Chủ Nhật, 27 tháng 2, 2011

Đỗ Kim Thêm - Tìm hiểu về khái niệm Rule of Law của nước Anh

Từ sự suy sụp kinh tế mà Liên Xô đã quyết định táo bạo
đi theo con đường cải cách và những thành tựu của Perestroika
đã gây nhiều ấn tượng sâu xa và cũng là mô hình cho Việt
Nam tiến hành công cuộc Đổi Mới. Một trong những thay đổi
quan trọng của Perestroika là du nhập khái niệm nhà nước pháp
quyền (Rechtsstaatsbegriff) của Đức. Khái niệm này là
một học thuyết thuộc luật hiến pháp nhằm đề cao tính cách
tối thượng của luật pháp và hiến pháp mà chính nhà nước
cũng phải tuân thủ. Liên Xô đã vận dụng khái niệm này và
dịch thành Pravovoe gosudarstvo nhưng không cải biên.

Vì nhiều lý do khác nhau Việt Nam đã không trực tiếp học
tập kinh nghiệm của Đức, mà lại từ Liên Xô. Việt Nam hiện
nay vẫn kiên định tiếp tục theo đuổi con đường Xã Hội
Chủ Nghĩa (XHCN), mà trên lý thuyết là xây dựng nhà nước
chuyên chính vô sản do giai cấp công nhân lãnh đạo. Để đạt
mục tiêu này Việt Nam sẽ tiếp tục đập tan mọi thế lực
thù địch, bảo vệ thành quả cách mạng và phát huy nền dân
chủ nhân dân nhằm tổ chức, quản lý và phát triển nền kinh
tế thị trường theo định hướng XHCN. Do đó, pháp chế XHCN
vẫn còn là một công cụ để Đảng xây dựng nhà nước
chuyên chính vô sản. Trong chiều hướng vận dụng khái niệm
nhà nước pháp quyền, Việt Nam lại cải biên nó thành nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghiã
(NNPQXHCN), điều mà
Đức và Liên xô đều không có trong tư duy của họ. Đáng chú
ý hơn, khi giới thiệu khái niệm NNPQXHCN, Việt Nam đã mượn
thuật ngữ Rule of Law của Anh để diễn đạt, một khái
niệm được hình thành trong một bối cảnh văn hoá, lịch sử
và truyền thống luật pháp khác hẳn với Việt Nam hiện tại.
Tìm hiểu khái niệm Rule of Law và kinh nghiệm của Anh có thể
giúp gì cho Việt Nam trong nỗ lực cải cách luật pháp, đặc
biệt là luật hiến pháp, đó là chủ đề của bài viết này.

2. Thuật ngữ


Khó khăn đầu tiên là việc dịch khái niệm Rule of Law cho chính
xác trong tiếng Việt. Thật ra, các học giả ngoại quốc đều
không chú trọng vấn đề dịch thuật ngữ. Bằng chứng là các
sách giáo khoa Anh và Pháp ngữ đều giữ khái niệm Rechtsstaat
của Đức mà không dịch, cũng như sách của Đức không tìm
khái niệm tương đương cho Rule of Law của Anh hay État legal của
Pháp mà chỉ diễn giải để giúp người đọc nắm bắt vấn
đề. Vì thấm nhuần văn hoá Á Đông, người Việt rất quen
thuộc với khái niệm nhân trị, pháp trị và đức trị trong
xã hội quân chủ, mà lối diễn đạt này lại còn không thích
hợp trong một xã hội dân chủ, vì chữ 'trị' phải được
hiểu hoàn toàn khác biệt trong hoàn cảnh hiện nay. Về nguồn
gốc thì Rule of Law là một học thuyết trong luật học (legal
doctrine
), không phải là một quy định pháp luật (legal
rule
). Do đó, chúng ta có thể tạm dịch Rule of Law là
tinh thần thượng tôn pháp luật, vì luật pháp phải
được tất cả tôn trọng, dù là Đảng, nhà nuớc hay dân
chúng. Bài viết này, theo kinh nghiệm học giới phương Tây,
đề nghị giữ nguyên khái niệm Rule of Law để thảo luận nội
dung hơn là đi vào chi tiết của vấn đề thuật ngữ.

3. Truyền thống tôn trọng luật pháp


Albert Venn Dicey, nhà luật học Anh là người đầu tiên đã
giới thiệu và triển khai khái niệm Rule of Law trong tác phẩm
Introduction to the Study of the Law of Constitution of 1885. Trong
tác phẩm này ông đã mô tả hệ thống hiến pháp nước Anh và
đề ra những nguyên tắc chung của luật hiến pháp. Cho đến
nay học giới đã xem đây là tác phẩm kinh điển cho việc
nghiên cứu luật hiến pháp nói chung và học thuyết Rule of Law
nói riêng. Nói như thế không có nghĩa là xác định rằng Rule
of Law được hình thành vào thế kỷ XIX mà thật ra nó đã có
một lịch sử lâu đời. Do đó cần phải tìm xem khái niệm
này hình thành từ lúc nào.

Ý kiến thứ nhất của nhiều
học giả đều đồng ý rằng lịch sử về chủ thuyết hiến
định tại Anh (English constitutionalism) là khởi điểm cho
khái niệm Rule of Law. Dù là một khái niệm bất thành văn nhưng
nó đã được thể hiện qua các văn kiện luật pháp làm nền
tảng cho luật hiến pháp tại Anh. Các văn kiện này là Magna
Charta
, Petition of Rights, Bill of Rights
Habeas Corpus mà ở đây không thể đi vào chi tiết.

Nhìn lại lịch sử Anh thời xưa ai cũng công nhận Anh một xã
hội phân chia giai cấp rõ rệt và xung đột giai cấp là chuyện
hiển nhiên mà hoàng gia, quý tộc, tu sĩ và địa chủ là những
tầng lớp có nhiều ưu quyển. Đặc điểm chính này đã có
ngay từ thế kỷ XIII. Dù sống trong thể chế quân chủ các
học giả nhận ra đưọc vai trò của pháp luật làm nền tảng:
tự do và bình đẳng của người dân trước pháp luật và toà
án, tất cả đều bị ràng buộc bởi luật pháp, kể cả nhà
vua. Câu nói của Henry de Bracton là một bằng chứng luôn được
trưng dẫn: "Nhà vua không bị ràng buộc bởi dân chúng, mà
bởi thượng đế và luật pháp, chính vì luật pháp tạo ra nhà
vua
". Một ý tuởng khác của William Edward Hearn cũng có
nội dung tương tự. Ông nói: "Gió mưa có thể vào được mái
tranh của người dân nghèo, nhưng không hề vào đuợc thâm cung
của hoàng gia, nhưng bất kỳ ngưòi dân Anh nào, dù thường dân
hay quý tộc vẫn bị ràng buộc bởi pháp luật và bình đẳng
trước toà án". Niềm tin vào luật pháp cũng được Sir Edward
Coke minh chứng. Ông nói: "Luật pháp là một thâm cung kín
đáo nhất và cũng là một phòng thủ mạnh nhất để bảo vệ
nguời cô thế
". Đây là những ý niệm chính mà sau này
Ducey triển khai.

Nhưng sự biến đổi xã hội từ thế kỷ XVII đã làm thay
đổi nhiều mối quan hệ trước đây, đặc biệt khi giai cấp
thương nhân ra đời, họ trở nên giàu có và bắt đầu muốn
có thế lực. Những cải cách pháp lý đã giúp cho giới này có
tiếng nói mạnh hơn chống lại địa chủ và các giai cấp
khác, mà quyền tư hữu, quyền chuyển nhượng tài sản, quyền
thừa kế và tự do kết ước là những thành tựu lớn nhất
trong thời kỳ này. Những pháp luật bảo vệ người dân
trước tòa án được hình thành rõ rệt. Người dân Anh dù
bất kỳ thành phần giai cấp nào cũng được luật pháp bảo
vệ. Các sử gia hãnh diện cho rằng nước Anh là một vương
quốc của luật pháp và công bình. Từ đó khái niệm Rule of Law
ra đời trong khuôn khổ của một nền tự do kiểu nước Anh
(the liberty of the English). Sự hãnh diện này có lý do
của nó. Các học giả đã chứng minh rằng từ thế kỷ XVII
nước Anh hầu như không còn có việc tra tấn trong các cuộc
điều tra hình sự và hệ thống tòa án hoàn toàn độc lập
với cơ quan hành pháp. Nguyên tắc phân quyền này đã giới
hạn sự chuyên quyền của cơ quan hành pháp. Đáng kể nhất là
niềm tin của dân chúng vào các hoạt động của tòa án,
người dân Anh tự hào được sinh ra trong môi trường tự do,
mà hai quyền cơ bản lúc bây giờ là tự do lập hội và tự do
báo chí. Còn tự do tôn giáo thực ra chỉ có mức độ giới
hạn.

Đến thế kỷ XVIII thì khái niệm Rule of Law đã phổ biến khi
hệ thống luật pháp của Anh đã đi vào nề nếp, nhất là khi
hệ thống chính quyền dựa vào chủ thuyết hiến định làm cơ
sở nhắm vào việc bảo vệ quyền lợi người dân, một khởi
điểm cho sự phát triển dân chủ theo mô hình của phương Tây.
Những người tranh đấu chống lại bất công giai cấp trong xã
hội, những người bất đồng quan điểm về tôn giáo hay chính
trị đều có quyền sử dụng những quyền tranh đấu của
mình, quyền này được bảo đảm trong khuôn khổ luật hiến
pháp.

Ý kiến thứ hai của các nhiều
học giả cho rằng chính yếu tố văn hoá vào thế kỷ XVIII là
thành tố quan trọng giúp cho khái niệm Rule of Law được phát
triển và ý thức về vai trò luật pháp làm nền tảng cho việc
tổ chức xã hội. Từ đó, luật pháp trở thành một giá trị
có một sức mạnh vô hình đặc biệt, dĩ nhiên nó không phải
là sức mạnh như quân đội, không cần dựa vào huyền thoại
của tôn giáo, không nhờ sự cưỡng chế về kinh tế, mà chính
tinh thần tìm hiểu về công lý và yêu chuộng hoà bình làm căn
bản cho tinh thần thượng tôn pháp luật. Một hãnh diện khác
mà luật giới Anh luôn đề cập khi bàn về Rule of Law là vai
trò của bộ hình luật. Hình luật Anh rất hữu hiệu nên giúp
cho xã hội Anh ổn định mà không cần đến cảnh sát hay quân
đội để lo chuyện trị an. So với các quốc gia khác tại châu
Âu trong cùng thời kỳ, thì bộ hình luật của Anh là một mẫu
mực, đặc biệt là về phần luật thủ tục tố tụng. Thí
dụ như nước Pháp lúc bấy giờ vẫn có chế độ mật chỉ
(lettre de cachet), có nghĩa là bắt người không theo thủ
tục và giam người vô thời hạn mà không cần quy kết một
tội danh nào. Nói như thế không có nghĩa là hình luật tại Anh
rất khoan dung, mà phải hiểu là những tiêu chuẩn quy định
về thủ tục cũng như kết án khá rõ rệt ngăn ngừa được
mọi sự chuyên đoán của cơ quan hành pháp hay những quyết
định quá nghiêm khắc của tòa án. Nó đem đến một niềm tin
cho người dân một cảm tưởng về sự an toàn pháp lý.

Lịch sử cho thấy nước Anh không phải là đất nước luôn có
sự đồng thuận đầy lý tưởng mà sự tranh chấp quyền lợi
theo giai cấp đã gây ra bao xung đột thường xuyên trong xã
hội. Hoàng gia, quốc hội hay địa chủ luôn tìm cách bảo vệ
quyền lợi của giai cấp mình thông qua việc áp dụng luật
pháp. Trong khi nghiên cứu cách giải quyết tranh chấp trong xã
hội các học giả đều cho rằng luật pháp chưa hề bị bẻ
gẫy để phục vụ cho bất kỳ một giai cấp nào trong suốt
thời kỳ từ thế kỷ XVI đến XVIII. Chính luật pháp đã bảo
vệ tài sản của người dân tránh được sự lạm quyền của
hoàng gia và sự kiêu căng của giới quý tộc.

Dĩ nhiên, không phải bất cứ lúc nào luật pháp cũng đem lại
công bình tuyệt đối, nhưng ít nhất sự công bình trong mọi
thủ tục pháp lý cũng đem đến cảm tưởng là người dân
không bị coi là nạn nhân của bạo quyền. Giai cấp thống trị
và đặc quyền đặc lợi trong xã hội thường tìm cách hợp
pháp hoá các quyền lợi của mình và tìm cách ngăn ngừa những
thế lực khác phân chia việc sử dụng những ưu quyền này.
Nhưng luật pháp đem lại một giá trị mới cho mọi ngưòi dân
Anh là họ có thể hãnh diện nói rằng mình có quyền hưởng
tự do từ thuở lọt lòng (right of free borm Englishman).
Edward P. Thompson đã nhắc lại ý niệm này khi cho rằng nhà cầm
quyền, dù muốn hay không, khi tham gia vào trò chơi quyền lực,
cho dù họ cố giữ sao cho luật pháp phù hợp với quyền lợi
của giai cấp của họ, nhưng điều quan trọng là họ không
thể bẻ gẫy luật pháp hay hủy bỏ luật chơi. Sir Edward Coke
cũng diễn đạt tương tự khi ông nói rằng không phải chỉ có
gia cấp thống trị sử dụng luật pháp nhằm ngăn chống mọi
thứ hành sử bạo lực, (thí dụ như giam ngưòi vô cớ, sử
dụng quân đội để trấn áp đám đông, tra tấn và các
phương tiện bất công khác), mà chính luật pháp tự nó, trong
chừng mực nào đó, là phương cách để giải quyết các vấn
đề xung đột giai cấp.

Thực tế cho thấy luật pháp của Anh qua hệ thống common law
được hình thành là do cả một quá trình dài của lịch sử.
Với hệ thống án lệ chặt chẽ và những luận giải phân
minh, khó mà bất cứ ai, nhân danh bất kỳ lý do gì, để có
thể phá huỷ luật pháp một cách dễ dàng. Tranh chấp về
luật đất đai hay luật bảo vệ tài sản là một thí dụ.
Trước đây luật bảo vệ tài sản không quy định chặt chẻ,
định nghĩa không rõ ràng, sau này đã được sửa đổi phù
hợp và đưa vào áp dụng. Các tranh chấp luật pháp đều dựa
trên những luật pháp thành văn do quốc hội thông qua và luật
phong tục được chuẩn nhận. Do đó, mọi tranh chấp luật pháp
trước tòa án đều được thủ tục hoá rất cao độ, dĩ
nhiên phí tổn cho thủ tục toà án trở nên quá đắt và vấn
đề thủ tục hợp pháp trước toà án chính là điều khó khăn
chủ yếu. Tranh tụng về quyền sở hữu đất đai đôi khi lại
trở thành vấn đề tranh chấp thuần về luật thủ tục
trước tòa án.

Ý kiến thứ ba giải thích rằng chính Rule of Law đã đóng một
vai trò quan trọng trong việc hoà nhập các giai cấp trong xã
hội Anh và giúp dân Anh thoát ra các cuộc khủng hoảng sau khi
cách mạng Pháp thành công. Điển hình là sư xung đột xã hội
vào đầu thế kỷ XIX. Bất công xã hội lan rộng, giai cấp
thống trị đã có ý định hủy bỏ khái niệm Rule of Law và
thay đổi hiến pháp nhắm áp đặt một cơ chế cai trị chuyên
quyền bằng bạo lực. Họ đã bắt đầu đi theo chiều hướng
này. Nhưng cuối cùng họ đành phải từ bỏ ý định mà trở
về con đưòng hợp pháp vì thấy rằng không thể làm tiêu tan
uy tín của chính quyền và làm lu mờ hình ảnh chính danh của
luật pháp đã hình thành trong quá khứ. Cải cách về bầu cử
và mở rộng việc thăm dò dư luận vào năm 1832 đã làm cho
thanh danh của pháp luật và uy tín của nhà nước được hồi
sinh. Chính luật cải cách năm 1832 đã đem lại giá trị cho
luật pháp vì đó là một phương tiện nhằm giới hạn mọi
xung đột chính trị và xã hội, và đặc biệt hệ thống tư
pháp được củng cố.

Tóm lại, Rule of Law la một thành tựu về văn hoá và lich sử
trong cả một quá trình dài trên 300 năm mà kết quả là tất
cả moị tranh chấp quyền lợi của mọi tầng lớp hoàng gia,
quý tộc, địa chủ, tá điền, công đoàn và thương giới
đều được giải quyết bằng phương tiện luật pháp. Luật
pháp là một sân chơi bình đẳng mà chính ngưòi cô thế trong
xã hội cũng chấp nhận (fair play in the Rule of Law).

