Trong ký ức tôi thời còn là sinh viên, "Hà Nội trong mắt ai"
là một bộ phim bị "cấm". Hồi đó một đứa trong chúng tôi
có bố công tác trong Bộ Nội vụ (cũ) - Bộ Công an bây giờ.
Nhờ nó mà chúng tôi lọt được qua cổng Bộ này, 15 Trần
Bình Trọng, xem trọn vẹn bộ phim. Cảm xúc của lũ chúng tôi
bấy giờ chuyển từ ngạc nhiên, sửng sốt đến bái phục,
ngưỡng mộ. Sao không ngạc nhiên, sửng sốt được khi tự
nhiên bỗng dưng xuất hiện một bộ phim một mình một giọng
như vậy? Sao không bái phục, ngưỡng mộ khi những người làm
phim đã dám nói những điều ngay thẳng, lại hay đến vậy? Và
bất chấp lịch biểu học hành, nhiều lần sau đó, cứ có cơ
hội là chúng tôi lại đi "xem chui" bộ phim này, không chán.
Không chỉ trong giới sinh viên, đi đến đâu, gặp bất kỳ ai
người ta cũng xôn xao, bàn tán về bộ phim. Mọi người đều
chung một câu hỏi: tại sao nó bị "cấm"?
Thực ra, không có bất kỳ một văn bản nào do ai ký ra lệnh
cấm lưu hành bộ phim này. Nhưng dường như chỉ sau một thời
gian rất ngắn, chừng vài ba tháng thôi, từ sau khi nó được
phát hành thì phải, không một ai dám công khai chiếu hoặc xem
tiếp bộ phim. Và, một lẽ thường tình, đạo diễn bộ phim,
ông Trần Văn Thủy, lập tức bị hầu hết mọi người, kể
cả những đồng nghiệp thân cận nhất cô lập, ghẻ lạnh.
Cố nghệ sĩ Phạm Hà có lần đã hỏi thẳng ông: "Ở! Cậu
chưa bị bắt à? "...
Chuyện xảy cách đây gần 30 năm, chính xác là đầu năm 1982,
khi Trần Văn Thủy còn rất trẻ. Ông Thủy không những đã
được "cứu" thoát khỏi tình cảnh này mà còn được phong
tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân. Những người từng "có
duyên nợ", "ân oán" với ông và bộ phim này hồi ấy nay
phần nhiều đã đi vào quá vãng. Tuy nhiên, với ông Thủy,
dường như mọi việc chưa qua. Có gì như nghèn nghẹn nơi ông
khi có dịp nào phải nhắc lại chuyện này với ai. Và có gì
như ngài ngại khi ai đó đương chức đương quyền khi buộc
phải nhắc đến chuyện này. Ngõ hầu góp phần đặt dấu
chấm hết cho câu chuyện, tôi tìm đến ông.
Không khó khăn gì khi muốn tìm số máy điện thoại của ông.
Chỉ cần một cú bấm máy gọi số 116, hỏi số điện thoại
nhà ông là ra. Nhưng, dễ phải đến lần thứ 5 nhấc máy, tôi
vẫn chỉ nhận được một câu trả lời: "Chuyện ấy -
(chuyện làm phim này - t/g) đã qua lâu rồi, tôi không muốn ai
gợi lại nữa". Bất quá, tôi đành mạnh dạn bấm chuông nhà
ông. Rất may hôm nay cái điệp khúc kia của ông không lặp
lại. Chỉ sau ít phút làm quen, ông đã hào hứng tiếp tôi một
mạch đến quá trưa, không dứt.... "Là chỉ để nói chuyện
chơi thôi chứ đừng có đăng báo chí gì đấy!" - ông giao
hẹn trước khi nói.
Với phim "Hà Nội trong mắt ai", lúc đầu ông định làm chơi,
làm cho nó xong, cho nó tròn bổn phận của một người làm công
ăn lương. Bởi vì cả năm 1981 ông không làm được gì. Năm
1980, ông giành được một cái giải khá lớn bằng phim "Phản
bội", làm chấn động trong nước và thế giới. Cho nên làm
cái gì cũng khó, ông phải chần chừ. Cuối năm ấy bình bầu
Lao động tiên tiến, Chiến sĩ thi đua, Đảng viên bốn tốt...
ông không có cái gì, nghĩ cũng ngượng. "Mình nghĩ: thôi thì
làm cái gì đó cho nó có việc, cuối năm cho nó đỡ phiền" -
ông bộc bạch. Thế rồi...
