Chủ Nhật, 23 tháng 1, 2011

Phúc- Lộc- Thọ, các cụ là ai?

DƯƠNG DUY NGỮ

Theo truyền thuyết của người Hoa Hạ, ông Lộc là một quan tham chuyên ăn của đút lót. Ông Thọ lại là vị quan thực dụng, ưa xu nịnh vua để được ban thưởng, trong dinh của ông cung nữ nhiều chẳng kém ở cung vua. Chỉ có ông Phúc là quan thanh liêm, ngay thẳng, con cháu đề huề.

Hiện nay, từ thành thị đến nông thôn, ở đâu ta cũng gặp các cụ Phúc, Lộc, Thọ. Các cụ thường được đặt ở nơi trang trọng nhất trong phòng khách, trên nóc tủ chè, có nhà còn làm cả bàn thờ rõ đẹp để thờ ba cụ cầu mong được phúc, được lộc, được thọ. Người sang thì có cả ba cụ bằng gốm Tàu rõ to, rõ đẹp. Người tầm tầm thì bằng gỗ pơ-mu hoặc sứ Bát Tràng…

Xin thưa, theo truyền thuyết, cả ba cụ đều là người Hán và dĩ nhiên đều sinh ra ở Trung Nguyên. Và ba cụ đều làm quan to ở ba triều đại.

Hãy kể theo thứ tự, bắt đầu từ cụ Phúc. Cụ Phúc tên thật là Quách Tử Nghi, Thừa tướng đời Đường. Cụ xuất thân vốn là quý tộc, đồng ruộng bát ngát hàng trăm mẫu, nhưng suốt cuộc đời tham gia triều chính, cụ sống rất liêm khiết, thẳng ngay. Không vì vinh hoa, phú quý mà làm mất nhân cách con người.

Cụ bà và cụ ông bằng tuổi nhau. Người Việt ta có câu: “Cùng tuổi nằm duỗi mà ăn”. Còn theo người Hoa Hạ ở Trung Nguyên thì vợ chồng cùng tuổi là rất tốt. Họ có thể điều hòa sinh khí âm, khí dương cho nhau. Vì vậy, có thể bớt đi những bệnh tật hiểm nguy. Lại cùng tuổi nên dễ hiểu nhau, dễ thông cảm cho nhau, nên hai cụ rất tâm đầu, ý hợp. Hai cụ 83 tuổi đã có cháu ngũ đại. Lẽ dĩ nhiên phải là nam tử rồi. Cụ Phúc thường bế đứa trẻ trên tay là như vậy. Theo phong tục của người Hoa cổ đại, sống đến lúc có cháu ngũ đại giữ ấm chân nhang của tổ tiên là sung sướng lắm lắm! Phúc to, phúc dày lắm lắm! Bởi thế cụ mới bế thằng bé, cháu ngũ đại, đứng giữa đời, giữa trời, nói:

- Nhờ giời, nhờ phúc ấm tổ tiên, ta được thế này, còn mong gì hơn nữa. Rồi cụ cười một hơi mà thác. Được thác như cụ mới thực sự được về cõi tiên cảnh nhàn du.

Cụ bà ra ôm lấy thi thể cụ ông và chít nội than rằng:

- Tôi cùng tuổi với chồng tôi. Phúc cũng đủ đầy, dày sâu, sao giời chẳng cho đi cùng…

Ai có thể ngờ, nói dứt lời cụ bà cũng đi luôn về nơi chín suối. Hai cụ được con cháu hợp táng. Vậy là sống bên nhau, có nhau, chết cũng ở bên nhau, có nhau. Hỏi còn phúc nào bằng. Và cụ được người đời đặt tên là Phúc.

Cụ thứ hai là cụ Lộc. Cụ Lộc tên thật là Đậu Từ Quân, làm quan đến chức Thừa tướng nhà Tấn. Nhưng cụ Đậu Từ Quân là một quan tham. Tham lắm. Cụ hưởng không biết bao nhiêu vàng bạc, châu báu, là của đút lót của những kẻ nịnh thần, mua quan, bán tước, chạy tội cho chính mình, cho con, cho cháu, cho thân tộc.

Trong nhà cụ, của chất cao như núi. Tưởng cụ Đậu Từ Quân được như thế đã là giàu sang, vinh quang đến tột đỉnh. Cụ chỉ hiềm một nỗi, năm cụ tám mươi tuổi vẫn chưa có đích tôn. Do vậy cụ lo nghĩ buồn rầu sinh bệnh mà chết. Cụ ốm lâu lắm. Lâu như kiểu bị tai biến mạch máu não bây giờ. Cụ nằm đến nát thịt, nát da, mùi hôi thối đến mức con cái cũng không dám đến gần. Đến khi chết, cụ cũng không nhắm được mắt. Cụ than rằng:

- Lộc ta để cho ai đây? Ai giữ ấm chân nhang cho tổ tiên, cho bản thân ta?

Còn cụ thứ ba, cụ Thọ. Cụ Thọ tên là Đông Phương Sóc, làm Thừa tướng đời Hán. Triết lý làm quan của cụ Đông Phương Sóc là quan thì phải lấy lộc. Không lấy lộc thì làm quan để làm gì. Cụ coi buôn chính trị là buôn khó nhất, lãi to nhất. Nhưng cụ Đông Phương Sóc vẫn là quan liêm. Bởi cụ nhất định không nhận đút lót. Cụ chỉ thích lộc của vua ban thưởng. Được bao nhiêu tiền thưởng, cụ lại đem mua gái đẹp, gái trinh về làm thê thiếp. Người đương thời đồn rằng, trong dinh cụ, gái đẹp nhiều đến mức chẳng kém gì cung nữ ở cung vua.

Cụ thọ đến 125 tuổi. Nên người đời mới gọi cụ là ông Thọ. Trước khi về chốn vĩnh hằng, cụ Thọ còn cưới một cô thôn nữ xinh đẹp mới mười bảy tuổi. Cụ Đông Phương Sóc bảo, cụ được thọ như vậy là nhờ cụ biết lấy-âm-để-dưỡng-dương.

Do cụ Đông Phương Sóc muốn có nhiều tiền để mua gái trẻ làm liều thuốc dưỡng dương, cho nên suốt cuộc đời của cụ, cụ chỉ tìm lời nói thật đẹp, thật hay để lấy lòng vua. Có người bạn thân khuyên cụ:

- Ông làm quan đầu triều mà không biết tìm lời phải, ý hay can gián nhà vua. Ông chỉ biết nịnh vua để lấy thưởng thì làm quan để làm gì.

Cụ Đông Phương Sóc vuốt chòm râu bạc, cười khà khà bảo:

- Làm quan không lấy thưởng thì tội gì mà làm quan. Can gián vua, nhỡ ra vua phật ý, tức giận, chém đầu cả ba họ thì sao?

Cụ Đông Phương Sóc 125 tuổi mới chịu từ giã cõi đời. Khi cụ chết thì con không còn, cháu cũng đã hết cơm hết gạo mà chắt đích phải làm ma, phải thay cha, thay ông, chở cụ nội. Vậy làm quan như cụ, thọ như cụ phỏng có ích gì?

Qua ba bức tượng Phúc, Lộc, Thọ người đời thấy, người Hoa Hạ thật là tài giỏi. Họ đã khéo xếp ba vị thừa tướng, ba tính cách khác nhau ở ba triều đại khác nhau để răn đời.

Trong ba điều ước Phúc, Lộc, Thọ ấy chỉ có thể được một mà thôi.

( Theo Chút lưu lại)

GHÊ THAY!

KHÚC CHÍ DŨNG

Lỗ Công chết, đầu thai sang đất Việt, làm quan đến chức đầu nghành

Hôm ngồi vào ghế thay người tiền nhiệm vừa được điều đi …”bóc lịch”, Lỗ Công lặp lại “lời thề nước Lỗ” : ” Có trời chứng giám, từ nay nếu tay phải nhận tiền của dân – tay phải liệt ; tay trái nhận tiền – tay trái liệt…”

Khổ nỗi, vẫn còn người quen “nếp” cũ. Lại không ít vị “bé cái nhầm”.

Thành thử, chưa đến Tết mà mới vừa qua rằm tháng Chạp, đây đó đã rục rịch sắm sanh, tham khảo nhau “liều lượng”, rồi thập thò nơi cửa công mong diện kiến “sếp”.

Trước sự thể ấy, dù mặt ngoài vẫn lạnh như tiết Đại hàn, lòng Lỗ Công cứ nóng như lửa đốt. Chỉ có viên trợ lý – cận thần của Lỗ Công từ hồi bên nước Lỗ -là hiểu lòng “sếp” hơn ai hết. Thấy “sếp” đôi lúc thất thần, ủ rũ, viên trợ lý tỉ tê mách nước :

-Sao anh không dùng lại “kế “xưa : chế ra một cái hộp để “dân” bỏ tiền

vào đó. Có liệt thì liệt …cái hộp, mình đâu can dự.

Lỗ Công không tỏ ra phấn khởi, trái lại càng ủ rũ hơn :

- Chú mới thấy một mà chửa biết hai. Thời buổi “kinh tế mở” này, nước Việt khác nước Lỗ ta xưa nhiều lắm! Nói dại, lỡ tay nào “ngu lâu dốt bền” hơn dân Lỗ ta xưa, không thả “tờ”, thả “chỉ” vào hộp, mà lù lù “rước” cả bộ đầu video với dàn compact tới, lúc ấy ta biết “sử lý” ra sao?

Tưởng “sếp” hỏi mình, cô thư ký ngồi cạnh, bỗng hồn nhiên, nhanh nhảu:

-Dạ thưa, em nghĩ là anh cứ đóng cửa ngồi lì trong công sở; hoặc cùng lắm, em xin” tháp tùng” anh đi “lánh nạn” ở Đà Lạt hoặc Nha Trang trong thời gian đó. Ai có lòng cứ đến…”tư gia”, việc ấy đã có “sếp bà” giải quyết. Mà có “liệt” thì “liệt” “sếp bà”, chứ …anh em mình đâu có “liệt”!

Lỗ Công ngửa mặt lên trời :

-Ôi ! ai bảo đàn bà nông nổi ? Ghê thay, ghê thay !!

( Tác giả gửi cho Quê choa)

Trần Ngọc Kha - Đạo diễn, NSND Trần Văn Thủy và bộ phim tài liệu từng bị cấm

[video:http://www.youtube.com/watch?v=RNGNGkkosxo]
Trong ký ức tôi thời còn là sinh viên, "Hà Nội trong mắt ai"
là một bộ phim bị "cấm". Hồi đó một đứa trong chúng tôi
có bố công tác trong Bộ Nội vụ (cũ) - Bộ Công an bây giờ.
Nhờ nó mà chúng tôi lọt được qua cổng Bộ này, 15 Trần
Bình Trọng, xem trọn vẹn bộ phim. Cảm xúc của lũ chúng tôi
bấy giờ chuyển từ ngạc nhiên, sửng sốt đến bái phục,
ngưỡng mộ. Sao không ngạc nhiên, sửng sốt được khi tự
nhiên bỗng dưng xuất hiện một bộ phim một mình một giọng
như vậy? Sao không bái phục, ngưỡng mộ khi những người làm
phim đã dám nói những điều ngay thẳng, lại hay đến vậy? Và
bất chấp lịch biểu học hành, nhiều lần sau đó, cứ có cơ
hội là chúng tôi lại đi "xem chui" bộ phim này, không chán.
Không chỉ trong giới sinh viên, đi đến đâu, gặp bất kỳ ai
người ta cũng xôn xao, bàn tán về bộ phim. Mọi người đều
chung một câu hỏi: tại sao nó bị "cấm"?

Thực ra, không có bất kỳ một văn bản nào do ai ký ra lệnh
cấm lưu hành bộ phim này. Nhưng dường như chỉ sau một thời
gian rất ngắn, chừng vài ba tháng thôi, từ sau khi nó được
phát hành thì phải, không một ai dám công khai chiếu hoặc xem
tiếp bộ phim. Và, một lẽ thường tình, đạo diễn bộ phim,
ông Trần Văn Thủy, lập tức bị hầu hết mọi người, kể
cả những đồng nghiệp thân cận nhất cô lập, ghẻ lạnh.
Cố nghệ sĩ Phạm Hà có lần đã hỏi thẳng ông: "Ở! Cậu
chưa bị bắt à? "...

Chuyện xảy cách đây gần 30 năm, chính xác là đầu năm 1982,
khi Trần Văn Thủy còn rất trẻ. Ông Thủy không những đã
được "cứu" thoát khỏi tình cảnh này mà còn được phong
tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân. Những người từng "có
duyên nợ", "ân oán" với ông và bộ phim này hồi ấy nay
phần nhiều đã đi vào quá vãng. Tuy nhiên, với ông Thủy,
dường như mọi việc chưa qua. Có gì như nghèn nghẹn nơi ông
khi có dịp nào phải nhắc lại chuyện này với ai. Và có gì
như ngài ngại khi ai đó đương chức đương quyền khi buộc
phải nhắc đến chuyện này. Ngõ hầu góp phần đặt dấu
chấm hết cho câu chuyện, tôi tìm đến ông.

Không khó khăn gì khi muốn tìm số máy điện thoại của ông.
Chỉ cần một cú bấm máy gọi số 116, hỏi số điện thoại
nhà ông là ra. Nhưng, dễ phải đến lần thứ 5 nhấc máy, tôi
vẫn chỉ nhận được một câu trả lời: "Chuyện ấy -
(chuyện làm phim này - t/g) đã qua lâu rồi, tôi không muốn ai
gợi lại nữa". Bất quá, tôi đành mạnh dạn bấm chuông nhà
ông. Rất may hôm nay cái điệp khúc kia của ông không lặp
lại. Chỉ sau ít phút làm quen, ông đã hào hứng tiếp tôi một
mạch đến quá trưa, không dứt.... "Là chỉ để nói chuyện
chơi thôi chứ đừng có đăng báo chí gì đấy!" - ông giao
hẹn trước khi nói.

Với phim "Hà Nội trong mắt ai", lúc đầu ông định làm chơi,
làm cho nó xong, cho nó tròn bổn phận của một người làm công
ăn lương. Bởi vì cả năm 1981 ông không làm được gì. Năm
1980, ông giành được một cái giải khá lớn bằng phim "Phản
bội", làm chấn động trong nước và thế giới. Cho nên làm
cái gì cũng khó, ông phải chần chừ. Cuối năm ấy bình bầu
Lao động tiên tiến, Chiến sĩ thi đua, Đảng viên bốn tốt...
ông không có cái gì, nghĩ cũng ngượng. "Mình nghĩ: thôi thì
làm cái gì đó cho nó có việc, cuối năm cho nó đỡ phiền" -
ông bộc bạch. Thế rồi...

Hồi đó ông được nhận một kịch bản phim "Hà Nội năm cửa
ô" viết về Hà Nội du lịch, về phố cũ, phố mới, chùa
triền, lăng tẩm, khéo tay hay làm... Soi xét nó lại với thực
tế cuộc sống, ông thấy ta mất mát quá nhiều. Vào những năm
đầu thập kỷ 80, Hà Nội điêu linh, đói kém, khó khăn lắm,
chúng ta đang còn phải ăn bo bo. "Mình thấy cái kịch bản này
không thể làm được. Nếu làm bộ phim này lúc ấy thì chỉ
có đóng mà thôi, lấy đâu ra quần chùng, áo dài..." - ông
kể. Kịch bản phim có nhiều chi tiết liên quan đến sử sách,
phải đi kiếm sách đọc, đi điều tra. "Ngôi nhà 80 - 82 phố
Hàng Gai, nếu đang đi giữa cái nắng choáng ngợp của phố
phường mà ta bước chân vào ngôi nhà cổ này, có những cái
gác xép cửa lùa, có tiếng chim gù trên mái ngói thì lòng ta
tĩnh lại". Kịch bản viết là thế, nhưng đến đây ông thấy
một bên là cửa hiệu thêu, một bên là trụ sở HTX. Ông hỏi
chủ nhà: "Cái nhà này đã sửa lại từ bao giờ?"(Vì nó giống
như tất cả các nhà cửa, phố xá, cửa hàng cửa hiệu lúc
bấy giờ), rồi đọc cho ông ta nghe đoạn kịch bản này. Vị
chủ nhà hỏi lại: "Người viết những dòng này bao nhiêu
tuổi? ". Ông đáp: "Cỡ bằng tuổi cháu". Vị chủ nhà tiếp:
"Thế thì anh ấy chép ở đâu ra ấy chứ. Năm 1945, Toàn quốc
kháng chiến bùng nổ, bọn Tây ở bên kia, bọn tôi ở bên này
đã bắn nhau chí chát thì cái nhà nó đã thế này rồi, làm gì
có cái cảnh như các anh viết trong đó đâu". Đến ô Quan
Chưởng tìm Văn bia của Tổng đốc Hoàng Diệu, đến gặp ông
Nguyễn Vinh Phúc, gặp cụ Trần Huy Bá ông mới bừng tỉnh ra
một điều: những giá trị tinh thần của dân tộc thì tồn
tại vĩnh cửu. "Thế thì thôi, đừng làm làm cái đẹp về
mặt cảnh quan khi nó không còn, không có nữa. Hãy tìm đến
những cái có thật, đích thật, rất cần cho đời nay - những
giá trị tiêu biểu cho cách trị nước yên dân như thế nào"
- Đạo diễn Trần Văn Thủy rút ra sau những đắn đo suy tính.
Và lúc này, vào cái thời điểm đầu những năm 80 ấy, những
điều này cần thiết biết bao! Xót xa với hiện thực của dân
chúng thế nào, trọng dụng nhân tài ra làm sao?... Ông đã liệt
kê ra giấy như vậy sau tất cả những sự đọc sách, điều
tra. Quan niệm của ông là làm phim tài liệu không chỉ đúng và
đủ. Đúng và đủ là những chuẩn mực của các công trình
nghiên cứu khoa học, của các nghị quyết. Nếu chỉ có vậy,
người ta không xem thì cũng... vứt! Muốn cho người xem "tiêu
hoá" được thì chúng còn phải hay nữa. Bởi thế cho nên
muốn cho bộ phim có tính kịch thì phải sắp xếp lại những
tích tuồng hay nhất mà các tiền nhân chúng ta để lại. Và,
nhiều chuyện hay đã được ông đưa vào phim. Chuyện Tổng
đốc Hoàng Diệu đặt tấm Văn bia ở Ô Quan Chưởng cấm các
chức vị quan trường không được sách nhiễu dân lành làm ăn
sinh sống ở đây như thế nào, chuyện vua Lê Thánh Tông dựng
Đình Quản Văn ra làm sao, chuyện Quang Trung sau khi chiến thắng
lẫy lừng trên sông Rạch Gầm đại phá quân Xiêm vào thành
Thăng Long thăm vua Lê Cảnh Hưng, ông vua già mất quyền đã lâu
rồi thế nào... Phép nước bấy giờ quy định lên Điện không
được đem vũ khí. Quang Trung quyên mất điều đó, cứ thế
đeo kiếm phăm phăm bước lên Thềm Rồng. Tất cả mọi người
xanh mắt sợ, riêng chỉ có một mình Phương Đình Pháp, một
viên quan lễ tân của triều đình đứng ra vòng tay trước mặt
Quang Trung thưa lại với ông điều này. Quang Trung trừng mắt
nhìn thẳng vào mặt Pháp. Pháp vẫn điềm nhiên. Thế rồi
thấy phải, Quang Trung bỏ kiếm, bước lên Điện. Câu chuyện
chỉ có thế nhưng ông Thủy cũng thấy rằng: trong mắt Quang
Trung lúc bấy giờ, quốc gia chỉ có thể trường tồn và hưng
thịnh khi kẻ thường dân dám nói với bề trên điều ngay
thẳng và người có quyền uy phải biết nghe kẻ dưới mình
điều phải trái. Ngày nay, trong Chùa Bộc, Hà Nội, còn lưu
giữ được một bức tượng. Trên đầu bức tượng đề chữ
Tâm. Tất cả các nhà nghiên cứu đều không biết được bức
tượng này thờ ai. Sau này cụ Trần Huy Bá đã phải mất rất
nhiều công phu, đặt giấy bản vòng ra đằng sau bức tượng,
dùng than chà. Tờ giấy hiện lên: "Bính Ngọ tạo Quang Trung
tượng". Tức là, đúng vào năm mà Gia Long chống anh em nhà Tây
Sơn một cách kịch liệt, tàn sát, huỷ diệt tất cả những
gì của họ thì dân chúng vẫn dựng tượng Quang Trung. "Hà Nội
trong mắt ai" ra đời và đã tập hợp những chuyện như thế!..