4. Nội dung học thuyết Rule of Law của Dicey


Dù Rule of Law là một khái niệm được hình thành và chấp
nhận trong xã hội Anh qua chiều dài của lịch sử nhưng mãi
đến cuối thế kỷ XIX vẫn chưa có một học giả nào đưa ra
một ý nghĩa chính xác về Rule of Law. Thực tế thì cũng chưa
có ai xác định tầm quan trọng của chủ thuyết hiến định
tại Anh và đặt vấn đề tìm hiểu tại sao hệ thống luật
tại Anh có khả năng duy trì được trật tự công cộng và
quyền tự do cá nhân trong xã hội. Dicey chính là người đầu
tiên làm công việc này trong tác phẩm Introduction to the Study
of the Law of the Constitution of 1885
. Đây là một công trình mà
giá trị của nó cho mãi đến nay không nhà nghiên cứu nào có
thể vượt qua và vẫn luôn là một đề tài được học giới
đem ra để thảo luận.

Những luận điểm của Dicey đề ra đã chịu nhiều ảnh
hưởng tư tưởng của John Austin. John Austin cho rằng để nhà
nước được tiếp tục duy trì, nhà nước cần có một cơ quan
tối thượng mà quyền lực khó có thể định nghĩa trước
một cách chính xác và không thể nào giới hạn được. Khái
niệm này được chấp nhận dễ dàng trong công luận, bởi vì
nội dung khái niệm quyền tối thượng này chỉ hầu như lập
lại những nguyên tắc hợp hiến đã có trước đây. Một trong
những thành tựu xuất sắc của Dicey là tổng hợp và diễn
đạt lại những ý tưởng của John Austin và luận cương chính
trị của đảng Tự Do (Whig). Dicey cho rằng chính Rule of Law và
quyền tối thượng của quốc hội làm nguyên tắc nền tảng
của hiến pháp Anh. Tổng hợp hai luận điểm này, Dicey cho là
khái niệm Rule of Law không có khả năng giới hạn quyền lực
của toàn bộ guồng máy nhà nước mà chỉ giới hạn quyền
lực của chính phủ. Lập luận này cho thấy khái niệm Rule of
Law của Dicey rất gần với khái niệm Rechtsstaat của Đức,
cũng được hình thành trong cùng thời kỳ. Rule of Law được coi
như là một mô hình tốt đẹp nhất nhằm bảo vệ người dân
chống lại những hành vi chuyên đoán của nhà nước. Nội dung
của Rule of Law mà Dicey đề ra có thể được tóm lược qua
những nguyên tắc cơ bản như sau:

Nguyên tắc thứ nhất là quyền tối thượng của
quốc hội
được ông trình bày trong phần đầu
trong tác phẩm. Quốc hội có thể làm luật hay hủy bỏ luật,
không một cơ quan hay một cá nhân nào có quyền bỏ thẩm
quyền này của quốc hội. Thẩm quyền của quốc hội là
tuyệt đối, vì mọi thay đổi thì chỉ gây hậu quả là làm
cho quyền này trở nên tương đối mà thôi. Chính tòa án cũng
phải tôn trọng nguyên tắc này. Ý tưởng này rất gần gũi
với luận thuyết của John Austin. Trong khi đó, tại các quốc
gia khác ở châu Âu lại có khuynh hướng chia luật ra làm hai
loại: luật hiến pháp làm nền tảng và các loại luật khác.
Ông cho rằng sự phân biệt này chỉ dựa trên tiêu chuẩn hình
thức hoặc thủ tục lập pháp. Luật hiến pháp tại Anh không
hề đi sâu vào việc phân biệt quyền này. Nhưng ông lại phân
biệt quyền tối thượng của quốc hội là thuộc về luật
pháp chứ không liên hệ tới quyền tối thượng về chính
trị, vì quyền chính trị thuộc về lãnh vực bầu cử mà nhà
lập pháp hoàn toàn lệ thuộc vào việc kiểm soát chính trị
qua các cuộc bầu cử.

Nguyên tắc thứ hai là quyền tự do của cá nhân
phải là một quyền hiến định
, một quyền mà ông
cho là nội dung chính của khái niệm Rule of Law. Thật ra trước
đây tự do cá nhân cũng đã được quy định trong các văn bản
khác thí dụ như Habeas Corpus Writs. Nhưng trong tác phẩm
này, ông thảo luận khá chi tiết trong phần tự do hội họp,
tư do ngôn luận và xác nhận tính cách tối thượng của Rule
of Law làm nền tảng cho trật tự hiến định của Anh. Theo ông,
quyền tự do cá nhân có ba khía cạnh chủ yếu:

Khía cạnh thứ nhất là tinh cách
hợp pháp của mọi hành vi, nghĩa là không ai có thể bị trừng
phạt nếu không phạm pháp. Việc phạm pháp phải được tòa
án điều tra và kết án theo đúng thủ tục. Nguyên tắc này
nhằm tránh mọi sự lạm quyền và chuyên đoán không dựa trên
cơ sở pháp luật của cơ quan chấp pháp. Chính sự công nhận
chủ thuyết tự do và đưa chủ thuyết này vào làm nội dung
của hiến pháp là một đóng góp quan trọng của ông. Rule of Law
trở thành một nguyên tắc lập pháp, mà ý chính là mọi hành
vi của chính phủ nhằm giới hạn vào quyền tự do cá nhân và
tài sản đều phải dựa trên luật hiến pháp.

Khía cạnh thứ hai đề cao nguyên
tắc bình đẳng trước tòa án. Luật pháp được áp dụng cho
tất cả mọi người không phân biệt thành phần, giai cấp hay
trình độ. Đây là nguyên tắc đồng nhất dành cho mọi chủ
thể pháp luật. Ông chú ý đến vai trò của tòa án trong xét
xử. Khi đề cao Rule of Law như là một đặc điểm của Anh, thì
không phải chỉ có ý là không một ai có quyền đứng trên
luật pháp mà phải hiểu rằng bất kỳ người dân nào, bất
kể là thành phần nào trong xã hội, đều bị ràng buộc bởi
pháp luật và chịu sự xét xử của tòa án trong thẩm quyền
luật định. Thật ra, qua đề xuất này ông đã gián tiếp chỉ
trích về sự lạm quyền của các công chức trong việc áp
dụng luật hành chánh. Chính nguyên tắc bình đẳng trước pháp
luật tạo khả năng loại trừ mọi tham quyền cố vị, không
tôn trọng luật pháp, đặc biệt là những ngoại lệ trong
luật hành chánh. Ông lấy luật hành chánh của Pháp làm thí
dụ. Luật này đã tạo quá nhiều ngoại lệ khiến cho các công
chức dễ lạm quyền, khi có vấn đề thì họ chỉ chịu trách
nhiệm trước toà án hành chánh và thoát ra khỏi được sự
kiểm soát của hệ thống pháp luật chung. Ông cho rằng không
nên cho các công chức quá nhiều ưu quyền được miễn truy
cứu trách nhiệm khi so với người dân khác. Dĩ nhiên, đây là
một đề tài tranh luận về sự khác biệt nội dung luật hành
chánh tại Pháp và Anh. Nhưng với nguyên tắc bình đẳng trước
pháp luật theo khái niệm Rule of Law của Anh thì người dân Anh,
theo ông, sẽ được hưởng nhiều an toàn về mặt pháp lý hơn
người dân Pháp. Ông cho rằng câu nói toà án là cơ quan tối
thượng cho cả nước không thể áp dụng cho trường hợp của
Pháp.

Khía cạnh thứ ba là nguyên tắc
quyền tự do người dân phải được toà án bảo vệ. Sự bảo
vệ này không phải bắt nguồn từ hiến pháp mà còn qua các án
lệ tòa án. Đây là một sư kiện lịch sử, nó biểu hiện
một truyền thống đặc thù về commom law và hiến pháp Anh.
Một câu nói khá quen thuộc và luôn luôn được lập lại để
mô tả đặc tính hiến pháp của Anh: "Hiến pháp không được
làm sẵn mà hình thành do sự phát triển". Ông đả phá quan
điểm cho rằng chính phủ nước Anh là một sự phát sinh đột
biến trong xã hội đầy xung đột mà thật ra là sự phát
triển tiệm tiến qua ý chí và năng lực của con nguời. Pháp
luật là một sản phẩm của ý chí của con người, không
giống như cây cỏ chỉ vun trồng và tự nó lớn lên. Ý ông
muốn nói giá trị của luật hiến pháp không thể phát triển
tự nhiên, mơ hồ và không định hướng mà chính vai trò án
lệ giúp cho tự do của người dân Anh được bảo vệ. Thành
quả này phải kể đến sự góp sức của tòa án. Nếu quan
điểm bảo vệ tự do này được hiến pháp các quốc gia châu
Âu đề ra như một nguyên tắc, thì tại Anh, theo ông, ngược
lại, chính là một phương thức thực hành, một hệ quả của
quyền tự do cá nhân được tòa án minh thị và áp dụng.
Phương cách áp dụng này cho thấy rằng không nên xem hiến pháp
Anh là một sự đột biến đầy sáng tạo mà là kết quả của
một hoạt động bình thường trong toà án thông qua án lệ.

Dicey lạc quan cho rằng các án lệ đều hoàn hảo và hiến pháp
Anh sẽ diễn biến tốt đẹp trong chiều hướng này. Để minh
chứng, ông nêu lên sự khác biệt về nguồn gốc của hiến
pháp Anh và các quốc gia châu Âu. Khác hẳn với châu Âu, toà
án tại Anh đã một thành tố quan trọng trong tiến trình lập
pháp, chính toà án là nơi chuẩn nhận những quyền căn bản
của người dân trong trong hệ thống common law. Dĩ nhiên, quốc
hội và tòa án, với chức năng khác nhau, đều có đóng góp
của riêng mình trong sự phát triển này. Học giới châu Âu
thường chỉ trích điểm yếu của hiến pháp Anh là không thành
văn bản, nên về mặt hình thức thì những quyền tự do cá
nhân không được coi là do hiến pháp quy định. Dicey lập luận
rằng sự chì trích này thiếu cơ sở. Thật ra, sự bảo vệ
quyền căn bản của người dân, dù không minh thị qua một văn
kiện cao nhất là hiện pháp, đã được tổng quát hoá qua
những quyết định của toà án. Sự khác biệt này, theo ông,
chỉ là về mặt nguồn gốc lập pháp và hình thức mà thôi,
nhưng trên thực tế cho thấy thì sự hữu hiệu về bảo vệ
quyền của người dân, dù ở Anh hay ở các nước khác tại
châu Âu, đều giống nhau. Giá trị của những nguyên tắc hiến
định, theo ông, không phải chỉ là những tuyên bố long trọng,
mà là kết quả từ sự thực hành trong toà án. Không có hiến
pháp thành văn không có nghĩa là người dân Anh sẽ gặp khó
khăn hơn trong việc bảo vệ quyền của mình.

Mối quan hệ giữa việc bảo vệ quyền cá nhân và hiến pháp
tại Anh hoàn toàn khác biệt với các quốc gia châu Au, vì tại
Anh, quy định quyền tự do bởi nhiều văn kiện khác nhau, thí
dụ như Habeas Corpus và hệ thống án lệ. Hầu hết hiến pháp
các quốc gia châu Âu chú trọng việc định nghĩa quyền cá
nhân và quan tâm nhu cầu bảo vệ quyền này, trong khi toà án Anh
đề ra một khuôn khổ để áp dụng các quyền này theo hệ
thống hiến định. Hiến pháp các nước trong châu Âu quy định
quyền cá nhân trong hiến pháp, nhưng sự thực ra chỉ là một
sự diễn dịch từ nguyên tắc chung trong hiến pháp, mà khi cần
thiết phải thay đổi hiến pháp thì lại rất khó khăn, vì còn
có vai trò của quốc hội trong việc tu chỉnh. Lịch sử chứng
minh rằng tại Anh quyền tự do cá nhân được đảm bảo tốt
hơn nếu so với các quốc gia châu Âu vì lẽ toà án Anh với
hệ thống án lệ nghiêm minh đã bảo vệ chặt chẽ các quyền
này. Do đó, tất cả vấn đề bảo vệ quyền căn bản hiến
định đều giống nhau. Ở Anh quyền tự do cá nhân đưọc công
luận và học giới cảm nhận là một phần trong luật thông
thường hơn là luật hiến pháp. Dicey xác nhận hiến pháp
được quy định trên nền tảng của Rule of Law và quyền tối
thượng của quốc hội. Do đó, việc tạo thành hay hủy bỏ
luật hiến pháp không phải là kết quả của một thành quả
cách mạng.

5. Những phản biện về học thuyết của Dicey


Học thuyết của Dicey đã gây được tiếng vang trong học
giới, nhưng không có nghĩa là đã được sự đồng thuận, mà
ngược lại, gây ra nhiều tranh luận.

Một trong những người phản bác đầu tiên phải kể đến là
August Friedrick von Hyek. Ông cho rằng không hề có sự phù hợp
giữa hai khái niệm Rule of Law và quyền tối thượng của quốc
hội như Dicey giải thích vì lịch sử của chủ thuyết hiến
định cũng như lịch sử về chủ thuyết tự do là cả một
cuộc đấu tranh chống quyền tối thượng và nhà nước toàn
năng. Do đó, nên đặt ra một giới hạn thẩm quyền của quốc
hội, nếu không, thì quyền hạn và tự do của ngưòi dân dù
thông qua hệ thống common law cũng có thể bị quốc hội hủy
diệt trong một sớm một chiều.

Georffrey De Q. Walker cho rằng quyền tối thượng của quốc hội
cũng không phải là một trong những nguyên tắc chính của hiến
pháp Anh. Dicey đem lại nhiều mơ hồ trong học thuyết hơn là
khai sáng vấn đề vì không thể giảm bớt nội dung của Rule of
Law vào việc luật pháp chỉ là chuyện chấp nhận luật (rule of
recognition). Khi giải thích Rule of Law, Dicey đề cao vai trò của
quốc hội và coi quốc hội như là nguồn gốc tối hậu của
mọi quyền hành và thoát khỏi những cưỡng chế về mặt
luật pháp. Nếu theo chiều hướng giải thích này, mọi luật
lệ khác đều mất đi ít nhiều giá trị. Khi cho rằng mọi
hành vi của quốc hội hầu như luôn luôn được tòa án chuẩn
nhận là đúng, điều này nên nghi ngờ. Dicey không hề cứu xét
đến những hậu quả pháp lý hay những uớc vọng chính đáng
của cá nhân. Theo luận điểm này, Dicey đã đề cao quá mức
quyền tối thượng của quốc hội, đồng thời làm suy yếu
việc bảo vệ quyền cá nhân.

Có học giả khác lại phê bình việc kết hợp hai nguyên tắc
Rule of Law và quyền tối thượng của quốc hội là một sai
lầm vì lẽ không những gây sự tương phản trong áp dụng, gây
tác hại cho toàn bộ mô hình hiến pháp, mà còn làm cho luật
hiến pháp Anh không còn là nền tảng chắc chắn. Ý kiến phản
biện quy vào điểm chủ yếu là việc Dicey chỉ dựa vào luận
thuyết của Austin để triển khai. Một mặt, Dicey cổ vũ cho
quốc hội được quyền tối thượng trong sinh hoạt lập pháp,
mặt khác, Dicey lại muốn đấu tranh cho tự do cá nhân thoát
bỏ mọi chuyên chế theo mô hình của Hobbes. Tác phẩm của Dicey
nên được coi như là một khởi thảo cho một mô hình của
luật hiến pháp và Rule of Law chỉ là một khuôn mẫu chỉ có
giá trị nội tại giá trị được định hình và phát triển
trong hệ thống của common law. Do đó, Rule of Law, tự nó, chỉ
là một khâu hiệu vô nghĩa, và nội dung của nó cũng chỉ là
một trong những đặc điểm của luật hiến pháp.

Ý kiến khác lại cho rằng luận thuyết của Diecey chỉ là một
sản phẩm phản ánh những suy nghĩ trong bối cảnh văn hoá và
chính trị lúc bây giờ. Lý do thứ nhất để giải thích là
vào cuối thế kỷ XIX những xung đột trong hệ thống common law
và luận thuyết Austin đang ở thời kỳ cao điểm, mà Austin
chỉ chú trọng vào những hoạt động lập pháp. Lý do thứ hai
là một phần thuyết này lại bắt nguồn từ luận cương của
Đảng Whig đang thắng cử từ năm 1866 cho đến 1884, hiển nhiên
việc thắng cử làm vai trò của quốc hội được nâng cao. Tác
phẩm của Dicey, xuất phát từ trong bối cảnh đó, đã trở
thành một tiêu chuẩn để giải thích cho mô hình hiến pháp cho
mãi đến sau khi đệ nhị thế chiến.