Hồi đó ông được nhận một kịch bản phim "Hà Nội năm cửa
ô" viết về Hà Nội du lịch, về phố cũ, phố mới, chùa
triền, lăng tẩm, khéo tay hay làm... Soi xét nó lại với thực
tế cuộc sống, ông thấy ta mất mát quá nhiều. Vào những năm
đầu thập kỷ 80, Hà Nội điêu linh, đói kém, khó khăn lắm,
chúng ta đang còn phải ăn bo bo. "Mình thấy cái kịch bản này
không thể làm được. Nếu làm bộ phim này lúc ấy thì chỉ
có đóng mà thôi, lấy đâu ra quần chùng, áo dài..." - ông
kể. Kịch bản phim có nhiều chi tiết liên quan đến sử sách,
phải đi kiếm sách đọc, đi điều tra. "Ngôi nhà 80 - 82 phố
Hàng Gai, nếu đang đi giữa cái nắng choáng ngợp của phố
phường mà ta bước chân vào ngôi nhà cổ này, có những cái
gác xép cửa lùa, có tiếng chim gù trên mái ngói thì lòng ta
tĩnh lại". Kịch bản viết là thế, nhưng đến đây ông thấy
một bên là cửa hiệu thêu, một bên là trụ sở HTX. Ông hỏi
chủ nhà: "Cái nhà này đã sửa lại từ bao giờ?"(Vì nó giống
như tất cả các nhà cửa, phố xá, cửa hàng cửa hiệu lúc
bấy giờ), rồi đọc cho ông ta nghe đoạn kịch bản này. Vị
chủ nhà hỏi lại: "Người viết những dòng này bao nhiêu
tuổi? ". Ông đáp: "Cỡ bằng tuổi cháu". Vị chủ nhà tiếp:
"Thế thì anh ấy chép ở đâu ra ấy chứ. Năm 1945, Toàn quốc
kháng chiến bùng nổ, bọn Tây ở bên kia, bọn tôi ở bên này
đã bắn nhau chí chát thì cái nhà nó đã thế này rồi, làm gì
có cái cảnh như các anh viết trong đó đâu". Đến ô Quan
Chưởng tìm Văn bia của Tổng đốc Hoàng Diệu, đến gặp ông
Nguyễn Vinh Phúc, gặp cụ Trần Huy Bá ông mới bừng tỉnh ra
một điều: những giá trị tinh thần của dân tộc thì tồn
tại vĩnh cửu. "Thế thì thôi, đừng làm làm cái đẹp về
mặt cảnh quan khi nó không còn, không có nữa. Hãy tìm đến
những cái có thật, đích thật, rất cần cho đời nay - những
giá trị tiêu biểu cho cách trị nước yên dân như thế nào"
- Đạo diễn Trần Văn Thủy rút ra sau những đắn đo suy tính.
Và lúc này, vào cái thời điểm đầu những năm 80 ấy, những
điều này cần thiết biết bao! Xót xa với hiện thực của dân
chúng thế nào, trọng dụng nhân tài ra làm sao?... Ông đã liệt
kê ra giấy như vậy sau tất cả những sự đọc sách, điều
tra. Quan niệm của ông là làm phim tài liệu không chỉ đúng và
đủ. Đúng và đủ là những chuẩn mực của các công trình
nghiên cứu khoa học, của các nghị quyết. Nếu chỉ có vậy,
người ta không xem thì cũng... vứt! Muốn cho người xem "tiêu
hoá" được thì chúng còn phải hay nữa. Bởi thế cho nên
muốn cho bộ phim có tính kịch thì phải sắp xếp lại những
tích tuồng hay nhất mà các tiền nhân chúng ta để lại. Và,
nhiều chuyện hay đã được ông đưa vào phim. Chuyện Tổng
đốc Hoàng Diệu đặt tấm Văn bia ở Ô Quan Chưởng cấm các
chức vị quan trường không được sách nhiễu dân lành làm ăn
sinh sống ở đây như thế nào, chuyện vua Lê Thánh Tông dựng
Đình Quản Văn ra làm sao, chuyện Quang Trung sau khi chiến thắng
lẫy lừng trên sông Rạch Gầm đại phá quân Xiêm vào thành
Thăng Long thăm vua Lê Cảnh Hưng, ông vua già mất quyền đã lâu
rồi thế nào... Phép nước bấy giờ quy định lên Điện không
được đem vũ khí. Quang Trung quyên mất điều đó, cứ thế
đeo kiếm phăm phăm bước lên Thềm Rồng. Tất cả mọi người
xanh mắt sợ, riêng chỉ có một mình Phương Đình Pháp, một
viên quan lễ tân của triều đình đứng ra vòng tay trước mặt
Quang Trung thưa lại với ông điều này. Quang Trung trừng mắt
nhìn thẳng vào mặt Pháp. Pháp vẫn điềm nhiên. Thế rồi
thấy phải, Quang Trung bỏ kiếm, bước lên Điện. Câu chuyện
chỉ có thế nhưng ông Thủy cũng thấy rằng: trong mắt Quang
Trung lúc bấy giờ, quốc gia chỉ có thể trường tồn và hưng
thịnh khi kẻ thường dân dám nói với bề trên điều ngay
thẳng và người có quyền uy phải biết nghe kẻ dưới mình
điều phải trái. Ngày nay, trong Chùa Bộc, Hà Nội, còn lưu
giữ được một bức tượng. Trên đầu bức tượng đề chữ
Tâm. Tất cả các nhà nghiên cứu đều không biết được bức
tượng này thờ ai. Sau này cụ Trần Huy Bá đã phải mất rất
nhiều công phu, đặt giấy bản vòng ra đằng sau bức tượng,
dùng than chà. Tờ giấy hiện lên: "Bính Ngọ tạo Quang Trung
tượng". Tức là, đúng vào năm mà Gia Long chống anh em nhà Tây
Sơn một cách kịch liệt, tàn sát, huỷ diệt tất cả những
gì của họ thì dân chúng vẫn dựng tượng Quang Trung. "Hà Nội
trong mắt ai" ra đời và đã tập hợp những chuyện như thế!..
Ngay từ lần chiếu đầu tiên bộ phim để trình duyệt, theo
ông Thủy, Ban giám đốc hãng phim Tài liệu khoa học Trung ương
đã "Thấy nó có gì không ổn". Họ liền mời những người
được coi là trọng trách nhất trong lĩnh vực tư tưởng, văn
hoá nước ta xem. Xem xong, các vị này đều kết luận ngay rằng
phim "Có vấn đề"! Anh em trong cơ quan đến lúc này vẫn chưa
người nào, kể cả đồng chí Bí thư đảng uỷ, được xem.
Rồi phim được bí mật chiếu cho một số người được coi
là "cấp trên" xem. Rốt cuộc, Giám đốc hãng phim Lý Thái Bảo
trả lời ông Thủy: bộ phim không được chiếu (!).