Ngay từ lần chiếu đầu tiên bộ phim để trình duyệt, theo
ông Thủy, Ban giám đốc hãng phim Tài liệu khoa học Trung ương
đã "Thấy nó có gì không ổn". Họ liền mời những người
được coi là trọng trách nhất trong lĩnh vực tư tưởng, văn
hoá nước ta xem. Xem xong, các vị này đều kết luận ngay rằng
phim "Có vấn đề"! Anh em trong cơ quan đến lúc này vẫn chưa
người nào, kể cả đồng chí Bí thư đảng uỷ, được xem.
Rồi phim được bí mật chiếu cho một số người được coi
là "cấp trên" xem. Rốt cuộc, Giám đốc hãng phim Lý Thái Bảo
trả lời ông Thủy: bộ phim không được chiếu (!).

Thực ra, theo ông Thủy, đó là do có một số người xem phim
xong tự vơ vào, vận vào mình mà cho rằng bộ phim này chống
Đảng, dậy Đảng cầm quyền, kêu gọi mọi người "xuống
đường" (?!). Chẳng qua là có thể họ "có tật giật mình".
Trong đó có một nhà thơ từng có quan hệ rất thân thiện với
ông Thủy từ cuối những năm 60, khi ông mang phim từ chiến
trường ra, chiếu tại nhà cho hai vợ chồng họ xem. Nội dung
phim có một chi tiết mà nhà thơ đã hiểu lầm. ấy là đoạn
nói về bà Huyện Thanh Quan xưa ở làng Nghi Tàm (Hà Nội), theo
chồng đi làm quan xa tại miền Trung. Rồi một hôm, ông Huyện
đi vắng, bà nhận được mớ đơn kiện trong đó có đơn của
chị Nguyễn Thị Đào xin cải giá vì chồng đi lính thú (ra
biên ải) lâu ngày. Nhớ cảnh Tây Hồ, thương cảm cô Đào,
nhà thơ mạnh dạn phê vào đơn: "Phó cho con Nguyễn Thị Đào /
Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai...". Đào được đi bước
nữa. Nhưng chẳng bao lâu sau, chồng cô trở về phát đơn
kiện. Ông Huyện mất chức. Lời bình phim viết: "Thế mới
biết cái máu me văn nghệ dính vào việc quan trường gây ra
nhiều sự rắc rối là thế!". "Là một nhà thơ lớn - ông
Thuỷ nói tiếp - nhưng vị này tự vận mình vào chuyện của
bà Huyện Thanh Quan thì buồn cười quá. Bà sống trong một giai
đoạn lịch sử hoàn toàn khác. Ông ta có "máu me" văn nghệ
nhưng không nhiều, "máu me" quan trường, máu me chính trị của
ông mới nhiều chứ! ". Hay đoạn nói về Lê Thánh Tông dựng
Đình Quản Văn, trong đặt trống Đăng Văn cho dân chúng đến
kêu oan. Phim liên tưởng: giá như thời Lê Mạt cũng có một
cái trống như vậy thì tại đây dân chúng sẽ phải đinh tai
nhức óc. Đó cũng là nói chuyện xưa, những tích tuồng trị
nước yên dân. Nhưng không may cho ông Thủy, có người lại nói
chuyện xưa sao nó lại giống hiện thực hồi đó đến thế!
Tại sao Nguyễn Siêu lại cho dựng Tháp Bút bên Hồ Gươm? Tại
sao Tổng đốc Hoàng Diệu lại cho đặt tấm bia kia ở Ô Quan
Chưởng?... Trong 38 năm cầm quyền của Lê Thánh Tông, đất
nước thịnh trị. Xây dựng bộ Luật Hồng Đức, thành lập
Hội Tao Đàn, viết Đại Việt sử ký toàn thư, dựng Bia Văn
miếu - có vị vua nào làm được lắm việc lớn như ông này
không? Mà đến khi cái Điện Huy Văn, nơi bà Ngô Thị Ngọc Giao
đẻ ra vua Lê Thánh Tông xiêu vẹo, đổ nát, người ta đã dọn
nó đi để làm trụ sở UBND phường. (Vào cái thời điểm đó
người ta vẫn còn phá hoại đình chùa). Tất cả những điều
đó đều chẳng đáng kể ra vào lúc này hay sao?

Ông Thuỷ nhớ lại dạo ấy, có lần, bộ phim đã được
chiếu đi chiếu lại tới bốn lượt trong một buổi sáng tại
Quân uỷ Trung ương - chuyện lạ chưa từng có. Sau đó, Uỷ ban
Khoa học xã hội phải tổ chức cả một cuộc toạ đàm
"nghiên cứu" bộ phim, có các đại biểu của Viện Sử học,
Viện Triết học, Viện Hán nôm cùng tham gia. Không một ai ở
đây có thể tìm ra bất kỳ một sai sót nào của bộ phim, kể
cả cái những cái "chốt" của bộ phim - ông Thuỷ tâm sự –
như đoạn nói về Lê Lợi. Nguyễn Trãi, người quê làng Nhị
Khê nhưng lại sinh thành ở Hà Nội. Tâm huyết suốt đời cho
sự tồn vinh của đất nước và với thân phận của những
người dân, ông từng đặt bút: "Chăn lạnh vắt vai đêm chẳng
ngủ /Suốt đời ôm mãi nỗi lo dân". Từng được ông cùng
Trần Nguyên Hãn "nếm mật năm gai" phò suốt 10 năm là thế
nhưng khi được lên ngôi, vị vua này nghi kỵ các quan cận
thần, đã phế truất cả Nguyễn Trãi, Phạm Văn Xảo và Trần
Nguyên Hãn.

Sử còn chép rằng vua Lê từng hỏi Nguyễn Trãi: "Viết quốc
nhạc sao cho phải?". Nguyễn Trãi thưa: "Tâu bệ hạ! Nguyện
xin bệ hạ thương yêu nuôi dưỡng lấy dân chúng cho trong xóm
ngoài làng không còn tiếng oán hận sầu than. Đừng vì ơn
riêng mà thưởng bậy, chớ vì mình giận mà phạt bừa. Đó
chính là cái gốc của quốc nhạc vậy!".

Có nhà nghiên cứu lịch sử của Học viện Chính trị Nguyễn
Ái Quốc quê Thanh Hoá phản đối ông Thủy ầm ầm rằng: "Lê
Lợi của chúng tôi chưa bao giờ được miêu tả như thế! ".
Người ta tranh cãi về những đoạn như thế này rất dữ,
rằng phim đã ám chỉ ông này, ám chỉ ông kia bây giờ... Và,
bắt đầu từ đấy, không còn ai dám nhắc đến việc tiếp
tục cho chiếu bộ phim này nữa...

"Cho đến năm 1985, mình không còn cái gì nữa - ông chua chát
kể lại - cả điều kiện làm việc, miếng cơm manh áo, quan
hệ bạn bè, tất tật. Vợ mình bảo mình điên. Bạn bè cũng
nói mình vậy. Mẹ mình khóc và nói với mình rằng: "Con ơi!
Sao cái nghề của con nó khổ thế!". Nỗi khổ nhất lúc ấy
là sự cô đơn. Bạn bè đồng nghiệp lên cơ quan bảy rưỡi,
tám giờ có mặt tề tựu đông đủ và rất lo lắng cho mình
đã bị bắt hay chưa. Báo Tuổi trẻ phỏng vấn tôi trong những
năm mà "Hà Nội trong mắt ai" bị "cấm", ông làm cái gì?".
Tôi đã trả lời với họ rằng: "Trong những năm nhàn tản
không có việc làm này, tôi đã đến những nơi mình từng
đến quay phim, những nơi mà chúng tôi đã từng đến quay phim
để thắp hương và chiêm nghiệm như mộ ông Ngô Thì Nhậm ở
làng Tả Thanh Oai, mộ bà Đoàn Thị Điểm, mộ Nguyễn Trãi ở
làng Nhị Khê, nơi thờ phụng Lê Thánh Tông ở Điện Huy Văn...
Và, tôi thắp hương trên bàn thờ tổ tiên nhà mình. Mỗi lần
như thế, tôi thường lẩm nhẩm một câu thành tiếng rằng:
Thưa các bậc tiên liệt, con có tội tình gì không, khi con chỉ
khắc khoải kể về những sự anh linh của dân tộc này? Nhìn
lên bàn thờ tôi thấy những nén hương sau khi cháy cứ cong lên
như râu rồng"...Tôi mừng, vì mẹ tôi thường bảo rằng:
"Thắp hương trên bàn thờ, sau khi thắp hương mà những nén
hương cong lên là linh ứng đấy!".

Bộ phim không được chiếu! "Tại sao vậy? Xin các anh chỉ bảo
cho tôi những chỗ không phải, những chỗ sai để chúng tôi có
thể sửa" - bằng một giọng rất mếm mỏng, rất "đàn em",
hồi đó ông Thuỷ khẩn khoản. Ban Giám đốc hãng phim kính
chuyển nguyện vọng này của ông lên các vị lãnh đạo tư
tưởng văn hoá. Họ đồng ý cho sửa chữa bộ phim. Nhưng, khi
được hỏi cần phải sửa chỗ nào, một trong số các vị này
đã thốt lên: "Đây là một bộ phim sai, sai đến mức không
thể sửa được!". Sai đến mức như thế có nghĩa là nó
đúng! - ông Thủy nghĩ.

Cùng kíp làm bộ phim này có anh Lưu Hà, con trai ông Lưu Xuân
Thư, Phó giám đốc hãng phim Tài liệu khoa học Trung ương hồi
bấy giờ. Hà đang là sinh viên năm cuối của Trường Sân khấu
điện ảnh. Đây là bộ phim đầu tay mà anh bấm máy, cũng
được coi như là bài thi tốt nghiệp của anh. Ông bèn nghĩ ra
một kế "xui" Hà đề nghị nhà trường đứng ra tổ chức
chiếu bộ phim này ở Cung Thiếu nhi, để "cho sinh viên báo cáo
tốt nghiệp". Danh sách mời có các học giả, các nhà nghiên
cứu, các trí thức lớn, các cục, vụ, viện. Trong đó có cả
các thầy giáo của nhà trường đến dự. Thời kỳ này, Cung
Thiếu nhi là địa điểm chiếu phim sang nhất ở Hà Nội với
quy mô hơn 500 chỗ, màn ảnh cực trắng, ánh sáng cực mạnh.
Ơn trời! Kế họach này được chấp thuận. Khán giả đến
chật cứng các hàng ghế của hội trường 500 chỗ. Họ reo hò,
vỗ tay tán thưởng ầm cả rạp. Sau buổi chiếu, Ban giám đốc
hãng phim cho gọi ông Thuỷ lên hỏi: "Bây giờ ý Thuỷ thế
nào?". Ông đáp: "Thưa các anh! Nếu như tôi viết một cuốn
sách, hay vẽ một bức tranh thì việc thưởng, phạt chỉ là
của riêng tôi. Nhưng đây là một bộ phim, nó ra đời không
chỉ bởi cá nhân tôi mà là do cả tập thể làm phim, là của
cả hãng phim. Bởi vậy, xin các anh lưu ý cho một điều rằng:
nếu cái phim này nó hay, nó bán được bản quyền, được khen
thì là chung của hãng. Nhưng nếu nó dở, nó có tội thì các
anh cũng nên công bằng. Nếu định đánh 100 roi thì chỉ nên
đánh vào tôi 80 roi, rồi các anh phải bảo cấp trên đánh vào
các anh một số roi, đánh vào ông Cục trưởng Cục Điện ảnh
một số roi, đánh vào ông Bộ trưởng Bộ Văn hóa một số
roi... Chứ tại sao một cái phim hay, bán được bản quyền thì
là của Nhà nước, còn cái phim "có vấn đề" thì tất cả 100
roi các anh đều đánh cả vào đít tôi?". Các vị lãnh đạo
hãng phim lúc này đều ngơ ngác, thành thật: "Cậu nói phải!
Nhưng mà bây giờ sửa thế nào?". Ông Thuỷ nói: "Sửa thế
nào, đây là chuyện của các anh. Tôi thì tôi làm như vậy và
tôi nghĩ như vậy. Và cho đến giờ phút này các anh hỏi tôi
dù là theo trách nhiệm công dân hay trách nhiệm nghệ sĩ thì
tôi vẫn tự hào rằng tôi, một công dân, đã làm một bộ phim
như vậy. Con người ta khi có tà tâm thì không đàng hoàng
được đâu, không lễ phép được đâu và cũng không tự tin
được đâu. Cụ Hồ nói là phải biết lắng nghe ý kiến của
quần chúng. Quần chúng đây tôi không dám nói đến những
người ở ngoài đường. Ít nhất thì các anh phải chiếu cho
các anh chị em trong hãng xem, những đồng nghiệp của tôi, để
họ góp ý cho tôi hiểu cách làm phim tài liệu như thế nào,
hiểu "cái vòng phấn" mà Đảng và Nhà nước đã "vẽ" cho
chúng ta được "nhảy múa" trong đó như thế nào? Rồi anh
chiếu cho Xưởng Phim truyện, chiếu cho Cục Điện ảnh, chiếu
cho Xưởng phim quân đội, chiếu cho các hội văn học nghệ
thuật để người ta góp ý cho chúng ta". Ban giám đốc hãng phim
nghe thấy phải, và bắt đầu lên danh sách những người
được mời xem phim, ở các xưởng phim, các hội văn học nghệ
thuật, lên danh sách anh em trong hãng (kể cả anh em trong Nam)...
Khi chiếu phim bao giờ cũng có người đứng canh ở cửa, đọc
tên cho từng người vào một. Cho đến bây giờ, hẳn tất cả
những ai đã từng tham dự vào vụ này đều còn nhớ, tất cả
mọi người dù trong hay ngoài hãng phim, kể cả các cụ già như
cụ Mai Lộc, cụ Khương Mễ sau khi xem phim xong đều thốt lên:
"Sao cái phim như thế này mà lại bị "cấm" kia chứ?". Ai
cũng khen hết, kể cả những người từng ghét ông Thuỷ ngày
trước. Không một người nào kể cả các vị bên Viện Triết
hay Viện Sử, Viện Hán Nôm... có thể tìm ra được bất kỳ
một sai sót dù nhỏ nào trong bộ phim. Ông Thuỷ đã được họ
"bênh"! Khi thông tin này loang ra, một lệnh bất thành văn
được ban ra từ một cấp: không được chiếu bộ phim này
dưới bất kỳ hình thức nào nữa (!!!). Tại một hội nghị
phát hành phim trung ương có các đại biểu các tỉnh về họp,
Cục trưởng Cục Điện ảnh bấy giờ muốn chiếu bộ phim này
cho họ xem cũng không được phép. Đó là vào giữa năm 1983 -
ông Thuỷ nhớ lại và nghĩ: mọi việc đã kết thúc. Liên
tưởng đến một số vụ trước đây như "nhân văn giai
phẩm", "xét lại"... ông bắt đầu hết hy vọng thì...