6. Những biện luận bảo vệ của Dicey


Hiển nhiên, Dicey rất hãnh diện truyền thống luật pháp Anh
trên hai bình diện lý thuyết và lịch sử, điều này có thể
hiểu được khi ông đánh giá về sự phát triển luật hiến
pháp Anh. Để trả lời những phản biện, Dicey cho rằng mối
quan hệ giữa Rule of Law và quyền tối thượng của quốc hội
không phải là mối quan hệ tự động mà chỉ hình thành và
phát triển được ở Anh mà thôi. Ông lấy mô hình hiến pháp
của Pháp để so sánh. Quốc hội Pháp và quốc hội Anh, về cơ
bản thì giống nhau về quyền lực, nhưng khi hành sử thì quốc
hội Pháp đã biểu thị một tinh thần hoàn toàn khác biệt.
Quốc hội Pháp, nói chung, có khuynh hướng can thiệp quá nhiều
vào các vào các hoạt động hành chánh và không tin về sự
độc lập của tư pháp. Mặt khác, quốc hội Pháp cũng nới tay
để cho hành pháp trong việc cai trị. Ngoài ra, còn có sự khác
biệt về thái độ của quốc hội Anh và Pháp trong mối quan
hệ với công chức hành chánh. Công chức Anh mang tinh thần
phục vụ hoàng gia nhiều hơn, cho dù quyền lực của quốc hội
có tăng lên trong thực tế. Tinh thần phục vụ hoàng gia cũng
một phần là do là một truyền thống lịch sử và một phần
vì giới công chức Anh cũng luôn có nghi ngờ đối với quốc
hội. Dù ở cương vị quyền tối thượng, quốc hội Anh không
can thiệp trực tiếp vào việc áp dụng luật pháp và không
chủ trương cho các công chức hành chánh có quá nhiều quyền
bãi miễn truy cứu khi ra toà án. Điều này thì Anh trái hẳn
với Pháp.

Mối quan hệ giữa hoàng gia, quốc hội, chính quyền và tư pháp
tại Anh không luôn luôn tốt đẹp mà là các xung đột và các
thỏa hiệp, mà việc toà án và quốc hội liên minh để chống
lại hoàng gia là một chứng minh. Việc này thường xảy ra, mà
căng thẳng nhất là vào thế kỷ XVII và cao điểm nhất từ
thế kỷ XVIII trở đi, liên hiệp quốc hội và tòa án đã
thắng thế và có nhiều thuận lợi hơn trong việc định hình
cho luật pháp. Dicey cho rằng chính những biến cố này cho thấy
quốc hội có khuynh hướng bảo vệ sự độc lập của toà án,
trong khi đó hoàng gia lại nỗ lực bảo đảm phương tiện cho
hành pháp thi hành nhiệm vụ của họ. Diễn biến của tình
hình này khiến cho quốc hội, dù có vai trò tối thượng, nhưng
chỉ có thể hành sử được quyền này khi liên minh được
với tòa án. Mối quan hệ này trở thành lịch sử và định
hình cho khái niệm của Rule of Law như ông đã đề cập.

Một điểm khác gây tranh luận là sự so sánh giữa Rule of Law
và nguyên tắc hợp pháp. Dicey trả lời rằng Rule of Law không
thể bảo đảm tuyệt đối các quyền cơ bản của ngưòi dân
mà chỉ tìm cách nhằm chống lại sự lạm quyền của chính
quyền. Khi so sánh các quốc gia châu Âu trong thế kỷ XVII, Dicey
cho rằng nhìn chung các nước không hề có đàn áp một cách
thô bạo, nhưng thực tế cho thấy không có nước nào có thể
bảo vệ người dân một cách hoàn hảo trước bạo quyền.
Nhưng ở nước Anh thì việc cai trị không xuất phát từ sự
thành tâm cố hữu của chính quyền mà là từ nguyên tắc hợp
pháp của luật pháp. Rule of Law không trực tiếp đem lại một
định nghĩa chính xác nào cho quyền tự do của người dân mà
chỉ nhằm giới hạn vào mục tiêu bảo đảm về những an toàn
của luật pháp và những tiên đoán về hành vi của chính
quyền. Tự do được bảo đảm trong khuôn khổ của Rule of Law
chỉ là một loại tự do còn sót lại trong hệ thống: tự do
làm những gì mà luật pháp không cấm. Rule of Law không dựa vào
các tuyên bố long trọng nhằm bảo vệ quyền cơ bản cho
người dân mà căn cứ vào nguyên tắc hợp pháp. Trong khi quốc
hội có thể hủy bỏ các quyền cơ bản của người dân
được quy định trong hiến pháp khi cần, thì chính Rule of Law
với nguyên tắc hợp pháp sẽ chống lại sự lạm quyền của
hành pháp, cho dù Rule of Law không thể bảo đảm tự do tuyệt
đối cho người dân trong việc hành xử các tự do của họ.
Theo ông, đấy chính là một nguyên tắc mà mọi can thiệp vào
đời sống, tự do và tài sản phải được cho phép bởi luật
pháp.

Dicey cho rằng quốc hội làm luật chỉ là việc để đưa ra
các ý chí chung của nhà lập pháp, nhưng khi giải quyết vấn
đề tranh chấp thì chủ yếu phải là việc nâng cao vai trò
của tư pháp. Việc hiến pháp có nên giới hạn quyền của
quốc hội hay không, ông không coi đó là điều quá quan trọng,
mà theo ông, mỗi khi luật được ban hành đều phải được cơ
quan hành chánh áp dụng đúng đắn và được cơ quan tư pháp
theo dõi. Những nguyên tắc cơ bản của hiến pháp Anh không
chỉ là quyền tối thượng của quốc hội mà chính là làm sao
mà khi luật ban hành được toà án áp dụng theo đúng như quy
định. Rule of Law và quyền tối thượng của quốc hội không
có khả năng loại trừ nhau mà có ảnh hưởng cộng sinh.Trong
tinh thần này, pháp luật sẽ được duy trì và phát triển.

Dicey còn đề cao vai trò của tòa án trong việc điển chế hoá
hệ thống án lệ, chính toà án là một thành lũy bảo vệ tự
do cá nhân. Toà án không thể hủy diệt luật của quốc hội,
mà trong thực tế toà sẽ áp dụng nghiêm nhặt hay thông thoáng
hơn khi cần thiết. Chính tòa án là nơi bảo vệ quyền căn
bản của người dân được hữu hiệu nhất. Đó là ý chính
của Dicey để minh chứng rằng hai nguyên tăc quyền tối
thượng của quốc hội và vai trò tòa án bổ sung cho nhau trong
việc bảo vệ người dân.

Sự thành công của Dicey trong tác phẩm này là một sư tổng
hợp giữa hai khuynh hướng về hệ thống common law và truyền
thống của chủ nghĩa tự do, làm hồi sinh lại huyền thoại
về common law, những giá trị luật pháp cổ truyền khác và các
căn bản giá trị của chủ thuyết tự do. Trong khuôn khổ giải
thích này, Dicey khẳng định rằng sự vi phạm những quyền
hiến định có thể xảy tại nước Anh, nhưng không thể xáo
trộn đến mức độ đưa tới một cuộc cách mạng triệt để
làm thay đổi toàn bộ hệ thống luật pháp.

Dicey đã lấy việc áp dụng luật Habeas Corpus luận giải vấn
đề này. Luật Habeas Corpus được ban hành lần đầu tiên vào
thời của Charles II, nhằm bảo vệ những ngưòi bị bắt giam
vô cớ. Luật này đưọc tu chỉnh dưới thời George III và nới
rộng hơn việc bảo vệ liên quan đến thủ tục tố tụng hình
sự. Tòa án có quyền yêu cầu cơ quan chấp pháp làm rõ việc
giam người và làm nhanh thủ tục xét xử. Dicey cho rằng việc
áp dụng luật Hebeas Corpus của toà án đã tăng giá trị cho
luật hiến pháp hơn là quốc hội. Nhưng thực tế cho thấy
đây là điều không dễ dàng. Trong thời kỳ hỗn loạn chánh
trị, việc bắt người nghi ngờ phạm pháp của cơ quan chấp
pháp tăng nhanh. Việc sốt sắng này gây cho toà án nhiều ngờ
vực nên đã áp dụng luật chặt chẽ hơn. Tranh chấp đã xảy
ra đến mức quốc hội phải can thiệp bằng cách ra luật đình
chỉ việc thi hành luật Habeas Corpus để giúp cho chính quyền
làm tốt hơn việc trị an, nhất là liên hệ tới các vụ việc
vi phạm an ninh, phản quốc ở mức trầm trọng. Vấn đề là
tìm cách giải thích thế nào là tính cách khẩn cấp và gây
nguy hại cho an ninh quốc gia, trong chừng mực nào thì quyền an
toàn của người dân phải được bảo vệ. Đây cũng là một
đề tài tranh luận quen thuộc trong học giới mà ở bất cứ
nuớc nào cũng có. Việc đình chỉ thi hành luật không được
phép hiểu là hợp pháp hoá mọi hành vi bắt người trái phép,
nhưng giới hạn việc can thiệp của toà án trong thời kỳ
biến động và đem lại niềm tin cho các cơ quan chấp pháp trong
khi thi hành công vụ, nhưng lại cho thấy đây chính là sự
biểu hiện quyền tối thượng của quốc hội.

Theo Dicey, quốc hội có quyền theo dõi các hoạt động của tòa
án, nếu không, thì quyền tối thượng của quốc hội sẽ
không còn ý nghĩa. Khi quốc hội ra các đạo luật đình chỉ
thi hành luật Habeas Corp thì cũng phải theo đúng thủ tục pháp
định. Việc đình chỉ không phải là những bảo vệ hiến
định về quyền công dân trong các thủ tục về tố tục hình
sự hoàn toàn vô giá trị, mà thực tế toà án vẫn tiếp tục
bảo vệ an toàn cho ngưòi dân trong các thủ tục xét xử và
chỉ làm giảm đi những hậu quả về mặt bảo vệ nhất thời
trong tình hình an ninh nguy kịch. Dicey cho rằng tòa án không thể
áp dụng luật quá cứng nhắc mà không chú trọng đến khía
cạnh an nguy của đất nước và xem đây là những ngoại lệ.

Dicey kết luận rằng quyền tối thượng của quốc hội và
khái niệm Rule of Law bổ sung cho nhau. Quyền tối thượng giúp
cho Rule of Law định hình và phát triển và ngược lại chính
Rule of Law đòi hỏi quốc hội cũng phải theo đúng nguyên tắc
hợp pháp. Điểm chủ yếu mà ông luôn theo đuổi là đã phá
vai trò của toà án hành chánh và các quyền bãi miễn truy cứu
cho công chức. Theo ông, đây là một một mối nguy cơ trong hệ
thống pháp luật, nằm ngoài phạm vi bảo đảm của common law
cũng như ý chí của nhà lập pháp.

7. So sánh giữa hai khái niệm Rule of Law và Rechtsstaat


Khái niệm Rechtsstaat là một kết quả mà các học giả Đức
đã tiếp thu từ các học thuyết của Locke, Rousseau và
Montesquieu rồi vận dụng vào hoàn cảnh của Đức sau thời kỳ
khai sáng. Quan tâm chủ yếu của học giới Đức vào cuối thế
kỷ XVIII là cho dù ý chí của nhà lập pháp trong việc bảo vệ
quyền tự do của người dân có mạnh đến đâu, thì nó cũng
không đủ để việc áp dụng được hữu hiệu hơn. Một lý do
khác là một trật tự nhằm bảo đảm tự do không thể chỉ
dựa trên quyền tối thượng của quốc hội, chính vì lẽ
quốc hội có khả năng và ý chí hủy diệt quyền này khi
cần.Từ giữa thế kỷ XIX các học giả Đức như Lorenz von
Stein và Otto Bähr đã tổng hợp các khái niệm của Hobbes và
Montesqiueu để định hình cho vai trò của nhà nước mà quan
trọng nhất là họ đã vận dụng thành công nguyên tắc tam
quyền phân lập. Thành quả này làm cho các vai trò bộ máy nhà
nước được xác minh.
Từ cuối thế kỷ XIX khái niệm Rechtsstaat thể hiện rõ hơn
trước vì nguyên tắc hợp pháp không những áp dụng cho cơ quan
tư pháp trong việc xét xử, mà còn cho các cơ quan hành chánh.
Về sau, Rodolf von Jhreing với học thuyết nhà nước tự giới
hạn và Georg Jellinik với học thuyết về tố quyền của
người dân như là một chủ thể pháp luật đã bổ sung làm cho
giá trị Rechtsstaat được gia tăng. Dĩ nhiên, ý thức tôn trọng
luật pháp của dân chúng và những yếu tố văn hoá và lịch
sử đã làm thuyết này được áp dụng thành công.

Về cơ bản, Rule of Law không quá cách biệt với Rechtsstaat trong
việc xác định quyền của tự do cùa người dân là một
quyền hiến định. Trong một nhà nước hiện đại thì các
khái niệm luật pháp đều mang tính phổ quát, hình thức, hợp
lý và hợp pháp trong sư kết hợp với chủ thuyết tự do cá
nhân được quy định trong hiến pháp. Nhưng làm sao dung hoà
được sự bảo vệ quyền tự do với quyền lực của nhà
nước và vai trò quốc hội, đó là ở điểm khác biệt.

Việc áp dụng Rule of Law có phần khác với Rechtsstaat. Dicey
không công nhận luận thuyết của Montesqiueu về tam quyền phân
lập và sự tùy thuộc của quốc hội vào hiến pháp là phù
hợp với Anh, nhưng theo ông, Rule of Law phải dựa vào nguyên
tắc hợp pháp và có trách nhiệm theo dõi sự lạm quyền của
hành pháp. Đây là điểm tương đồng của cả hai. Nhưng điểm
dị biệt là Rule of Law và quyền tối thượng quốc hội bổ
sung cho nhau trong việc bảo vệ tự do và Rule of Law được hữu
hiệu hay không nhờ vai trò toà án. Đó là sự khác biệt giữa
Dicey, Montesquieu và Rousseau. Theo Dicey, luận thuyết của
Montesquieu và Rousseau không thuyết phục vì quan điểm về một
nền tư pháp độc lập là một điều trái ngược truyền
thống Anh. Ông không tin vào vai trò trung dung của toà án mà toà
án chỉ là một phương cách thực hành ý chí của nhà lập
pháp.

Kinh nghiệm cho thấy việc áp dụng luật pháp không thể coi là
máy móc, nhưng nhờ có một hệ thông án lệ hoàn chỉnh của
common law giúp cho việc bảo vệ ngưòi dân được tốt hơn.
Nguyên tắc của Rule of Law chỉ là một khởi đầu trong tiến
trình dài để phát huy dân chủ. Nhưng đâu là sự chính thống
của luật pháp? Sự chính thống này không phải là hiển nhiên
mà có, cũng không phải vì quốc hội Anh có tính chất dân chủ
mà có. Theo Dicey, vấn đề tùy thuộc vào mức độ áp dụng
luật pháp tại toà án. Chính tòa án xét nguyên tắc hợp pháp
của luật pháp, lúc đó mới xác định được là luật pháp
có dân chủ và chính thống hay không. Đặc điểm này chỉ có
được trong truyền thống của common law.

Rechtsstaat mang tham vọng sâu xa hơn khi đề cao tố quyền của
người dân trong trường hợp chính quyền vi phạm vào các
quyền tự do cơ bản và chú trọng về luật nội dung hơn là
luật thủ tục. Sau chiến tranh kết thúc, nhiều học giả Đức
lại càng lý tưởng hoá vấn đề hơn, khi có ý định mở
rộng phạm vi áp dụng tố quyền của người dân trong các vấn
đề an sinh xã hội.

8. Kinh nghiệm cho Việt Nam?


Không ai có thể phủ nhận công lao của Dicey khi đem lại một
nội dung cho Rule of Law, mặc dù công trình không hoàn hảo, vì
thiếu luận cứ triết học vững chắc và không phân biệt rõ
giữa lý thuyết về hiến pháp và những khía cạnh thuộc về
định chế. Dicey lập luận rằng toà án phải áp dụng nguyên
tắc hiến định khi xét xử, nhưng ông không chú tâm đúng mức
tới vấn đề giới hạn quyền lực của chính phủ và quốc
hội. Thật ra, ông đã có ý đề cao hệ thống pháp luật của
Anh khi so sánh với các quốc gia dân chủ phương Tây khác cùng
thời kỳ. Tuy nhiên, để đánh giá sự thành tựu khái niệm
Rule of Law đúng đắn hơn, vai trò của văn hóa và giáo dục
trong việc nâng cao trình độ ý thức của ngưòi dân là những
đóng góp đang kể làm cho khái niệm Rule of Law có được như
ngày nay.

Việt Nam có thể học kinh nghiệm nào của Anh? Vì trình độ
phát triển, hoàn cảnh lịch sử và xã hội và nhất là truyền
thống pháp luật giữa Anh và Việt hoàn toàn khác biệt, nên
mọi đối chiếu đều không có cơ sở. Tuy nhiên, có thể nêu
lên một vài nhận xét tổng quát để làm tiền đề cho các
công trình nghiên cứu toàn diện hơn sau này.