Thực ra, theo ông Thủy, đó là do có một số người xem phim
xong tự vơ vào, vận vào mình mà cho rằng bộ phim này chống
Đảng, dậy Đảng cầm quyền, kêu gọi mọi người "xuống
đường" (?!). Chẳng qua là có thể họ "có tật giật mình".
Trong đó có một nhà thơ từng có quan hệ rất thân thiện với
ông Thủy từ cuối những năm 60, khi ông mang phim từ chiến
trường ra, chiếu tại nhà cho hai vợ chồng họ xem. Nội dung
phim có một chi tiết mà nhà thơ đã hiểu lầm. ấy là đoạn
nói về bà Huyện Thanh Quan xưa ở làng Nghi Tàm (Hà Nội), theo
chồng đi làm quan xa tại miền Trung. Rồi một hôm, ông Huyện
đi vắng, bà nhận được mớ đơn kiện trong đó có đơn của
chị Nguyễn Thị Đào xin cải giá vì chồng đi lính thú (ra
biên ải) lâu ngày. Nhớ cảnh Tây Hồ, thương cảm cô Đào,
nhà thơ mạnh dạn phê vào đơn: "Phó cho con Nguyễn Thị Đào /
Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai...". Đào được đi bước
nữa. Nhưng chẳng bao lâu sau, chồng cô trở về phát đơn
kiện. Ông Huyện mất chức. Lời bình phim viết: "Thế mới
biết cái máu me văn nghệ dính vào việc quan trường gây ra
nhiều sự rắc rối là thế!". "Là một nhà thơ lớn - ông
Thuỷ nói tiếp - nhưng vị này tự vận mình vào chuyện của
bà Huyện Thanh Quan thì buồn cười quá. Bà sống trong một giai
đoạn lịch sử hoàn toàn khác. Ông ta có "máu me" văn nghệ
nhưng không nhiều, "máu me" quan trường, máu me chính trị của
ông mới nhiều chứ! ". Hay đoạn nói về Lê Thánh Tông dựng
Đình Quản Văn, trong đặt trống Đăng Văn cho dân chúng đến
kêu oan. Phim liên tưởng: giá như thời Lê Mạt cũng có một
cái trống như vậy thì tại đây dân chúng sẽ phải đinh tai
nhức óc. Đó cũng là nói chuyện xưa, những tích tuồng trị
nước yên dân. Nhưng không may cho ông Thủy, có người lại nói
chuyện xưa sao nó lại giống hiện thực hồi đó đến thế!
Tại sao Nguyễn Siêu lại cho dựng Tháp Bút bên Hồ Gươm? Tại
sao Tổng đốc Hoàng Diệu lại cho đặt tấm bia kia ở Ô Quan
Chưởng?... Trong 38 năm cầm quyền của Lê Thánh Tông, đất
nước thịnh trị. Xây dựng bộ Luật Hồng Đức, thành lập
Hội Tao Đàn, viết Đại Việt sử ký toàn thư, dựng Bia Văn
miếu - có vị vua nào làm được lắm việc lớn như ông này
không? Mà đến khi cái Điện Huy Văn, nơi bà Ngô Thị Ngọc Giao
đẻ ra vua Lê Thánh Tông xiêu vẹo, đổ nát, người ta đã dọn
nó đi để làm trụ sở UBND phường. (Vào cái thời điểm đó
người ta vẫn còn phá hoại đình chùa). Tất cả những điều
đó đều chẳng đáng kể ra vào lúc này hay sao?
Ông Thuỷ nhớ lại dạo ấy, có lần, bộ phim đã được
chiếu đi chiếu lại tới bốn lượt trong một buổi sáng tại
Quân uỷ Trung ương - chuyện lạ chưa từng có. Sau đó, Uỷ ban
Khoa học xã hội phải tổ chức cả một cuộc toạ đàm
"nghiên cứu" bộ phim, có các đại biểu của Viện Sử học,
Viện Triết học, Viện Hán nôm cùng tham gia. Không một ai ở
đây có thể tìm ra bất kỳ một sai sót nào của bộ phim, kể
cả cái những cái "chốt" của bộ phim - ông Thuỷ tâm sự –
như đoạn nói về Lê Lợi. Nguyễn Trãi, người quê làng Nhị
Khê nhưng lại sinh thành ở Hà Nội. Tâm huyết suốt đời cho
sự tồn vinh của đất nước và với thân phận của những
người dân, ông từng đặt bút: "Chăn lạnh vắt vai đêm chẳng
ngủ /Suốt đời ôm mãi nỗi lo dân". Từng được ông cùng
Trần Nguyên Hãn "nếm mật năm gai" phò suốt 10 năm là thế
nhưng khi được lên ngôi, vị vua này nghi kỵ các quan cận
thần, đã phế truất cả Nguyễn Trãi, Phạm Văn Xảo và Trần
Nguyên Hãn.
Sử còn chép rằng vua Lê từng hỏi Nguyễn Trãi: "Viết quốc
nhạc sao cho phải?". Nguyễn Trãi thưa: "Tâu bệ hạ! Nguyện
xin bệ hạ thương yêu nuôi dưỡng lấy dân chúng cho trong xóm
ngoài làng không còn tiếng oán hận sầu than. Đừng vì ơn
riêng mà thưởng bậy, chớ vì mình giận mà phạt bừa. Đó
chính là cái gốc của quốc nhạc vậy!".
Có nhà nghiên cứu lịch sử của Học viện Chính trị Nguyễn
Ái Quốc quê Thanh Hoá phản đối ông Thủy ầm ầm rằng: "Lê
Lợi của chúng tôi chưa bao giờ được miêu tả như thế! ".