Một hôm, bỗng nhiên có một cú phôn của ông Nguyễn Việt
Dũng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng
gọi xuống đề nghị Hãng phim Tài liệu khoa học Trung ương
mang phim "Hà Nội trong mắt ai" lên chiếu cho Văn phòng xem.
Dưới hãng phim, ông Bùi Đình Hạc, bấy giờ mới được bổ
nhiệm giữ chức Giám đốc hãng phim (thay cho ông Lý Thái Bảo
sang làm Tổng Thư ký Hội Điện ảnh), trả lời: "Alô! không
được phép đâu. Lệnh của cấp trên không được chiếu
nữa". Ngày 15/10/1983, Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng lại
gọi xuống. Một lần nữa Giám đốc hãng phim Tài liệu khoa
học Trung ương Bùi Đình Hạc lại từ chối lời đề nghị
này với lý do là phim đang được cắt ra để sửa. Từ đầu
dây bên kia, giọng nói đĩnh đạc của ông Dũng vang lên: "Chúng
tôi biết rằng bộ phim ấy có thể chiếu được hay không
chiếu được. Chúng tôi có chỗ để biết. Nhưng lần cuối
cùng tôi báo cho các anh biết đây là chỉ thị của Thủ
tướng Phạm Văn Đồng". Ban lãnh đạo hãng phim lại hỏi ông
Thuỷ: "Bây giờ ý cậu thế nào?". "Ối giờ ơi! Sao các ông
lại hỏi tôi ý đó. Các ông là người có chức có quyền các
ông phải hiểu được ông Phạm Văn Đồng là ai chứ! Nếu là
ông Đồng mà các ông còn không chiếu cho ông ấy xem thì đất
nước này nó còn ra làm sao nữa? Không mang phim lên chiếu cho
ông ấy xem là không được đâu". Kết quả ý kiến này của
ông Thuỷ đã được họ tiếp thu.

Kế hoạch mang "Hà Nội trong mắt ai" lên chiếu cho Thủ tướng
Phạm Văn Đồng xem đã được Văn phòng Hội đồng Bộ
trưởng ấn định vào lúc 3 giờ chiều ngày 18/10/1983. Ông
Thuỷ đề nghị với Giám đốc hãng phim, ông Bùi Đình Hạc cho
được đi cùng. Ông Hạc trả lời "Không được đâu! Làm sao
mà đi cùng được. Vào đấy qua "cổng đỏ", người ta
điểm danh đấy". "Anh Hạc ơi! Anh cứ cho tôi đi cùng vì tôi
muốn nghe bằng chính cái lỗ tai của tôi xem Bác nói gì. Tôi
thề với các anh rằng nếu Bác nói điều phải, điều đúng
thì mình phải nghe, phải sửa chữa. Còn nếu mình có làm
điều gì không phải thì chắc chắn là Bác cũng thương mà
chỉ bảo cho mình thôi". Mặc cho ông Thuỷ nói hết lời như
vậy, Giám đốc hãng phim vẫn không đồng ý. Không từ bỏ ý
nguyện, gần đến giờ hẹn, ông lén ngồi sẵn vào ghế sau
chiếc xe con Lada màu trắng của hãng phim đang đậu bên bậc
thềm và lẩm bẩm một mình: "Ngày xưa đánh nhau ở chiến
trường khu 5, khẩu hiệu của chúng tôi là nắm lấy thắt lưng
địch mà đánh. Nay tôi cũng phải nắm lấy thắt lưng anh
thôi...". Kể đến đây, ông Thuỷ cười phá lên - nụ cười
đầu tiên thoải mái hết cỡ xuất hiện trên gương mặt đã
bắt đầu có vài nếp nhăn của ông, trong suốt hơn ba giờ
đồng hồ mà tôi được gặp. Nước này, cuối cùng, Giám
đốc hãng phim đành cho xe lăn bánh.

Đến Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng ở số 2 Bách Thảo, Hà
Nội, không thấy ai ra kiểm tra danh sách mà chỉ có giọng
người bảo vệ hỏi vọng từ trong chốt gác: "Xe nào đấy?".
"Xe của xưởng phim vào chiếu phim cho Bác Đồng xem đây".
Tiếng người bảo vệ lại vọng ra: "Vào đi! ". Thế là lọt.
"Đấy, có ai điểm danh, kiểm tra gì đâu" – Ông Trần Văn
Thủy bảo với ông Bùi Đình Hạc.

Ông Thuỷ bê 5 hộp phim vào ngồi chờ trong phòng khách. "Bác
Đồng đang tiếp Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên
Xô, ông A -li-ep. Các anh chờ, một lát nữa bác xuống" - có
người ra thông báo. Tự dưng Thuỷ bỗng thấy lo lo. Gần 30
phút sau ông Phạm Văn Đồng xuống. Trời tháng 10, chưa lạnh
lắm nhưng bác đã phải mặc chiếc áo khoác màu đen bằng dạ.
"Trông thấy chúng tôi, tự nhiên mặt ông Đồng đanh lại tỏ
ý bực mình lắm". "Muốn xem một bộ phim mà khó thế à? Nếu
mà khó quá thì thôi tôi không cần nữa, tôi không phiền các
anh nữa" – Ông Đồng dằn giọng nói như vậy sau khi đã phải
chờ đợi giờ phút này chừng nửa tháng rồi, kể từ hôm
đầu tiên ông yêu cầu hãng đem phim lên chiếu. Ông cứ chắp
tay sau lưng đi đi lại lại trong sân mà không vào phòng chiếu.
Linh tính mách bảo Trần Văn Thủy một điều gì, rằng Thủy
đang gặp may. Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Hội đồng Bộ
trưởng Nguyễn Việt Dũng đỡ lời cho đoàn làm phim rồi mời
Thủ tướng vào. Thủ tướng ngồi xuống một chiếc ghế mây.
Đạo diễn Trần Văn Thuỷ đứng vòng tay trước mặt bác
nghẹn ngào nói: "Thưa bác! Bác cho phép cháu thay mặt anh em trong
đoàn làm phim được bày tỏ lòng biết ơn đến bác. Cháu rất
xúc động vì việc nước bận như vậy mà Bác vẫn bớt chút
thì giờ... ". Nói đến đây ông Thuỷ nghẹn ngào đến lạc
cả giọng đi. "Cháu ngồi xuống đây! Cháu ngồi xuống đây! ".
Nghe giọng nói ân cần của Thủ tướng, ông Thuỷ thấy mình
được bình tâm trở lại. Bác phải cầm tay kéo Thuỷ ngồi
xuống bên phải mình; bên trái bác là Giám đốc hãng Phim Bùi
Đình Hạc. Phim bắt đầu chiếu. Sau mỗi một "chốt" phim như
đoạn Tô Hiến Thành dùng người như thế nào, đoạn vua Lê
Thánh Tông cho dựng đình Quảng Văn trong có đặt trống Đăng
Văn để dân chúng đến kêu oan ra sao, rồi đoạn nói về nỗi
oan khuất của Nguyễn Trãi v.v..., bác lại nhổm dậy dịch
chuyển ghế. Cứ thế, bác lặng lẽ lặng lẽ xem cho đến hết
bộ phim.

Phim hết. Đèn trong phòng đã bật sáng. Bác vẫn ngồi, đầu
vẫn cúi xuống, tay đặt lên trán, bất động. Tất cả mọi
người xem phim đều cùng im lặng. Một lát sau, Bác ngẩng đầu
quay sang Đạo diễn Trần Văn Thuỷ, hỏi: "Những ai đã được
xem phim này và họ đã nói những gì về nó? ". "Thưa Bác! Bác
hỏi cháu thế cháu khó trả lời lắm. Vì nếu cháu trả lời
bác thì có thể không khách quan. Có rất nhiều người ủng
hộ, tán thành nhưng họ lại không có quyền phán xét gì về
bộ phim này. Xin phép Bác để cho anh Bùi Đình Hạc là giám
đốc của cháu được trình bày với Bác". Bác quay sang phía
ông Hạc. Ông hạc thưa: "Thưa đồng chí! Đây là bộ phim
được các đồng chí có trách nhiệm đánh giá là một bộ phim
có vấn đề, mượn xưa để nói nay. Đây là bộ phim không
cùng Đảng để giải quyết những khó khăn hiện nay mà nuối
tiếc những quá khứ phong kiến ngày xưa và gieo rắc vào thực
tại quần chúng đảng viên những bi quan, hoài nghi và tiêu
cực…". Rất tiếc rằng đến lúc này mà ông Hạc vẫn không
hiểu được bác Đồng đang nghĩ gì. Cuối cùng, ông Hạc nói:
"Thưa Đồng chí! Những người có trách nhiệm kết luận rằng
tác giả bộ phim này chỉ là một nghệ sĩ chứ không phải là
một nghệ sĩ cách mạng". Bác hỏi: "Ai nói như vậy? ". Giám
đốc hãng phim Bùi Đình Hạc nêu tên ba vị lãnh đạo cấp
trên thời đó. Trong khi ông Hạc nói, ông Thuỷ như bị kim
châm, cứ nhấp nha nhấp nhổm đứng lên, ngồi xuống, đến
mức ông Nguyễn Việt Dũng ngồi bên cạnh phải vít vai mấy
lần ông mới im lặng được. Đoạn bác quay sang ông Thuỷ:
"Cháu có ý kiến gì nữa không?". Ông Thuỷ đứng lên thưa:
"Thưa bác, cháu đã nhường lời cho anh Hạc. Và anh Hạc đã
nói những lời cháu không nghĩ như thế. Cháu chỉ muốn thưa
với bác rằng: nếu bộ phim này có gì sai lầm thì đó chỉ là
do lực bất tòng tâm chứ bụng dạ chúng cháu không nghĩ thế.
Thưa bác! Khi chúng cháu đến mộ bà Đoàn Thị Điểm thì thực
sự lúc này nó chỉ còn là một đống rác. Và chúng cháu đã
phải thuê dọn cái đống rác này đi mất nửa ngày. Rồi xin
một chút nước vôi quét lên tấm bia mộ của bà, mượn một
số chậu cảnh quanh đó bày đặt quay phim để khỏi mang tội
bất hiếu với tiền nhân...". Được ngồi bên Thủ tướng
Phạm Văn Đồng lúc này, linh cảm mách bảo với Đạo diễn
Trần Văn Thuỷ rằng: trong cơn bão tố cuồng phong mà mình đang
đi, ông đã tìm được một cái hang an lành để trú ngụ.
Cuối cùng bác nói: "Tôi cũng không nghĩ rằng sự thể nó lại
quan trọng đến mức này". Rồi bác phân tích cho mọi người
hiểu đoạn nói về Nguyễn Trãi trong phim là có thật trong
lịch sử và là nói về thân phận của Nguyễn Trãi chứ không
chủ ý nói về Lê Lợi. Từng đoạn, từng đoạn khác như thế
của phim cũng được bác phân tích rất cặn kẽ. "Tôi kinh
ngạc về trí nhớ tuyệt vời của bác. Bác mới chỉ xem phim
có một lần trong khi trăm công nghìn việc đang chờ đợi" -
ông Thủy thốt lên với tôi. Rồi bác kết luận: "Ý kiến thứ
nhất của tôi là: nếu đã là anh em cùng làm văn nghệ với
nhau thì phải biết thương yêu, bảo vệ, bênh vực lẫn nhau.
Các anh mà không biết bênh vực cho nhau thì còn ai bênh vực các
anh? Ý kiến thứ hai của tôi mong các anh ghi nhận và anh Dũng
ghi vào biên bản để gửi sang Văn phòng Ban Bí thư: Tổ chức
chiếu công khai bộ phim này cho nhân dân xem, chiếu càng rộng
càng tốt, càng nhiều càng tốt! Chiếu ngay lập tức! Nếu sau
này phát hiện ra cái gì sai thì chỉnh sửa". Đoạn quay sang ông
Thuỷ, bác lại ân cần cầm tay ông: "Bác dặn riêng cháu điều
này: cháu phải nhớ, khi nào cần cháu phải gặp bác, tìm mọi
cách mà liên lạc với bác. Chỉ có cháu mới chủ động chứ
bác không thể chủ động liên lạc với cháu được".

Cũng nên nhớ lại rằng, vào thời gian đó, diễn ra Đại hội
Hội Nhà văn. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đến dự và
gửi lời chào đến các đại hội các hội văn học nghệ
thuật khác (do Bác không có điều kiện đến dự). Nhưng, phải
chăng do bức xúc trước cách đối xử của một số người
đối với bộ phim này như thế mà sáng sớm ngày 20.10.1983,
ngày khai mạc Đại hội Hội Điện ảnh toàn quốc lần thứ II
tại Cung Thiếu nhi, tức là chỉ 2 ngày sau khi bác xem phim "Hà
Nội trong mắt ai", bác đã bất ngờ đến dự Đại hội này.
Ngay từ phút đầu tiên, bác bước lên diễn đàn Đại hội
phát biểu với hơn 500 nghệ sĩ điện ảnh toàn quốc. Bài nói
chuyện không cần giấy tờ của bác kéo dài hơn 1 giờ đồng
hồ. Bác đã nói rất kỹ, rất mạnh mẽ, rất sâu sắc, về
cách thức quản lý, lãnh đạo văn nghệ: "Đừng bắt tất cả
các anh em văn nghệ sĩ hiện nay phải chui qua một cái lỗ kim,
theo một khuôn mẫu có sẵn!". Đến bây giờ, những ai có dịp
được tham dự Đại hội này hẳn đều còn nhớ hình ảnh
đầy ấn tượng, lạ lùng của bác khi bác quay người lại,
hướng về phía Chủ tịch đoàn Đại hội rồi chắp tay vái
lạy họ và nói rằng: "Tôi lạy các anh! Tôi xin các anh! Khi
duyệt phim thì cố gắng rộng lượng như tôi". Cả hội
trường lập tức vỡ oà bởi những tràng vỗ tay dài không
ngớt. Ai nấy đều hiểu Bác đang nói về điều gì. Với Trần
Văn Thuỷ, hôm ấy là một ngày hạnh phúc đến tột độ.
Không giấu nổi xúc động, ông bật khóc. "Một phần thưởng
tâm linh, vô cùng cao quý hơn bất kỳ phần thưởng nào khác
trong đời đã đến với tôi" - ông nói với tôi, nước mắt
giàn giụa.

Từ đó, bộ phim bắt đầu được công chiếu rộng khắp trong
tất cả các cơ quan, các câu lạc bộ, các hội đoàn... cho các
tầng lớp nhân dân xem. Hàng tuần liền, Rạp Tháng Tám và
nhiều rạp khác ở Hà Nội tổ chức chiếu phim này ba ca trong
một ngày thì trong cả ba ca chiếu, khán giả đã phải xếp
hàng dài chen chân mới mua được vé. Nếu ở Việt Nam có
ghi-net thì phải xếp bộ phim này vào hạng phim tài liệu "ăn
khách nhất" từ trước đến nay. Đây là một hiện tượng
khác thường vì cho đến lúc bấy giờ, phim tài liệu nước ta
mới chỉ được chiếu "chùa", chiếu "kèm" vào đầu các buổi
chiếu phim truyện, để tuyên truyền, cổ động. Tại Liên hoan
Phim quốc gia tổ chức tại Đà Nẵng tháng 3/1988, bộ phim đã
được bình chọn nhận giải Bông sen Vàng duy nhất thể loại
phim tài liệu. Ngoài ra tại đây, nó còn được bình chọn
giải phim biên kịch hay nhất, đạo diễn hay nhất, quay phim hay
nhất. Nhưng, có lẽ giải cao nhất, vinh dự nhất cho bộ phim
này là giải phim tài liệu được nhiều khán giả xem nhất.
Mới hay ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Phạm Văn Đồng
"cứu" bộ phim "Hà Nội trong mắt ai", "cứu" đạo diễn của
nó hồi ấy thật là sáng suốt và kịp thời. Và cũng từ đó
ông Thuỷ bắt đầu bớt dần được những giấc ngủ thắc
thỏm, những cơn ác mộng hằng đêm. Ngay sau hôm được gặp
Bác Phạm Văn Đồng, ông Thủy ra một hiệu sách ở Bờ Hồ mua
một tấm ảnh chân dung cỡ lớn của Thủ tướng Phạm Văn
Đồng cất giữ cẩn thận. Ngày Bác mất, ông lập một ban
thờ riêng, treo ảnh Người lên thờ và để tang Bác trọn ba
năm...

Nhưng chưa hết. Phải đến khi đồng chí Nguyễn Văn Linh lên
làm Tổng Bí thư, bộ phim và ông Thủy mới thực sự được
"cứu sống" hoàn toàn. Nhà Đạo diễn Trần Văn Thủy
được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân. Cũng nên lưu ý
một điều: nếu so với "Những việc cần làm ngay" hay
những gì mà Đảng và Nhà nước ta thực hiện "cải tổ",
"đổi mới", những sự kiện "bùng phát" ở Báo Văn
nghệ, "đời" Tổng Biên tập Nguyên Ngọc, như hàng loạt
bài viết về khoán 10, khoán 100, về cải cách ruộng đất, về
"Cái đêm hôm ấy đêm gì?"..., hoặc xa hơn nữa là sự
kiện văn chương tiểu thuyết "Cù lao Chàm" của Nguyễn
Mạnh Tuấn hoặc hàng loạt vở diễn chấn động dư luận của
Lưu Quang Vũ thì, về mốc thời gian, bộ phim "Hà Nội trong
mắt ai" "đi trước thời đại". Tiếp chuyện tôi, ông
Thủy cho hay: Có lần ông nhận được một lời đề nghị ông
viết đơn và làm hồ sơ để có thể được xét duyệt trao
tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về bộ phim này. Ông khước
từ lời đề nghị: "Tôi không bao giờ làm đơn vì việc
này!".