Hoàng gia trong chế độ quân chủ lập hiến Anh là một định
chế lịch sử, không do bầu cử, mà do thừa kế nhưng sự trị
vì được người dân luôn tôn kính. Xung đột của hoàng gia
với các giai cấp khác thường xảy ra và đều được giải
quyết tốt đẹp bằng luật pháp, bởi vì hoàng gia vẫn luôn
tự đặt mình trong khuôn khổ của luật pháp. Lịch sử của
nước Anh cho thấy luật pháp chưa hề bị bẻ gãy để phục
vụ cho một giai cấp nào, kể cả hoàng gia. Đây là điểm son
của Anh mà Việt Nam cần so sánh với vai trò của Đảng Cộng
Sản Việt Nam hiện nay.

Đảng cũng là một định chế lịch sử vì đã đem lại độc
lập cho dân tộc và đang độc quyền lãnh đạo đất nước
nhưng không do dân chúng bầu cử trực tiếp. Vai trò Đảng đang
và sẽ ở đâu trong hệ thống luật pháp, vấn đề còn tranh
luận mà ở đây không thể đi vào chi tiết. Nhưng Đảng có
nên theo gương hoàng gia Anh hay không, đây là vấn đề cũng
cần thảo luận.

Quốc hội Anh và Việt giống nhau ở điễm cả hai đều có
quyền tối thượng nhưng kỹ năng của các dân biểu và nghị
sĩ Anh làm cho công tác lập pháp hữu hiệu. Họ là luật gia
chuyên nghiệp, làm việc toàn thời gian. Thêm vào đó, cơ quan
truyền thông, đoàn thể áp lực và công luận theo dõi hoạt
động nên quốc hội có màu sắc dân chủ hơn dù là thể chế
quân chủ.

Ngược lại, quốc hội Việt Nam hình thành qua cơ chế Đảng
cử dân bầu nên mang tính hình thức. Hoạt động lập pháp
không hữu hiệu mà nguyên nhân chính là do vấn đề đại biểu
kiêm nhiệm, đây là một đặc thù của Việt Nam cần cải tổ.
Đại biểu có những lý do chính đáng để không hoàn thành
nhiệm vụ của mình: không đủ thì giờ và không đủ năng
lực trưóc các vấn đề quá chuyên môn (luật ngân sách, luật
biển, luật quốc tế, luật WTO v.v.) Họ trở nên thụ động
vì còn phải lo tập huấn nghiêp vụ hoặc chờ văn bản chỉ
đạo của Đảng. Gần đây vấn đề quyền chất vấn của
quốc hội có gây nhiêu tiếng vang tích cực, nhưng đây chỉ là
những bức xúc trước những vấn đề nhạy cảm của đất
nước, tạo ra những phản biện cần thiết trong xã hội, nhưng
không vì thế mà kỷ năng lập pháp sẽ được nâng cao.

Nếu toà án Anh đem lại niềm tin cho người cô thế, thì một
hệ thống toà án độc lập và hữu hiệu tại Việt Nam vẫn
còn là một điều mơ ước, vì bản án bỏ túi trước khi xét
xử là một thông lệ ngay trong những vụ kiện quan trọng. Thí
dụ gần đây cho thấy thời gian nghị án cho tội tuyên truyền
chống lại nhà nước XHCN chỉ mất có 27 phút, trong khi thời
gian tuyên đọc bản án hơn 50 phút. Toà án công nhiên sai phạm
luật thủ tục tố tụng hình sự và điều ngạc nhiên là
không ai phản ứng.

Cơ quan hành pháp Anh gặp khó khăn trong việc thi hành pháp
luật, vì có nhiều sức ép từ nhiều phiá: đảng đối lập,
báo chí, nghiệp đoàn, dân chúng và doanh giới. Họ luôn theo
dõi các hoạt động công quyền và nhạy bén trước những
biến chuyển chính trị, nhất là khi quyền lợi của giới mình
bị đe doạ thay đổi. Mọi nghi ngờ về vi phạm pháp luật
đều được phát hiện nhanh, nên việc từ chức của các bộ
trưởng xảy ra thưòng xuyên.

Ngược lại, hành pháp Việt Nam nhiều thuận lợi hơn vì không
có các khó khăn tương tự, sức mạnh của doanh giới chưa
thành hình mà chỉ có tư bản thân tộc vây quanh; mọi sai phạm
cũng khó phát hiện vì hệ thống bao che hữu hiệu, báo chí
luôn im lặng và dân chúng thì lại quá thờ ơ vì muốn yên
thân. Một thí dụ cho thấy Chủ tịch nước có công văn chỉ
đạo cho ngành tòa án về việc nâng cao chất lượng xét xử
và Thủ tướng yêu cầu luật sư đoàn phải quản lý và giám
sát các hoạt động của luật sư đoàn địa phương. Ở Việt
Nam không ai coi đây là sự vi phạm tam quyền phân lập mà là
sự nhắc nhở trong tinh thần phân công nội bộ do Đảng giao
phó.

Dân chúng Anh hãnh diện về truyền thống lịch sử và văn hóa
của đất nước và đặc biệt là được sống trong tự do, có
niềm tin vào sự an toàn của luật pháp. Việt Nam cũng có
truyền thống anh hùng, hãnh diện về độc lập dân tộc nhưng
ngưòi dân hiện nay không có được hưởng sự an toàn trong hệ
thống giao thông nên chưa thể mơ ước như nguòi dân Anh (right
of free borm Englishman).

Việc hình thành học thuyết, dù bất kỳ ở nước nào, phải
kể đến công lao của học giới. Những công trình nghiên cứu
về nhà nước pháp quyền tại Pháp, Đức hay Anh được hình
thành trong một môi trường học thuật tự do và khai phá. Học
giới là thành phần ưu tú của xã hội, có viễn kiến, dám
đột phá tư duy, có tinh thần độc lập dám đề xuất cũng
như bảo vệ những luận điểm của mình và không lo sợ áp
lực nào. Châu Âu đã tạo nên điều kiện cho học giới phát
huy tài năng và đóng góp những công trình đáng trân trọng.
Học giới Việt Nam, trong hoàn cảnh hiện nay, chưa được
những thuận lợi này. Trong thực tế đã có nỗ lực trong âm
thầm, nhưng họ không thể phát triển kỹ năng như mơ ước vì
thiếu đãi ngộ tương xưng. Thậm chí những buổi tọa đàm
khoa học, một sinh hoạt bình thường trong học giới, còn bị
ngăn trở vì các đề tài nhạy cảm cho chính giới, họ cũng
không có cơ hội phát biểu tại diễn đàn nước ngoài vì
không phải là đảng viên. Có lập luận lại bi quan hơn cho là
Việt Nam đang thiếu trầm trọng những nhà văn hóa và tư
tưởng tầm vóc có khả năng theo kịp bước đi của thời
đại và đóng góp cho công cuộc xây dựng đất nước. Do đó,
luật giới cũng không thoát ra được quy luật này.

Nhưng có lập luận lại lạc quan hơn cho luật giới là Việt
Nam đang có cơ hội tiếp thu những thành tựu khoa học mới
nhờ làm việc với các luật gia nước ngoài qua các chương
trình cải cách luật pháp do các định chế quốc tế tài
trợ, nhưng họ bị áp lực nặng nề về ngân sách, thời gian
và mục tiêu, nên họ có thể làm một số vấn đề thuần túy
chuyên môn trong các lãnh vực về luật kinh tế thị trường,
nhưng không thể giúp được về việc triển khai học thuyêt
NNPQXHCN, một lãnh vực mà chính họ không có kinh nghiệm và nhà
tài trợ cũng không cho phép. Học giới Liên Xô, một bạn
đuờng trong công tác tư tưởng của Việt Nam, cũng đã không
khai triển khái niệm này, nên vì thế Việt Nam cũng không nên
trông đợi gì từ di sản lý thuyết này. Như vậy chỉ còn
lại Việt Nam trong nỗ lực này. Kinh nghiệm Anh cho thây đây là
công việc lâu dài phải do do học giả người Việt đảm
nhận, vì yếu tố văn hóa, lịch sử, ngôn ngữ và phong tục
Việt Nam cũng quan trọng không kém.

Khái niệm về NHPQXHCH chỉ ở vào giai đoạn khởi thảo, nên
không thể nhận xét là nó sẽ hình thành ra sao và sẽ đóng
góp gì cho tương lai của đất nước. Trong điều kiện này,
chúng ta tiếp tục kiên nhẫn chờ đợi và hy vọng rằng những
công trình tầm vóc của học giới nguời Việt sẽ ra đời mà
chúng ta sẽ tự hào có thể so sánh vơi Albert Venn Dicey của Anh,
Raymond Carré de Malberg của Pháp và Robert von Mohl của Đức. Sự
lạc quan này có cơ sở của nó, vì theo một thăm dò dư luận
đầu năm 2011 của cơ quan BVA Pháp và Gallup Poll quốc tế có
trụ sở tại Washington D. C. Việt Nam là dân tộc lạc quan nhất
thế giới. Đây có lẽ là món quà chung cho những ai đang tự
sung sướng với chính mình nhưng lại là một hy vọng mơ hồ
cho những ngưòi còn ưu tư thời cuộc.

Đỗ Kim Thêm

Hiệu Minh - Học Dân chủ lúc… xế chiều

Xem bản đồ bên thấy trên thế giới chỉ còn hai quốc gia
Myanmar và Arap là coi mình không có dân chủ. 180 nước còn lại
là mầu xanh. Như vậy, cả thế giới đã thừa nhận "dân
chủ" là quan trọng.


HM luôn cho rằng, những diễn biến gần đây ở Trung Đông
bị ảnh hưởng của dân chủ rất ít, mà phần lớn do sự
bất bình của dân chúng. Vì người theo đạo Hồi vốn tôn
trọng trật tự. Liệu họ học dân chủ có nhanh như người
phương Tây để bỗng nhiên đổ ra đường biểu tình. Chợt
nhớ đến bài viết này đã lâu, nay đăng lại để chia sẻ.
Chúc các bạn vui và giữ hòa khí trong comment.


Muốn có xã hội công bằng, văn minh thì tâm thức của mỗi cá
nhân phải được dạy, được hiểu và biết về dân chủ, từ
thầy cô, đến bố mẹ, rồi đứa trẻ và cả xã hội. Chẳng
có vị lãnh đạo tối cao nào tuyên bố mang lại điều thiêng
liêng ấy cho một dân tộc, để rồi sau một đêm, cả quốc
gia ấy trở thành dân chủ. Đó là quá trình "mang nặng đẻ
đau" hàng thế kỷ.

Thảm họa "ngõ cụt" ngôn ngữ vì nỗi sợ ám
ảnh…


Thử tưởng tượng, bạn là người Việt thuộc lớp người
"ngũ thập tri thiên mệnh", lứa tuổi 50 thông suốt chân lý
của tạo hoá, hiểu được mệnh trời.

Nhưng có người muốn làm một thăm dò đơn giản. Đi dự hội
thảo, khi diễn giả dứt lời và hỏi "Quí vị có câu hỏi
hay phát biểu gì không?"

Bao nhiêu người dám đứng lên? Giả sử hội nghị mang tầm khu
vực hay quốc tế, liệu có cánh tay Việt nào giơ lên? Người
nhà ta chọn hàng ghế đầu để đối mặt với diễn giả,
phản hồi trực diện bằng cả ngôn từ lẫn ánh mắt, hay
chọn chỗ khuất phía cuối để ngủ vì đang bị…trái giờ?

Hiểu được mệnh trời nhưng liệu có dám nói về những
điều mình thông suốt chân lý, dù biết rằng, diễn giả trên
kia nói đôi điều không lọt tai.

Nhiều người tâm sự rằng, rất muốn phát biểu. Nhưng khi
đứng lên, lời lẽ bay đi đâu hết cả, đầu óc trống rỗng.
Người ta bỗng rơi vào khủng hoảng từ ngữ, từ từ ngồi
xuống, đỏ mặt và xấu hổ.

Trong khi đó, rất đông thính giả muốn thiết tha nghe phe ta
nói. Họ ít thấy dân tộc này "nói vo" ở những diễn đàn
quan trọng. Nếu có, chỉ là những bài đã viết sẵn, thuộc
lòng, không sai một dấu phảy.

Cơ nguyên nào mang đến thảm họa "ngõ cụt" trong ngôn từ
khi hội nhập? Dù nhiều diễn đàn quốc tế hết sức thoải
mái, mỗi ý kiến không hề bị kết luận "đúng hay sai", mà
"đó là một ý kiến".

Phải chăng vì sợ sai, chúng ta không dám nói? Không đủ tự tin
trước đám đông, sợ bạn cười, sợ cấp trên mắng và sợ
cả bản thân mình.

Về khách sạn nằm nghĩ mới nhận ra, mình đã được giáo
dục dân chủ là thế nào đâu. Nếu được học, đó là kiểu
"thầy đọc, trò ghi": "Dân chủ là một hình thức tổ
chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó nhân dân làm
chủ, đảng lãnh đạo, chính phủ thực hiện" và cứ thế
về nhà nhai lại y nguyên mà chả hiểu gì.

Ra thế giới bên ngoài, bỗng thấy mình được thoải mái nói
năng thì đã quá muộn. Đứng trên bục thực hành "văn minh
toàn cầu" ở tuổi …"xế chiều", khi nhịp tim có vấn
đề và não trạng không còn minh mẫn. Nói vài dòng cũng phải
giở "phao" trong túi ngực.

Chuyện trên tưởng nhỏ nhưng cũng làm cho không ít quốc gia
lỡ chuyến tầu của nhân loại.

Dân chủ "trắng – đen"


martin_luther_king_jr.jpeg
Luther King. Ảnh: myhero.com
Người da đen ở Mỹ hiện được hưởng sự công bằng hơn so
với thế kỷ trước không phải do người da trắng văn minh, có
học thức và nghĩ cần có công bằng xã hội. Chắng có người
da trắng hay tổng thống nào lại rộng lòng làm việc đó. Sự
dân chủ giữa hai chủng tộc trắng-đen này do đấu tranh mà
có, máu đã đổ và đổ rất nhiều để phân chia quyền lực.

Tại Mỹ cách đây 60-70 năm, ở một số bang, dân da đen lên xe
bus được ngồi từ ghế cuối xe và dân da trắng ngồi ghế
gần tài xế. Cứ thế, từ hai đầu và đuôi xe, hành khách đen
trắng được từ từ lấp hết chỗ.

Đến khi đầy xe, nếu có một người da trắng lên thì một
người da đen ở chỗ giáp ranh giữa hai màu da phải đứng lên
nhường chỗ cho người da trắng kia và anh da đen phải đứng.
Lần lượt, những người da trắng được ưu tiên ngồi và da
đen phải đứng nếu còn khách lên. Người tài xế có thể
quyết định người da đen nào đứng lên để nhường chỗ.

Thời đó, dân da trắng luôn là ưu tiên số một trong cửa hàng
ăn, trong mua sắm và được chiếm chỗ trên xe khách.

Chuyện xe bus "đen trắng" chỉ kết thúc khi cô thư ký da đen
Rosa Parks nhất định không nhường chỗ. Rosa bị bắt và đưa
ra tòa, bị phạt 10$ và nộp án phí 4$ (giá năm 1955).

Tuy nhiên, hiện tượng Rosa trở thành một phong trào phản kháng
lan rộng trong người da đen. Luther King được lựa chọn làm
chủ tịch cho phong trào phản đối nạn xe bus "phân biệt
chủng tộc", người da đen cương quyết không nhường chỗ.
Cuối cùng, tòa án phán quyết việc phân biệt đối xử như
trên vi phạm pháp luật.

Người da đen được giải phóng với nhiều quyền lợi hơn,
công bằng hơn, dù một kẻ căm thù dân chủ đến điên khùng
đã giết chết thủ lĩnh Luther King vào năm 1968.

Nhưng những gì mà Rosa và Luther King để lại đã giúp cho
nước Mỹ được cảnh tỉnh về nạn phân biệt màu da đáng
xấu hổ. Vì thế, hôm nay có Tổng thống da đen Barack Obama đang
lãnh đạo thế giới tại Nhà Trắng.

Dân chủ từ tâm thức và giáo dục


Hỏi vài đồng nghiệp phương Tây khoảng 30-40 tuổi rằng, tại
sao họ tự tin trước đám đông, không ngần ngại bầy tỏ
chính kiến. Câu trả lời khá rõ, quốc gia họ được tận
hưởng nền giáo dục "dân chủ, tự do" tại gia đình, trong
nhà trường và ngoài xã hội ngay khi con người còn ấu thơ.

Cô cháu sống ở khu Ba Đình viết email kể: Khi Hà Nội chớm
thu, lá rụng đầy đường Phan Đình Phùng, Hoàng Diệu, Trần
Phú, đẹp vô cùng. Người mẹ thường cho con trai ra nghịch lá.
Cậu thích lắm, hất tung lá lên không, rồi nằm lăn ra đất.

Hỏi cu cậu lớn lên con thích làm gì. Cu cậu trả lời hết
sức bất ngờ "Con sẽ làm người quét lá".