Người ta tranh cãi về những đoạn như thế này rất dữ,
rằng phim đã ám chỉ ông này, ám chỉ ông kia bây giờ... Và,
bắt đầu từ đấy, không còn ai dám nhắc đến việc tiếp
tục cho chiếu bộ phim này nữa...
"Cho đến năm 1985, mình không còn cái gì nữa - ông chua chát
kể lại - cả điều kiện làm việc, miếng cơm manh áo, quan
hệ bạn bè, tất tật. Vợ mình bảo mình điên. Bạn bè cũng
nói mình vậy. Mẹ mình khóc và nói với mình rằng: "Con ơi!
Sao cái nghề của con nó khổ thế!". Nỗi khổ nhất lúc ấy
là sự cô đơn. Bạn bè đồng nghiệp lên cơ quan bảy rưỡi,
tám giờ có mặt tề tựu đông đủ và rất lo lắng cho mình
đã bị bắt hay chưa. Báo Tuổi trẻ phỏng vấn tôi trong những
năm mà "Hà Nội trong mắt ai" bị "cấm", ông làm cái gì?".
Tôi đã trả lời với họ rằng: "Trong những năm nhàn tản
không có việc làm này, tôi đã đến những nơi mình từng
đến quay phim, những nơi mà chúng tôi đã từng đến quay phim
để thắp hương và chiêm nghiệm như mộ ông Ngô Thì Nhậm ở
làng Tả Thanh Oai, mộ bà Đoàn Thị Điểm, mộ Nguyễn Trãi ở
làng Nhị Khê, nơi thờ phụng Lê Thánh Tông ở Điện Huy Văn...
Và, tôi thắp hương trên bàn thờ tổ tiên nhà mình. Mỗi lần
như thế, tôi thường lẩm nhẩm một câu thành tiếng rằng:
Thưa các bậc tiên liệt, con có tội tình gì không, khi con chỉ
khắc khoải kể về những sự anh linh của dân tộc này? Nhìn
lên bàn thờ tôi thấy những nén hương sau khi cháy cứ cong lên
như râu rồng"...Tôi mừng, vì mẹ tôi thường bảo rằng:
"Thắp hương trên bàn thờ, sau khi thắp hương mà những nén
hương cong lên là linh ứng đấy!".
Bộ phim không được chiếu! "Tại sao vậy? Xin các anh chỉ bảo
cho tôi những chỗ không phải, những chỗ sai để chúng tôi có
thể sửa" - bằng một giọng rất mếm mỏng, rất "đàn em",
hồi đó ông Thuỷ khẩn khoản. Ban Giám đốc hãng phim kính
chuyển nguyện vọng này của ông lên các vị lãnh đạo tư
tưởng văn hoá. Họ đồng ý cho sửa chữa bộ phim. Nhưng, khi
được hỏi cần phải sửa chỗ nào, một trong số các vị này
đã thốt lên: "Đây là một bộ phim sai, sai đến mức không
thể sửa được!". Sai đến mức như thế có nghĩa là nó
đúng! - ông Thủy nghĩ.
Cùng kíp làm bộ phim này có anh Lưu Hà, con trai ông Lưu Xuân
Thư, Phó giám đốc hãng phim Tài liệu khoa học Trung ương hồi
bấy giờ. Hà đang là sinh viên năm cuối của Trường Sân khấu
điện ảnh. Đây là bộ phim đầu tay mà anh bấm máy, cũng
được coi như là bài thi tốt nghiệp của anh. Ông bèn nghĩ ra
một kế "xui" Hà đề nghị nhà trường đứng ra tổ chức
chiếu bộ phim này ở Cung Thiếu nhi, để "cho sinh viên báo cáo
tốt nghiệp". Danh sách mời có các học giả, các nhà nghiên
cứu, các trí thức lớn, các cục, vụ, viện. Trong đó có cả
các thầy giáo của nhà trường đến dự. Thời kỳ này, Cung
Thiếu nhi là địa điểm chiếu phim sang nhất ở Hà Nội với
quy mô hơn 500 chỗ, màn ảnh cực trắng, ánh sáng cực mạnh.
Ơn trời! Kế họach này được chấp thuận. Khán giả đến
chật cứng các hàng ghế của hội trường 500 chỗ. Họ reo hò,
vỗ tay tán thưởng ầm cả rạp. Sau buổi chiếu, Ban giám đốc
hãng phim cho gọi ông Thuỷ lên hỏi: "Bây giờ ý Thuỷ thế
nào?". Ông đáp: "Thưa các anh! Nếu như tôi viết một cuốn
sách, hay vẽ một bức tranh thì việc thưởng, phạt chỉ là
của riêng tôi. Nhưng đây là một bộ phim, nó ra đời không
chỉ bởi cá nhân tôi mà là do cả tập thể làm phim, là của
cả hãng phim. Bởi vậy, xin các anh lưu ý cho một điều rằng:
nếu cái phim này nó hay, nó bán được bản quyền, được khen
thì là chung của hãng. Nhưng nếu nó dở, nó có tội thì các
anh cũng nên công bằng. Nếu định đánh 100 roi thì chỉ nên
đánh vào tôi 80 roi, rồi các anh phải bảo cấp trên đánh vào
các anh một số roi, đánh vào ông Cục trưởng Cục Điện ảnh
một số roi, đánh vào ông Bộ trưởng Bộ Văn hóa một số
roi... Chứ tại sao một cái phim hay, bán được bản quyền thì
là của Nhà nước, còn cái phim "có vấn đề" thì tất cả 100
roi các anh đều đánh cả vào đít tôi?". Các vị lãnh đạo
hãng phim lúc này đều ngơ ngác, thành thật: "Cậu nói phải!