"Thưa các bác! Cháu nghĩ rằng nếu bộ phim này nó hay, được
các bác tán thưởng, được ai đó chia sẻ, bảo vệ như Bác
Phạm Văn Đồng thì cũng chẳng phải riêng tại cháu mà đấy
là những vấn đề lịch sử do tiền nhân để lại. Mà nếu
bộ phim này có làm ai đó bực mình, khó chịu, thậm chí phẫn
nộ thì lỗi cũng không phải tại cháu. Cái hay, cái dở căn
cứ vào lịch sử, cháu chỉ là người trình bày, sắp xếp
những điều có thật đó, may ra có ích gì đấy cho hiện thực
cuộc sống, xứng đáng với tiền nhân..." (trích bài nói
chuyện của Đạo diễn Trần Văn Thuỷ tại cuộc gặp mặt
với gần 1000 cụ cách mạng lão thành tại Câu lạc bộ Thăng
Long, Hà, Nội năm 1983).

Hà Nội, 12.2006

* Văn bản đã được Trần Văn Thủy và Nguyễn Xuân Diện
chỉnh sửa lại một số chữ ngày 11.1.2011.


IMG_0849.JPG

Nghệ sĩ nhân dân Trần Văn Thủy - ảnh Nguyễn Xuân
Diện.

“Top ten” chuyện lạ năm 2010

(http://danluan.org/node/3647),
Vào đúng thời khắc năm cũ 2010 chuyển sang năm mới 2011, bác
Ba Phi "thiền định" hồi lâu rồi chọn ra 10 chuyện lạ
trong năm qua:
1. Một số quan chức ở tỉnh Bình Thuận giả danh "lâm
tặc" để được cấp đất "hoàn lương". Ông Phan Dũng,
Giám đốc Sở KH&ĐT tỉnh, cùng vợ là hai "lâm tặc" được
cấp đất "hoàn lương" nhiều nhất.

2. Mừng đại lễ 1.000 năm Thăng Long, chính quyền quận Hà
Đông (Hà Nội) đã chặt toàn bộ cây xanh lâu năm ở hai bên
quốc lộ 6 đoạn qua Hà Đông để trồng mới 1.000 cây sao đen
con với kinh phí 6 tỉ đồng.

3. Một sĩ quan công an Hà Nội lái xe ôtô riêng đâm vào đuôi
công xa chở ông bộ trưởng-chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ.
Viên sĩ quan này sau đó đã đánh "te tua" tài xế chiếc công
xa của Chính phủ trước sự sững sờ của… ông bộ trưởng.

4. Báo cáo của Ban Chỉ đạo trung ương về phòng chống tham
nhũng (tại hội nghị toàn quốc tổng kết công tác phòng
chống tham nhũng) cho biết có 12 tỉnh suốt cả nhiệm kỳ năm
năm không phát hiện ra vụ tham nhũng nào cả.

5. Công ty Du lịch Tiền Giang bị "bán đứng" cho tư nhân
với giá bèo. Riêng cán bộ Trần Thanh Tiến, nguyên tổng giám
đốc công ty, giàu lên bất thường với tài sản nhà đất
trị giá 20 tỉ đồng cùng nhiều sổ tiết kiệm với tổng số
giao dịch 40 tỉ đồng và hơn 5.000 chỉ vàng.

6. Ông Nguyễn Trường Tô mất chức chủ tịch UBND tỉnh Hà
Giang sau khi tấm ảnh "cuổng trời" của ông bị phát hiện
trong máy điện thoại di động của một gái mại dâm.

7. Dự án xây dựng công viên "Văn miếu tiến sĩ đương
đại" với 25 ha đất để dựng bia đá khắc tên các tiến
sĩ đương đại có rùa đội giống như ở Văn Miếu-Quốc Tử
Giám (cả nước hiện có khoảng 20.000 tiến sĩ).

8. Sự xuất hiện dồn dập các "hố tử thần" tại TP.HCM
trước sự bất lực của các cơ quan chức năng trong việc xác
định nguyên nhân.

9. Có 11.400 người chết trên cả nước vì tai nạn giao thông
trong năm 2010 (nhiều gấp gần ba lần so với con số 4.168 lính
Mỹ chết tại chiến trường Iraq suốt bảy năm tính từ tháng
3-2003 đến tháng 9-2010).

10. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên
cho biết chính ông cũng phải mất 14 triệu đồng "bôi trơn"
mới được cấp giấy chủ quyền nhà, đất cho căn nhà của
mình.

Hỏi bác Ba Phi "top ten" này được chọn theo tiêu chí nào,
bác đáp: "Hổng theo tiêu chí nào cả, chỉ theo trí nhớ thôi.
Hết một năm cũ, chuyện lạ nào còn đọng lại trong trí nhớ
của tui thì chuyện đó ắt thuộc loại "top" rồi"
Siêu Cường Chân Đất
Trung Quốc giữa danh và thực…
Tết nhất đến nơi rồi, nếu cứ viết chuyện nhức đầu mãi thì hơi ác với độc giả. Vì vậy, xin có một bản tin vui trước đã….
Ngày 19 tháng Giêng, khi Chủ tịch Hồ Cẩm Đào chuẩn bị vào dự quốc yến do Tổng thống Barack Obama khoản đãi thì cảnh sát tại Florida lại loan một tin lạ, cứ như truyện ngụ ngôn.
Có năm tên trộm kia, thuộc loại choai choai, đã đột nhập vào một nhà nọ ở thị xã ven hồ Silver Springs Shores và đánh cắp được một cái hũ bạc. Về nhà, các cậu hít lấy hít để vì tưởng là bạch phiến hay á phiện. Sau mới biết là lầm nên quăng hũ xuống hồ để phi tang. Nào ngờ cảnh sát vẫn tìm ra và tóm trọn ổ cả năm thiếu nhi với tang vật của nhiều vụ ăn trộm trước đó.
Chi tiết lạ là hũ bạc này không đựng bạch phiến mà giữ tro cốt của ông chủ cùng hai con chó vĩ đại, giống Great Dane. Truyện ngụ ngôn là “trầm hương mà cứ tưởng củi mục”.
Người viết thì tai ngược nghĩ đến thời sự mà cho rằng có khi cảnh sát muốn gửi tới Hồ Chủ tịch một lời nhắn. Đám ngũ tinh kia – với lá cờ năm sao – đánh cắp tư bản chủ nghĩa mà tưởng là phê vì sớm dẫn chúng lên cõi Xuân Tuyền, cuối cùng thì đành trút cả xuống hồ Động Định…
Cứ suy như vậy mà xem.
***
Nhân thượng đỉnh Mỹ-Hoa, một số lý thuyết gia vội kết luận về sự lớn mạnh của Trung Quốc.
Thật ra, Tổng thống Barack Obama cũng không nói khác, theo ngôn ngữ ngoại giao của ông tại cuộc họp báo hơn một tiếng đồng hồ ngày 19 bên cạnh Hồ Cẩm Đào. Hoa Kỳ là siêu hạng về kỹ thuật nhưng cuộc họp báo lại có nhiều trục trặc máy móc về việc phiên dịch, dịch lệch, dịch sai hoặc im lặng vô tuyến, v.v… Nhờ đó ông Hồ Cẩm Đào có thể lăng ba vi bộ để khỏi trả lời mấy câu nhạy cảm và ông Obama chứng tỏ sự nhanh trí đầy duyên dáng. Nhưng đấy là tiểu tiết.
Chuyện lớn là các nhà lý luận Mỹ lại nhân dịp này ngợi ca Trung Quốc.
Nổi bật là Giáo sư Francis Fukuyama trong bài viết hôm 17 trên nhật báo Financial Times (“U.S. Democracy Has Little to Teach China”), được một bình luận gia của tuần báo lá cải Time xào lại. Gọi tờ Time là báo lá cải thì hơi kỳ, nhưng xin cứ đọc vài ba số thì quý độc giả sẽ biết.
Ông Fukuyama nổi tiếng là nhà tư tưởng đã ngợi ca “sự cáo chung của lịch sử” khi Liên bang Xô viết tan rã hai chục năm trước. Ông lạc quan tin rằng từ nay cả thế giới sẽ theo đuổi kinh tế thị trường và chính trị dân chủ. Thiên hạ sẽ đồng quy vào một mối – mọi chuyện đều nhàm – trong bàn tay dìu dắt của Hoa Kỳ sau khi tư bản cả thắng chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản … Bây giờ, cũng Fukuyama thì lại có vẻ xét lại. Trung Quốc mới nắm bí quyết thần diệu vì đối phó rất nhanh với nạn tổng suy trầm, trong khi nền dân chủ Hoa Kỳ lại đắn đo chậm lụt.
Nhiều nhà bình luận trên các tờ New York Times (NYT) hay Washington Post cũng hoà điệu với lập luận đó, khiến Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, báo chí tạiTrung Quốc và thậm chí ở cả Việt Nam, đều thấy sướng rêm mé đìu hiu. Chuyến Mỹ du thành công mỹ mãn và mô thức phát triển của Trung Quốc trở thành khuôn vàng thước ngọc.
Lũ trẻ vừa vồ được cái hũ bạc….
***
Nhân đây, phải công bằng nói thêm rằng bình luận gia Paul Krugman của tờ NYT lại là tiếng cú – mượn chữ của Võ Phiến – hoàn toàn lạc điệu vì báo hiệu nhiều chuyện không hay cho Trung Quốc.
Giáo sư Krugman là kinh tế gia xuất sắc nhưng từ mươi năm nay lại thành nhà bình luận quá thiên tả và thiên lệch sau khi rời tờ báo điện tử Slate mà viết cho tờ NYT. Khâm phục ông từ hai chục năm trước, khi Krugman còn rất trẻ, ngày xưa người viết không bỏ qua cuốn sách hay bài viết nào của ông trên mặt báo. Sau này thì dội và chẳng muốn đọc nữa. Nhiều người bạn Mỹ, trong đảng Dân Chủ, cũng thấy như người viết.
Nhưng tuần qua, Krugman nói ngược với đa số cánh tả và trình bày rất đơn giản, nôm na những lý do kinh tế khiến Trung Quốc không đáng phục. Một vụ khủng hoảng vẫn có thể bùng nổ vào thời điểm này thì thật đáng tiếc. Hơn hai chục năm trước, Krugman cũng nói như vậy về phép lạ kinh tế của các rồng cọp Đông Á: chả có gì là kỳ diệu mà sẽ bị khủng hoảng. Quả nhiên là Đông Á bị vụ khủng hoảng 1997-1998…
Quý độc giả tò mò thì có thể tìm đọc bài “China Goes to Nixon” của Paul Krugman trên tờ NYT số ra ngày 10 tháng Giêng. Với giới trẻ tại Việt Nam, có lẽ Giáo sư Krugman là thần tượng – ông đã tới Việt Nam nói chuyện với họ – bây giờ, họ nên đọc thêm để thấy ra… Hà Nội cũng dùng những liều thuốc đổ bệnh về kinh tế như Trung Quốc.
Bây giờ đến chuyện nhức đầu…
***
Là người nghiên cứu kinh tế ưa nói ra mặt trái lịch sử, văn hoá và chính trị Trung Quốc trong mối quan hệ với Việt Nam, người viết tiếp tục trình bày những lý do kinh tế giải thích nguy cơ khủng hoảng của xứ này. Sau khi Hồ Cẩm Đào được một số người thổi lên mây xanh thì càng nên viết vì e rằng – sự đã rồi – lãnh đạo Hà Nội vẫn coi mô thức và chiến lược phát triển của Trung Quốc mà mẫu mực.
Trước hết là một bài học thường thức về tương quan kinh tế
Người ta quá đơn giản hóa mọi chuyện mà so sánh thành tích kinh tế của Trung Quốc và Hoa Kỳ để ngợi ca lãnh đạo Bắc Kinh.
Lấy thời điểm gốc là từ năm 1979 tới 2010, trong ba chục năm qua, trung bình hàng năm thì một người dân Mỹ đã sản xuất thêm hàng hóa và dịch vụ trị giá từ 25.000 Mỹ kim lên tới 42.000. Bước nhảy vọt là từ năm 1992 đến 2008. Trong cùng giai đoạn ấy, sức sản xuất một người dân Hoa lục đã từ gần số không lên tới hơn 2.800 Mỹ kim. Từ ngang mặt cỏ mà lên tới gần ba ngàn đô la thì quả là kỳ diệu – cho lịch sử Trung Hoa. Nhưng khó là mẫu mực cho mọi quốc gia, nhất là các quốc gia đã bước qua một hình thái kinh tế khác, kể cả Nhật Bản, Nam Hàn hay Đài Loan là những nền kinh tế đã đạt những thành tựu đó từ mấy chục năm về trước.
Nói theo người Mỹ, sự sai lầm là khi so sánh quả cam với quả táo.
Thật ra, với mọi hoạn nạn trong mấy năm qua Hoa Kỳ vẫn có sản lượng kinh tế lớn hơn kết số của Trung Quốc và Nhật Bản, là các nước hạng nhì và hạng ba. Và nói về mức độ tự do kinh tế thì Trung Quốc đứng hạng 135 trong 179 nước vừa được khảo sát năm qua.
Một khía cạnh thứ hai cần nhắc tới, nền dân chủ Mỹ đã xoay trở rất nhanh. Sau hai kỳ bầu cử 2006 và 2008 dồn phiếu cho đảng Dân Chủ mà thấy là không được việc, dân Mỹ lập tức đổi ý và bỏ phiếu cho đảng Cộng Hoà. Nếu đảng này làm không nên chuyện thì sẽ lại thất cử vào kỳ tới.
Trong bốn năm, chính trường Mỹ đã đổi thay tới chóng mặt, rồi sau khi áp dụng giải pháp bao cấp cực tả, dân Mỹ cho lãnh đạo cơ hội thử nghiệm giải pháp khác. Trong giai đoạn xoay vần ấy, tất cả đều công khai hóa và được ghi nhận để kiểm chứng.
Hệ thống chính trị Trung Quốc thì không thể có khả năng biến báo trong minh bạch như vậy. Tất cả chỉ là sự đồng thuận mờ ảo và mờ ám và Chủ tịch Hồ Cẩm Đào chỉ là phát ngôn viên của nhiều phe nhóm kinh tế hay thế lực chính trị trong đảng Cộng sản. Bảo rằng xứ này đã xoay trở và đối phó nhậm lẹ hơn Hoa Kỳ thì chỉ chứng minh là mình không nhìn ra cái mặt tối bị che khuất bên trong.
***
Sang đến chuyện tương lai, khi Chủ tịch Hồ Cẩm Đào nâng ly đáp lễ Tổng thống Hoa Kỳ tại toà Bạch Cung thì Cục Thống kê Quốc gia ở nhà công bố những dữ kiện kinh tế của Trung Quốc trong năm 2010 vừa kết thúc.
Vô cùng bức xúc.
Trong năm 2010, kinh tế Trung Quốc đạt mức tăng trưởng huy hoàng là 10,3%, cao nhất kể từ năm 2007 là khi tốc độ gia tăng sản lượng lên tới gần 12%. Nghĩa là sau ba năm vất vả, Trung Quốc có thể trở lại thời vàng son trước vụ tổng suy trầm 2008-2009.
Chuyện đáng chú ý là sức đẩy của xuất cảng, tăng hơn 31% và lên tới một ngàn gần 600 tỷ đô la. Nhưng trong năm tới, đà gia tăng chỉ còn là 10%: các nền kinh tế tiên tiến đã tiếp nhận hàng xuất cảng của Trung Quốc đều đang tiết kiệm nhiều hơn và tiêu xài ít hơn. Đó là về chu kỳ, những biến chuyển thăng giáng định kỳ.
Về cơ cấu sản xuất, hệ thống Trung Quốc đang ở vào khúc quanh. Tỷ trọng của xuất cảng đã giảm, lượng nhập cảng vẫn tăng, và trong xuất cảng, các ngành chế biến lại suy giảm dần trước sự bành trướng của dịch vụ và tài chánh ngân hàng. Từ năm nay trở đi, Trung Quốc sẽ càng lệ thuộc vào việc nhập cảng nguyên nhiên vật liệu để duy trì sản xuất trong khi lại gây mâu thuẫn với các đối tác kinh tế về xuất cảng.
Thứ hai, Trung Quốc đối phó với nguy cơ suy trầm là qua tín dụng và đầu tư, chủ yếu là đầu tư trong khu vực nhà nước bằng bội chi ngân sách. Đa số tín dụng thì trút vào khu vực gia cư và thổi lên bong bóng đầu cơ mà Trung ương tại Bắc Kinh khó đỡ được. Những quyết định khiến lạm phát gia tăng mà quốc tế và quốc gia chưa thể ngăn ngừa nổi.
Thứ ba, nội bộ Trung Quốc đã có sự bất nhất về chiến lược kinh tế giữa các tỉnh duyên hải hay đảng bộ địa phương vẫn đòi tăng trưởng tối đa với nhu cầu đối nghịch là phải kềm hãm vật giá để tránh lạm phát. Mà cái thước đo lường mức lạm phát lại là khí cụ không đáng tin nên sức ép về giá cả thực tế lại còn trầm trọng hơn thế.
Nói lại cho gọn, Trung Quốc lâm thế kẹt giữa hai yêu cầu trái ngược là phải tăng trưởng mà lại cần ổn định vật giá, trong một mớ bòng bong về quyền lợi kinh tế và quyền lực chính trị. Xin nói lại cho rõ: lãnh đạo Bắc Kinh chết kẹt giữa yêu cầu mâu thuẫn của doanh nghiệp nhà nước và các đảng bộ địa phương nên càng khó ổn định vật giá và đẩy lui nhiều bất trắc muôn mặt.
Vì vậy, năm 2011 này Trung Quốc sẽ gặp nhiều biến động mà lãnh đạo không thể ngăn nổi. Siêu cường kinh tế này là một anh khổng lồ có đôi chân bằng đất sét. Mềm oặt và dễ sụt. So sánh với kinh tế Hoa Kỳ thì chẳng có gì là đáng tự hào để mơ hồ nói tới thế lực của Trung Quốc.