Điều gì xảy ra nếu người mẹ trẻ mắng đứa con "ngu"
rồi bắt con trở thành bác sỹ. Rất có thể khi đi máy bay
chẳng hạn, cu cậu còn dám muốn thành phi công hay không. Sự
không tôn trọng "ý kiến cá nhân" của người mẹ có thể
phá hỏng tương lai của chính đứa con mình.

Muốn có xã hội công bằng, văn minh thì tâm thức của mỗi cá
nhân phải được dạy, được hiểu và biết về dân chủ, từ
thầy cô, đến bố mẹ, rồi đứa trẻ và cả xã hội. Chẳng
có vị lãnh đạo tối cao nào tuyên bố mang lại điều thiêng
liêng ấy cho một dân tộc, để rồi sau một đêm, cả quốc
gia ấy trở thành dân chủ. Đó là quá trình "mang nặng đẻ
đau" hàng thế kỷ.

Dân chủ nước người


Người ta cấm đánh trẻ vì không muốn chúng bị người lớn
áp đặt. Muốn chúng nghe lời, bố mẹ phải "đàm phán" cho
tới khi hai bên đi đến "thỏa thuận". Đó là mầm mống cho
dân chủ, công bằng xã hội và được pháp luật bảo vệ ngay
từ lúc một sinh linh ra đời.

Những quốc gia phương Tây có nền dân chủ hàng trăm năm đưa
ra mô hình "tam quyền phân lập". Đó là cách phân chia quyền
lực trong định chế quốc gia.

Từ mấy trăm năm, hiến pháp Hoa Kỳ đã tạo những cơ sở
thừa nhận sự tồn tại độc lập, kiềm chế lẫn nhau giữa 3
cơ quan: Lập pháp, hành pháp, tư pháp. Không một cơ quan nào có
quyền lực tuyệt đối trong sinh hoạt chính trị của quốc gia.

Tuy thế, sau một thời gian hoạt động của tam quyền, người
ta cũng phát hiện, "ba anh" trên có thể thông đồng với nhau
để độc tài, chuyên chế để lũng đoạn đất nước. Vì
thế, mới có thêm quyền lực thứ tư chính là báo chí, thay
mặt nhân dân, "kiểm soát" cả ba nhánh quyền lực trên.

Xã hội dân chủ thực sự cần có 4 nhánh quyền lực mạnh như
nhau và kiểm soát lẫn nhau. Không ai được phép ngồi lên pháp
luật.

Dân chủ của chúng ta


Nước ta từ thời 1945 là "Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa". Không phải là khái niệm mới.

Gần đây, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã nói "Đại
hội XI của Đảng phải làm sao đạt mục tiêu chung là lựa
chọn, giới thiệu và bầu được những người không quan liêu,
tham nhũng, lãng phí; có năng lực trí tuệ và tổ chức thực
tiễn, có tư duy đổi mới, sáng tạo, dám chịu trách nhiệm vì
lợi ích chung, có năng lực tham gia vào việc hoạch định
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; có đủ sức
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao; đoàn kết và có khả
năng quy tụ sự đoàn kết, có uy tín cao trong Đảng và trong
nhân dân
".

Một việc có thể làm ngay mà không phải du nhập từ đâu để
tìm ra người lãnh đạo không tham nhũng. Đó là người được
lựa chọn vào trung ương, vào chức vụ cao, cần qua những phép
thử của dư luận.

Obama khi tranh cử Tổng thống phải khai thu nhập cá nhân, kể
cả hồ sơ sức khỏe, cho 350 triệu người Mỹ biết, với tình
trạng tim mạch như thế, liệu chân có run khi nói trước hàng
triệu người?

Ai muốn cầm cân cho chế độ thì hãy công khai minh bạch toàn
bộ tài sản của mình, từ tài khoản nhà băng, xe cộ, nhà
cửa, đến đất đai. Việc đó nên làm trước mỗi cuộc bầu
bán. Ứng viên cần thông báo rõ trên trang web. Việt Nam có tới
20 triệu người dùng internet, đủ để phủ sóng dư luận tới
86 triệu dân.

Nếu cho rằng lý lịch hay tài sản các ứng viên thuộc vào bí
mật quốc gia, dân không có quyền được "biết, bàn, làm,
kiểm tra", đợi yên vị rồi mới công bố tên tuổi thì dân
chủ lúc đó e rằng như một thứ trang trí trong tủ kính. Nếu
chỉ dân chủ trên lời nói làm sao được người dân tâm
phục, khẩu phục.

Nó cũng tương tự như người ở tuổi tri thiên mệnh, hiểu ra
nền văn minh nhân loại ở thế kỷ 21 vào tuổi xế chiều,
để rồi gà gật ngủ lúc trái giờ, chẳng kịp nhìn bánh xe
con tầu hội nhập lăn đi.

Hiệu Minh. 05-04-2010

PS. Viết blog hay lắm. Đôi khi ý kiến bạn
đọc lại nảy ra ý cho bài báo. Ví dụ, trong entry có trích
đoạn phản hồi của em Minh Đức, học sinh cũ của HM tại
trường Thăng Long, kể về đứa con muốn trở thành người
quét lá. Cảm ơn em.

Trung Quốc: Tiếp tục Cách mạng Hoa Lài vào chiều Chủ Nhật

aa1ag.jpg
Công an
Trung Quốc dắt chó và xít nước thị uy bộ hành
Cuộc "Tản Bộ Hoa Lài" kêu gọi tự do dân chủ tại
Trung Quốc vẫn tiếp tục sứ mệnh với số người bị bắt
tại Bắc Kinh và Thượng Hải chiều 27/2/11 được xác định
là bảy người. Một số hình ảnh đã ghi lại hình các "chú
công an" đang hốt người về đồn trong tư thế nhiếp ảnh
gia săn hình được BBC Hoa Ngữ náo nhiệt đăng hình và loan tin
linh hoạt.


Nhà đương cục Trung Quốc không xác định danh tính của
người bị bắt và cũng có ý lờ đi Cách Mạng Hoa Lài để
giảm sức lan tỏa. Thủ Tướng Ôn Gia Bảo online vào ngày Chủ
Nhật thừa nhận rằng lạm phát gia tăng ảnh hưởng tới sinh
hoạt và có thể gây bất ổn xã hội. Ôn ảnh đế (biệt danh
của Ôn Gia Bảo, ảnh đế có nghĩa là nam diễn viên xuất
sắc) thậm chí không nhắc tới từ Trung Đông có lẽ vì sợ
dân mạng lại hiếu động nghĩ tới Hoa Lài. Ôn Gia Bảo nói
rằng chấn động giá cả đang tăng vọt đang làm mọi người
lo lắng.

Hàng trăm chú công an, có chú còn dẫn chó nghiệp vụ ra
đường canh chừng, nếu thấy người nào có dấu hiệu khả
nghi đang mang linh hồn "Tản Bộ Hoa Lài" là báo động ngay
cho đồng chí tới bắt lại. Mặc dù chó nghiệp vụ đang ở
chế độ "bó rọ ở mồm" nhưng vẫn nhìn rất dữ, có khả
năng hù dọa những người qua đường yếu bóng vía.

Trong lúc đó tại, các nhóm công an khác tiếp tục huýt sáo và
thổi súp-lê để để tạo âm thanh khẩn trương hối thúc
người qua đường phải đi nhanh qua các địa điểm tụ tập.
Công an cũng dùng cả vòi nước từ những chiếc xe chuyên dụng
rửa đường để "thuỷ áp" khách bộ hành. Ai cố tình đi
chậm (tản bộ) hoặc hóng hớt tò mò nhìn qua nhìn lại thì
bị xịt ướt ráng chịu.
nguoi2.png

Tại Vương Phủ Tỉnh McDonald, Bắc Kinh địa điểm tập hội
của tuần trước có ít nhất hai người đã bị bắt. Trong lúc
đó tại Quảng trường Nhân dân ở Thượng Hải, năm người
đã bị công an giải đi khi chưa kịp chụp hình. Nhưng hình
ảnh này lại bị lọt vào ống kính của một nhiếp ảnh sư
khác. Cảnh tượng thật là kịch tính, thật là "Ảnh trung
hữu ảnh, nhân ngoại hữu nhân" rất là tràn trề nghê ngói.
Có một vị trung niên bị hai chú công an đang trong tư thế
miệng ngậm súp-lê, tay cầm bộ đàm áp cổ đè lưng nhìn cũng
rất là thống thiết.

Cảnh sát mặc thường phục trà trộn đám đông để báo nhau
bắt người nhưng nhiếp ảnh gia cũng trăm tay nghìn mắt chuyển
hết cảnh tượng ra ngoài cho đài BBC đăng tải càng làm cho
linh hồn Cách Mạng Hoa Lài phảng phất mãn địa.

Được biết, đêm trước cuộc Tản Bộ Hoa Lài, những người
tham dự hoặc đồng tình cũng đưa ra một bức thư công khai
yêu cầu nhà cầm quyền Trung Quốc phải thực hành ngay cơ chế
nhân dân giám sát.

Họ đã tuyên bố đây không phải là cuộc cách mạng bạo
động mà chỉ đề cao tinh thần phi bạo động, bất hợp tác
với chính quyền. Họ không muốn đề cập tới thể chế một
đảng, hai đảng hay là ba đảng cho Trung Quốc mà chỉ muốn đi
bộ đòi hỏi chính quyền hiện nay phải thực thi nghiêm chỉnh
cơ chế độc lập tư pháp.

Tuy nhiên, dân mạng cũng ghi nhận có rất nhiều lời hiệu
triệu mạo xưng danh nghĩa đưa ra có ý đồ thay đổi địa
điểm, nội dung thư hiệu triệu để phân tán lực lượng
biểu tình viên. Nhiều người cho rằng đây chính là âm mưu
phân tán phong trào của bọn Ngũ Mao (đảng 50 xu một bài, hoặc
vài câu để vùi dập phong trào dân chủ, có kiểu sinh hoạt bè
phái như Hồng Vệ Binh thời Cách Mạng Văn Hoá).

Ảnh Hưởng Tới Việt Nam?


Cùng vào lúc 2 giờ chiều, Việt Nam cũng xao động thông tin về
Cách Mạng Hoa Lài. Tuy nhiên, cũng như Trung Quốc, phong trào bị
dìm một cách "nghiêm phòng diễn tập". Hiện nay chưa thể
biết được các hoạt động như thế nào, có hình ảnh nào ghi
nhận được không? Tuy nhiên, nhà đài Al Jazeera Ả Rập đã ghi
nhận cuộc biểu tình 21/2 của nông dân lên thành phố là một
sự lan rộng phong trào.

Do các vụ khiếu kiện dân oan chưa mang tính bức xúc từ đô
thị cho nên những đòi hỏi vì bị mất đất chưa đại diện
mọi tầng lớp. Người dân thành phố cũng không có đất đai
gì để mất nên họ vẫn nhìn người nông dân qua đường căng
khẩu hiệu với thái độ bàng quan.

Một người dân mạng ở Việt Nam nhắc tới vụ Hoa Lài ở thì
từ chối ngay: "Thôi, tôi xin bác. Tôi vợ dại con thơ,
bản thân khờ khạo, đong gạo từng tuần, không nên dự phần
ngoài đó
". Trong lúc đó một bạn khác tên là Misha Doan
(Việt Kiều Nga) thì cho rằng đây là tâm sự chung của trí
thức hiện tại.

Cách Mạng Hoa Lài cũng được cổ suý ở Trung Quốc bằng sự
chú trọng của các hãng truyền thông quốc tế như AP, BBC Hoa
Ngữ (cập nhật từng mẫu tin) và ngay cả các chính khách Tây
Phương. Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc Jon Huntsman đã dẫn cả
nhà tới Vương Phủ Tỉnh McDonald ở Bắc Kinh để ăn coi như
là nhân tố "tình cờ thôi", nhưng mà rất ý nghĩa dù chỉ
là "tình cờ thôi".

nguoi1.png


Trong lúc đó, các blogger Việt Nam bị hack gần như tê liệt.
Đài BBC Việt Ngữ cũng không loan tin nào cả thế thì làm sao
người ta biết được chuyện gì đang xảy ra ở bên Tàu mà
đồng thanh tương ứng với các bạn ấy. (BBC Việt Ngữ không
có bộ môn đọc tiếng Tàu rồi để liên thanh với trang Hoa
Ngữ và có lẽ bị vì cắt giảm ngân sách nhiều quá hay sao
ấy, không có người làm cuối tuần rồi).

Tuy nhiên, tinh thần vì Hoa Lài của Trung Quốc đã bước sang
tuần thứ hai như thế là quá đạt kỳ vọng đẩy các chú
công an phải dẫn chó ra đường, vòi rồng xịt nước nhân
dân.

Hoa Lài đã biến chính quyền nhân dân, công an nhân dân hiện
nguyên hình làm một bộ mặt chà đạp nhân dân rất là mất
thiện cảm còn xấu xa hơn cả các "thế lực sài lang".Dần
dần, sự mất thiện cảm này sẽ biến thành động lực thu
hút về mặt tinh thần tạo điều kiện chín muồi cho tụ tập
lớn hơn trong một ngày mai, mà theo dự đoán trên diễn đàn là
vào tuần sau 14 giờ chiều Chủ Nhật ngày 6/3/2011 sẽ tiếp
tục.

Nhân đọc bài “Ba điều dứt khoát của Thủ tướng”

Lê Hùng


Hôm qua tôi đọc bài: “Ba điều “dứt khoát” của Thủ tướng” đăng trên báo VnEconomy Vneconomy.vn

Cảm giác của tôi thật là buồn khi đọc bài báo đó. Buồn vì hai nhẽ:

Trước hết, buồn vì tình hình kinh tế của đất nước đang lâm vào tình trạng hết sức khó khăn: nền kinh tế mất ổn định, thâm hụt ngọai thương liên tục trong nhiều năm, mất cân đối trầm trọng về cán cân thanh toán quốc tế, nợ nước ngoài tăng nhanh, dự trữ ngọai tệ giảm mạnh, lạm phát cao, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Thế mà, tăng trưởng của nước ta (chỉ tiêu GDP) mấy năm qua, lạ thay, vẫn khá. Phải chăng, tăng trưởng của nước ta trong những năm vừa qua là không thực chất, kém hiệu quả. mà nguyên nhân xuất phát từ căn bệnh trầm kha “bệnh thành tích” của những người lãnh đạo đất nước: Tăng trưởng bằng mọi giá, duy ý chí, bất chấp các quy luật của kinh tế thị trường. Thực trạng kinh tế đất nước hôm nay cũng là kết quả sự vận hành cơ chế “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” mà Chính phủ theo đuổi.

Thực trạng kinh tế của nước ta hiện nay không phải là vấn đề đột biến. Thực trạng

này là sự di căn của căn bệnh ung thư mà mầm bệnh đã có từ nhiều năm. Từ

những năm trước, các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước đã phát hiện ra

bệnh, nhưng Chính phủ vẫn bảo thủ, không chịu chữa chạy. Đến hôm nay, bệnh

tình trầm trọng thì mới “vái tứ phương”.

Thứ hai, buồn vì năng lực, bản lĩnh của Thủ tướng (thông qua nhận xét của tôi về Thủ tướng khi nói “ba điều dứt khóat”). Ông Thủ tướng liệu có biết rằng: tại sao lại lạm phát cao hay không? Đúng là có sự liên quan đến ngoại tệ như ông nói (thiếu ngọai tệ để thanh toán quốc tế, để nhập nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị và hàng hóa thiết yếu). Nhưng đấy chỉ là biểu hiện cuối cùng của nền kinh tế; còn các nguyên nhân chủ yếu của lạm phát là do nội tại của nền sản xuất kém hiệu quả, sự quản lý kinh tế yếu kém của Chính phủ trong suốt nhiều năm. Nếu viện vào con số tăng trưởng GDP thì ta cũng phải có cách nhìn khách quan và khoa học. Bản thân con số GDP là một con số tổng hợp, chủ yếu để đánh giá về mặt số lượng, quy mô của nền kinh tế chứ nó không phản ảnh được chất lượng của nền kinh tế, sự thịnh vượng của một quốc gia. Các chuyên gia kinh tế đã tổng kết: Nếu chạy theo thành tích tăng trưởng bằng mọi giá, đầu tư một cách tràn lan, phung phí nguồn lực của đất nước, quản lý vốn, tài sản của đất nước tồi, để tham nhũng nặng nề thì việc làm ấy là nguyên nhân chính của lạm phát và làm phân hóa đời sống xã hội. Chưa kể đến các nguyên nhân khác nữa cũng góp phần quan trọng vào vào lạm phát cao như thu ngân sách quá cao (làm kiệt sức dân) nhưng vẫn chưa đủ cho Chính phủ sử dụng, bội chi, thâm hụt ngân sách quá lớn.