Nhưng mà bây giờ sửa thế nào?". Ông Thuỷ nói: "Sửa thế
nào, đây là chuyện của các anh. Tôi thì tôi làm như vậy và
tôi nghĩ như vậy. Và cho đến giờ phút này các anh hỏi tôi
dù là theo trách nhiệm công dân hay trách nhiệm nghệ sĩ thì
tôi vẫn tự hào rằng tôi, một công dân, đã làm một bộ phim
như vậy. Con người ta khi có tà tâm thì không đàng hoàng
được đâu, không lễ phép được đâu và cũng không tự tin
được đâu. Cụ Hồ nói là phải biết lắng nghe ý kiến của
quần chúng. Quần chúng đây tôi không dám nói đến những
người ở ngoài đường. Ít nhất thì các anh phải chiếu cho
các anh chị em trong hãng xem, những đồng nghiệp của tôi, để
họ góp ý cho tôi hiểu cách làm phim tài liệu như thế nào,
hiểu "cái vòng phấn" mà Đảng và Nhà nước đã "vẽ" cho
chúng ta được "nhảy múa" trong đó như thế nào? Rồi anh
chiếu cho Xưởng Phim truyện, chiếu cho Cục Điện ảnh, chiếu
cho Xưởng phim quân đội, chiếu cho các hội văn học nghệ
thuật để người ta góp ý cho chúng ta". Ban giám đốc hãng phim
nghe thấy phải, và bắt đầu lên danh sách những người
được mời xem phim, ở các xưởng phim, các hội văn học nghệ
thuật, lên danh sách anh em trong hãng (kể cả anh em trong Nam)...
Khi chiếu phim bao giờ cũng có người đứng canh ở cửa, đọc
tên cho từng người vào một. Cho đến bây giờ, hẳn tất cả
những ai đã từng tham dự vào vụ này đều còn nhớ, tất cả
mọi người dù trong hay ngoài hãng phim, kể cả các cụ già như
cụ Mai Lộc, cụ Khương Mễ sau khi xem phim xong đều thốt lên:
"Sao cái phim như thế này mà lại bị "cấm" kia chứ?". Ai
cũng khen hết, kể cả những người từng ghét ông Thuỷ ngày
trước. Không một người nào kể cả các vị bên Viện Triết
hay Viện Sử, Viện Hán Nôm... có thể tìm ra được bất kỳ
một sai sót dù nhỏ nào trong bộ phim. Ông Thuỷ đã được họ
"bênh"! Khi thông tin này loang ra, một lệnh bất thành văn
được ban ra từ một cấp: không được chiếu bộ phim này
dưới bất kỳ hình thức nào nữa (!!!). Tại một hội nghị
phát hành phim trung ương có các đại biểu các tỉnh về họp,
Cục trưởng Cục Điện ảnh bấy giờ muốn chiếu bộ phim này
cho họ xem cũng không được phép. Đó là vào giữa năm 1983 -
ông Thuỷ nhớ lại và nghĩ: mọi việc đã kết thúc. Liên
tưởng đến một số vụ trước đây như "nhân văn giai
phẩm", "xét lại"... ông bắt đầu hết hy vọng thì...
Một hôm, bỗng nhiên có một cú phôn của ông Nguyễn Việt
Dũng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng
gọi xuống đề nghị Hãng phim Tài liệu khoa học Trung ương
mang phim "Hà Nội trong mắt ai" lên chiếu cho Văn phòng xem.
Dưới hãng phim, ông Bùi Đình Hạc, bấy giờ mới được bổ
nhiệm giữ chức Giám đốc hãng phim (thay cho ông Lý Thái Bảo
sang làm Tổng Thư ký Hội Điện ảnh), trả lời: "Alô! không
được phép đâu. Lệnh của cấp trên không được chiếu
nữa". Ngày 15/10/1983, Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng lại
gọi xuống. Một lần nữa Giám đốc hãng phim Tài liệu khoa
học Trung ương Bùi Đình Hạc lại từ chối lời đề nghị
này với lý do là phim đang được cắt ra để sửa. Từ đầu
dây bên kia, giọng nói đĩnh đạc của ông Dũng vang lên: "Chúng
tôi biết rằng bộ phim ấy có thể chiếu được hay không
chiếu được. Chúng tôi có chỗ để biết. Nhưng lần cuối
cùng tôi báo cho các anh biết đây là chỉ thị của Thủ
tướng Phạm Văn Đồng". Ban lãnh đạo hãng phim lại hỏi ông
Thuỷ: "Bây giờ ý cậu thế nào?". "Ối giờ ơi! Sao các ông
lại hỏi tôi ý đó. Các ông là người có chức có quyền các
ông phải hiểu được ông Phạm Văn Đồng là ai chứ! Nếu là
ông Đồng mà các ông còn không chiếu cho ông ấy xem thì đất
nước này nó còn ra làm sao nữa? Không mang phim lên chiếu cho
ông ấy xem là không được đâu". Kết quả ý kiến này của
ông Thuỷ đã được họ tiếp thu.
