
Anh bạn gần nhà, nguyên là giáo viên trường đảng, còn dọa,
nếu như đài truyền hình còn tiếp tục sử dụng danh từ Sài
Gòn thay cho thành phố Hồ Chí Minh anh sẽ về Việt Nam thuê
luật sư kiện. Nếu không có luật sư nào nhận, anh sẽ chờ
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ ra tù, thuê công ty luật của anh. Anh bạn
tôi tin rằng ban văn hóa tư tưởng sẽ ủng hộ anh.
Đức quốc 9-3-2011
ĐỖ TRƯỜNG
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)