Cả 3 điều ông Thủ tướng nói “dứt khoát” phải thực hiện cho được trong lúc này, theo như tôi hiểu thì hoàn toàn chỉ là mệnh lệnh hành chính, áp đặt cho nền kinh tế mà thôi. Các chính sách cho một nền kinh tế trong mọi lúc, mọi nơi không thể dựa trên sự “ra lệnh” (ngoại trừ trong chiến tranh) mà nó phải nương theo các quy luật kinh tế (tôi dùng từ nương theo có nghĩa là người lãnh đạo phải biết các quy luật kinh tế để khôn khéo hạn chế các tiêu cực và tận dụng thời cơ nhằm vãn hồi tình thế, chứ không phải là đối đầu với các quy luật).

Về điều “dứt khoát” thứ nhất: Chính vì Chính phủ từ trước đến nay luôn neo giữ tỷ giá theo chiều hướng có lợi nhất thời (kể cả vì lợi ích chính trị của người lãnh đạo) nên những năm vừa qua tỷ giá VND với các ngoại tệ là không đúng thực chất. Kinh tế Việt Nam liên tục bị lạm phát trong nhiều năm thì đương nhiên VND phải mất giá (điều này cũng nói lên là tăng trưởng của Việt nam là không thực chất). Lẽ ra khi VND luôn mất giá, tỷ giá phải thường xuyên được điều chỉnh theo đúng quy luật Cung Cầu thì đâu có sự thay đổi tỷ giá “giật cục” như những lần vừa qua. Tiền của mỗi quốc gia thực chất là “hàng hóa đặc biệt” và chỉ có Nhà nước độc quyền phát hành ra lưu thông nhưng nó còn thể hiện sức mạnh của nền kinh tế mỗi quốc gia. Muốn tăng sức mạnh cho nó thì phải sử dụng các “liệu pháp” kinh tế bồi bổ cho nó chứ đâu có thể “ấn định” mà được. Dù ông Thủ tướng có ra lệnh không thả nổi tỷ giá thì cũng chỉ là nói cho vui mà thôi vì Việt Nam đâu có phải là một “ốc đảo”. Việt Nam đã gia nhập WTO rồi, Việt Nam có đầu tư của nước ngoài và Việt Nam vẫn buôn bán với nước ngoài. Tiền VND ngày càng xuống giá, thử hỏi làm sao mà bắt các quốc gia khác trao đổi theo tỷ giá “ấn định” được? Nợ nước ngoài của Việt Nam cao lắm rồi, dự trữ ngọai tệ cũng cạn kiệt, nhập khẩu phải hạn chế thì xuất khẩu cũng sẽ hạn chế (vì nguyên nhiên liệu, máy móc thiết bị nhập khẩu để làm hàng xuất khẩu giảm, tài nguyên cũng phá gần hết, còn đâu để xuất khẩu). Như vậy, thử hỏi tỷ giá ngày hôm nay sẽ giữ được trong bao lâu mà nói không thả nổi?

Về “dứt khoát thứ hai’: ông Thủ tướng so VN với các nước trên thế giới thì tôi thấy rất khập khiễng. Ông cần biết vì sao các nước đó họ không có chợ đen ngọai tệ (hoặc có nhưng nhỏ bé) và trước đây đã có thời kỳ nào họ không có chợ đen ngọai tệ hay không? Tại sao lại xuất hiện chợ đen ngọai tệ? Việc cấm thị trường chợ đen ngọai tệ và vàng có khả thi hay không? Ông Thủ tướng có còn nhớ có thời kỳ ở Việt Nam và ở các nước khác (không phải là nền kinh tế thị trường) mặc dù về mặt chính thức chỉ có “mậu dịch Nhà nước” cung cấp đủ mọi thứ hàng hóa nhưng vì thiếu thốn nên mới sinh ra chợ đen hàng hóa, thậm chí cả chợ đen bán tem phiếu (cả tem phiếu của cán bộ Nhà nước trung cao cấp), rồi quần áo bộ đội, và nhiều thứ nữa hay không? Và trong điều kiện nào thì sẽ không còn chợ đen nữa? Tự ông Thủ tướng trả lời mấy câu hỏi đó thôi, thì ông sẽ hiểu là tuy ông có “giận dữ” trong lúc nói điều “dứt khoát” thứ hai này thì chỉ thể hiện ông là người không có bản lãnh hay bất lực trước tình thế mà tức giận đấy. Ông cũng lại nói: “không một đất nước nào như đất nước chúng ta mua thịt cũng tính bằng …”đô”

“ Vậy ông có biết tại sao cái gì cũng tính bằng “đô” không? Và với nhà cửa còn tính bằng “cây và chỉ” nữa kia!

Vì dân mình thì nghèo, một nắng hai sương nên quý sức lao động lắm, nếu tính bằng VND thì VND chỉ qua tuần qua tháng đã mất giá rồi nên không thể hạch toán được sản phẩm do mình làm ra, lời hay lỗ thế nào cho đúng! Ngay cả ông Thủ tướng khi so sánh giá cả của Việt Nam với các nước (ví dụ giá điện, trừ khi nói đến tiền lương) ông cũng tính bằng “đô” đấy thôi? Còn nữa; vì đồng “đô” nó ổn định và nó có sức mạnh, là đồng tiền được dùng trong cán cân thanh toán quốc tế, nên chắc chắn là ai cũng thích rồi, có phải vậy không, thưa ông Thủ tướng? Và chắc ông còn nhớ (à quên mất, khi ấy thì ông chưa ra đời) khi đồng tiền “quan hỏa” của quân Tưởng theo phân công của Đồng minh vào tước vũ khí của quân Nhật ở Việt Nam đem vào sử dụng, người dân Việt Nam sợ còn hơn là phải cầm những tờ giấy lộn; vì thế có nơi chỉ trao đổi với nhau bằng tiền “Đông Dương” hoặc hàng đổi hàng hay không?

Về “dứt khoát thứ ba”: ông Thủ tướng ra lệnh cho các Tập đoàn Nhà nước phải bán hết ngoại tệ cho Ngân hàng Nhà nước thì tôi hoàn toàn đồng ý và lập luận của ông rất cách mạng, chắc chắn là nhân dân đồng thuận. Nhưng tôi e rằng trước mặt ông Thủ tướng thì họ vâng dạ, nhưng vì quyền lợi cục bộ thì chưa chắc họ đã thực thi! Vì tôi thấy: điển hình như vụ Vinashin, khi ông Thủ tướng đã ký lệnh cho nó không mua tàu gì đó, vậy mà ngay hôm sau nó đã ký ngay hợp đồng “trót mua mất rồi” để hậu họa rành rành trước thiên hạ, chẳng phải là một bài học nhãn tiền hay sao? Hay như việc chống tham nhũng, chống cách làm ăn không hiệu quả của các Tập đoàn, hô hào thì to tát nhưng bao năm rồi tình hình “nguyễn y vân”.

Thôi nhân thể đọc bài báo nói về “Ba dứt khoát” của ông Thủ tướng, tôi xin mạo muội được bình luận đôi lời như trên, nói nhiều quá sợ ông nghe không lọt.

LH


Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

Ba điều “dứt khoát” của Thủ tướng

Thủ tướng đầy ưu tư và lo lắng khi kết thúc cuộc họp ngày 24/2 giữa Thường trực Chính phủ với lãnh đạo các địa phương, về một số giải pháp tập trung kiềm chế lạm phát.

Ông nói: “CPI hai tháng đầu năm đã tăng đến 3,79% rồi, đe dọa lớn đến ổn định kinh tế vĩ mô cũng như đời sống người dân. Nếu không tập trung kiềm chế lạm phát sẽ gây ra hậu quả tiêu cực...”.

Một trong những nút thắt cần gỡ nhất hiện nay để có thể ghìm cương lạm phát đang phi mã, theo nhận định của người đứng đầu Chính phủ, đó chính là các vấn đề liên quan đến ngoại tệ. Lãnh đạo các địa phương cũng như các thành viên Chính phủ nghe ông nhắc đến 3 lần từ “dứt khoát” khi kết luận về vấn đề này.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói: “Dứt khoát không để tỷ giá thả nổi. Dứt khoát không thể để tình trạng Đô la hóa cứ tiếp tục bất chấp pháp luật thế này. Dứt khoát các tập đoàn nhà nước phải bán ngoại tệ cho Ngân hàng Nhà nước”.

Sau khi phát đi mệnh lệnh “dứt khoát không để tỷ giá thả nổi”, Thủ tướng động viên Ngân hàng Nhà nước: “Chúng ta hoàn toàn có thể làm được việc này và trên thực tế năm 2008 là năm cực kỳ khó khăn song chúng ta đã làm được”. Ông lưu ý Ngân hàng Nhà nước, cần tận dụng tất cả các nguồn lực để kiểm soát được tỷ giá theo quy định.

Với mệnh lệnh thứ hai “dứt khoát không thể để tình trạng Đô la hoá bất chấp pháp luật”, Thủ tướng không giấu được sự giận dữ của mình khi nói: “Không một đất nước nào như đất nước chúng ta, có khi mua thịt cũng lại tính bằng... “đô”. Quy định pháp luật cũng đã có đầy đủ rồi, tại sao chúng ta không thể quản lý nghiêm được?”.

Ông yêu cầu Bộ Công an phải cùng với Ngân hàng Nhà nước kiên quyết xử lý đến nơi đến chốn tình trạng này bởi điều đó, không chỉ là một trong những nguyên nhân khiến cho lạm phát càng trở nên bất trị mà nghiêm trọng hơn, nó còn ảnh hưởng đến an ninh kinh tế của đất nước.

Với mệnh lệnh thứ ba “dứt khoát các tập đoàn nhà nước phải bán ngoại tệ cho Ngân hàng Nhà nước”, Thủ tướng hỏi: “Lúc đất nước khó khăn thế này mà còn găm giữ ngoại tệ thì là thế nào?”, và yêu cầu Văn phòng Chính phủ cần sớm soạn thảo ra một nghị quyết riêng của Chính phủ dành cho vấn đề này.

Phân tích các vấn đề liên quan đến giá điện, giá xăng vì sao phải tăng, người đứng đầu Chính phủ nói khá ngắn gọn, rằng nếu không điều chỉnh thì nền kinh tế “méo mó quá”.

Chẳng hạn như với việc tăng giá điện, Thủ tướng giải thích: “Năm vừa rồi, chúng ta xuất khẩu thép được 1 tỷ USD. Nhìn qua thì nghĩ đó là một thành tích phấn khởi lắm vì có vẻ như nước ta đã là một nước công nghiệp, xuất khẩu được cả thép thu được về từng ấy ngoại tệ. Nhưng thực ra là những nhà đầu tư nước ngoài đến thành lập nhà máy thép ở Việt Nam họ cũng khôn ngoan lắm! Họ nhập phôi thép từ nước ngoài về Việt Nam rồi tranh thủ giá điện rẻ của chúng ta để sản xuất thép xuất đi...”.

Đừng “tự huyễn hoặc” về chất lượng tăng trưởng

Kim Hoa (ghi)

Đến bây giờ, không phải đã chấm dứt cái thói so sánh với những năm tháng trước đây cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, để nhấn mạnh đến thành tựu kinh tế hiện nay. Nhưng khi bản báo cáo tổng quan mở đầu cuộc hội thảo khoa học tổng kết nền kinh tế 25 năm qua đi đến nhận định “tăng trưởng dưới mức tiềm năng”, thì lối so sánh ấy mặc nhiên trở nên lố bịch. Chưa bao giờ dĩ vãng được khai thác triệt để như bây giờ: quá khứ vinh quang được tung hô để biện minh cho hiện tại; còn quá khứ đói khổ được vận dụng để ca ngợi thành tựu hôm nay.

Nhưng vấn đề không phải là hôm nay có hơn hôm qua hay không, mà là hôm nay có hơn hôm qua trong tận cùng tiềm năng tăng trưởng của nó hay không. Nếu không, là người lãnh đạo có lỗi hay có tội đối với đất nước. Nếu có thể phát triển với tốc độ của xe hơi, mà lại bằng lòng với tốc độ của con rùa, thì đó là tốc độ của sự kìm hãm.

Hình như con rùa cũng có thể tự hào đã bò hơn trước một vài mét nào đấy. Nhưng rùa không biết đau lòng và xấu hổ!

Bauxite Việt Nam


SGTT.VN - Diễn ra cùng thời điểm với cuộc giao ban do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng chủ trì và cùng nỗi bức xúc: “Làm gì để cải thiện chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam”, cuộc hội thảo “Chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam: Giai đoạn 2001-2010 và định hướng tới năm 2020” ngoài 54 bản tham luận được chuẩn bị công phu từ trước, đã thu hút nhiều chuyên gia kinh tế và các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đăng đàn.

“Nền kinh tế 25 năm tăng trưởng dưới mức tiềm năng”



Theo các tham luận tại hội nghị, chính phủ không nên chạy theo chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng (ảnh minh hoạ). Ảnh: L.Q.N

Kết luận thẳng thắn trên được đưa ra ngay từ bản báo cáo tổng quan mở đầu cuộc hội thảo (do Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và Viện Nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản tổ chức tại Hà Nội ngày 24.2) của PGS TS Trần Thọ Đạt (Trường ĐH Kinh tế quốc dân). Nhận xét về diễn biến tăng trưởng, PGS Đạt cho rằng đang có xu hướng “dựa ngày càng nhiều vào việc tăng vốn đầu tư và ngành công nghiệp chế biến, ít tạo ra việc làm và hiệu quả chưa cao, xuất khẩu gia tăng nhưng chủ yếu dựa vào các mặt hàng thô, nông sản, khoáng sản và sơ chế. Tốc độ thu nhập bình quân đầu người Việt Nam vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực và có xu hướng chậm lại từ năm 2005”.

Trong bối cảnh chỉ số giá cả và lạm phát tăng cao như hiện nay, Chính phủ nên “ưu tiên đặt mục tiêu kiểm soát vào 2 chỉ số kinh tế vĩ mô quan trọng là chống lạm phát và cải thiện chính sách tài chính”, ông Đạt đề xuất.

Ở góc độ xã hội, theo PGS TS Lê Xuân Bá: “Thành quả của công cuộc đổi mới chưa được phân phối công bằng và đồng đều, thể hiện ở sự chênh lệch đang giãn ra giữa các vùng và ở thu nhập: năm 1995 chênh lệch gấp 7 lần; năm 2008: chênh lệch gấp 8-9 lần…”. Phân tích những chỉ số đo chất lượng tăng trưởng dưới góc độ hiệu quả, TS Bùi Trường Giang – Phó viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam nhận định: “Chất lượng tăng trưởng đang ngày càng giảm sút và đi cùng là sự giảm sút của tăng trưởng kinh tế”. Do đó, “nhiệm vụ sắp tới của Chính phủ là phải đưa ra được các chính sách nhằm tháo gỡ các rào cản, các nút thắt cho tăng trưởng, vừa nhằm tạo dựng nền tảng cạnh tranh cho môi trường kinh doanh - đầu tư của nền kinh tế”. Đây chính là một “thông điệp chính sách” quan trọng được nhiều ý kiến ủng hộ từ các đại biểu tham dự: “không nên chạy theo chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng”, thậm chí là “mừng vì Chính phủ chủ trưởng giảm tổng cầu và không đặt mạnh tăng trưởng !”.

“Tư duy phát triển của chúng ta đang có vấn đề”

Cựu bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển rất sốt ruột: “Những vấn đề nói hôm nay đã nói nhiều, nói lâu rồi nhưng tại sao vẫn không giải quyết? Theo tôi, nút thắt lớn nhất là tư duy phát triển của chúng ta có vấn đề. Chúng ta có 2 bài toán phải giải. Một là phải đặt nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh. Chỉ như thế mới tạo ra năng suất và kích thích năng lực sáng tạo. Sự đề kháng của doanh nghiệp ta tốt, khi có cạnh tranh, có thể gặp những khó khăn nhưng sẽ phát triển hơn, ví dụ như ngành dệt may, ngành viễn thông. Hai là sự phân vai không tốt giữa quản lý nhà nước và thị trường. Quản lý nhà nước tạo nên sự ổn định vĩ mô, từ đó doanh nghiệp và người dân mới có điều kiện phát triển! Đây là nút thắt quan trọng nhất, bao trùm nhất: nút thắt về tư duy phát triển”.


Xây dựng kinh tế tăng trưởng theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì trước hết phải xây dựng được nền kinh tế thị trường đã.

PGS TS Lê Xuân Bá

PGS TS Nguyễn Văn Lịch - Học viện Ngoại giao nói: “Chính phủ phải thay đổi tư duy vì hiện nay tư duy tăng trưởng và mô hình tăng trưởng không còn phù hợp”. Về phía PGS TS Lê Xuân Bá, ông thẳng thắn: “Quản lý của ta còn có chuyện: không quản lý được thì cấm. Xây dựng kinh tế tăng trưởng theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì trước hết phải xây dựng được nền kinh tế thị trường đã. Điều đó phải thay đổi!”.