Bạn nghĩ gì về: “Độc lập, Tự do, Hạnh phúc”?

Nguyễn Hữu Quý

Đã có khi nào bạn ngồi một mình để suy ngẫm về cụm từ này, mà nó đã rất đỗi thân thuộc với mọi người Việt Nam?

Ngay sau khi cách mạng Tháng 8/1945 thành công, nước nhà giành được độc lập, quốc hiệu nước ta từ đó là VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ; kèm thêm vào Quốc hiệu trong tất cả các loại giấy tờ là cụm từ “Độc lập-Tự do-Hạnh phúc”. Rồi, sau khi nước nhà thống nhất, tại ĐH Đảng toàn quốc lần thứ IV tổ chức vào năm 1976, quốc hiệu nước ta lại thay đổi, mang tên CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM, nhưng cụm từ kèm theo bên dưới thì vẫn không thay đổi, vẫn là “Độc lập-Tự do-Hạnh phúc”. Tuy vậy, khái niệm độc lập, Tự do, Hạnh phúc như chúng ta đã thấy, hình như ngày càng có những vấn đề thời sự buộc chúng ta phải quan tâm, quy nghĩ. Hãy thử xét kỹ xem sao.

ĐỘC LẬP:

Theo thiển ý của người viết, Độc lập ở đây là nói về Quốc gia. Một Quốc gia gọi là ĐỘC LẬP, có nghĩa là không bị ngoại bang xâm lược, đô hộ; Quốc gia độc lập có nghĩa là vẫn giữ vững được bờ cõi, cương vực rõ ràng, không bị các quốc gia khác xâu xé, cướp mất…

Trên thế giới này, có lẽ Việt Nam nói riêng và các nước giáp Trung Hoa nói chung, có thể là các quốc gia phải trả giá đắt nhất cho sự ĐỘC LẬP của mình. Bởi vì, dân tộc Trung Hoa, với dòng máu Đại Hán, luôn luôn tìm cách mở rộng lãnh thổ, bằng cách xâm lăng lân bang nhằm sáp nhập vào lãnh thổ của họ…

Nếu như hai từ TRUNG HOA được hiểu là đế chế do Tần Thủy Hoàng (259-210TCN) sau khi tiêu diệt các nước chư hầu thời Chiến Quốc để lập nên đế quốc Trung Hoa[1] [nhà Tần] vào những năm 238 TCN; thì đến nay, lãnh thổ Trung Quốc đã mở rộng hơn lên 5-7 lần. Nói về điều này để người Việt luôn luôn nhớ rằng, không một phút lơi là với bọn phương Bắc, cho dù chúng núp danh dưới bất kỳ mỹ từ nào (?!). Ông cha ta xưa đã rất tuyệt vời trong việc giữ vững nền độc lập thì ngày nay không có lý do gì, thế hệ cháu con không thể làm tốt hơn; việc khuất tất trong việc giữ gìn nền độc lập sẽ bị lịch sử lên án, phỉ nhổ...; bài học về Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống… vẫn mãi mãi còn đó!



Đế quốc Trung Hoa thời nhà Tần, mà ngày nay diện tích đã rộng hơn đến 5-7 lần
do sự xâm lăng các lân bang ghép vào lãnh thổ - luôn luôn nhắc nhở người Việt không ngừng cảnh giác, cho dù chúng núp dưới bất kỳ những mỹ từ nào?!

Hơn bất kỳ quốc gia nào khác, dân tộc VN hiểu về giá trị của ĐỘC LẬP; chính vì thế, lịch sử của dân tộc VN được khái quát là LỊCH SỬ CHỐNG GIẶC NGOẠI XÂM (mà chủ yếu là từ phương Bắc). Người Việt Nam, lớp lớp các thế hệ, đã phải trả giá hàng chục triệu người cho danh hiệu cao quý, mang tính tồn - vong này.

Nhưng vượt lên tất cả; khái niệm ĐỘC LẬP còn được hiểu đó là QUYỀN TỰ QUYẾT; ở đây được hiểu là, người VN phải được tự quyết định vận mệnh dân tộc của mình, bằng trí tuệ của toàn dân tộc. Phụ thuộc ngoại bang về quyền tự quyết, hoặc để ngoại bang xâm hại quyền tự quyết, là đồng nghĩa với việc mất độc lập.

Như vậy, có thể hiểu ngắn gọn: ĐỘC LẬP là TOÀN VẸN LÃNH THỔ VÀ QUYỀN TỰ QUYẾT.






Nghĩa trang Trường Sơn - một trong hàng trăm nghĩa trang trên đất nước Việt Nam; đại diện cho hàng triệu người của nhiều thế hệ đã ngã xuống vì nền độc lập.

 TỰ DO, HẠNH PHÚC.

Đây là quyền thiêng liêng của cá nhân – con người. Chính vì vậy, ngay phần mở đầu của Bản tuyên ngôn độc lập, được Hồ Chủ tịch đọc tại Quảng trường Ba Đình vào sáng ngày 02/9/1945, Người đã mượn lời bất hủ từ bản tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776. Hồ Chủ tịch đã mở đầu “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh nước VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ bằng đoạn như sau:

"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

Trong quá trình hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra một chân lý mang tầm nhân loại, với ý nghĩa vĩnh hằng, bất biến: KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP, TỰ DO!

VIỆT NAM HÔM NAY CÓ LÀ NƯỚC ĐỘC LẬP?

Không biết đã có mấy người đặt ra câu hỏi này? Đây có vẻ như câu hỏi của thời đại hôm nay đang đặt ra cho toàn thể người Việt Nam còn lương tri, còn nghĩ đến đất nước phải trả lời (?!).

Nhìn về biên cương, biển đảo, lãnh thổ chúng ta đang để cho người Tàu gặm nhấm từng phần.

Còn tệ hơn nữa, khác với truyền thống cha ông, chúng ta hôm nay còn tạo điều kiện để người Tàu có cơ hội xâm lược trong tương lai (?!).

Nhưng đau lòng hơn tất cả vẫn là, hơn 700 toà báo, tạp chí đã phải im lặng trước sự ngang ngược của lãnh đạo Bắc Kinh; các báo chí được gọi là “lề phải” đang dần dần không có người đọc, để đến nỗi, nhà báo Trương Duy Nhất phải dùng đến một câu “Tuyên truyền phản động” để làm tiêu đề cho một bài viết trên Blog của mình [tất nhiên chỉ để nói cho một vấn đề cụ thể, nhưng cũng không quên nhấn mạnh rằng Im lặng nhường thế trận cho địch]. Chỉ trong vòng một ngày bài đó đã có hơn 140 bình luận của người đọc. Thiết nghĩ, các Tổng biên tập các tờ báo, tạp chí… cũng nên ghé thăm xem độc giả ngày nay họ nói gì về báo gọi là “lề phải”.

Ngay cả đến các trang mạng, các trang Blog cá nhân, một khi dám nêu lên những chuyện liên quan đến TQ để khơi dậy lòng tự hào và truyền thống Việt… cũng bị “đánh” tơi bời; như vậy là, giặc phương Bắc đã thực sự khống chế tiếng nói của những người yêu nước Việt Nam thật rồi.

Vậy Việt Nam ta có còn độc lập?

Đâu là các bậc nhân sỹ, trí thức; những người được xã hội và Nhà nước vinh danh là GS-TS, Viện trưởng, Viện phó…; Đâu rồi các “nhà nghiên cứu văn hóa”; “nhà nghiên cứu lịch sử”, những “nhà giáo ưu tú” v.v…, các vị đang nhận những đông lương, cho dù có là lương hưu đi nữa, nhưng là tiền thuế của nhân dân Việt Nam cả đấy; các vị để cho đất nước thế này sao?

Phải chăng đất nước ta có rất nhiều thế hệ cầm bút, mà cả cuộc đời chỉ quen nói tô hồng, chiều theo ý kiến chỉ đạo… để hôm nay không còn đủ dũng khí và trí tuệ nhìn vào sự thật?

22.01.2011

NHQ

[1] Nguyenhuuquy2 Blog

[2] http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30196&cn_id=119997

[3] Truongduynhat

Tấc giả gửi trực tiếp cho BVN

Thư giãn chủ nhật: Dân cửu vạn có sáu điều thỉnh nguyện với tân Tổng bí thư

Đâu chăng tá

Thưa bác tân Tổng bí thư

Trước hết xin tự giới thiệu với bác, em khi nhỏ bố mẹ gọi là Thằng cu Tít, lớn lên được bạn bè phong một cái tên rất là oách, là “Đâu chăng tá”, đi bộ đội, được kết nạp vào Đảng ta, và bây giờ làm nghề cửu vạn kiếm sống suốt ngày chầu việc ở cái “chợ người” Giảng Võ, hết việc thì nghe bọn đồng liêu cửu vạn bàn chuyện nhân tình thế thái, chúng cũng ngứa mồm bàn cả việc thiên đình. Chúng em thì trình độ chính trị chỉ cao hơn bọn vịt giời tí ti, nhưng nghe được cái gì thì xin thưa với bác cái đó. Chúng nó cử em đại diện để viết những điều thỉnh nguyện này gửi bác, là tại vì, trong cái hội cửu vạn ở đây, em được bầu là có học nhất hội: Em đã học hết kỳ 1 của lớp 2. Còn chúng nó thì, đứa mù chữ, đứa mới học hết kỳ 2 của lớp 1.

Thay mặt anh em đồng liêu cửu vạn, chúng em xin gửi đến tân Tổng bí thư 6 điều thỉnh nguyện sau đây.

Điều thỉnh nguyện thứ nhất, chúng em xin chân thành chúc mừng tân Tổng bí thư đã chính thức nhậm chức sau khi được Đại hội XI bỏ phiếu tín nhiệm. Chúng em mừng thật sự là vì chúng em đã chờ đợi mỏi mắt qua hai nhiệm kỳ đại hội, nay mong có tân Tổng bí thư, hy vọng có tân chính sách để dân đen chúng em được nhờ.

Điều thỉnh nguyện thứ hai, đây là lần đầu tiên Đảng ta có Tổng bí thư là Giáo sư Tiến sỹ. Có lẽ hiếm có một đảng cộng sản nào trên thế giới chọn ra được một vị Tổng bí thư có học hàm học vị cao chót vót như vậy. Thú thực chúng em thì mù tịt, chẳng hiểu Giáo sư Tiến sỹ là cái chi chi, chỉ biết ở làng chúng em, bán ruộng bán nhà kiếm tiền gửi con ra Hà Nội học thì may lắm cũng chỉ kiếm được cái bằng Cao đẳng, Cử nhân là cùng. Chúng em hỏi những đưa đi học, từ Cao đẳng, Cử nhân chúng mày đến Giáo sư Tiến sỹ thì mất bao nhiêu thời gian. Chúng nó bảo phải mất một núi tiền loại 500 ngàn đồng. Ơ hay, mới lạ làm sao: Em hỏi chúng nó hết bao nhiêu năm tháng, mà chúng lại không tính năm tính tháng, mà tính bằng núi tiền. Vì thế mà chúng em kính trọng bác. Vậy thì chúng em xin gửi đến bác một lời thỉnh nguyện: Đương nhiên bác là Tổng bí thư thì phải nói như nghị quyết, nhưng nói thật với bác nhá: ông nội em năm nay đã ngoài tám mươi tuổi. Ông nội em bào cái nghị quyết này đọc hao hao giống cái nghị quyết viết từ 50-60 năm trước đây. Thôi, chúng ta có truyền thống “nói dzậy mà không phải dzậy”. Bác cứ theo nghị quyết mà nói, vì bác là đảng viên, nhưng bác lại là Giáo sư, mà lại Giáo sư triết học hay là xây dựng Đảng gì gì đó, thế thì bác chắc là đọc thông viết thạo cái phép “Biện chứng duy vật” của ông tổ cộng sản Các Mác. Vậy thì bác cố gắng làm những việc biện chứng ích quốc lợi dân sát với tình hình hiện nay, đừng mơ hồ lùi về năm sáu mươi năm trước, còn khi nói, thì bác cứ nói như 50-60 năm trước cũng chẳng sao.

Điểm thứ ba muốn thỉnh nguyện với bác, là hai nhiệm kỳ vừa qua người ta làm rất nhiều việc rước họa xâm lăng vào nhà. Phí công chúng em đổ máu trên chiến trường. Bọn thế lực thù địch suốt ngày ra rả rót vào tai nhân dân quần chúng cách mạng của ta. Chúng nó bảo, bác là thuộc phe “thân của lạ” (ý muốn nói bác thích cái nước lạ). Chúng em chỉ mong Giáo sư hãy chứng tỏ mình không hám cái “của lạ”. Cụ thể là, sau khi nhậm chức, Tổng bí thư Giáo sư nên chọn đi thăm một cái nước không lạ lắm để hùng hồn bác lại luận điệu của chúng. Tiếp đó, phải tìm cách khôn khéo để rút cổ ra khỏi cái gông của nước lạ kia. Và nói như ông Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh, là không để ai thương lượng trên lưng dân tộc Việt Nam. Chắc tân Tổng bí thư còn lạ gì nữa, dân tộc chúng ta vốn có tiếng quật cường, việc gì chứ việc luồn cúi người ngoài thì không bao giờ lịch sử tha thứ. Vì vậy, nếu làm được việc thứ ba mà chúng em thỉnh nguyện, chắc chắn sẽ là việc trọng đại trong nhiệm kỳ của bác mà cả nước ghi công, tất nhiên trong đó có chúng em.

Điểm thứ tư muốn thỉnh nguyện với bác, là hết nhiệm kỳ này bác đừng có đưa cái thằng Nguyễn Phú… vớ vẩn nào đó con bác vào Trung ương nhá. Xấu lắm. Vừa có bài báo trên mạng của thế lực thù địch nó nói xấu lãnh đạo của ta, nó bảo ông ta đưa con trai đi lao động ở Đức năm 1982, khi cậu ấm mới 18 xuân xanh, nghĩa là chưa học hết bậc trung học. Từ sáng tới tối phải tần tảo khắp nơi để tích góp từng cái xe đạp Mifa. Đến năm 1988 cậu ta về nước thất nghiệp. Bài báo về cuộc đởi cậu ấm bị ngắt quãng từ 1988 đến 2000. Đoạn này thì cánh cửu vạn chúng em lại biết tường tận: Cậu ấm suốt ngày lê la ở các quán trà vỉa hè trên đường Giảng Võ, Láng Hạ rao bán mấy côn-tê-nơ xe đạp, xe máy, suốt ngày nói năng lảm nhảm say rượu bét nhè. Vô nghề nghiệp, học lăng nhăng đâu đó, rồi cũng có hai cái bằng Cử nhân khoe với cánh cửu vạn chúng em. Thế là được ông bố dìu dắt làm công tác đoàn, rồi chọn được một cái chức ngon lành là Bí thư một tỉnh ngay sau lúc dân chúng hàng huyện vừa mới kéo nhau lên vây trụ sở tỉnh đường vì hình như công an trót... giết nhầm một thanh niên không đội mũ bảo hiểm thì phải. Rồi từ đó cậu ta đã dùng chức vụ này làm bàn đạp để vào Trung ương. Không phải một trường hợp ấy đâu mà nhiều vị trong Bộ Chính trị hiện nay đều đua nhau, có con cháu được bầu vào trung ương đợt này, nhằm làm chỗ thế chân mình khi hết khóa. Họ cứ tưởng thế là đắc sách lắm, nào là được đề cử ở hội trường chứ mình có giới thiệu đâu... Nhưng giới cửu vạn chúng em thì cười ha hả, thấy trước cái xu “thế Triều Tiên hóa” hình như đã không xa với đất nước nữa rồi. Cứ xem các cụ Duẩn, cụ Đồng, cụ Giáp, cụ Trường Chinh và nhiều cụ khác nữa thuộc thế hệ học trò trực tiếp của Bác Hồ, nào có hề có người nào làm cái việc lo lót chỉn chu kiểu ấy – đó mới xứng đáng là nhân cách của lãnh tụ với tầm nhìn xa vì lợi ích đất nước, dân tộc, mà không khoanh vào chút bả vinh hoa phú quý của riêng gia đình con cháu nhà mình chứ. Chỉ mong tân Tổng bí thư sẽ không lặp lại cái việc làm để miệng tiếng người đời như thế.

Điều thỉnh nguyện thứ năm. Xin tân Tổng bí thư hàn gắn vết thương dân tộc, cái vết thương rạn nứt từ ngày Đảng ta làm cuộc cải cách ruộng đất. Không biết trong nhà Tổng bí thư có ai thuộc diện bị mang ra đấu tố, rồi bị liệt vào “ngụy quân ngụy quyền” không. Tôi nghĩ là có, vì những cuộc chiến tranh diễn ra triền miên trên đất nước ta đã gây chia rẽ dân tộc vô cùng lớn, nó len lỏi vào từng gia đình ngõ xóm. Có một bộ phận rất lớn trong dân tộc không thích cộng sản, không hề mê cái lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà họ thấy hình như chỉ có đâu trên trời chứ có thực ở cõi trần gian đầy nước mắt này đâu. Nếu Tổng bí thư có được cái nhìn quảng đại, không chấp nhất khư khư vào những tín điều, thì toàn dân tộc sẽ được nhờ, mà cái bọn “thế lực thù địch” kia tức khắc sẽ hòa vào lòng dân tộc. Cái được của dân tộc không phải là gần 4 triệu người Việt và tài sản của họ, mà cái được lớn nhất, là từ đây dân tộc sẽ trở thành một khối đại đoàn kết chống nguy cơ xâm lược nhãn tiền mà bọn “nước lạ” đang đe dọa từng ngày từng giờ trên đất nước ta.