Kế hoạch mang "Hà Nội trong mắt ai" lên chiếu cho Thủ tướng
Phạm Văn Đồng xem đã được Văn phòng Hội đồng Bộ
trưởng ấn định vào lúc 3 giờ chiều ngày 18/10/1983. Ông
Thuỷ đề nghị với Giám đốc hãng phim, ông Bùi Đình Hạc cho
được đi cùng. Ông Hạc trả lời "Không được đâu! Làm sao
mà đi cùng được. Vào đấy qua "cổng đỏ", người ta
điểm danh đấy". "Anh Hạc ơi! Anh cứ cho tôi đi cùng vì tôi
muốn nghe bằng chính cái lỗ tai của tôi xem Bác nói gì. Tôi
thề với các anh rằng nếu Bác nói điều phải, điều đúng
thì mình phải nghe, phải sửa chữa. Còn nếu mình có làm
điều gì không phải thì chắc chắn là Bác cũng thương mà
chỉ bảo cho mình thôi". Mặc cho ông Thuỷ nói hết lời như
vậy, Giám đốc hãng phim vẫn không đồng ý. Không từ bỏ ý
nguyện, gần đến giờ hẹn, ông lén ngồi sẵn vào ghế sau
chiếc xe con Lada màu trắng của hãng phim đang đậu bên bậc
thềm và lẩm bẩm một mình: "Ngày xưa đánh nhau ở chiến
trường khu 5, khẩu hiệu của chúng tôi là nắm lấy thắt lưng
địch mà đánh. Nay tôi cũng phải nắm lấy thắt lưng anh
thôi...". Kể đến đây, ông Thuỷ cười phá lên - nụ cười
đầu tiên thoải mái hết cỡ xuất hiện trên gương mặt đã
bắt đầu có vài nếp nhăn của ông, trong suốt hơn ba giờ
đồng hồ mà tôi được gặp. Nước này, cuối cùng, Giám
đốc hãng phim đành cho xe lăn bánh.
Đến Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng ở số 2 Bách Thảo, Hà
Nội, không thấy ai ra kiểm tra danh sách mà chỉ có giọng
người bảo vệ hỏi vọng từ trong chốt gác: "Xe nào đấy?".
"Xe của xưởng phim vào chiếu phim cho Bác Đồng xem đây".
Tiếng người bảo vệ lại vọng ra: "Vào đi! ". Thế là lọt.
"Đấy, có ai điểm danh, kiểm tra gì đâu" – Ông Trần Văn
Thủy bảo với ông Bùi Đình Hạc.
Ông Thuỷ bê 5 hộp phim vào ngồi chờ trong phòng khách. "Bác
Đồng đang tiếp Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên
Xô, ông A -li-ep. Các anh chờ, một lát nữa bác xuống" - có
người ra thông báo. Tự dưng Thuỷ bỗng thấy lo lo. Gần 30
phút sau ông Phạm Văn Đồng xuống. Trời tháng 10, chưa lạnh
lắm nhưng bác đã phải mặc chiếc áo khoác màu đen bằng dạ.
"Trông thấy chúng tôi, tự nhiên mặt ông Đồng đanh lại tỏ
ý bực mình lắm". "Muốn xem một bộ phim mà khó thế à? Nếu
mà khó quá thì thôi tôi không cần nữa, tôi không phiền các
anh nữa" – Ông Đồng dằn giọng nói như vậy sau khi đã phải
chờ đợi giờ phút này chừng nửa tháng rồi, kể từ hôm
đầu tiên ông yêu cầu hãng đem phim lên chiếu. Ông cứ chắp
tay sau lưng đi đi lại lại trong sân mà không vào phòng chiếu.
Linh tính mách bảo Trần Văn Thủy một điều gì, rằng Thủy
đang gặp may. Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Hội đồng Bộ
trưởng Nguyễn Việt Dũng đỡ lời cho đoàn làm phim rồi mời
Thủ tướng vào. Thủ tướng ngồi xuống một chiếc ghế mây.
Đạo diễn Trần Văn Thuỷ đứng vòng tay trước mặt bác
nghẹn ngào nói: "Thưa bác! Bác cho phép cháu thay mặt anh em trong
đoàn làm phim được bày tỏ lòng biết ơn đến bác. Cháu rất
xúc động vì việc nước bận như vậy mà Bác vẫn bớt chút
thì giờ... ". Nói đến đây ông Thuỷ nghẹn ngào đến lạc
cả giọng đi. "Cháu ngồi xuống đây! Cháu ngồi xuống đây! ".
Nghe giọng nói ân cần của Thủ tướng, ông Thuỷ thấy mình
được bình tâm trở lại. Bác phải cầm tay kéo Thuỷ ngồi
xuống bên phải mình; bên trái bác là Giám đốc hãng Phim Bùi
Đình Hạc. Phim bắt đầu chiếu. Sau mỗi một "chốt" phim như
đoạn Tô Hiến Thành dùng người như thế nào, đoạn vua Lê
Thánh Tông cho dựng đình Quảng Văn trong có đặt trống Đăng
Văn để dân chúng đến kêu oan ra sao, rồi đoạn nói về nỗi
oan khuất của Nguyễn Trãi v.v..., bác lại nhổm dậy dịch
chuyển ghế. Cứ thế, bác lặng lẽ lặng lẽ xem cho đến hết
bộ phim.