Mạnh dạn cắt giảm đầu tư công

Phải cắt giảm, phân bổ hợp lý và hiệu quả đầu tư công, quyền lực và trách nhiệm đó nằm trong tay Chính phủ, Quốc hội khi thảo luận, cân đối về ngân sách. Theo GS Nguyễn Kế Tuấn, đó là những quyết định khó khăn, phải thoát khỏi được những áp lực của những lợi ích nhỏ, những vận động hành lang của các tập đoàn kinh tế và các địa phương. Ông nói: “Nhiều ý kiến cho là cắt giảm đầu tư công liên quan đến công ăn việc làm của người lao động – chủ yếu là tại các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước. Nếu thông thoáng hơn, cởi mở hơn, lĩnh vực kinh tế tư nhân vẫn có thể giải quyết được vấn đề này”.

GS Nguyễn Văn Nam, Hiệu trưởng Trường ĐH KTQD, cung cấp thêm một trường hợp “bất bình thường” của đầu tư công: “Ngay ở ĐH KTQD chúng tôi, đầu tư công 116 tỷ đồng xây dựng một tòa nhà, năm ngoái và năm nay đều cắt giảm, tính ra 25 năm nữa mới xây xong. Vậy mà chúng ta đang nói là tập trung đào tạo nguồn nhân lực, mà nhiệm vụ của chúng tôi là đào tạo các nhà quản lý kinh tế cho nền kinh tế!”.

Giám đốc dự án VDF (Diễn đàn phát triển Việt Nam), đại diện Viện nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản – GS TS Kenichi Ohono nhận xét các chính sách kinh tế của Việt Nam là “đã lỗi thời so với các nước Đông Nam Á” và “hoặc sao chép một cách không chính xác các chính sách của các nước hoặc có thái độ cực đoan: không cần học hỏi các nước khác”. GS khuyến nghị: “Việt Nam có thể học hỏi một số quốc gia có một số chính sách chuẩn ở Đông Nam Á như Singapore, từ đó lựa chọn và tập hợp lại để xây dựng chính sách cho riêng mình và phù hợp với yêu cầu của WTO”! Ông cũng khuyên Việt Nam cần nâng cao năng lực con người để đối phó với thách thức và đổi mới nền kinh tế để nâng cao chất lượng phát triển.

KH

Nguồn: sgtt.vn

Bên lề phải, tản mạn về các vua

Nghịch Nhĩ

Lâu nay, vì sợ theo đuôi quần chúng nên thường chỉ xem các báo lề phải. Vẫn thấy không ít tờ báo lề phải hôm trước nói ngược, hôm sau lại nói xuôi, làm người đọc chẳng biết đâu mà lần nhưng gần đất xa trời rồi, đành lấy an toàn là bạn, tai nạn là thù kẻo nhỡ ra lại "được" phân thêm 4 mét vuông đất như Người Buôn Gió hay Cù Huy Hà Vũ…

Nói gì thì nói, đọc báo lề phải cũng thấy khối cái hay, cái mới. Nào đâu xa, mới đầu tháng 12 năm ngoái tuanvietnam.net có đăng bài "Bàn về phương thức cầm quyền của Đảng", tác giả là ông Nguyễn Văn An, nguyên Ủy viên Bộ chính trị, nguyên Trưởng ban Tổ chức trung ương, nguyên Chủ tịch Quốc hội. Vào mạng, thấy tên tác giả là rề rề kích chuột đọc ngay vì trước đó đã được đọc liền mấy bài của ông An, thấy tâm đắc lắm, chứ "bàn về phương thức cầm quyền của Đảng" trên các báo lề phải lâu nay thì biết rồi, khổ lắm, nói mãi.

Càng đọc, càng thấy được lời như cởi tấm lòng vì ông An đã nói ra, viết ra một cách công khai, hợp pháp những thực tế, chân lí, đòi hỏi lớn mà hơn 80 triệu dân Việt Nam mình, có thể nhiều, thậm chí rất nhiều người biết nhưng mấy ai dám nói ra, viết ra như thế. Nào là tính dân chủ của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam còn rất yếu so với tính dân tộc, nào là "dân quyết" là thực chất của tính dân chủ, nào là quyền lực Nhà nước thống nhất ở nơi dân là bản chất của nhà nước dân chủ, nào là phải có luật về Đảng, phải xem lại phương thức cầm quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng để khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay và buông lỏng lãnh đạo, nào là vi hiến mà coi là bình thường thì rất đáng phải báo động, nào là Mặt trận phải có tiếng nói tới nơi, tới chốn để bảo đảm tính dân chủ của mình. Cuối bài, ông An nêu thẳng câu hỏi: "Để bảo đảm cho Mặt trận và các đoàn thể, cho Nhà nước và cho nhân dân phát huy dân chủ, Đảng có nên tự coi mình là lực lượng lãnh đạo đương nhiên không?".

Đọc xong, qua vui liền đến ngay buồn vì bài của ông An chỉ là một cánh én nhỏ, mà cánh én nhỏ thì chẳng làm nên mùa xuân. Theo dõi nhân tình thế thái sau đó còn thấy buồn hơn nữa, tết nhất cũng chẳng thiết đào, mai. Bởi thế, rất cám ơn các báo lề phải đã đưa nhiều tin, bài về các diễn biến ở Tunisia, Ai Cập, Libya, Yemen… Nhờ có hoa nhài mà lòng mới thấy chút xuân.

Ngày 9-2-2011, tuoitre.vn có bài "Những tổng thống - vua" của Nguyễn Ngọc Hùng. Sau khi nhận định "thế giới Ả Rập nổi tiếng với những chế độ và những "nhà cách mạng" cầm quyền suốt đời", tác giả chỉ rõ: "Không chỉ gồm các vương quốc như Saudi Arabia, Jordan, Morocco hay Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất, thế giới khá khác biệt này còn có nhiều quốc gia theo chế độ cộng hòa ra đời từ các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc được cả thế giới biết đến. Nhưng sau khi giành được độc lập, hầu hết các lãnh tụ cách mạng Ả Rập hiện đại này đều dần trở thành những ông vua thật sự của những nền cộng hòa hình thức. Saddam Hussein làm Tổng thống Iraq từ năm 1979 đến 2003 thì bị Mỹ lật đổ. Cố Tổng thống Syria Hafei al-Assad cầm quyền suốt từ năm 1970 đến khi qua đời năm 2000. Lãnh tụ Libya Muammar Gaddafi lãnh đạo nước này từ ngày cách mạng thành công năm 1969 cho đến tận hôm nay, được coi là nhà cầm quyền có thâm niên nhất của cả lục địa châu Phi và thế giới Ả Rập. Còn Tổng thống Ai Cập Hosni Mubarak ngồi ở vị trí này suốt từ năm 1981, sau khi Tổng thống Anwar Sadat bị ám sát, đến tận nay. Tổng thống Yemen Ali Saleh cũng tại vị liên tục từ năm 1978 đến nay. Sudan cũng có ông Omar al-Bashir làm Tổng thống đã được 1/4 thế kỉ. Tại Tunisia, ông Ben Ali mới bỏ chạy khỏi nước ngày 14-1-2011 sau khi đã cai trị nước này suốt từ năm 1987. Nếu xét về thời gian tại vị, các Tổng thống trên còn cầm quyền lâu hơn cả các ông vua trong các vương quốc Ả Rập còn lại, bởi các vị vua này đều qua đời sau thời gian tương đối ngắn ngự trị trên ngai vàng. Chẳng những thế, các Tổng thống cũng lại chẳng thua kém các vương triều ở "truyền thống" cha truyền con nối. Tổng thống Syria hiện nay Bashir al-Assad lên cầm quyền từ năm 2000 khi mới 37 tuổi, để kế vị Tổng thống - cha vừa qua đời. Cố Tổng thống Iraq từng chuẩn bị mọi mặt để con trai thứ hai Qusay Saddam lên thay thế nếu chế độ của ông không bị lật đổ năm 2003. Giới truyền thông Ả Rập và thế giới nhiều năm nay từng tốn bao giấy mực khi bàn tán sôi nổi về những "thái tử của nền cộng hòa" sắp lên "nối ngôi cha", mà nổi bật nhất là trường hợp Gamal Mubarak - con trai trưởng của Tổng thống Mubarak tại Ai Cập và Seif Islam - con trai của lãnh tụ Gaddafi ở Libya".

Ngày 19-2-2011, chungta.com có bài "Saparmurat Atayevich Niyazov - nhà độc tài Trung Á mang dấu ấn kì lạ", trong đó gọi nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, chủ tịch Xô-viết tối cao, Bí thư thứ nhất Ủy ban trung ương Đảng Cộng sản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết Turkmenistan, nguyên Tổng thống Turkmenistan, người đồng chí cũ khi còn sống mang danh "Tổng thống suốt đời", "người cha đáng kính của mọi người dân Turkmenistan" là "kẻ có đầu óc điên dại hoàn toàn", "nhà độc tài đàn áp mạnh nhất". Bài báo cho biết Niyazov đã đổi tên Đảng Cộng sản thành Đảng Dân chủ, và đây là đảng duy nhất được hoạt động ở Turkmenistan (y hệt ở ta), cho bắt bỏ tù những người có tư tưởng đối lập, kiểm soát chặt chẽ các hệ thống báo chí và Internet…

Ngày 21-2-2011, thanhnien.com có bài "Tổng thống tập sự Gamal Mubarak: Các vương triều cộng hòa Ả Rập" của Nguyễn Ngọc Lan Chi, trong đó điểm lại việc năm 1999 Tổng thống Syria Hafez al-Assad qua đời, được "kế vị" bởi con trai Bashar al-Assad khiến dư luận quốc tế bàn tán không ngớt về cái gọi là "quân chủ cộng hòa" và gọi Hosni Mubarak của Ai Cập là "phụ hoàng", Gamal Mubarak, con trai ông ta là "thái tử".

Ngày 22-2-2001, tuanvietnam.net có bài "Một người làm quan cả họ được nhờ" của Alan Phan. Bài này có những đoạn: "Hiện tượng "một người làm quan, cả họ được nhờ" đã tồn tại suốt 10 ngàn năm trong lịch sử nhân loại… Khởi đầu là các chế độ phong kiến với tập tục "cha truyền con nối", "trung thành với vua quan", rồi biến thành "chiến sĩ của các đại lãnh tụ". Dù mọi lý thuyết và thực tế đã chứng minh sự lỗi thời lạc hậu của định kiến này, nó vẫn được tiếp tục trấn đặt trên người dân khắp nơi để bảo vệ quyền hành của các chính trị gia. Từ vị vua chúa ở đỉnh cao đến ông trưởng thôn ở một quận hẻo lánh, lợi dụng quyền lực của mình để gia đình cùng hưởng lợi, nhất là vợ con, đã trở thành một thói quen như ăn uống hay giải trí… Mubarak không phải là vị lãnh tụ Ả Rập đầu tiên muốn đưa con trai mình lên nối ngôi Tổng thống. Trước đó, Tổng thống Assad ở Syria đã thành công đưa con là Bashar al-Assad lên vị trí "number one". Saddam Hussein chuẩn bị đầy đủ cho con trai Qusay lên kế vị trước khi ổng bị giết. Các lãnh tụ từ Muammar Gadafy của Libya, Ali Abdullah Salih của Yemen, đến các vị vua ở Kuwait, Bahrain, UAE, Saudi Arabia... luôn tìm đủ cách để con cái được nối ngôi, dù phải trả giá cao đến bao nhiêu, từ giá hạnh phúc cho gia đình mình đến giá xã hội cho nhân dân đang đói nghèo ngoài dinh thự. Nhìn tới châu Á, tập tục cha truyền con nối còn phổ thông hơn các nơi khác vì triết lí Khổng Mạnh đi theo các chế độ phong kiến vẫn còn tồn tại mạnh mẽ trong xã hội. Gần nhất thì có chủ tịch Kim Jong Il của Bắc Triều Tiên vừa phong chức Đại tướng cho cậu con trai 25 tuổi (Kim Jong Un). Kim Jong Il đã thừa hưởng chức vụ lãnh tụ này suốt 30 năm qua sau khi nhận lại quyền hành từ thân phụ, ngài Kim Il Sung… Tại Trung Quốc, thống kê của Chính phủ khi loan báo đã làm sôi nổi mạng lưới Net là sự kiện 90 % các tỉ phú (US dollars) mới của Trung Quốc theo danh sách Forbes 2009 là "con ông cháu cha" của các cựu lãnh tụ trung ương hay còn gọi là các Hoàng tử đỏ (princelings). Tuy vậy, các lãnh tụ Trung Quốc khôn ngoan hơn các xứ khác: họ cho con cái thay đổi tên họ để tránh sự nhận biết quá rõ ràng về những liên hệ gia đình".

Trông người lại ngẫm đến ta, một mười một mấy nhỉ? Đọc những từ vua, hoàng đế, vương triều, phụ hoàng, thái tử, ngai vàng, nối ngôi… trong các bài báo trên, sực nhớ trong bài viết đầu tháng 12 năm ngoái, ông An khẳng định Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí, dân làm chủ là cơ chế gồm ba chủ thể có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn riêng, không ai làm thay ai, không ai quyết thay ai; nếu Đảng làm thay, quyết thay thì Nhà nước và dân sẽ trở thành hình thức, hữu danh vô thực, người ta sẽ có cảm giác Đảng là vua, không phải là một ông vua như thời phong kiến mà là vua tập thể thời cộng hòa xã hội chủ nghĩa.


Sực nhớ ra, lập tức chột dạ.

Dân Tunisia đã lật đổ "vua" Ben Ali, dân Ai Cập đã lật đổ "vua" Mubarak, dân Libya đang quyết tâm lật đổ "vua" Gaddafi, vậy người dân Việt sẽ nghĩ sao khi biết ông An ví von "Đảng ta" là vua, một vua tập thể thời cộng hòa xã hội chủ nghĩa?


Ông An đã nói thế, viết thế, tình hình Tunisia, Ai Cập, Libya, Yemen… thì đã và đang diễn ra thế mà các báo lề phải lại giật tít, đăng bài có nội dung như thế là hàm ý gì? Định vẽ đường cho hươu chạy ư? Nguy hiểm quá!

Lập cập tìm lại thì không thấy bài của ông An trên tuanvietnam.net nữa. Chắc là nó đã bị dỡ bỏ. Tài thật, tài đến thế là cùng, tiên sư anh Tào Tháo!

Nhưng các bài báo kia thì vẫn còn nguyên.

Bịt thì miệng chĩnh, miệng vò, sao mà bịt được miệng o, miệng dì…

NN


Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

Trong cuộc “đánh trả tự vệ” Việt Nam năm 1979: Vì sao không chia cắt Việt Nam, thương vong khi rút về lớn hơn khi tấn công?

Dương Danh Dy (lược dịch)

Nhà nghiên cứu Trung Quốc Dương Danh Dy vừa lược dịch bài viết mới nhất của Trung Cộng phân tích về những bài học rút ra từ cuộc tấn công đại quy mô trên toàn tuyến biên giới để xâm lăng Việt Nam, trong cái mà họ gọi là “Đánh trả tự vệ” (Tự vệ phản kích).

Bài báo này thực sự là một bản tuyên bố hùng hồn, phơi bày cái bộ mặt đạo đức giả của Trung Cộng phủ nhung với những lời ngon ngọt “Bốn tốt” và “Mười sáu chữ vàng”, ru ngủ được một số người Việt Nam nhẹ dạ, và tiếp tay cho bọn bán nước Lê Chiêu Thống và Trần Ích Tắc thời nay.

Chúng ta thấy gì qua bài viết này?

Trước hết, chúng ta thấy mức độ lươn lẹo của bọn đế quốc Trung Cộng đã vượt xa tất cả các đế quốc đàn anh trong lịch sử thế giới và tất cả các triều đại phong kiến Đại Hán trong lịch sử Trung Hoa. Tất cả các đế quốc đàn anh và các triều đại phong kiến Đại Hán đều tuyên bố công khai trước thế giới về các cuộc chinh phạt của họ. Còn bọn đế quốc Trung Cộng thì luôn luôn cao giọng bù lu bù loa, cào … “mồm” ăn vạ, là họ “đánh trả Việt Nam” là để tự vệ. Thật là hết sức hài hước: Việt Nam là một đất nước quá nhỏ bé, lúc nào cũng cố gắng cầu hòa bên cạnh tên đế quốc Trung Cộng đứng lừng lững như ông hộ pháp trước cổng chùa. Việt Nam đâu dám lấn chiếm đất đai của họ?

Ngược lại chính họ, chính những tên đế quốc Đại Hán thuộc đủ các triều đại, đều tham ăn tục uống, đã có cả lịch sử ngàn năm xâm lăng Việt Nam, đã hàng ngày hàng giờ lấn chiếm từng tấc đất và biển đảo của Việt Nam bằng những thủ đoạn từ trắng trợn đến đê hèn nhất, đã xúi giục Pôn Pốt đánh phá, tàn sát dân lành suốt vùng biên giới với Việt Nam, buộc Việt Nam phải đánh trả cho chúng đại bại, hơn nữa chính Trung Quốc cũng nhân dịp này đã “tạo cớ” cho quân đội Việt nam tiêu diệt một chính phủ cộng sản diệt chủng tàn bạo nhất trên thế giới này.