Điều thỉnh nguyện thứ sáu, và cũng là điều thỉnh nguyện cuối cùng, là phải giải tỏa thực trạng lộng quyền của Đảng ta. Đảng ta quyền quá lớn, nhưng chẳng có chế tài nào với Đảng ta khi Đảng ta sai lầm. Giết oan hàng vạn người, kể cả đồng chí của mình, … thế mà chỉ đưa ra được một lời xin lỗi, rồi cứ lặp đi lặp lại lời khen Đảng ta đã biết xin lỗi; Đảng vừa bán đất, vừa thanh tra việc bán đất; Đảng tham nhũng, vừa lãnh đạo chống tham nhũng, thì làm sao mà thanh tra bán đất và chống tham nhũng cho đặng? Dư luận xã hội từ lâu đã bức xúc đòi hỏi phải công bố một đạo luật về Đảng. Đảng kêu gọi toàn dân phải sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Vậy mà chỉ trừ có Đảng là được hoạt động ngoài vòng pháp luật, thậm chí ngồi trên pháp luật. Hèn nào mà dân ta đang dần dần… nguyện một lòng theo Đảng sống ngoài vòng pháp luật, xử với nhau theo luật rừng.

Thưa tân Tổng bí thư. Em vài lời mộc mạc thô thiển. Chữ nghĩa của em khí ít. Có điều gì nghịch nhĩ xin tổng bí thư chỉ bảo.

ĐCT


HT biên tập


Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

Nói thẳng và nghe nói thẳng!

Trần Huy Thuận


Nói thẳng, nói thật là một yếu tố biểu hiện quyền làm chủ của dân. Dân chủ XHCN - như ta thường được nghe giảng, "dân chủ gấp vạn lần dân chủ tư sản".


"Kẻ sĩ, người trí thức mà không nói được

tiếng nói của chính mình...

thì suy cho cùng, nào có khác gì

con sáo bị cụt mất đầu lưỡi đâu?"

(Giáo sư Tương Lai)

"Lời nói thật thà có thể bị buộc tội

Lời nịnh hót dối lừa

có thể được tuyên dương"

(Nhà thơ Nguyễn Duy)

Nói thẳng, nói thật tưởng dễ mà đâu có dễ. Để thấy rõ điều này, xin mời nghe bà Sáu Trầu, nguyên đại biểu Quốc hội khóa VII [1], tâm sự: "trước phiên họp [2] (thứ 10, năm 1985, cách nay đã 35 năm có lẻ) một đồng chí trong đoàn kéo tôi lại ái ngại: chị có trăng trối gì với mấy đứa nhỏ ở nhà không?" [3]. Đấy là lần bà Sáu được phân công thay mặt đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh lên phát biểu chất vẫn Chính phủ trước Quốc hội (khóa VII).

Nói thẳng, nói thật là một yếu tố biểu hiện QUYỀN LÀM CHỦ CỦA DÂN. Dân chủ XHCN - như ta thường được nghe giảng, "dân chủ gấp vạn lần dân chủ tư sản". Biểu hiện đầu tiên của dân chủ chính là tự do. Tự do là khát vọng lớn nhất của con người mọi thời đại (Bác Hồ nói: Không có gì quý hơn độc lập tự do).

Trong đó, tự do nói lên sự thật, nói thẳng sự thật, được bày tỏ suy nghĩ của mình, ước nguyện của mình... chính là khát vọng thường trực [4]! Nhưng, nói thẳng sự thật – tưởng dễ mà khó! Đâu phải cứ muốn nói thẳng là ta có thể nói thẳng được? Người thấy sao nói thế, người nghe sao nói vậy, cứ nghĩ mình là người thẳng thắn, hóa ra không phải! Bởi thấy và nghe là những hành vi dễ nhất mà mỗi người có thể làm được, ngoại trừ những người khiếm thị, khiếm thính (nhưng những người này lại thường có linh cảm đặc biệt mà người sáng mắt, sáng tai không dễ gì qua mặt!). Thấy và nghe mới chỉ là nhận ra cái vẻ bề ngoài, cái hình thức của sự vật – mà ai cũng hiểu, hình thức nhiều khi không phản ánh đúng bản chất nội dung.

Thấy phải bằng đôi mắt tinh tường, nghe phải được nghe bằng cả hai tai!

Ngược với thấy sao nói thế, nghe sao nói vậy là loại người... thấy rõ mười mươi mà không dám nói,nghe rõ mồn một mà giả điếc làm ngơ!

Cho nên, thấy và nghe chỉ là bước đầu tiên để nhận thức bản chất: bước thu thập thông tin. Bởi vì nói thẳng bao giờ cũng đi đôi với nói thật, nên vấn đề nhận thức đúng bản chất mới là điều vô cùng quan thiết. Muốn vậy, trước tiên phải có kiến thức về lĩnh vực mình muốn nói. Dân ta có câu: Biết thời thưa thốt, không biết, dựa cột mà nghe! Cùng với kiến thức, là tư duy khoa học, là biết đánh giá một cách toàn diện, khách quan – đừng như lũ thầy bói xem voi; đồng thời phải xuất phát từ một cái tâm trong sáng – để thẳng không thành cong, để méo không hóa tròn, để bé không xé ra to, để to không vo thành bé...

Nhận thức đúng bản chất – cần thiết, nhưng chưa đủ! Còn phải có dũng khí dám nói sự thật, đừng để miếng thịt bịt miệng! (Cần nói thêm rằng, không dám nói sự thật không chỉ là hành vi của kẻ hèn yếu, mà nhiều khi còn đồng nghĩa với ngậm miệng ăn tiền. Thực tế cuộc sống không hiếm kẻ tiến thân rất nhanh bằng con đường ngậm miệng: "Ngậm hàm thì tiến"! Dân gian đã nói như thế!). Sinh thời, Phùng Quán từng viết: Yêu ai cứ bảo là yêu / Ghét ai cứ bảo là ghét / Dù ai ngon ngọt nuông chiều / Cũng không nói yêu thành ghét / Dù ai cầm dao dọa giết / Cũng không nói ghét thành yêu...

Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống, không phải lúc nào cũng phải... nói đúng sự thật! Một Bác sĩ, khi phát hiện ca bệnh hiểm nghèo, có nên nói trực tiếp sự thật đó với bệnh nhân không? – Không trong trường hợp này, nhiều khi lại là đức nghề nghiệp cần thiết đối với một lương y! Vấn đề là ở chỗ: Không phải sự thật nào cũng nên nói; nhưng một khi đã có thể nói, thì phải nói đúng sự thật! Đấy có thể coi là những tiêu chí để đánh giá phẩm chất một người-biết-nói-thẳng.

Có người-biết-nói-thẳng không thôi, chưa đủ, còn cần phải có người-biết-nghe-nói-thẳng.

Không phải ai ai cũng muốn nghe lời nói thẳng, bởi trung ngôn nghịch nhĩ (tuy bề ngoài, người nào cũng tỏ ra sẵn sàng nghe nói thẳng, nói thật!). Mặt khác, không phải ai đó tuyên bố sẵn sàng nghe nói thẳng nói thật, sẽ lập tức được đáp ứng!

Một người muốn nghe người khác nói lên sự thật, người đó mới chỉ là người-dám-nghe-nói-thẳng – Vâng! Rất đáng trân trọng! Nhưng chỉ... dám không thôi thì chưa đủ. Người muốn nghe lời nói thẳng, trước hết, dù ở cương vị nào, người đó cũng phải có được phẩm chất cần thiết như những tiêu chí đã nêu đối với người-biết-nói-thẳng (thậm chí còn phải ở mức cao hơn), nhất là sự dũng cảm (đặc biệt là khi điều được nghe lại đụng chạm đến... người thân, đến chính bản thân!) – Để không bị nhầm, bị lừa, bị bẫy... người nghe còn phải có kinh nghiệm nghe lại phải biết đích thân kiểm tra tính đúng đắn của những điều nghe được ấy. Người như thế, có thể đặt cho cái tên là người-biết-nghe-nói-thẳng hoặc người-nghe-nói-thẳng-được!

Như vậy, thực tế tồn tại một lô-gic sau: người-biết-nói-thẳng, khi có dịp được nói thẳng, người đó sẽ đủ tự tin để nói-thẳng-được! Tương tự, người muốn nghe nói thẳng, chỉ thật sự được nghe, khi người đó... nghe-nói-thẳng-được, tức là khi biết-nghe-nói-thẳng! Xưa nay thiếu gì "kẻ sĩ" đã "mai danh ẩn tích" chính vì không muốn "đem đàn gảy tai trâu".

Một đất nước phát triển, một xã hội dân chủ và văn minh, rất cần những người-biết-nói-thẳng - được nói thẳng! Càng rất cần những người-nghe-nói-thẳng-được - được nghe nói thẳng! Đó chính là mục tiêu hàng đầu của giáo dục. Và đó cũng là cái gốc của nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Thật vậy! Làm sao có thể được coi là một nước văn minh, dân chủ, khi trong nước đó, người-biết-nói-thật và người-nghe-nói-thật-được, chỉ như lá mùa thu.

T. H. T.


Nguồn: Tuanvietnam

Hai bài viết về tình hình xuất khẩu gạo ở Việt Nam hiên nay

Cùng nghiên cứu con tàu chở gạo xuất khẩu cho Việt Nam và Thái Lan

KS Doãn Mạnh Dũng

Trong năm 2010, Tàu H có trọng tải 5000 tấn, mới 1 tuổi của Việt Nam chở gạo xuất khẩu cho Việt Nam và Thái Lan.

Chúng ta hãy cùng nghiên cứu thời gian chuyến đi của con tàu. Chuyến chở gạo Sài Gòn đi Bintulu – Malaysia: cự ly 604 hải lý.

Tàu bắt đầu xếp gạo lúc 1630h ngày 6/6/2010 tại cảng Sài Gòn.

Xếp xong 4500 tấn gạo bao lúc 1530h ngày 14/6/2010.
Tổng thời gian xếp tại cảng Sài Gòn từ 1630 h ngày 6/6/2010 đến 1530h ngày 14/6/2010 là 7 ngày và 23 giờ.
Tàu rời cảng Sài gòn lúc 1830h ngày 14/6/2010.
Tàu đến cảng Bintulu của Malaysia lúc 1205h ngày 17/6/2010.
Tàu cập cầu và dỡ hàng lúc 1700h ngày 6/7/2010.
Tàu dỡ xong hàng 0900h 29/7/2010.
Tàu rời cảng Bintulu lúc 1900h 29/7/2010.
Tổng thời gian dỡ hàng tại cảng Bintulu từ 1205h ngày 17/6/2010 đến
1900h 29/7/2010 là 42 ngày.
Tổng thời gian chuyến đi từ 6/6/2010 đến 29/7/2010 là : 54 ngày
Chuyến chở gạo Bangkok – đi Jakarta- Indonesia: cự ly 1281 hải lý
Sau khi chủ tàu đề nghị với chủ hàng Việt Nam được chở gạo xuất khẩu
từ cảng Sài Gòn đi Indonesia với điều kiện phải có mức dỡ hàng tại cảng
dỡ nhưng bị từ chối. Vì vậy chủ tàu buộc phải chở gạo xuất khẩu cho
Thái Lan.

Hành trình như sau:

1330 h ngày 10/12/2010 bắt đầu xếp gạo tại Bangkok .
Xếp xong 4499,2 tấn gạo bao lúc 1430h ngày 15/12/2010.
Tổng thời gian xếp: 4 ngày và 1 giờ.
Tàu đến Jakarta lúc: 1415h 22/12/2010.
Dỡ xong hàng lúc: 0930h 27/12/2010
Tổng thời gian dỡ hàng : 4 ngày và 20 giờ 15 phút.
Tổng thời gian chuyến đi từ 10/12//2010 đến 27/12/2010 là: 18 ngày.
Mổi ngày- tàu của con tàu trên có giá 2500-3000 USD.

Một chuyến tàu chở gạo cho Việt Nam có thể thực hiên 3 chuyến chở gạo
cho Thái Lan. Cước từ Bangkok đi Jakarta lại cao hơn cước từ cảng Sài Gòn đi Bintulu
3-4 USD/tấn cùng điều kiện FIOS, có nghĩa chi phí xếp và dỡ hàng người
thuê chịu. Tuyến đường Bangkok - Jakarta dài gấp đôi tuyến đường từ cảng
Sài Gòn đi Bintulu.

Đọc các con số trên chúng ta dể hiểu tại sao gạo Thái Lan xuất khẩu có giá cạnh tranh hơn gạo Việt Nam vì giá bán bao gồm giá gốc tại cảng xếp và giá vận tải. Giá vận tải của Việt Nam quá cao nên người nông dân Việt phải bóp cái bụng lại để chịu đựng. Nguyên nhân vì việc tổ chức xếp hàng tại các cảng Việt Nam kém. Tại các cảng dỡ thì tàu Việt Nam trở thành kho hàng bán lẻ. Nguyên do năng lực đàm phán của các chuyên gia bán gạo Việt Nam quá yếu, chưa kể nếu tàu mang Đăng kiểm Việt Nam khi sang Phillippine phải trả cho chính quyền Phillippine 6% tiền cước vận tải.

Đó là những con số thực, chỉ ra bản chất việc tổ chức xuất khẩu gạo Việt Nam hiện nay.

Chính phủ nên xem xét lại các mô hình tổ chức xuất khẩu gạo của Việt Nam hiện tại nếu thực sự coi trọng lợi ích của người nông dân.

DMD


Tác giả gửi trực tiếp cho BVN


Thương lái trục lợi trên mồ hôi nhà nông Việt Nam



Việt Nam luôn đứng sau Thái Lan về xuất khẩu gạo do chất lượng không đồng đều.

Theo lộ trình cam kết khi Việt Nam gia nhập WTO, năm 2011 là năm Việt Nam phải mở cửa thị trường gạo, theo đó công ty nước ngoài có thể vào kinh doanh và trực tiếp xuất khẩu, thay vì phải liên doanh nhập khẩu từ doanh nghiệp quốc doanh của Việt Nam như trước.

Truyền thông tại Việt Nam trích dẫn Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam, Trương Thanh Phong, cảnh báo điều ông mô tả là 2011 là năm đầy khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong nước.

Tuy nhiên GS-TS Võ Tòng Xuân từ Đại học An Giang hoan nghênh diễn biến mới này vì ông mô tả rằng [với diễn biến mới này] người hưởng lợi chính là nhà nông, đối tượng bị thiệt thòi bấy lâu nay.

GS-TS Võ Tòng Xuân: Theo tôi việc mở cửa thị trường gạo cho các công ty nước ngoài vào tham gia kinh doanh xuất khẩu gạo trực tiếp tại Việt Nam là có lợi. Các công ty Việt Nam phải sớm từ bỏ cách làm ăn xổi ở thì, chỉ làm hại cho nông dân. Tổng Công ty Lương thực (Vinafood) cũng như các thành viên thuộc Hiệp hội Lương thực Việt Nam họ không có tạo nguồn nguyên liệu của họ mà chỉ sử dụng các thương lái, mà thương lái thì lại ép giá, lợi dụng nông dân. Do đó gạo xuất khẩu bị tạp nham, đủ các loại giống, trộn vào với nhau nên khi xuất thì không có thương hiệu. Đồng thời làm cho danh tiếng gạo Việt Nam bị mai một.

Việc các công ty nước ngoài vào sẽ kích thích nhu cầu làm ăn chân chính

Các công ty nước ngoài vào có nghĩa là sẽ giúp cho nhà nông trồng lúa có thị trường ổn định hơn, và khi họ vào thì họ sẽ tổ chức sản xuất, họ có nguồn nguyên liệu của họ. Họ sẽ ký hợp đồng cụ thể với nhà nông để trồng và chế biến một giống chứ không phải nhiều giống và như vậy thì nhà nông sẽ làm ra loại gạo tốt hơn. Tốt cho nhà nông và giúp cho gạo Việt Nam từ từ có uy tín trên thế giới. Đồng thời cũng tạo ra công bình cho các tỉnh có nông dân trồng lúa.

BBC: Ông có thể nói rõ hơn việc công ty nước ngoài vào tham gia xuất khẩu gạo trực tiếp sẽ tạo thị trường ổn định cho nhà nông?



GS-TS Võ Tòng Xuân, một trong những nhà khoa học về lúa hàng đầu của VN.

GS-TS Võ Tòng Xuân: Các công ty nước ngoài họ luôn luôn có đầu ra ổn định, thị trường ổn định. Họ biết khách hàng của họ là ai và nhu cầu là bao nhiêu. Từ đó họ mới ký hợp đồng với phía nhà nông Việt Nam làm cụ thể. Còn doanh nghiệp Việt Nam thì không biết cái đó. Họ bị lệ thuộc vào Vinafood, Tổng công ty này thì lo cấu kết với các Tổng công ty lương thực các nước như Philippines, Indonesia, Malaysia... và lượng đưa từ Vinafood xuống các công ty nhỏ tại Việt Nam không ổn định. Khi Vinafood không có đầu ra ổn định thì những khó khăn đó sẽ bị đẩy xuống để nhà nông chịu. Còn công ty nước ngoài họ biết rõ từng tháng cần bao nhiêu tấn và có hợp đồng cụ thể với người nông dân Việt Nam.

Khi nhà nông thu hoạch nhiều thì thường là Vinafood sẽ yêu cầu Nhà nước là chỉ đạo tạm ngừng xuất khẩu và chỉ có Vinafood và một số các công ty thành viên của Vinafood mua gạo của nông dân với giá rất bèo. Nông dân bắt buộc phải bán chứ không thì cũng kẹt. Và khi đã qua giai đoạn này rồi, tức là khi hết lúa rồi, thì giá lúa lên, và cũng là lúc nông dân hết lúa. Thì lúc đó những người mua lúa lúc tạm cấm xuất khẩu sẽ hưởng lợi, và cái lợi này là trục lợi trên sự đau khổ của người nông dân.