Phim hết. Đèn trong phòng đã bật sáng. Bác vẫn ngồi, đầu
vẫn cúi xuống, tay đặt lên trán, bất động. Tất cả mọi
người xem phim đều cùng im lặng. Một lát sau, Bác ngẩng đầu
quay sang Đạo diễn Trần Văn Thuỷ, hỏi: "Những ai đã được
xem phim này và họ đã nói những gì về nó? ". "Thưa Bác! Bác
hỏi cháu thế cháu khó trả lời lắm. Vì nếu cháu trả lời
bác thì có thể không khách quan. Có rất nhiều người ủng
hộ, tán thành nhưng họ lại không có quyền phán xét gì về
bộ phim này. Xin phép Bác để cho anh Bùi Đình Hạc là giám
đốc của cháu được trình bày với Bác". Bác quay sang phía
ông Hạc. Ông hạc thưa: "Thưa đồng chí! Đây là bộ phim
được các đồng chí có trách nhiệm đánh giá là một bộ phim
có vấn đề, mượn xưa để nói nay. Đây là bộ phim không
cùng Đảng để giải quyết những khó khăn hiện nay mà nuối
tiếc những quá khứ phong kiến ngày xưa và gieo rắc vào thực
tại quần chúng đảng viên những bi quan, hoài nghi và tiêu
cực…". Rất tiếc rằng đến lúc này mà ông Hạc vẫn không
hiểu được bác Đồng đang nghĩ gì. Cuối cùng, ông Hạc nói:
"Thưa Đồng chí! Những người có trách nhiệm kết luận rằng
tác giả bộ phim này chỉ là một nghệ sĩ chứ không phải là
một nghệ sĩ cách mạng". Bác hỏi: "Ai nói như vậy? ". Giám
đốc hãng phim Bùi Đình Hạc nêu tên ba vị lãnh đạo cấp
trên thời đó. Trong khi ông Hạc nói, ông Thuỷ như bị kim
châm, cứ nhấp nha nhấp nhổm đứng lên, ngồi xuống, đến
mức ông Nguyễn Việt Dũng ngồi bên cạnh phải vít vai mấy
lần ông mới im lặng được. Đoạn bác quay sang ông Thuỷ:
"Cháu có ý kiến gì nữa không?". Ông Thuỷ đứng lên thưa:
"Thưa bác, cháu đã nhường lời cho anh Hạc. Và anh Hạc đã
nói những lời cháu không nghĩ như thế. Cháu chỉ muốn thưa
với bác rằng: nếu bộ phim này có gì sai lầm thì đó chỉ là
do lực bất tòng tâm chứ bụng dạ chúng cháu không nghĩ thế.
Thưa bác! Khi chúng cháu đến mộ bà Đoàn Thị Điểm thì thực
sự lúc này nó chỉ còn là một đống rác. Và chúng cháu đã
phải thuê dọn cái đống rác này đi mất nửa ngày. Rồi xin
một chút nước vôi quét lên tấm bia mộ của bà, mượn một
số chậu cảnh quanh đó bày đặt quay phim để khỏi mang tội
bất hiếu với tiền nhân...". Được ngồi bên Thủ tướng
Phạm Văn Đồng lúc này, linh cảm mách bảo với Đạo diễn
Trần Văn Thuỷ rằng: trong cơn bão tố cuồng phong mà mình đang
đi, ông đã tìm được một cái hang an lành để trú ngụ.
Cuối cùng bác nói: "Tôi cũng không nghĩ rằng sự thể nó lại
quan trọng đến mức này". Rồi bác phân tích cho mọi người
hiểu đoạn nói về Nguyễn Trãi trong phim là có thật trong
lịch sử và là nói về thân phận của Nguyễn Trãi chứ không
chủ ý nói về Lê Lợi. Từng đoạn, từng đoạn khác như thế
của phim cũng được bác phân tích rất cặn kẽ. "Tôi kinh
ngạc về trí nhớ tuyệt vời của bác. Bác mới chỉ xem phim
có một lần trong khi trăm công nghìn việc đang chờ đợi" -
ông Thủy thốt lên với tôi. Rồi bác kết luận: "Ý kiến thứ
nhất của tôi là: nếu đã là anh em cùng làm văn nghệ với
nhau thì phải biết thương yêu, bảo vệ, bênh vực lẫn nhau.
Các anh mà không biết bênh vực cho nhau thì còn ai bênh vực các
anh? Ý kiến thứ hai của tôi mong các anh ghi nhận và anh Dũng
ghi vào biên bản để gửi sang Văn phòng Ban Bí thư: Tổ chức
chiếu công khai bộ phim này cho nhân dân xem, chiếu càng rộng
càng tốt, càng nhiều càng tốt! Chiếu ngay lập tức! Nếu sau
này phát hiện ra cái gì sai thì chỉnh sửa". Đoạn quay sang ông
Thuỷ, bác lại ân cần cầm tay ông: "Bác dặn riêng cháu điều
này: cháu phải nhớ, khi nào cần cháu phải gặp bác, tìm mọi
cách mà liên lạc với bác. Chỉ có cháu mới chủ động chứ
bác không thể chủ động liên lạc với cháu được".
Cũng nên nhớ lại rằng, vào thời gian đó, diễn ra Đại hội
Hội Nhà văn. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đến dự và
gửi lời chào đến các đại hội các hội văn học nghệ
thuật khác (do Bác không có điều kiện đến dự). Nhưng, phải
chăng do bức xúc trước cách đối xử của một số người
đối với bộ phim này như thế mà sáng sớm ngày 20.10.1983,
ngày khai mạc Đại hội Hội Điện ảnh toàn quốc lần thứ II
tại Cung Thiếu nhi, tức là chỉ 2 ngày sau khi bác xem phim "Hà
Nội trong mắt ai", bác đã bất ngờ đến dự Đại hội này.