Từ trước đến nay, người Việt Nam vẫn tin Đặng Tiểu Bình nói thật, rằng Trung Cộng “chỉ muốn” … “Dạy một bài học cho Việt Nam”, về tội Việt Nam đã tiễu trừ tên tay sai Pôn Pốt của Trung Cộng… Thì ra không phải vậy. Bài báo này đã nói toẹt ý đồ sâu xa của Trung Cộng, đó là Trung Cộng muốn chiếm đóng Việt Nam, muốn chia cắt lâu dài Việt Nam để trị, muốn thiết lập một thuộc quốc Việt Nam, hoặc chí ít là một miền Bắc Việt Nam tay sai của Trung Cộng… Nhưng, cũng qua bài báo, bọn Trung Cộng cũng đã đau đớn nhìn nhận, cuộc chinh phạt Việt Nam lần này đã bị quân đội Việt Nam đánh cho đại bại, và chính chúng đã bị nhân dân Việt Nam phỉ nhổ và góp phần cùng với quân đội đánh cho chúng những đòn ô nhục ê chề.

Chúng ta không thể kể hết những thủ đoạn tinh vi của bọn đế quốc Đại Hán cộng sản trong suốt những năm vừa qua, từ trắng trợn tấn công biển đảo của Việt Nam, đến lén lút di chuyển cột mốc, lẳng lặng kéo dài đầu mối đường sắt của Trung Cộng qua biên giới khi “giúp” Việt Nam phục hồi đường sắt sau chiến tranh, đến “mượn” đất chôn mồ mả bố mẹ ông cha của chúng, rồi tuyên bố xanh rờn: “Mộ Hán Tặc ở đâu, đất của Hán Tặc ở đó”…

Đương nhiên, người Việt Nam không thể nào kể hết những thủ đoạn kinh doanh bẩn thỉu nhằm triệt phá kinh tế của Việt Nam, như mua rễ hồi để triệt phá rừng hồi, mua móng trâu để tiêu diệt sức kéo của nông dân nghèo, mua chè chặt xô phơi vàng để nông dân triệt phá đồi chè v.v., và xuất sang Việt Nam những sản phẩm độc hại, nhằm làm suy yếu sinh lực và nòi giống Việt Nam.

Thế mà, thật là nực cười, khi chúng ta đọc được những lời sau đây của bọn đạo đức giả Trung Cộng: “Khi quân đội chúng ta (Hán tặc) gần gũi và yêu mến dân chúng Việt Nam”, … Trời ơi, những ai đã chứng kiến cái thời Trung Cộng kéo quân sang định xâm chiếm Việt Nam dưới chiêu bài giúp Việt Nam “làm đường” phục vụ chiến tranh, thì đều rõ chúng đã “yêu mến dân chúng Việt Nam” đến mức độ nào (!)… Đến khi người Việt Nam nhận ra bộ mặt xâm lăng bẩn thỉu của chúng, cụ Hồ Chí Minh đã khéo léo cảm ơn Trung Cộng để mời chúng về nước, thì bọn quân đội ấy đã “yêu mến dân chúng Việt Nam” đến mức đập phá hết mọi đồ ăn thức dùng ở những nơi chúng chiếm đóng… Những thứ như bể nước, thùng tôn, … không đập phá được thì chúng hùa nhau tụt quần xả ra những thứ không thể thối tha hơn được để tỏ lòng “yêu mến dân chúng Việt Nam”… Nhưng cũng thú vị là, chỉ ngay vài dòng sau đó, tác giả bài báo đã không thể không thừa nhận: “Dân chúng Việt Nam thù địch Trung Quốc...” (đi xâm lược nước người mà lại muốn người yêu mến mình, khôi hài đến thế là hết cỡ), và đã … “tìm cớ hạ thủ quân đội Trung Quốc, và số quân đội Trung Quốc bị hy sinh bởi phương thức này không thể đếm được…”. Và tác giả bài báo phải ôm hận thốt ra một lời thảm hại: “Có đau thương không?”

Đúng, thừa nhận “Dân chúng Việt Nam thù địch Trung Quốc [xâm lược]”, đó là lời cảnh báo đối với những kẻ đang cố khúm núm níu kéo bọn xâm lăng Đại Hán bằng chính luận điệu “Bốn tốt” và “Mười sáu chữ vàng” mà các nhà lãnh đạo Trung Cộng đang rêu rao. Dân chúng Việt Nam đã không u mê với những lời đường mật của đế quốc Trung Cộng và bọn Việt gian tay sai của chúng.

Chúng ta hãy nghe những lời tuyên bố không úp mở trong bài báo: “Sau khi dựng nên một chính quyền Việt Nam thân Trung Quốc rồi sẽ vũ trang, viện trợ và ủng hộ nó giải phóng toàn Việt Nam, hoặc nhân đó chia ra Nam Bắc để trị, chia cắt Việt Nam thành hai nuớc”.

Chúng ta phải thành thật cảm ơn tác giả bài báo. Họ đã tự lột cái mặt nạ giả nhân giả nghĩa bạn bè đồng chí. Họ đã giúp chúng ta nhìn thẳng vào cái mặt nạ ý thức hệ cộng sản để xâm lăng nước ta. Họ đã khoét sâu cái mặt nạ cộng sản, kích động một số người nhân danh ý thức hệ cộng sản mà họ đang cố lợi dụng để ly gián dân tộc ta, để làm tan rã cộng đồng dân tộc Việt Nam, và cuối cùng là để họ trục lợi trong cái mộng bá quyền xâm lăng của họ.

Bài báo có một gợi ý rất hay cho người Việt Nam chúng ta: Có lẽ đã đến lúc người Việt Nam phải thanh toán món nợ ân oán giang hồ “Trung Quốc giúp Việt Nam trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc”, mà thực chất là tâng bốc Việt Nam làm tiền đồn bảo vệ chủ nghĩa cộng sản ở phía nam Trung Cộng, tạo ra một Việt Nam thân cộng sản Đại Hán, một Việt Nam “thuộc quốc” của Trung Cộng, một Việt Nam con bài đô-mi-nô của Trung Cộng trên con đường bành trướng của chủ nghĩa Đại Hán cộng sản xuống các quốc gia Đông Nam Á.

Trả lời bài báo này, tôi muốn nhắn nhủ các nhà lãnh đạo Trung Quốc: Từ trong lịch sử, nhân dân Việt Nam luôn mong muốn một quan hệ hòa hảo với Trung Quốc, bản thân tôi vẫn luôn có những người bạn thân thiết và thầy học khả kính người Trung Quốc, nhưng không bao giờ người Việt khuất phục trước chủ nghĩa xâm lăng Đại Hán, dù đó nhân danh cái gì, kể cả khi chúng đeo cái mặt nạ anh em đồng chí cùng ý thức hệ cộng sản.

Có đôi lần tôi được ngồi với một vị sĩ quan rất cao cấp đang tại chức trong quân đội và một vị sĩ quan cũng rất cao cấp đang tại chức trong ngành an ninh. Tôi nói đến sự lo ngại bọn xâm lăng đang đội lốt anh em đồng chí, lo ngại một số vị nào đó vì ngây thơ bảo vệ ý thức hệ anh em đồng chí mà mất cảnh giác trước nguy cơ xâm lược của bọn Hán Tặc, thì cả hai vị sĩ quan cao cấp đáng kính này đã trấn an tôi như sau: “Anh cần nhớ rằng, bất cứ giờ khắc nào, khi Tổ Quốc Việt Nam lâm nguy, thì quân đội và các chiến sĩ an ninh sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ đất nước này”.

Tôi giật mình. Đúng, lịch sử đã chứng tỏ, dù Tổ Quốc ta tồn tại dưới bất kỷ thể chế nào, dù đó là thời phong kiến hàng nghìn năm bị giặc Tàu đô hộ, hay thời Việt Nam Cộng hòa bị tấn công vùng biển đảo Hoàng Sa, hoặc thời nay bị quân xâm lăng cộng sản tấn công toàn diện từ biên giới Tây Nam đến toàn tuyến biên giới phía Bắc, người Việt Nam không bao giờ khuất phục, ngay cả khi quyền lực còn nằm trong tay bọn Lê Chiêu Thống và Trần Ích Tắc giương giương tự đắc.

Cảm ơn nhà nghiên cứu Dương Danh Dy về bản lược dịch bài báo tuyệt vời này và xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc của Bauxite Việt Nam.

Vũ Cao Đàm


Năm 1979, trong trận đánh trả tự vệ Việt Nam, quân đội Trung Quốc với thế nhanh chóng tấn công, quân Việt từng buớc tan rã, quân đội Trung Quốc nhắm thẳng Hà Nội. Sau đó Trung Quốc tuyên bố trận đánh đã đạt mục đích, tự rút quân về nước.

Lâu nay chúng ta luôn tuyên truyền và miêu tả rằng chúng ta đã thắng lợi và Việt Nam đã thất bại, nhưng cùng với thời gian những văn kiện của chính quyền và tư liệu của Việt Nam cho thấy, cuộc chiến này không lạc quan như tuyên truyền trước đây, trong đó có nhiều bài học nặng nề đau đớn khiến chúng ta không thể không phản tỉnh một cách sâu sắc.

Thứ nhất, kỷ luật quân sự nghiêm túc đã làm quân ta phải trả giá trầm trọng.

“Ba kỷ luật lớn, tám điều chú ý” mà quân đội ta giữ nghiêm đã phát huy tác dụng lớn trong cuộc nội chiến Quốc, Cộng là vì qua đó đã thể hiện được chính nghĩa, công bằng của quân đội ta, thế nhưng khi chúng ta vào Việt Nam đánh quân đội và chính quyền Việt Nam mà vẫn thực hiện “ba kỷ luật lớn tám điều chú ý” là tự trói chân trói tay mình lại, hy vọng dùng những cái đó để tranh thủ sự giúp đỡ và ủng hộ của nhân dân Việt Nam thì chẳng khác gì đàn gảy tai trâu, tự chuốc lấy nhục. Nhân dân Việt Nam không phải là công dân Trung Quốc, làm sao họ có thể gần gũi quân đội nước ngoài đánh vào đất nước họ? Khi quân đội chúng ta gần gũi và yêu mến dân chúng Việt Nam, dân chúng Việt Nam thù địch Trung Quốc và quân đội Việt Nam ở lẫn trong đó sẽ tìm cớ hạ độc thủ quân đội Trung Quốc, và số quân đội Trung Quốc bị hy sinh bởi phương thức này không thể đếm được, có đau thưong không?

Chiến tranh là chiến tranh, nhất là chiến tranh giữa các quốc gia, anh không thể hy vọng nhân dân nước khác đánh trống khua chiêng hoan nghênh anh xâm chiếm ngưòi ta, đó chẳng qua chỉ là trò bịt tai đi ăn cắp chuông, tự lừa dối mình và lừa dối người.

Thứ hai, không quân phát triển trì trệ, lạc hậu không có sức công kích.

Đánh trả tự vệ Việt Nam cực kỳ ác liệt, khi bộ đội mặt đất khó tiến công về phia trước, lục quân mong mỏi nhất là có sự chi viện mạnh mẽ của không quân, thế nhưng trong lúc mỏi mắt mong chờ, không quân Trung Quốc vẫn im lặng. Trong khi đó không quân Việt Nam đã khiêu chiến trước nhưng trước số lượng máy bay Trung Quốc đông gấp nhiều lần chúng đã bỏ chạy, ta bắn tên lửa đuổi theo nhưng không trúng. Có bắn rơi máy bay địch nhưng là công của bộ đội mặt đất.

Vì sao không quân Trung Quốc lại quẫn bách như thế? Một mặt không quân chúng ta thiếu thiết bị định vị, không có nó tên lửa không thể bắn trúng mục tiêu. Một mặt là do ảnh hưởng của cách mạng văn hóa lâu dài, không quân không bay đủ giờ bay huấn luyện, khi huấn luyện lại giảm các tiết mục bay khó… cho nên không có phi công giỏi

Thứ ba, hải quân Biển Đông lúc đó còn chưa phát triển.

Cuộc chiến hoàn toàn diễn ra trên lục địa Việt Nam. Đánh Việt Nam vừa để dạy bài học, vừa thu hồi lãnh thổ bị chiếm, vùng gần biên giới trên bộ bị Việt Nam chiếm giữ đã thu hồi hết, cớ làm sao không thu hồi các đảo, bãi trên Biển Đông bị Việt Nam chiếm giữ? Chẳng lẽ lo rằng chiến sự sẽ leo thang vô hạn ư? Chẳng phải là hai nước đã đánh nhau toàn diện rồi ư? Chẳng lẽ đó không phải là đảo, bãi của ta? Thế mà chẳng phải là chúng ta vẫn luôn kêu gào rằng đó là lãnh thổ thần thánh không thể xâm phạm của mình?

Điều giải thích duy nhất là hải quân của chúng ta chưa đủ, không chỉ chưa đủ để đánh lùi hải quân Việt Nam chiếm giữ đảo bãi của ta mà còn khó có thể đóng giữ ở đó, đánh lùi được kẻ địch tới xâm phạm. Điều khiến người ta lấy làm tiếc là các đảo bãi trên Biển Đông dưòng như đã bị các nước láng giềng xung quanh chia nhau chiếm hết rồi. Cho đến nay hải quân của chúng ta vẫn chưa dùng tới sức đã có của mình để giải phòng và bảo vệ các đảo, bãi thiêng liêng đó.

Thứ tư, sức ép bên ngoài thúc giục rút quân, tổn thất trầm trọng.

Khi quân đội ta đã tiến gần Hà Nội, dưới sức ép của thế lực quốc tế đứng đầu là Liên Xô, chúng ta không chỉ tuyên bố đình chỉ tấn công, mà còn công khai tuyên bố lập tức rút quân. Nhà đương cục Việt Nam đang lúc kinh hồn hoảng sợ đã lập tức tuyên bố phản công toàn tuyến, quân đội Trung Quốc đang ở thế vừa công vừa thủ nên so với lúc tấn công đã bị thưong vong nặng nề.

Đó là một sai lầm chính trị và quân sự to lớn, trước khi rút quân đã tuyên bố rút sẽ khiến kẻ thù dễ dàng có thời gian và không gian chuẩn bị phản kích. Địch có chuẩn bị còn ta thì không, địch thong dong mà chúng ta vội vã, không bị thương vong lớn mới là chuyện lạ.

Thứ năm, chia cắt Việt Nam để mất thời cơ tốt.


Đánh Việt Nam chúng ta chỉ muốn dạy cho nhà đương cục Việt Nam một chút, nên quân gần đến Hà Nội đã vội vàng rút quân. Cho dù chúng ta đã đánh vào vùng đất hiểm của Việt Nam, đã là xâm lược rồi sao còn cố sống cố chết giữ lấy cái mặt nạ chính nghĩa, tự cho mình là những đấu sĩ chính nghĩa. Quân đội đã tới gần Hà Nội, một nửa Việt Nam đã ở trong tay chúng ta, giả sử chúng ta không muốn tiếp tục tiến nữa để hoàn toàn tiêu diệt nhà đương cục Việt Nam, thì cũng nên gây dựng một chính quyền Việt Nam thân Trung Quốc. Sau khi dựng nên một chính quyền Việt Nam thân Trung Quốc rồi sẽ vũ trang, viện trợ và ủng hộ nó giải phóng toàn Việt Nam, hoặc nhân đó chia ra Nam Bắc để trị, chia cắt Việt Nam thành hai nuớc.

Một khi điều đó xảy ra, một chính quyền Việt Nam thân Trung Quốc, hoặc một chính quyền Bắc Việt Nam thân Trung Quốc sẽ trở thành láng giềng hữu hảo của Trung Quốc, không chỉ một lần đến tay, có thể giải quyết xong vấn đề lãnh thổ và chủ quyền của Việt Nam mà còn có thể từ một cú đánh, đập tan hành vi bá quyền của Việt Nam tại Đông Nam Á. Đáng tiếc là chúng ta đã không có tính toán đó, không có chiến lược đó, nói làm gì đến chuyện có sự chuẩn bị trước.

Đánh trả tự vệ đã hơn ba mươi năm rồi, cục diện quốc tế đã mấy lần bãi biển nương dâu, bộ mặt Trung Quốc cũng mấy lần đổi mới, Trung Quốc không còn là Trung Quốc ngày xưa nữa.

Thế nhưng cần tổng kết quá khứ, để nghênh đón tưong lai. Từ trong sai lầm lịch sử chúng ta phải tìm ra trí tuệ mới…, xây dựng quốc phòng hùng mạnh, xây dựng một nước Trung Hoa quật khởi và hưng thịnh

DDD


Nguồn: China.com ngày 20/2/2011 (Võng thưọng đàm binh: đối Việt phản kích chi cảm: vi hà bất chi giải Việt Nam, tán thoái tỷ tấn công thương vong đa)

Người giới thiệu gửi trực tiếp cho BVN