Hiện tại có nhiều công ty Việt Nam kinh doanh xuất khẩu gạo hoặc thương lái họ không có đất, không có nông dân, họ chỉ có miệng lưỡi của họ thôi. Họ tìm dùng đủ mọi mánh lới để có thể xuất khẩu được gạo và ăn lời trên mồ hôi nước mắt của người nông dân. Việc các công ty nước ngoài vào sẽ kích thích nhu cầu làm ăn chân chính, có kỹ thuật.

Nguồn: BBC

Hai bài viết cảnh báo về hàng giả độc hại của Trung Quốc

Thượng sách


An Nguyên

Thưa ông An Nguyên, chúng ta hãy thử đặt một câu hỏi cho thật thẳng thắn: hiện nay, ai là người thực sự nghĩ đến nhân dân - có phải 14 vị Ủy viên BCT vừa được bầu lên hay không? Câu trả lời không cần nói ra tưởng ai cũng đã rõ. Trong một tình hình như thế mà chúng ta lại không có đủ luật để chế tài bất kỳ vụ việc nào vi phạm đến lợi ích của dân. Vậy thì mọi sự thiệt thòi dân phải gánh lấy là điều đã quá hiển nhiên. Trong 85 triệu con người thì có độ một phần tư biết lo thân nhờ có chút tri thức hoặc có thông tin. Còn lại, dân ngu khu đen, ai ngẫu nhiên vướng vào thì người ấy chịu hệ lụy, cũng như những làng ung thư, làng dị tật... đã có ai làm gì để chống được cái chết ập lên đầu lên cổ? Ai bảo sinh ra làm kiếp người Việt Nam làm gì.


Bauxite Việt Nam


Sau nghi án trái cây Trung Quốc có dư lượng hóa chất còn chưa được các cơ quan chức năng làm rõ, chuyện đồ chơi nhựa chứa hàm lượng chì cao, quần áo có chứa chất gây ung thư formaldehyde chưa nguôi thì nay, thông tin ly, cốc Trung Quốc nhiễm độc dường như làm cho người tiêu dùng Việt Nam quá oải.

Người tiêu dùng bức xúc chính không phải vì hàng Trung Quốc có độc mà vì, quản lý nhà nước với bộ máy hùng hậu từ trung ương tới địa phương nhưng lại phản ứng rất yếu ớt trước những thông tin chết người này. Ngay khi rộ lên thông tin đồ chơi Trung Quốc bị nhiễm độc tố catmi, Ấn Độ đã lệnh ngừng nhập đồ chơi từ Trung Quốc; tại Mỹ, Tập đoàn Walmart đã lập tức gỡ bỏ toàn bộ đồ chơi Trung Quốc bị cho là nhiễm độc catmi. Thái độ trách nhiệm với người tiêu dùng là rất rõ ràng và quyết liệt.

Còn ở ta, khi phát hiện hầu hết các mẫu xét nghiệm quần áo trẻ em có xuất xứ từ Trung Quốc đều chứa chất formadehyde và hóa chất độc hại với hàm lượng cao có thể gây ung thư, không có bất kỳ một cơ quan quản lý nhà nước nào lên tiếng chính thức, bày tỏ thái độ. Thông tin trên báo chí vào thời điểm đó cũng chỉ là một vài phát biểu của một vài nhà khoa học hoặc một số quan chức thuộc cơ quan chuyên môn nhưng nói “với tư cách cá nhân”. Một cán bộ quản lý thị trường khi bị truy hỏi nói rằng: sở dĩ cơ quan quản lý không đưa ra được biện pháp xử lý cụ thể vì chưa có tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) để đánh giá mức độ xâm hại và ngưỡng cho phép có trong quần áo trẻ em nhập khẩu (?). Và thật khó chấp nhận vì các nhà quản lý, các nhà chuyên môn khi được hỏi đến giải pháp lại khuyến cáo rằng: Hãy là người tiêu dùng thông minh, đừng mua, không sử dụng các sản phẩm độc hại để bảo vệ sức khỏe.

Thực ra, viện dẫn do thiếu TCVN nên chưa thể xử lý thỏa đáng hàng nhập độc hại là một viện dẫn né tránh trách nhiệm. Bởi lẽ, kể cả trong khi Việt Nam chưa có hàng rào kỹ thuật trong các lĩnh vực này thì các nước trên thế giới và ngay cả Trung Quốc đã ban hành và kiểm soát rất nghiêm ngặt sự có mặt của những hóa chất nguy hiểm trong các sản phẩm hàng hóa. Và như vậy cơ quan quản lý nhà nước hoàn toàn có thể căn cứ Luật Chất lượng hàng hóa sản phẩm, Pháp lệnh về An toàn vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn theo thông lệ quốc tế để xử lý các vi phạm, vì quyền lợi người tiêu dùng.

Nhưng có lẽ, nếu tiếp tục thừa nhận tình trạng 75% - 80% hàng Trung Quốc trên thị trường hiện nay là hàng nhập lậu thì dù có bao nhiêu TCVN đi chăng nữa người tiêu dùng Việt Nam vẫn phải chịu thiệt. Vậy thì, người Việt dùng hàng Việt là thượng sách!

A. N.

Nguồn: Thanhnien

Cảnh báo gạo làm từ… nhựa

Phan Anh

TT – Ngày 20-1, Tuần báo Hong Kong cho biết có một loại gạo giả làm từ khoai lang, khoai tây, nhựa tổng hợp độc hại đã được bày bán ở thị trường thành phố Thái Nguyên - thủ phủ tỉnh Sơn Tây [Trung Quốc].



Hàng nông sản, và giờ đây là gạo giả Trung Quốc trở thành nỗi ám ảnh cho người tiêu dùng - Ảnh: Green Peace

Tuần báo Hong Kong tại Hong Kong trích nguồn truyền thông Singapore cho biết hỗn hợp trên được tạo hình giống như hạt gạo. Đáng sợ nhất là các loại bột khoai tây và khoai lang được kết dính thành “hạt gạo” bằng loại nhựa resin độc hại cho sức khỏe người tiêu dùng.

“Gạo này tất nhiên là khác gạo thường vì nó rất cứng ngay cả khi đã được nấu”, một chuyên gia thực phẩm cho biết.

Một nhà hàng Trung Quốc cảnh báo nếu ai ăn phải lượng “gạo nhựa” tương đương ba bát cơm, họ đã cho vào bụng một túi nilông.

Trong khi đó, giới thương nhân cho rằng vì “gạo nhựa” rất rẻ nên có khả năng nhiều người hám lợi vẫn bán với khối lượng lớn dưới hình thức trộn cùng gạo thật.

Trước đó, truyền hình Trung Quốc từng cảnh báo một công ty ở Tây An, cũng thuộc tỉnh Sơn Tây, đã sản xuất gạo nhái một loại gạo nổi tiếng thơm ngon ở đây bằng cách thêm hương liệu hóa chất.

Hồi tháng 8-2010, tờ Nhật báo Thượng Hải cũng đưa tin Thái Lan tuyên bố điều tra một loại gạo nhái gạo thơm Thái Lan được bán ở Trung Quốc. Quan chức Đại sứ quán Thái Lan cho biết 90% gạo Thái là hàng Trung Quốc làm giả và được sản xuất chủ yếu ở tỉnh Giang Tây. Hai loại gạo này nhìn bề ngoài không phân biệt được nếu chưa nấu.

PA

Nguồn: vn.news.yahoo.com

Tham nhũng đất đai ngày càng tăng lên

Lê Thảo




Tham nhũng trong việc cấp giấy chứng nhận khá phổ biến. Ảnh minh họa.


(LĐO) – Bà Lis Rasmussen Rosenholm, Phó Đại sứ Đan Mạch tại Việt Nam thì nêu quan điểm, tham nhũng trong đất đai ngày càng tăng lên, làm cho người nghèo càng nghèo, người giàu càng giàu hơn.


Tham nhũng nhiều nhất ở cấp giấy chứng nhận
Theo báo cáo “Nhận diện và giảm thiểu các rủi ro dẫn đến tham nhũng trong quản lý đất đai ở Việt Nam” của Đại sứ quán Đan Mạch, Thụy Điển và Ngân hàng Thế giới vừa mới công bố thì tham nhũng trong việc cấp giấy chứng nhận khá phổ biến. Bởi lẽ, quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phức tạp, mất nhiều thời gian đã kích thích người dân sẵn lòng chi thêm tiền cho cán bộ để lấy được giấy chứng nhận nhanh hơn.

Tại Bắc Ninh, hướng dẫn về “cơ chế một cửa” của thành phố không thống nhất với các phường, nên một số người dân phải nhờ sự giúp đỡ của các lãnh đạo địa phương hoặc trả hoa hồng hay sử dụng “dịch vụ trung gian phi chính thức”. Còn ở Bình Định “thậm chí cán bộ cấp cao nghỉ hưu cũng khó có thể lấy được Giấy chứng nhận nếu không hối lộ”.

Cũng theo điều tra năm 2010, 78% cho rằng có tình trạng tham nhũng liên quan đến quá trình giao, cho thuê đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.

Ông Đặng Hùng Võ cho rằng, tham nhũng còn do mức thu nhập của cán bộ quản lý đất đai còn thấp. Điều này dẫn đến việc họ thà sẵn sàng tham nhũng còn hơn là bị đói. Bên cạnh đó, cơ chế trong quản lý đất đai của Việt Nam còn nhiều điều bất cập. Vị này đưa dẫn chứng, Việt Nam định giá đất bồi thường thấp, người được giao đất sau khi bồi thường một cục tiền cho dân thì hết trách nhiệm. Trong khi đó, nước láng giềng Trung Quốc áp dụng hình thức truy thu hàng năm. “Nhà đầu tư phải trả một khoản thuê đất hằng năm cho người có đất bị trưng dụng. Chính điều này đảm bảo sự công bằng và quyền lợi người mất đất hơn”, ông Võ nói.

Bà Lis Rasmussen Rosenholm, Phó Đại sứ Đan Mạch tại Việt Nam thì nêu quan điểm, tham nhũng trong đất đai ngày càng tăng lên, làm cho người nghèo càng nghèo, người giàu càng giàu hơn. Việc chuyển hình thức sử dụng đất với giá đền bù thấp so với giá thị trường khiến những người nông dân càng nghèo, trong khi các nhà đầu tư được lợi.
Tham nhũng đất đai ngày càng phổ biến
Báo cáo Nhận diện và giảm thiểu các rủi ro dẫn đến tham nhũng trong quản lý đất đai của Việt Nam chỉ ra rằng, cuộc điều tra năm 2010 tiến hành tại 5 tỉnh nghiên cứu tình huống cho thấy, gần 80% những người được hỏi tin rằng, có tình trạng tham nhũng liên quan đến quá trình giao, cho thuê đất, thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ và tái định cư. Trong đó 38% ý kiến cho rằng hình thức tham nhũng này rất phổ biến.

Theo nhóm chuyên gia nghiên cứu cho rằng, nên hình thành các ủy ban độc lập để xem xét bồi thường và giá đất cấp dựa trên cơ sở dữ liệu quốc gia minh bạch với khung giá đất tham khảo. Điều này giúp giảm các lợi ích kinh tế và dễ phát hiện tham nhũng.

Đối với việc cấp giấy chứng nhận, có hai cải cách mang lại lợi ích lớn là thực hiện ở tất cả các xã việc đăng ký đất đai, khảo sát bản đồ hiện trạng đồng loạt và tăng cường vai trò cung cấp thông tin của văn phòng đăng ký đất đai.

Ông Võ cho rằng, việc chống tham nhũng đất đai ở Việt Nam còn phải phụ thuộc vào sự hoàn thiện pháp luật và quan trọng là đến lúc đảm bảo được thu nhập mà “cán bộ, người dân không cần tham nhũng”.

Vì thế, ông Võ nhấn mạnh chống tham nhũng là một quá trình dài hơi, không thể giải quyết trong một sớm một chiều. Khó có thể hy vọng trong năm 2011 có một bước nhảy về chống tham nhũng nhưng mỗi năm tình trạng tham nhũng sẽ giảm đi.


L. T.

Nguồn: Laodong

Thư giãn Chủ nhật: Nhân quyền và lỗi kỹ thuật

Hiệu Minh


Họp báo tại Nhà Trắng. Ảnh: White House


Cánh nhà báo đùa, hệ thống dịch của Nhà Trắng có vấn đề khi dịch từ “nhân quyền – human right” cho Chủ tịch Hồ Cẩm Đào trong cuộc họp báo với Obama chiều 19-01-2011. Đám hacker nói vui, hệ thống dịch nhập từ Trung Quốc bị hack, đã “điều khiển” cụm từ “nhân quyền made in USA” không đến tai bác Hồ Cẩm Đào.

Người Mỹ có câu “No free lunch – không có bữa ăn nào miễn phí”. Ăn tối với Obama chắc gì đã sướng như người ta đồn đại.

Bác Hồ Cẩm Đào được Obama chiêu đãi bữa tối sang trọng “vừa là đối tác vừa là đối thủ”. Có ăn thì phải họp báo, được ăn được nói mà. Há miệng mắc quai, chả lẽ không nói gì với báo chí. Trong chuyện này không hiểu Tàu thâm hay Cao bồi thâm.

Trong tiếng Anh từ “Press” vừa là báo chí vừa là ép buộc. Tới thăm xứ sở cờ hoa, lãnh đạo quốc gia phải đối mặt với nền báo chí tự do (Free Press), dễ bị press (bị hỏi những câu hóc hiểm), gây ra không ít lúng túng.

Chính khách trực diện với báo chí Tây cũng như người ta đấu tay không với hổ, báo hay sư tử. Cánh nhà báo không “ăn thịt” ai, nhưng những câu hỏi “đá gà, đá vịt” có thể “xé xác” sự nghiệp một nhà chính trị, nhấn chìm hình ảnh quốc gia.

Trong cuộc họp báo tại Nhà Trắng (19-1), nhà báo của AP hỏi Obama “Can you explain to the American people how the United States can be so allied with a country that is known for treating its people so poorly, for using censorship and force to repress its people? Ngài giải thích với dân Mỹ thế nào khi mà Hoa Kỳ có thể làm đồng minh với một quốc gia nổi tiếng về cách đối xử thậm tệ với nhân dân thông qua cách sàng lọc và đè nén dân tộc mình”.

Rồi anh hỏi bác Đào “I’d like to give you a chance to respond to this issue of human rights. How do you justify China’s record, and do you think that’s any of the business of the American people? – Tôi cũng muốn dành cho ngài cơ hội để trả lời về nhân quyền. Tôi muốn trao cho Ngài cơ hội trả lời về vấn đề nhân quyền. Ngài làm thế nào để biện minh (justify) cho những hồ sơ về nhân quyền của TQ. Và liệu đó có phải là việc của dân Mỹ hay không?”

Xem trên CNN thì thấy Obama trả lời, người phiên dịch đã dịch. Mọi con mắt đổ dồn về phía bác Hồ Cẩm Đào.

Nhưng bác này im lặng, vẫn nụ cười tươi trên môi, với vẻ mặt dường như câu hỏi nhạy cảm chưa từng được hỏi. Hóa ra ông bảo, hệ thống dịch có vấn đề nên không nghe được câu hỏi về nhân quyền. Chính khách có tầm nên biết “ù tai” đúng lúc.

Đúng lúc đó, microphone phỏng vấn đã chuyển cho hãng Xinhua. Hy vọng chẳng ai hỏi nữa. Khôn khéo vô cùng.

Nhưng rồi cái microphone chết tiệt lại đưa về cho cánh nhà báo dai như đỉa của phương Tây. Anh chàng bên Bloomberg lại nhắc nhở “Người bạn tôi đã hỏi câu về nhân quyền nhưng ngài (Đào) chưa trả lời. Tôi băn khoăn là liệu bây giờ, ngài đã có câu trả lời?”.

Cuối cùng ông Đào phải đối mặt với câu hỏi hiểm hóc dù đã đổ lỗi cho hệ thống dịch. Ông thừa nhận, cần làm nhiều hơn để cải thiện nhân quyền ở Trung Quốc. Đất nước hàng tỷ dân đang phát triển, còn nhiều vấn đề trong kinh tế và xã hội phải đương đầu.

Người ta đang tìm ra nguyên nhân của lỗi kỹ thuật trên. Tại sao hệ thống dịch lại trục trặc đúng vào từ “nhân quyền”. Phải chăng hệ thống dịch made in China đã “điều khiển” cụm từ “nhân quyền made in USA” không đến tai vị khách.

Sau chuyến bay dài vượt Thái Bình Dương, rất có thể ông Đào bị jet lag (trái giờ), tai bị ù khi máy bay hạ cánh, nên không nghe nổi câu hỏi tế nhị thường thấy trong mối bang giao Đông Tây. Hoặc ở nước ông, người ta không nhắc đến từ này, cánh lập trình IT không đưa vào hệ thống.

Vấn đề nhân quyền có thể kiểm soát được ở một quốc gia 1,5 tỷ dân “không ai được nói, không được bàn và không được hướng tới”. Nhưng ra thế giới bên ngoài, câu chuyện lại khác.

Trung Quốc từng là cái nôi văn minh từ 5.000 năm trước. Thời cơ đó lại đang về với đất nước này. Muốn trở thành trung tâm tinh hoa (Trung Hoa) trong thế giới hiện đại thì họ cần bộ hồ sơ, lý lịch (record) trong sạch, trong đó có nhân quyền.

Trong lúc họp báo, Obama thừa nhận vấn đề nhân quyền đôi khi gây ra căng thẳng giữa hai quốc gia này. Chủ tịch Hạ viện mới của Đảng Cộng hòa không dự tiệc tối chiêu đãi Hồ Cẩm Đào tại Nhà Trắng.

Obama nói rằng, ông tin vào công lý và nhân quyền khi người dân đủ sống, có nhà ở, có điện dùng. Ông chào đón nhân quyền Trung Quốc. Và Hoa Kỳ muốn việc trỗi dậy của Trung Quốc được thưc hiện phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, giúp củng cố an ninh và hòa bình quốc tế. Thay vì trở thành nguồn gốc của xung đột tại Á châu hay những nơi khác trên thế giới.

Obama giỏi thiệt khi dùng từ “nhân quyền Trung Quốc”. Ông muốn đảm bảo cho lần sau, hệ thống dịch của Nhà Trắng không còn bị mắc lỗi khi gặp “human right made in China” khi đón tiếp các vị khách do “jet lag dễ bị nặng tai” đến từ châu Á.

H.M

20-1-2011

Nguồn: Hieuminh Blog

Trung Quốc và Hoa Kỳ - Thế và lực

Việt Long và Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA


Tổng thống Mỹ Barack Obama bắt tay với Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào trong cuộc họp báo chung tại Phòng Đông của Nhà Trắng ở Washington, DC, ngày 19 tháng 1 năm 2011. AFP PHOTO / Saul Loeb


Chủ tịch Trung Quốc chính thức thăm viếng Hoa Kỳ trong chuyến đi được Tổng thống Mỹ mô tả là quan trọng nhất từ 30 năm nay, kể từ chuyến đi lịch sử của lãnh tụ Đặng Tiểu Bình thăm nước Mỹ.

Hiển nhiên vấn đề kinh tế là một vấn đề quan trọng trong lịch trình thăm viếng của nhà lãnh đạo Trung Quốc. Việt Long tìm hiểu về hồ sơ này trong cuộc trao đổi cùng nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa.

Vị trí tương xứng?

Việt Long: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào chính thức thăm viếng Hoa Kỳ trong bốn ngày. Khác với lần trước vào năm 2006, lần này, có lẽ ông được đón rước trọng thể hơn, nhưng quan hệ giữa hai quốc gia lại có nhiều vấn đề khá gay gắt, trong đó tất nhiên là có hồ sơ kinh tế. Để dễ theo dõi diễn biến của chuyến thăm viếng và những mâu thuẫn trong hồ sơ kinh tế, chúng tôi đề nghị ông trình bày về bối cảnh của vấn đề.

Dù mới chỉ bằng 40% của Mỹ thì cũng vượt qua Nhật từ năm ngoái để thành nền kinh tế thứ nhì thế giới, nếu kể về mệnh giá của đồng bạc.

Ô. Nguyễn Xuân Nghĩa

Nguyễn Xuân Nghĩa: Nói về bối cảnh, tôi xin trình bày sự thể khách quan trước, sau đó sẽ nói về các vấn đề riêng của từng nước, rồi mình mới đề cập tới hồ sơ kinh tế giữa hai quốc gia.

Trước hết, Hoa Kỳ là siêu cường từ 60 năm nay, đã buôn bán với châu Á nhiều hơn với châu Âu từ gần ba chục năm nay. Với dân Mỹ, đại lục địa này là vùng địa dư chiến lược cho quyền lợi quốc gia, nơi mà họ đầu tư trực tiếp nhiều gấp rưỡi tổng số đầu tư ngoại quốc của tất cả 24 nước Á, kể cả Nhật Bản, Hồng Kông hay Úc. Hoa Kỳ cũng tiếp nhận gần 300 tỷ đô la đầu tư của các nước Á châu, kể cả Trung Quốc hiện nay thật ra chưa sánh vào đâu.

Với dân số là 1 tỷ 300 triệu, đông hơn bốn lần nước Mỹ, Trung Quốc có sản lượng gần 6.000 tỷ đô la. Dù mới chỉ bằng 40% của Mỹ thì cũng vượt qua Nhật từ năm ngoái để thành nền kinh tế thứ nhì thế giới, nếu kể về mệnh giá của đồng bạc. Trung Quốc là một cường quốc đang lên và muốn có vị trí tương xứng với thế lực kinh tế của mình, trước tiên là tại châu Á.

Việt Long: Thưa ông, như vậy, khách quan mà nói thì Hoa Kỳ là siêu cường toàn cầu và coi châu Á là khu vực chiến lược. Trung Quốc là cường quốc mới nổi và đòi có cái thế xứng đáng với cái lực kinh tế của mình, trước tiên là tại Á châu. Thế rồi, quan hệ đôi bên xoay chuyển ra sao mà sau khi giải tỏa cho Trung Quốc mở ra ngoài từ năm 1972, và cho xứ này gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO 10 năm về trước, Hoa Kỳ lại thấy Trung Quốc là vấn đề?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Lý do thì có rất nhiều. Lãnh đạo Trung Quốc cho là mình có cái thế kinh tế và cái quyền chính đáng sau khi xứ sở bị lụn bại trong hơn một thế kỷ và bị liệt cường sâu xé. Tinh thần "tự kỷ ám thị" truyền thống khiến họ cho rằng các nước khác - nhất là Mỹ - có ý đồ thù nghịch khi đòi họ phải tuân thủ những nguyên tắc hành xử có thể thu hẹp khả năng của họ.

Lãnh đạo Mỹ thuộc cả hai đảng thì trông đợi Trung Quốc là cường quốc biết điều và cùng thế giới tham gia giải quyết các vấn đề lớn của địa cầu nên muốn hợp tác trong tinh thần tích cực đó. Từ mấy năm nay, họ thấy sự thể lại không tốt đẹp như vậy, nhất là khi Hoa Kỳ còn mắc bận vào trận chiến chống khủng bố thì Trung Quốc trở thành ngang ngược hơn.



Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden và Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào trong bữa tiệc trưa ở Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 19 tháng 1 năm 2011, tại Washington. AFP Photo / Paul J. Richards

Quốc hội Mỹ có nêu vấn đề, như Bắc Kinh thiếu thiện chí hợp tác trong nhiều hồ sơ của thế giới, từ việc giải trừ nguy cơ nhiệt hóa địa cầu tới việc can gián các chế độ gây bất ổn, như Iran tại Trung Đông và Bắc Hàn tại Đông Bắc Á, hay nguy cơ nội chiến tại Sudan. Đã chẳng hợp tác, Bắc Kinh còn tìm lợi thế riêng khi khai thác sự bất ổn do các chế độ ấy gây ra, lẫn lợi dụng diễn đàn quốc tế, kể cả Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, để cản trở cộng đồng thế giới. Bên trong, Bắc Kinh chà đạp nhân quyền và đàn áp các khu vực như Tân Cương, Tây Tạng. Bên ngoài, Bắc Kinh bành trướng thế lực quân sự để uy hiếp các nước Á châu và còn trực tiếp đe dọa quyền lợi Mỹ bằng các nghiệp vụ tình báo, phá hoại mạng lưới điện toán, tuyên truyền và xuyên tạc.

Loại vấn đề ấy khiến quan hệ đôi bên căng thẳng và thượng đỉnh bị trở ngại cho tới khi lãnh đạo hai nước đồng ý là phải gặp gỡ, dù để nói ra chuyện bất đồng. Lần này người ta cho rằng có ít ra năm đề mục then chốt sẽ phải được thảo luận. Thứ nhất là nhân quyền, thứ nhì là Bắc Hàn, thứ ba là Iran, thứ tư là đối thoại về quân sự và thứ năm mới là hồ sơ kinh tế.

Mâu thuẫn

Việt Long: Bây giờ, bước qua hồ sơ kinh tế và tiến vào loại vấn đề chủ quan của hai nước, thưa ông, mâu thuẫn ở đây là gì?

[Mỹ] yêu cầu Bắc Kinh chấm dứt việc neo giá đồng bạc của họ vào Mỹ kim theo tỷ giá quá thấp làm hàng Trung Quốc thành quá rẻ nên thực tế là cạnh tranh bất chính.

Ô. Nguyễn Xuân Nghĩa

Nguyễn Xuân Nghĩa: Trước hết là vấn đề ngoại hối, nhưng không chỉ có chuyện ấy.

Kinh tế Hoa Kỳ có sức tiêu thụ trị giá hơn 10.000 tỷ đô la một năm và là thị trường nhập khẩu số một của thế giới. Trung Quốc là nước xuất khẩu số một và bán cho Mỹ hơn 290 tỷ đô la hàng hóa mà chỉ mua có hơn 70 tỷ, nhờ đó đạt xuất siêu mạnh với Hoa Kỳ và càng ngày càng nhiều.

Từ năm năm nay, Hoa Kỳ thấy đó là vấn đề và yêu cầu Bắc Kinh chấm dứt việc neo giá đồng bạc của họ vào Mỹ kim theo tỷ giá quá thấp làm hàng Trung Quốc thành quá rẻ nên thực tế là cạnh tranh bất chính. Vì bị áp lực, Bắc Kinh có điều chỉnh tỷ giá đồng bạc, mà chỉ được vài năm và lên chừng 20% thì kinh tế thế giới bị Tổng suy trầm 2008-2009 nên lại trở về nếp cũ là định giá đồng Nguyên rất thấp để xuất khẩu dễ hơn, hầu kinh tế của họ khỏi suy sụp. Do đó, Quốc hội Mỹ mới gây áp lực suốt năm ngoái và lần này, vấn đề ngoại hối sẽ lại được đặt ra.

Việt Long: Ông nói hồ sơ kinh tế không chỉ có chuyện ngoại hối, tức là còn vấn đề khác? Thí dụ như việc Trung Quốc nay đã thành chủ nợ của Mỹ và than phiền về chính sách kinh tế Hoa Kỳ?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Quả là có vấn đề này thật, nhưng chỉ là ấn tượng xoay thành chính trị.

Sau nhiều năm xuất siêu và gom vào dự trữ ngoại tệ nay đã lên tới 2.850 tỷ đô la, Trung Quốc quả là cho Mỹ vay tiền và nắm trong tay hơn 900 tỷ đô la Công khố phiếu Hoa Kỳ, chưa kể hơn 450 tỷ đầu tư vào hai doanh nghiệp bán công là Fannie May và Freddie Mac. Vì vậy, lãnh đạo xứ này nghĩ là ta nắm dao đằng chuôi và trên thế mạnh đó có thể gây áp lực về nhiều chuyện khác. Kể cả đòi triệt hạ Mỹ kim và đưa đồng Nhân dân tệ lên loại ngoại tệ dự trữ. Nhưng sự thật nó lại rắc rối hơn vậy, vì cái thế của Trung Quốc chưa thể bằng cái lực của Mỹ!

Ta biết Hoa Kỳ mắc nợ cỡ 14.000 tỷ đô la, trong đó nợ công chúng là hơn 9.000 tỉ, phần còn lại là chính phủ nợ nhà nước! Phân nửa khoản 9.000 này là nợ nước ngoài; phân nửa số ngoại trái hơn 4.000 tỉ đó là nợ các nước Á châu, là hơn 2.000 tỷ. Khoản nợ với Trung Quốc chưa bằng phân nửa số đó, tức là chỉ ở khoảng 10% tổng số nợ của Mỹ với công chúng mà thôi.



Nghi lễ đón tiếp Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào tại Tòa Bạch Ốc sáng 19/1/2011. RFA Photo by Wei Ling/Cantonese

Thật ra, nếu đầu tư cách khác mà an toàn và có lời hơn thì Bắc Kinh đã chẳng mua Công khố phiếu Mỹ. Khốn nỗi, thị trường trái phiếu Mỹ có mức lưu hoạt và có độ sâu và rộng nhất so với các thị trường khác, kể cả thị trường lớn hơn mà kém giá trị là Nhật Bản. Vì vậy Bắc Kinh cho Mỹ vay thì vẫn an toàn hơn cả, nhưng vẫn gây ấn tượng, tức là làm ra vẻ, cứu giúp nước Mỹ.

Thứ nữa, Mỹ kim vẫn là ngoại tệ phổ biến nhất, sử dụng cho 40% lượng giao dịch toàn cầu và chiếm 70% số dự trữ ngoại tệ của các nước trên thế giới nên vẫn duy trì được thế đứng của nó ít ra vài chục năm nữa. Trong khi ấy, đồng Nhân dân tệ chưa thể là ngoại tệ giao hoán phổ biến và càng khó là ngoại tệ dự trữ khi chưa được trao đổi tự do, với giá trị lên xuống theo quy luật cung cầu. Muốn như vậy thì Bắc Kinh phải thả nổi đồng bạc, như các nước yêu cầu từ lâu mà họ không dám làm! Tựu trung thì đây chỉ là chuyện tuyên truyền của lãnh đạo để ru ngủ dư luận người dân ở nhà về thế lực của quốc gia và để dọa nạt những người ít hiểu biết ở bên ngoài. Thật ra, tranh chấp kinh tế giữa hai nước nằm ở chỗ khác.

Đồng tiền mạnh

Việt Long: Vậy theo ông thì mối tranh chấp đó là gì khi mà Chủ tịch Hồ Cẩm Đào vừa trả lời báo Washington Post và New York Times đại khái rằng thời đại mà đồng mỹ kim thống trị nền tài chính thế giới bây giờ đã chấm dứt?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Sau nhiều thập niên tiêu thụ nhiều mà tiết kiệm ít đi, Hoa Kỳ lại bị nạn tổng suy trầm 2008-2009 và năm qua gây bội chi quá lớn rồi vay mượn quá nhiều. Vì vậy, nước Mỹ đang bước vào chu kỳ điều chỉnh để chi tiêu dè sẻn hơn hầu còn trả nợ. Và phải xuất khẩu nhiều hơn, hết nhập khẩu dễ dàng như trước. Đó là một lẽ khách quan. Khi Tổng thống Obama ban bố quốc sách xuất khẩu vào tháng Ba năm ngoái, với chủ trương là bộ máy công quyền phải yểm trợ các doanh nghiệp tăng gia xuất khẩu, Bắc Kinh coi đó là điều cực bất lợi. Lý do là kinh tế Trung Quốc vẫn còn quá lệ thuộc vào xuất khẩu và vào thị trường nhập khẩu Hoa Kỳ.

Trong bối cảnh bất trắc đó, Trung Quốc lại e sợ là đà tăng trưởng năm nay có thể giảm, chỉ còn hơn 8%, là điều rất nguy vì sẽ gây ra thất nghiệp và động loạn xã hội. Đã vậy, xuất khẩu năm nay có lẽ chỉ tăng 10% thay vì 30% như năm ngoái. Vì đôi bên đều cần bán hàng nhiều hơn nên yêu cầu đối nghịch về ngoại thương đưa hai quốc gia này vào mọi loại tranh chấp kinh tế.

TQ không tôn trọng những cam kết về việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, cản trở doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào Hoa lục trong khi vẫn nâng đỡ và trợ cấp doanh nghiệp.

Ô. Nguyễn Xuân Nghĩa

Ngoài vấn đề ngoại hối, hai bên cùng tranh cãi tội vi phạm quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới và phía Hoa Kỳ còn khiếu nại nhiều chuyện. Như Trung Quốc không tôn trọng những cam kết về việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, cản trở doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào Hoa lục trong khi vẫn nâng đỡ và trợ cấp doanh nghiệp của mình một cách bất chính. Vì những mâu thuẫn chằng chịt và phải nói là sinh tử cho cả hai, tôi trộm nghĩ là thượng đỉnh kỳ này sẽ không thể giải quyết được hết và kết quả là sẽ gây căng thẳng cho quan hệ giữa hai nước trong năm nay.

Việt Long: Câu hỏi cuối, thưa ông, Chủ tịch Hồ Cầm Đào sẽ về hưu sau Đại hội 18 trong hai năm tới, cũng là khi Tổng thống Obama lại tái tranh cử, vào năm 2012 đó. Vì vậy, hai người phải chứng tỏ là mình có đạt thành quả gì từ Thượng đỉnh này chứ?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ là có. Ông Hồ Cẩm Đào có nhu cầu tuyên truyền về thành quả với dân chúng và nhất là thuyết phục các lãnh tụ khác ở nhà về sự cứng rắn của mình khi đi Mỹ. Với dư luận Mỹ, ông cũng cần phô bày thiện chí hợp tác của Trung Quốc. Ông ta vận dụng các doanh nghiệp Mỹ đang làm ăn tại Hoa lục để nói tốt cho Trung Quốc; hứa hẹn nhiều hợp đồng lên tới cả chục tỷ để chiêu dụ doanh gia Mỹ; sẽ thăm một hãng sản xuất phụ tùng có vốn đầu tư Trung Quốc tại Chicago để nói tới sự đóng góp của Trung Quốc cho kinh tế và công nhân Mỹ, sẽ nói tới hy vọng hợp tác để phát triển công nghệ sạch, v.v. Nhưng kể về thực lực thì phần đóng góp đó của Trung Quốc chưa có gì đáng kể và thua xa nhiều nước Á châu khác, từ New Zealand nhỏ xíu tới Đài Loan, Ấn Độ, Nam Hàn đến Úc hay Nhật.

Phần mình, Tổng thống Obama có nhu cầu chứng tỏ sự ôn hòa nhũn nhặn của mình, nhưng khó chờ đợi gì hơn từ phía Bắc Kinh về chuyện kinh tế. Trong khi về an ninh, ông không thể nhượng bộ gì thêm khi mà Đảng Cộng hòa đã chiếm thế mạnh trong Quốc hội và đòi hỏi một lập trường cứng rắn hơn với Bắc Kinh về các hồ sơ an ninh và quân sự. Vì vậy mà thượng đỉnh này sẽ có ấn tượng hào nhoáng tưng bừng, nhưng khó san bằng những dị biệt giữa hai nước.

Việt Long: Xin cảm tạ ông Nguyễn Xuân Nghĩa.

Nguồn: RFA