Ngay từ phút đầu tiên, bác bước lên diễn đàn Đại hội
phát biểu với hơn 500 nghệ sĩ điện ảnh toàn quốc. Bài nói
chuyện không cần giấy tờ của bác kéo dài hơn 1 giờ đồng
hồ. Bác đã nói rất kỹ, rất mạnh mẽ, rất sâu sắc, về
cách thức quản lý, lãnh đạo văn nghệ: "Đừng bắt tất cả
các anh em văn nghệ sĩ hiện nay phải chui qua một cái lỗ kim,
theo một khuôn mẫu có sẵn!". Đến bây giờ, những ai có dịp
được tham dự Đại hội này hẳn đều còn nhớ hình ảnh
đầy ấn tượng, lạ lùng của bác khi bác quay người lại,
hướng về phía Chủ tịch đoàn Đại hội rồi chắp tay vái
lạy họ và nói rằng: "Tôi lạy các anh! Tôi xin các anh! Khi
duyệt phim thì cố gắng rộng lượng như tôi". Cả hội
trường lập tức vỡ oà bởi những tràng vỗ tay dài không
ngớt. Ai nấy đều hiểu Bác đang nói về điều gì. Với Trần
Văn Thuỷ, hôm ấy là một ngày hạnh phúc đến tột độ.
Không giấu nổi xúc động, ông bật khóc. "Một phần thưởng
tâm linh, vô cùng cao quý hơn bất kỳ phần thưởng nào khác
trong đời đã đến với tôi" - ông nói với tôi, nước mắt
giàn giụa.
Từ đó, bộ phim bắt đầu được công chiếu rộng khắp trong
tất cả các cơ quan, các câu lạc bộ, các hội đoàn... cho các
tầng lớp nhân dân xem. Hàng tuần liền, Rạp Tháng Tám và
nhiều rạp khác ở Hà Nội tổ chức chiếu phim này ba ca trong
một ngày thì trong cả ba ca chiếu, khán giả đã phải xếp
hàng dài chen chân mới mua được vé. Nếu ở Việt Nam có
ghi-net thì phải xếp bộ phim này vào hạng phim tài liệu "ăn
khách nhất" từ trước đến nay. Đây là một hiện tượng
khác thường vì cho đến lúc bấy giờ, phim tài liệu nước ta
mới chỉ được chiếu "chùa", chiếu "kèm" vào đầu các buổi
chiếu phim truyện, để tuyên truyền, cổ động. Tại Liên hoan
Phim quốc gia tổ chức tại Đà Nẵng tháng 3/1988, bộ phim đã
được bình chọn nhận giải Bông sen Vàng duy nhất thể loại
phim tài liệu. Ngoài ra tại đây, nó còn được bình chọn
giải phim biên kịch hay nhất, đạo diễn hay nhất, quay phim hay
nhất. Nhưng, có lẽ giải cao nhất, vinh dự nhất cho bộ phim
này là giải phim tài liệu được nhiều khán giả xem nhất.
Mới hay ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Phạm Văn Đồng
"cứu" bộ phim "Hà Nội trong mắt ai", "cứu" đạo diễn của
nó hồi ấy thật là sáng suốt và kịp thời. Và cũng từ đó
ông Thuỷ bắt đầu bớt dần được những giấc ngủ thắc
thỏm, những cơn ác mộng hằng đêm. Ngay sau hôm được gặp
Bác Phạm Văn Đồng, ông Thủy ra một hiệu sách ở Bờ Hồ mua
một tấm ảnh chân dung cỡ lớn của Thủ tướng Phạm Văn
Đồng cất giữ cẩn thận. Ngày Bác mất, ông lập một ban
thờ riêng, treo ảnh Người lên thờ và để tang Bác trọn ba
năm...
Nhưng chưa hết. Phải đến khi đồng chí Nguyễn Văn Linh lên
làm Tổng Bí thư, bộ phim và ông Thủy mới thực sự được
"cứu sống" hoàn toàn. Nhà Đạo diễn Trần Văn Thủy
được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân. Cũng nên lưu ý
một điều: nếu so với "Những việc cần làm ngay" hay
những gì mà Đảng và Nhà nước ta thực hiện "cải tổ",
"đổi mới", những sự kiện "bùng phát" ở Báo Văn
nghệ, "đời" Tổng Biên tập Nguyên Ngọc, như hàng loạt
bài viết về khoán 10, khoán 100, về cải cách ruộng đất, về
"Cái đêm hôm ấy đêm gì?"..., hoặc xa hơn nữa là sự
kiện văn chương tiểu thuyết "Cù lao Chàm" của Nguyễn
Mạnh Tuấn hoặc hàng loạt vở diễn chấn động dư luận của
Lưu Quang Vũ thì, về mốc thời gian, bộ phim "Hà Nội trong
mắt ai" "đi trước thời đại". Tiếp chuyện tôi, ông
Thủy cho hay: Có lần ông nhận được một lời đề nghị ông
viết đơn và làm hồ sơ để có thể được xét duyệt trao
tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về bộ phim này. Ông khước
từ lời đề nghị: "Tôi không bao giờ làm đơn vì việc
này!".
"Thưa các bác! Cháu nghĩ rằng nếu bộ phim này nó hay, được
các bác tán thưởng, được ai đó chia sẻ, bảo vệ như Bác
Phạm Văn Đồng thì cũng chẳng phải riêng tại cháu mà đấy
là những vấn đề lịch sử do tiền nhân để lại. Mà nếu
bộ phim này có làm ai đó bực mình, khó chịu, thậm chí phẫn
nộ thì lỗi cũng không phải tại cháu. Cái hay, cái dở căn
cứ vào lịch sử, cháu chỉ là người trình bày, sắp xếp
những điều có thật đó, may ra có ích gì đấy cho hiện thực
cuộc sống, xứng đáng với tiền nhân..." (trích bài nói
chuyện của Đạo diễn Trần Văn Thuỷ tại cuộc gặp mặt
với gần 1000 cụ cách mạng lão thành tại Câu lạc bộ Thăng
Long, Hà, Nội năm 1983).
Hà Nội, 12.2006
* Văn bản đã được Trần Văn Thủy và Nguyễn Xuân Diện
chỉnh sửa lại một số chữ ngày 11.1.2011.
Diện.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét