Thứ Năm, 20 tháng 1, 2011

Từ bức thư tình của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn…

Posted by dinhtan
Tác giả: Nguyễn Thị Thắng

Gần nửa thế kỷ trôi qua, khi đọc lại những đoạn thư đầy chất thi ca của người nhạc sĩ tài hoa, vẫn không thể ngừng suy ngẫm về lối văn hóa viết thật bình dị mà thấm thía một thời.

Ngôn ngữ viết: nửa thế kỷ và những đổi thay

… “Hãy xem mọi lỗi lầm đều ở anh cả và sau quyết định này là một lối ngỏ thênh thang trên đó Ánh hãy đi vào những phiêu lưu mới đừng ăn năn, đừng băn khoăn gì cả. Tất cả đã rõ như một khoảng trắng. Cũng đành vậy thôi.

Anh đã nhìn thấy tình yêu ở một độ cao nhất của thủy triều. Quyết định như không thuộc về anh…

Anh đã bất lực không cứu vãn gì được cho tình yêu của mình. Thêm một lần đánh mất thất lạc những vàng son.

Đã viết quá dài ngoài ý muốn nhưng nói một lần mà cho tất cả về sau…“

… “Anh nghĩ đến chúng mình, nghĩ đến tình yêu bình thản như hai thân cây, đứng kề nhau một ngày không gió. Tình yêu không thể là vẻ trầm tĩnh đó được. Không thể là dòng sông già nua chưa có lần làm quen với bão sóng.

Phải thổi thêm sinh khí vào cho tình yêu. Phải cho hai thân cây lao xao trong một ngày bão động- như bể ồ ạt sóng lẫn vào nhau.

Yêu nhau là hòa lẫn vào nhau…“

Đây là hai trích đoạn trong khoảng 300 bức thư tình cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn gửi tặng tình yêu của mình- bà Dao Ánh. Tôi tin chắc đây không phải hai trích đoạn hay nhất. Nhưng chỉ vậy thôi mà gần nửa thế kỷ trôi qua, con người hiện đại của tôi hôm nay, khi đọc lại những đoản văn đầy chất thi ca của người nhạc sĩ tài hoa này, không thể ngừng suy nghĩ về một lối văn hóa viết thật bình dị mà đậm đà và thấm thía một thời.


Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
Tiếng Việt ngày nay không còn những sắc thái biểu cảm (thần thái) như thứ tiếng Việt của nửa thế kỷ trước. Tiếng Việt bị pha tạp với tiếng Anh là một thực tế phổ biến hiện hữu trong văn chương và báo chí ngày nay.

Còn thứ tiếng Việt mất dạng thì len lỏi sống trong ngôn ngữ chat trên Yahoo, ngôn ngữ của “status” (trạng thái) và “comment” (bình luận) trên các mạng xã hội và dai dẳng hơn nữa là thứ tiếng Việt mang tên “di động”. Những chữ “i” hay “y”, “c” hay “k” được đổi chỗ tùy tiện miễn sao người viết cảm thấy vừa mắt và cảm thấy “thích”, còn chữ “gi” nghiễm nhiên được rút gọn lại thành “j” để tiết kiệm ký tự trong tin nhắn… Rồi còn rất nhiều các dạng biến thể khác mà đến trời, đất cũng không biết, chỉ người trong cuộc mới hiểu!

Hình dáng tiếng Việt đang có những thay đổi thật bất ngờ! Nhưng nhiều người lại không thấy cái bất ngờ đó có gì khó chịu. Bởi đối với họ, viết chỉ là một phương tiện giao tiếp, nên việc hiểu được đối phương viết gì và đối phương hiểu mình viết gì là “ok”. Đối với họ, ngôn ngữ viết gắn liền với thông tin và chỉ thông tin.

Một kho tàng bị lãng phí

Nhưng theo tôi, cần nhìn ngôn ngữ viết ở một góc độ văn hóa nghệ thuật, ở góc độ của tâm hồn con người. Văn chương thể hiện rõ nhất tâm hồn con người. Dân gian xưa có câu “văn mình, vợ người” cũng phần nào ám chỉ đặc tính trên. Thông thường con người có tính yêu bản thân nên việc họ yêu văn của họ cũng là yêu chính bản thân họ.

Ngôn ngữ viết khắc họa suy nghĩ, lột tả tính cách con người. Với một số người, đó là cánh cửa dẫn dắt mọi người đến với con người thật của họ; với 1 số khác, đó lại là cửa thoát hiểm – viết đơn giản là để giải thoát mình, giải thoát cái phần ẩn giấu, chất chứa trong mình…

Mặt khác, ngôn ngữ viết gắn liền với văn hóa, văn hóa thể hiện trong ngôn ngữ viết và ngược lại, ngôn ngữ viết thể hiện một nền văn hóa. Nếu bạn học tiếng nước ngoài, các thầy cô sẽ muốn bạn viết theo văn phong nước đó, vì bạn viết khác thì người bản địa đọc sẽ không hiểu.

Để viết với văn phong đó, bạn phải suy nghĩ theo cách của họ, bạn phải hiểu nền văn hóa của họ. Lâu dần thành quen, bạn lại trở nên giống với họ. Nói như vậy thì ngôn ngữ viết hẳn sẽ còn rất nhiều bất ngờ khác nữa mà hiện tại ta khó có thể hình dung hết, vì đơn giản ngôn ngữ đi cùng với thời đại. Như giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập, người người học tiếng Tây, nhà nhà chuộng đồ ngoại.

Đây là một xu thế tất yếu của một quốc gia đang phát triển trong quá trình hội nhập vào nền văn minh toàn cầu. Những cái gì người ta cho là từ trời Tây hay những cái gì na ná giống Tây thì đều tốt, đều hiện đại và đều đáng để học.

Tâm lý sính ngoại hình thành và ảnh hưởng ngay đến văn hóa viết của người Việt, nhất là những người Việt trẻ. Cách diễn đạt câu cú, cách dùng từ hay tựu chung lại là cách hành văn của giới trẻ ngày nay đều lấp ló hình ảnh của những “ông Tây bà đầm”. Câu cú thường nhanh gọn, dễ “tiêu hóa”, ít hình tượng, đơn giản – chẳng khác gì đồ ăn fastfood ngày càng du nhập mạnh vào Việt Nam. Không giống hoàn toàn với fastfood bên Tây mà là một kiểu fastfood dành cho người Việt – cũng giống như văn Việt bây giờ – Tây hóa vừa phải để phù hợp với “dạ dày” của ta!

Không phải tôi đang phê phán, phàn nàn hay chê bai gì cách viết này. Tôi chỉ thấy cách viết này làm giảm mất cái sắc, cái hương đằm thắm của tiếng Việt – đọc mà không thấy sâu, đọc lâu mà không thấy ngấm.

Cách viết này cũng không tận dụng được sức mạnh của ngôn từ. Tiếng Việt vốn nhiều mỹ từ và từ vựng cũng rất phong phú, rất mang tính đặc tả. Ngữ pháp câu từ trong tiếng Việt vốn mang tính chất mở để người viết có thể thỏa sức sáng tạo. Vì thế, nếu chỉ dùng những từ tiếng Việt đơn giản, những câu thông thường thì chúng ta đã bỏ phí cả một kho tàng những giá trị đẹp của tiếng Việt!


Thứ tiếng Việt mất dạng thì len lỏi sống trong ngôn ngữ chat trên Yahoo, ngôn ngữ của “status” (trạng thái) và “comment” (bình luận) trên các mạng xã hội. Ảnh minh hoạ
Đọc lại những trích đoạn trong bức thư tình của Trịnh Công Sơn, ta sẽ thấy phảng phất trong ngôn từ đó là những hình ảnh chứa chan cảm xúc, ẩn sâu trong từng câu là những giai điệu, có nốt trầm lắng, có nốt cao và có nốt thấp. Đọc chúng, ta cảm nhận được nhịp đập trái tim của một người đang yêu – thổn thức, xốn xang, suy tư mà cũng đầy phấn khích.

Chỉ một đoạn ngắn ngủi cũng giãi bày được cả tấm chân tình – sức mạnh ngôn từ là ở đó, vẻ đẹp ngôn từ là ở đó. Từng câu văn khiến ta liên tưởng đến những giai điệu của thi ca, rất đậm chất thơ, chất nhạc và mang tải cái hồn của đất Việt.

Đọc văn Việt xưa, theo tôi, là cách rất hay để tìm lại những giá trị xưa. Hiện nay, chúng ta ra sức bảo tồn di sản, kỷ vật, trùng tu lại những di tích hay khai phá thêm những dấu tích xưa. Mục đích cuối cùng cũng là làm sống dậy giá trị xưa trong cuộc sống ngày nay. Nhưng có lẽ chúng ta lại quên mất rằng việc gìn giữ và phát huy các tác phẩm văn học lại chính là một cách thiết thực, lâu dài và có tác dụng bền vững đến thế hệ trẻ ngày nay.

Việc giáo dục giới trẻ tình yêu văn học Việt chính là một cách nhẹ nhàng mà thấm thía để hướng họ hiểu và yêu một Việt Nam xưa. Để họ thêm trân trọng các giá trị cũ, để phát huy những giá trị Việt trong con người mình và quan trọng hơn cả là để “hòa nhập chứ không hòa tan” trong thời đại toàn cầu hóa này.

Nhưng liệu việc đó có quá khó, khi mà thị trường ngày nay ngập tràn những tác phẩm văn học dịch từ tiếng nước ngoài? Khi chúng ta thừa những tác phẩm mang ngôn ngữ pha tạp, thậm chí xô bồ, nhưng lại thiếu những tác phẩm thật sự chất lượng và mang bản sắc Việt?

Câu hỏi này đang còn bỏ ngỏ cho các tác giả, nhà xuất bản, các soạn giả, các nhà giáo… – những người đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng gu thẩm mỹ, cách cảm thụ văn học của giới trẻ.

Tuanvn

VIỆT NAM CẦN CÓ CHIẾN LƯỢC NGOẠI GIAO CẦU HIỀN

GS.TSKH Nguyễn Đăng Hưng trả lời PV Thời báo Kinh tế VN:

Cần chính sách ngoại giao khéo léo để cầu hiền cho đất nước!
Trần Xuân Thái thực hiện

Trần Xuân Thái: Thưa GS, GS từng nói: Càng có đông người đi du học càng là một dịp may cho đất nước mình; việc họ chưa về kịp, lại là công việc của ta ở bên nhà. Là người từng sống và tham gia giảng dạy tại châu Âu gần nửa thế kỷ qua, GS trải nghiệm điều này như thế nào khi đưa ra nhận xét như vậy?
GS Nguyễn Đăng Hưng: Trong điều kiện hiện tại của trình độ KH&CN Việt Nam, việc đi du học ở các nước tiên tiến là điều cần thiết cho công cuộc HĐH và CNH đất nước. Việc ngày càng đông người Việt đi du học nói lên thu nhập của người Việt Nam đã tăng, cũng như quan tâm của chính phủ trong việc nâng cao trình độ của các tầng lớp lãnh đạo trong xí nghiệp, cơ sở hành chính, trường ĐH. Đây là cơ may cho đất nước vì người dân cũng như chính quyền đã có ý thức rõ về yêu cầu của tri thức trên bước đường phát triển và canh tân đất nước. Việc du học sinh có điều kiện kéo dài công tác ở nước ngoài, thu thập thêm kiến thức, kiện toàn tay nghề qua thực tập tại các trung tâm nghiên cứu hay xí nghiệp tiên tiến là điều rất tốt, thậm chí nên khuyến khích. Thật vậy, sau khi tốt nghiệp đại học hay cao học, học viên chỉ đạt trình độ chứ chưa chắc đã có tay nghề, đã thâm nhập chuyên sâu. Huống nữa, về nước ngay trong khi điều kiện làm việc chưa có chuẩn bị, lắm khi là một phí phạm đáng tiếc.

Trần Xuân Thái: Đâu là phương án tối ưu cho việc đào tạo chất xám chất lượng quốc tế và đồng thời giảm được tình trạng chảy máu chất xám?

GS Nguyễn Đăng Hưng: Để giảm thiểu tình trạng chảy máu chất xám, tôi đề nghị nên triển khai mô hình mà tôi đã thực hiện qua 2 chương trình đào tạo các lớp cao học hợp tác với các đại học Bỉ và châu Âu tại ĐHBK Tp.HCM (1995-2008) và ĐHBK Hà Nội (1998-2008). Thật vậy, mô hình du học thạc sỹ tại chỗ ít tốn ngân sách, gắn bó học viên với những công trình xây xựng đất nước, giảm thiểu thời gian lưu trú tại nước ngoài đó là những ưu điểm tiết kiệm ngân sách cùng một lúc không gây thất thoát chất xám. Loại dự án này cần liên kết với các ĐH tiên tiến qua trung gian của các giáo sư tâm huyết với Việt Nam, đặc biệt các giáo sư Việt kiều đang hành nghề hay đang nghĩ hưu tại hải ngoại. Dĩ nhiên là phải cảnh giác với giới lừa đảo và có kiểm tra nghiêm túc ngay từ đầu thông qua các chuyên gia có tầm cỡ quốc tế. Những liên kết đào tạo phát hiện gần đây có nhiều tiêu cực vì ta thả lỏng cơ chế kiểm tra. Mà ban kiểm tra phải là thành phần ĐH có chất lượng, khách quan vô tư…

Trần Xuân Thái: - Nghĩa là, để “cầu hiền” cho đất nước, ta cần phải có các chính sách “ngoại giao khéo léo”?

GS Nguyễn Đăng Hưng: Đúng vậy! Vấn đề là chính phủ phải tích cực xây dựng cho được tại Việt Nam một môi trường làm việc thân thiện, hấp dẫn, dân chủ, cởi mở, chuẩn bị cơ chế lương tiền hợp lý, xây dựng những kênh thông tin qua lại thường trực với cựu du học sinh để tối ưu hóa hành trình trở về phục vụ của họ… Có được như vậy phần đông họ sẽ trở về thôi. Người Việt nào mà chẳng muốn dành tài sức của mình cho đất nước. Tôi nghĩ Việt Nam nên tìm hiểu những chính sách mà Singapore đã triển khai trong những năm 70 của thế kỷ trước, hay những biện pháp mà Trung Quốc đã áp dụng ngày họ bắt đầu mở cửa.

Trần Xuân Thái: -Là một chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, GS đã thường nói đào tạo người có trình độ khoa bảng chưa đủ mà còn phải có không gian môi trường làm việc thoả đáng cho chuyên gia và trí thức? Vậy vấn đề của nó là gì?

GS Nguyễn Đăng Hưng: Như tôi nói ở trên và gần đây GS Ngô Bảo Châu, nhà toán học Việt Nam đầu tiên đoạt giải Fields năm nay, đã nhiều lần nhắc nhỡ là khoa học cần một không gian tự do, một môi trường dân chủ cởi mở thông thoáng. Khoa học phát triển không ngừng, mà phát triển chính là bác bỏ cái cũ, phát huy cái mới, công khai công bố những thành quả ra diễn đàn quốc tế cho mọi người biết đến để kiểm nghiệm, xác tín. Nhà nước trong điều kiện cho phép phải đầu tư cho việc tạo dựng hình thành môi trường mở này, cung cấp kinh phí để xây dựng phòng thí nghiệm, để các nhà khoa học tham gia hội nghị, tổ chức hội thảo, xuất bản và tán phát sách báo. Dĩ nhiên một nước trên đường phát triển như Việt Nam ta không thể có hết một sớm một chiều, nhưng việc khởi đầu một tư duy mới là cần thiết. Tư duy khép kín chung quanh cái ao làng phải dành chỗ cho tư duy mới tự do và dân chủ…

Trần Xuân Thái: Ở các quốc gia tiên tiến, việc lựa chọn nhân tài như thế nào, thưa GS?

GS Nguyễn Đăng Hưng: Trước hết người ta xác định trường học là nơi trau dồi kiến thức, hình thành nhân cách rồi sau đó mới là nơi đào tạo chuyên môn. Mọi khả năng dùng trường học làm nơi tuyên truyền cho phe phái chính trị hay các nhóm lợi ích phải được xóa bỏ. Bậc mẫu giáo và bậc THPT được mở rộng cho mọi tầng lớp nhân dân và mọi chi phí là do nhà nước đảm trách. Chi phí bậc CĐ và ĐH không được quá cao, vì nguyên tắc là phải tạo cơ may cho mọi từng lớp nhân dân vào ĐH. Những gia đình có thu nhập thấp được chiếu cố đặc biệt với chính sách học bổng cho con em với những tiêu chí ưu tiên cho người học trò giỏi.

Việc đào tạo người thầy được coi trọng để đảm bảo chất lượng chung cho giáo dục. Lương bổng cũng được tính sao cho hợp lý để giữ chân thầy giỏi và cuộc sống trung bình của giới giáo chức phải khả quan trong mặt bằng xã hội. Trong môi trường giáo dục lành mạnh và thông thoáng như vậy, nhân tài sẽ được thoát ra từ các cuộc thi tuyển, thi cuối năm, thi tốt nghiệp. Thí dụ như ở Mỹ, các trường ĐH lớn không nhận vào làm giáo sư các tiến sỹ do chính trường mình đào tạo mà sẽ chọn nhân sự đến từ các trường ĐH khác. Những năm đầu làm trợ giáo tại ĐH Liège, tôi đã từng thay thế thầy tôi chấm thi cho con thầy vì thông lệ không cho phép cha chấm bài thi của con.

Trần Xuân Thái: Vậy, làm thế nào để ta có thể tranh thủ được thật tốt chất xám của trí thức Việt kiều về nước tham gia đóng góp trí tuệ và công sức xây dựng đất nước?

GS Nguyễn Đăng Hưng: Đây là đề tài lớn, tôi chỉ đề nghị được trả lời ngắn gọn 3 điểm chính yếu.

Trước hết, phải xây dựng cho được một môi trường xã hội công bằng minh bạch, một môi trường ĐH hay viện nghiên cứu tự do dân chủ thông thoáng và thân thiện. Công bằng minh bạch có nghĩa là người đứng đầu phải có thực tài và đức độ. Thông thoáng và thân thiện có nghĩa là không gò bó, không quan liêu mệnh lệnh, không kỳ thị lý lịch phiền hà.

Kế đến, muốn có trí thức Việt kiều đông đảo về giúp nước, trước hết phải đối đãi tốt với trí thức trong nước, tạo điều kiện thông thoáng cho họ phát huy như tự do phản biện, tự do thành lập các hội chuyên ngành, bảo đảm tính độc lập khách quan của sinh hoạt trí thức… Sau hết, phải có chính sách lương tiền, điều kiện ăn ở đi lại hợp lý không quá xa với điều kiện thông thường ở các nước mà người Việt kiều đang công tác. Làm sao tập hợp được số đông người này để có thể sử dụng được thứ chất xám quý giá ấy? Tôi cho là, rất cần quyết tâm chính trị, trình độ và nghệ thuật lãnh đạo. Ở đây yếu tố Việt kiều là rất cần thiết: ai là người có kinh nghiệm lâu năm cọ xát với nghiên cứu khoa học, cạnh tranh công nghệ quốc tế? Tất cả những việc này không có gì mới, nhiều nước đã làm rồi, gần ta nhất là Singapore và Trung Quốc.

Trần Xuân Thái: - Sau nửa thế kỷ sinh sống và giảng dạy ở nước ngoài, trong đó có mười mấy năm lăn lộn con thoi đi - về trong nước và nước ngoài, GS cảm nhận và chia sẻ được điều gì?

GS Nguyễn Đăng Hưng: Trong nửa thế kỷ sinh sống và làm việc tại Bỉ, tôi đã có 40 năm giảng dạy tại ĐH lừng danh Liège, đi thỉnh giảng dài hạn tại nhiều nước trên thế giới. Tôi thâu thập được nhiều bài học về các chính sách giáo dục, về các phương thức quản lý ĐH của nhiều nước.

Lăn lộn tại Việt Nam đã hơn 20 năm tôi cũng nắm bắt được tình hình cụ thể của nền giáo dục và nghiên cứu khoa học tại Việt Nam. Phải nói rằng, nền giáo dục Việt Nam có nhiều vấn đề có tính hệ thống mà việc khắc phục, cải tiến lại quá chậm chạp. Tôi thấy trên lĩnh vực ĐH, nạn “di tản” du học đã phát triển trên bình diện quy mô. Ai có chút tiền cũng muốn gởi con ra ngoại quốc. Ra các nước tiên tiến là chuyện thường tình, song họ sẵn sàng gởi sang các nước trong khu vực như Thái Lan chẳng hạn, miễn là ra khỏi Việt Nam! Đây thực sự là “triệu chứng” mất lòng tin trầm trọng của dân chúng vào nền giáo dục của chính nước mình. Rồi mấy năm gần đây việc gia tăng học phí ở cấp phổ thông lại kéo theo một hậu quả đương nhiên là tình trạng bỏ học ngày càng rõ nét, đặc biệt ở vùng xa vùng sâu. Tình trạng chạy theo thành tích lại tái phát hiện ở nhiều nơi, nếu ta xem kỹ kết quả của những kỳ thi trung học vừa qua. Việc phát động phong trào nâng cao chất lượng các trường đại học là một điểm tốt nhưng cơ quan kiểm định lại chưa bảo đảm tính độc lập, khách quan vô tư và nạn vừa đá bóng vừa thổi còi là phổ biến. Tôi cảm thấy rất lo lắng cho tương lai. Bộ trưởng mới Bộ GD&ĐT Phạm Vũ Luận sẽ có nhiều việc phải làm vì công cuộc cải tổ nền giáo dục vẫn còn bề bộn ở phía trước. Tuy nhiên tôi hy vọng sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI, sẽ có một sự khởi đầu quyết liệt cho những chính sách làm thay đổi sâu đậm nền giáo dục nước ta.

Trần Xuân Thái: Xin cảm ơn GS, và xin được chúc mừng GS vừa được Nhà vua Bỉ trao tặng Huân chương Đại thần Vương quốc Bỉ vào năm 2010.

Trần Xuân Thái thực hiện.
Bài đăng trên số Tết Tân Mão 2011, Thời báo Kinh tế Việt Nam (Vietnam Economic Times).
Nguồn: Nguyễn Đăng Hưng-Blog.

Yêu và ăn- Ác giả ác báo.

Đăng bởi Nguyễn Quang Lập

Thừa nhận hồi trẻ mình được nhiều con gái thích. Tính mình vui vẻ, hay nói cười đùa cợt chọc ghẹo, lại thêm tí tài văn nghệ văn gừng nên được các nàng hay để ý. Thời đó đều đói nghèo như nhau cả, giàu nghèo chỉ phân biệt áo rách hay áo lành, đủ bữa hay đứt bữa vậy thôi. Hơn nữa đang còn con nít cũng ít đứa quan tâm đến chuyện giàu nghèo. Thời phổ thông, hot boy là đẹp trai học giỏi. Lên đến đại học mới bổ sung vào tiêu chuẩn hot boy là đẹp trai học giỏi con nhà giàu. Nói chung chẳng cần nhà giàu, cũng chả cần học giỏi, chỉ cần đẹp trai là thành hot boy.

Một buổi tối hồi học lớp 10, thằng Hiển đạp xe đến tận nhà trọ của mình, mặt mày quan trọng gọi mình ra, nói tao nghe mấy em bình bầu, khối 10 đẹp trai nhất là thằng Ngô Phi Hải, thứ nhì là mày. Mình sướng rêm. Từ bé đến lúc đó chưa bao giờ nghĩ là mình đẹp trai, cũng chưa có ai khen mình đẹp trai. Thấy con gái hay cảm tình thì cũng chỉ nghĩ chắc chúng nó muốn làm thân để hỏi bài, thế thôi. Lần đầu nghe thằng Hiển thông báo mới biết chẳng những mình đẹp trai mà còn đẹp trai thứ nhì, sướng muốn chết, cả đêm lâng lâng lăn qua lăn lại không ngủ được, vừa bảnh mắt đã nhảy ra cái chum nước soi mặt ngay, thấy cái mặt mình sao mà đẹp thế không biết. He he.

Bây giờ mới để ý đến vì sao con gái thích mình. Thời học trò thì chỉ ý đến nhau, thích nhau chứ chả yêu đương gì đâu, thế cũng sướng củ tỉ rồi. Một hôm mình ngồi nói chuyện ăn với bọn con trai, nói mình thích nhất món cơm rượu ( chả biết món này nơi khác gọi là gì, chỉ biết đó là món cơm nguội ủ men rượu, ăn ngòn ngọt cay cay chua chua rất ngon, quê mình gọi là cơm rượu). Sáng sau có ba nàng trong lớp gọi mình ra riêng, nàng nào cũng dúi cho mình một gói cơm rượu. Hôm đó mình được bữa no cơm rượu còn ba nàng thì cãi nhau, vì nàng này thấy nàng kia lén cho mình cơm rượu, các nàng hằm hè nhau suốt học kì, hi hi.

Trường cấp 3 Bắc Quảng Trạch hồi đó khoá nào cũng có nhiều nàng rất xinh, khóa mình có nàng Th. xinh nổi tiếng. Các chú bộ đội hồi đó kháo nhau, nói về Quảng Bình mà không thấy con Th. coi như chưa về Quảng Bình. Nàng Th. học lớp 10 E, mình cũng không để ý lắm, đánh đu với mấy nàng lớp 10B cũng đủ mệt rồi, chả thiết tha gì đến nàng. Hơn nữa thấy nàng nào mới nứt mắt đã phong nhũ phì đồn thì chê là xấu, không thích. Nhưng nàng Th. lại để ý đến mình, chào cờ sáng thứ hai nào hễ tập trung toàn trường là nàng cũng cố tình va vào mình, va xong thì kêu ui, lườm cái cười cái, nói vô duyên chưa tề, rồi ngoảy đít bỏ chạy. Bây giờ nhớ lại mới biết như thế là người ta thích mình nhưng hồi đó chả biết gì, cũng chả quan tâm.

Thằng Hiển khôn sớm, tí tuổi đầu đã biết làm đỏm, thấy con gái đẹp là mê tít, nó rỉ tai mình, nói con Th. nó thích mày đấy. Mình chả tin, té ra thật, nàng tìm đến nhà trọ của mình xin ở trọ, quá ngạc nhiên. Mình ở trọ với thằng Trung, thấy con gái đến ở chung mừng lắm, đỡ phải nấu cơm rửa bát giặt áo quần. Nhưng nàng Th. chỉ rửa bát giặt áo quần cho mình thôi, không bao giờ làm việc đó với thằng Trung. Khi nàng nấu cơm bao giờ cũng gọi thằng Trung sai vặt. Thằng Trung tức điên, nói răng mi không sai thằng Lập, toàn sai tau? Hi hi nó còn rủ thằng Khoa núp chuồng lợn rình xem mình với nàng có làm gì không. Khổ, làm gì, biết gì mà làm, cầm cái tay cũng chẳng dám còn bảo làm gì.

Khổ thân gái đẹp, nàng Th. chẳng học hành gì được, suốt ngày lo trốn bộ đội với các thầy đến cưa cẩm. Mình và thằng Trung thích lắm, vì bao giờ các đồng chí tán gái đến chơi cũng có quà khi thì bánh ngọt khi thì hoa quả. Nàng không bao giờ đụng đến mấy thứ đó, chỉ béo mình với thằng Trung, chỉ cần chờ các đồng chí ra về là hai thằng tranh nhau ăn no. Có hôm đói bụng, hai thằng nằm gác chân lên nhau thở vào thở ra, nói răng bữa ni không có đồng chí mô đến thăm em Th. rứa hè. Nàng Th. nghe thế thì chạy xộc đến mắt trợn tay chỉ, nói này, đừng có điên nha đừng có điên nha. Hai thằng cười, trêu nàng. Điên tiết nàng vác đòn gánh đuổi hai thằng chạy chí chết.

Th. vốn hiền lành nhu mì, chỉ vì người ta đến cưa cẩm đông quá đâm kiêu, coi đàn ông như rác, mấy thầy hay cưa nàng cũng coi như rác.Trong trường có thầy M. dạy toán mới ra trường thích nàng lắm, đến thăm nàng luôn luôn. Cứ khi nào thầy M. đến chơi là nàng trốn. Một hôm nàng quên cái nón ở lớp, thầy M. cầm nón đến nhà, trong nón đầy ổi chín với khế ngọt. Thằng Trung mừng húm lăng xăng chạy ra đỡ lấy nón, thầy không cho, nói chúng mày bảo cái Th. ra lấy nón. Mình chạy vào buồng năn nỉ với nàng, nói mãi rồi nàng cũng ra, nàng vừa đỡ lấy nón, vừa cảm ơn thầy, chợt thấy cái thư thầy lót dưới mấy quả ổi, điên lên nó hắt cả nón ra sân, bỏ chạy. Thầy M. cũng giận bỏ về. Hai thằng thi nhau lúi húi nhặt ổi khế vương vãi, vừa nhặt vừa ăn nhuồm nhoàm, đã đời. Lại còn bóc cái thư ra đọc, ngâm nga như ca cải lương, ôi Th. ơi… thầy thương em nắm nắm… em là tất cả của ơ ơ ơ… thầy… ầy! Nàng Th. lại vác đòn gánh đuổi hai thằng chạy chí chết, hi hi.

Thầy M. vẫn kiên trì tán tỉnh nàng Th. Một hôm thầy nhờ mình đưa cái thư cho nàng. Mình cầm về đưa cho nàng. Nàng giật cái thư ném đi, nhìn mình cái nhìn dỗi hờn, nói ngu lắm. Mình nói răng ngu. Nàng vừa đấm ngực mình vừa nói ngu ngu ngu ngu. Rồi nàng ôm cây cau đứng khóc. Mình chẳng hiểu gì, cứ đứng trương mắt nhìn, hi hi ngu thế không biết, nhiều khi nhớ đến chuyện đó cứ tiếc rẻ mãi.

Vào đến Bách Khoa thì hết ngu, lại được mấy anh Hà Nội bồi dưỡng “ Nâng cao nghiệp vụ tán gái”, mình đánh đu với các em xinh đẹp không biết mệt mỏi. Không biết thời này thế nào chứ thời đó trai Bách Khoa rất được ưa chuộng. Đã trai Bách Khoa lại Khoa vô tuyến điện thì hết chê, càng được ưa chuộng, hầu như đánh đâu thắng đó. Gái Bách Khoa được có một nhúm, ở chưa hết gác 1 nhà B3, “quỉ Bác Khoa ma Tổng Hợp” mình chẳng màng, cứ xông thẳng đến trường Y trường Sư Phạm, hai nơi đó nguồn gái đẹp vô biên. Mình đã có một em dấm sẵn rồi, gọi là nàng Sơn Tây, nàng bán căntin ở trường Sĩ quan phòng không, nhưng hễ thấy gái đẹp là lập tức mắt sáng lên hình viên đạn, kiên quyết tiêu diệt đến cùng, hi hi. Cứ chiều thứ 7 mình nhảy xe ca lên Sơn Tây, cơm no bò cưỡi đến chiều chủ nhật mò về. Mỗi lần ra về nàng Sơn Tây đều gói cho bốn tút thuốc Tam Đảo, về đến Hà Nội là mình bán liền, chấp nhận hút thuốc lá cuộn, dành tiền cho “ công cuộc tán gái đi đến thắng lợi cuối cùng”.

Xe đạp mượn thằng Đông, dép nhựa Tiền Phong mượn anh Thu, thiếu tiền thì nhảy sang khoa Kĩ sư kinh tế mượn thằng Viết. Thằng Viết này hay lắm. Con trai đa phần chỉ ghét con gái hồi cấp 2, sang đến cấp 3 thì mê tít, nó lên tận đại học rồi vẫn còn ghét con gái. Mình đi chơi với thằng Viết, thấy em nào đẹp là mình tay chỉ miệng nói em này ngon cực, em kia ngon cực. Lần nào cũng vậy, mặt nó hất lên, nói vô nghĩa. Đến năm cuối đại học rồi mà gặp gái đẹp mặt nó vẫn hất lên, nói vô nghĩa. Hi hi.

Hồi đó tán gái chỉ một bài, gặp gái đẹp là làm thơ đọc thơ tặng thơ. Phòng nữ sinh viên có đến mười hai cô, mình mặt trơ cứ sà vào chỗ nàng mình ưa đọc thơ liên tù tì hết bài này sang bài khác, mặc kệ các cô khác. Có cô mải học bài, nghe mình đọc thơ khó chịu lắm, mình cũng mặc. Hi hi thế mới gọi là nhất đẹp trai nhì chai mặt. Thỉnh thoảng có bài đăng báo thì làm như vô tình để lộ ra cho nàng biết, nàng tròn xoe mắt nhìn mình, vô cùng ngưỡng mộ, he he. Mấy bài thơ vừa dở vừa sến đó thôi mà thu hoạch cũng kha khá, đi tàu xe hễ ngồi gần gái đẹp là mình đều dở cái bài tán thơ ra, nghĩ lại xấu hổ chết được, sao hồi đó hâm thế không biết.

Cô nàng Sơn Tây của mình bắt được quả tang mình đang ôm gái đẹp mấy lần, lần nào mình cũng năn nỉ nói dối như hát hay, khất khổ mãi rồi cũng qua. Nhưng rồi mưa dầm thấm đất, cuộc tình 6 năm của mình rồi cũng tan. Vào lúc mình ra trường, háo hức chuẩn bị cưới nàng, quyết định cắt hết đuôi hết vệ tinh để làm một “chàng trai chân chính” với nàng thì nàng bỏ mình theo một ông Phun thuốc sâu ( Phó tiến sĩ) ở Hung về. Nhớ mãi cái đêm mình đứng chờ nàng ở cổng trường đến 11h đêm thì thấy nàng đang ngồi sau xe ông Phun thuốc sâu, hai tay nàng ôm chặt eo ông, xong om!

Bạn bè ai biết chuyện cũng tìm đến chia sẻ động viên, chỉ có anh Đạt là không. Anh nhấc điếu cày rít một hơi, ngửa cổ nhả khói, cười khờ khờ khờ, nói đáng kiếp cái thân mày, ác giả ác báo.

Hi hi.

15 câu nói ấn tượng nhất năm 2010

BÉ HÙNG

1. Câu nói đáng nghi ngờ nhất

Các nước có chỉ số IQ cao đều xây đường cao tốc. Việt Nam ta cũng có chỉ số IQ cao nên tôi đề nghị phải xây.

Phát biểu của ông Trần Tiến Cảnh (Hà Nam) khiến nhiều người… nghi ngờ chỉ số IQ của ông này.

2. Câu nói lột trần nhất

Tôi chưa thấy môi trường khoa học ở Việt Nam có điểm mạnh nào so với thế giới, chỉ có điểm yếu hoặc rất yếu thôi.

Nhận xét của giáo sư Nguyễn Tiến Dũng (Đại học Toulouse, Pháp). Có lẽ giáo sư hơi phiến diện nên chẳng thấy điểm mạnh nhất, dễ thấy nhất của Việt Nam, đó là mạnh miệng.

3. Câu nói cảnh báo nhất

Các thầy cô hãy cảnh giác với học trò.

Một lãnh đạo ngành giáo dục thành phố Hải Phòng cảnh báo về việc học sinh “bẫy” cô giáo.

4. Câu nói ưu tư nhất

Thanh tra trùng trùng điệp điệp nhưng hiệu quả không cao.

Nhận định của ông Lê Thanh Bình, Chủ nhiệm ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội, về lực lượng thanh tra hiện nay.

5. Câu nói bào chữa nhất

Học sinh không thích học sử học văn, ta phải mừng vì sách sử, sách văn hiện quá lôm côm.

Nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần “bào chữa” cho học sinh.

6. Câu nói điện ảnh nhất

Nền giáo dục của chúng ta không có hậu kỳ.

Ví von theo kiểu điện ảnh của báo Pháp luật tp. HCM khi thấy bao lớp học sinh giỏi đoạt đủ các giải quốc tế được chào đón, ròi sau đó trọng dụng, đào tạo ra sao thì… chấm hết.

7. Câu nói đồng cảm nhất

Người dân có tới 4 đại diện: HĐND xã, HĐND huyện, NĐND tỉnh, Quốc hội. Nhưng khi lâm sự thì không biết hỏi ông nào.

Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng đồng cảm với người dân vì không biết hỏi ông nào khi có chuyện.

8. Câu nói thật lòng nhất

Có giao 1.000 tỷ đồng – 2.000 tỷ đồng bảo làm sao cho Hà Nội khỏi ngập mỗi khi mưa lớn thì chúng tôi cũng chịu.

Ông Nguyễn Lê, Giám đốc công ty thoát nước Hà Nội thật thà khi được hỏi làm thế nào để Hà Nội hết ngập.

9. Câu nói tâm trạng nhất

Trong phòng chống tham nhũng, sợ nhất là a lô với vỗ vai.

Ông Vũ Tiến Chiến, Chánh văn phòng Ban chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng thổ lộ về việc đáng ngại nhất trong phòng chống tham nhũng.

10. Câu nói vô trách nhiệm nhất

Chúng tôi đã làm hết trách nhiệm và không có lỗi.

Câu trả lời từ các phía có liên quan trong hai vụ tai nạn thảm khốc “giữa đường sụp hố” tại tp. HCM

11. Câu nói chính xác nhất

Tệ nạn xã hội đang diễn biến phức tạp.

Phát biểu của nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang Nguyễn Trường Tô “hô” lúc đương chức. Ngài chủ tịch nói cấm có sai, chính xác từ trên xuống dưới.

12. Câu nói lý thuyết nhất

Về lý thuyết, dự án bauxite là an toàn.

Lời Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường trước Quốc hội về sự an toàn của các dự án bauxite. Trả lời theo kiểu lý thuyết này giống… trả bài hơn là trả lời.

13. Câu nói đe dọa nhất

Nếu các đồng chí không tự cắt, chúng tôi sẽ cắt các đồng chí.

Chủ tịch UBND tp HCM Lê Hoàng Quân chỉ đạo các địa phương về việc cắt nhà xây lố tầng.

14. Câu nói tầm phào nhất

Tôi hứa chấm dứt ghép nhiều bệnh nhân một giường chỉ là câu chuyện truyền miệng, tầm phào thôi.

Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu trả lời về việc hứa dẹp tình trạng nhiều bệnh nhân nằm ghép một giường.

15. Câu nói vệ sinh nhất

Không nên ảo tưởng có một đơn vị vô trùng trong một môi trường nhiễm trùng.

Tiến sĩ Bùi Trần Phượng, Hiệu trưởng Đại học Hoa Sen, nhận xét về tham nhũng trong giáo dục.

( Chúng ta, theo Làng cười)

Những từ thời thượng

Posted by Báo Dân


GS.TS Nguyễn Đức Dân – Bắt đầu có từ được dùng theo cách rất lạ. Người khác thấy hay, thấy ngồ ngộ, mới lạ bèn đua nhau dùng theo, đua nhau “chưng diện” từ này trong lời nói và bài viết. Họ sử dụng chúng như là những “mốt” nói mới nhằm tô điểm cho trí tuệ.

Xã hội luôn luôn vận động, xuất hiện những khái niệm mới, nổi lên những vấn đề mới là trung tâm chú ý của dư luận. Theo đó, hàng loạt từ mới xuất hiện, có những từ mang hơi thở của thời cuộc.

Tâm lý chuộng lạ và khuynh hướng làm sang

Ngôn ngữ là một phương tiện thể hiện phẩm chất trí tuệ con người. Muốn khẳng định mình qua ngôn từ, không ít người thích dùng những từ mới lạ. Bởi vậy không tránh khỏi những khuynh hướng lạm dụng từ ngữ mới. Bắt đầu có từ được dùng theo cách rất lạ. Người khác thấy hay, thấy ngồ ngộ, mới lạ bèn đua nhau dùng theo, đua nhau “chưng diện” từ này trong lời nói và bài viết. Họ sử dụng chúng như là những “mốt” nói mới nhằm tô điểm cho trí tuệ.

Cuối thập kỷ 80 thế kỷ trước, trên các phương tiện truyền thông ở Liên Xô đầy rẫy từ “perestrojka” (sự cải tổ). Tiếp đó danh từ “pljuralism” (chủ nghĩa đa nguyên), một danh từ mới nhập từ tiếng Anh (pluralism), tiếng Pháp (pluralisme) thời cải tổ, xuất hiện rất nhiều. Chứng cứ cho điều này là trong quyển Từ điển tiếng Nga nổi tiếng, bản in năm 1982, của S.I. Ozhegov hoặc trong Từ điển cấu tạo từ tiếng Nga, xuất bản năm 1978 của A.N. Tikhonov đều chưa có danh từ “pljuralism”.

Sau Đại hội IV của Đảng Cộng sản Việt Nam, xuất hiện cụm từ “làm chủ tập thể”. Từng có lúc, trên các trang báo nhan nhản những “làm chủ tập thể”. Sau Đại hội VI, “làm chủ tập thể” được dùng ít dần đi; thay vào đó là “đổi mới tư duy” và “những việc cần làm ngay”. Ở thập kỷ 1970, nếu trong bài viết hoặc đăng đàn diễn giảng ai mà không nói “làm chủ tập thể” là “trình độ lý luận còn thấp”. Nửa cuối thập kỷ 1980, ở đâu cũng “đổi mới tư duy”. Không nhắc tới cụm từ này là người ta chưa yên tâm, chưa chứng tỏ mình nhạy bén và có năng lực.

Nhiều kết hợp lạ là những đặc sản xã hội, gây bất ngờ trong nhận thức và nhanh chóng thành cụm từ mới lạ. Chẳng hạn, từ “khiêm tốn” biểu thị thái độ con người. Có ai đó dùng nó để biểu thị thuộc tính. NQT viết trên báo PN: “Tôi là một người có chiều cao hơi khiêm tốn”. Thấy một kết hợp lạ hay hay, ấy thế là thành ra cái mốt “khiêm tốn”: “đồng lương khiêm tốn”, “bộ quần áo khiêm tốn”, “ngôi nhà khiêm tốn”… Trong chuyện thường ngày trên TT, ngày 24.9.1998 Bút Bi viết: “Nhớ hồi quận 3 bắt đầu dọn dẹp bia ôm, con đường kề bên uỷ ban quận này chỉ có một “nhà hàng đặc sản”. Bây giờ con đường này có vô số nhà hàng đặc sản karaoke máy lạnh, tha hồ cho các đấng mày râu đến dự thi… “bàn tay vàng”. Đọc đến đoạn này, sinh viên trường V cười nghiêng ngả. Tôi nghĩ đó là ngày sinh chính thức trên báo chí của “bàn tay vàng” (ai biết nó sinh sớm hơn xin chỉ giùm!)

Xã hội luôn luôn có khuynh hướng vay mượn từ nước ngoài, mặc dù vẫn có những từ ngữ đồng nghĩa. Vay mượn phần vì chuộng lạ, có yếu tố kích thích, bắt mắt, nhưng còn vì những từ ngữ vay mượn này phản ánh được những sắc thái mới. Trong tiếng Nga đã có từ “korennoj” (thuộc về gốc rễ, nền tảng) nhưng tiếng Nga vẫn nhập từ “radical” của tiếng Anh và Pháp để thành tính từ “radical’nyj” đồng nghĩa với “korennoj”. Và “radical’nyj” còn thêm nghĩa cấp tiến.

Người Việt cũng vậy. Báo chí TP.HCM thời nay dẫn đầu cả nước khuynh hướng “Anh hoá” nhiều từ vay mượn đã được phiên âm. Chúng ta đã từng phiên âm an-bom; chạy sô, sô diễn, sôlô; đăng-xinh; xì-tốp… nhưng hiện nay người ta thích dùng nguyên ngữ album; solo, show, live show; stop; dancing. Thậm chí, “Anh hoá” cả các từ vay mượn đã được Việt hoá: Nói bán xôn, bán xon (mượn tiếng Pháp solde) xưa rồi, phải là sale, on sale, sale off mới sang và sành điệu!

Sáo ngữ: những lối mòn

Cái gì lạm dụng rồi cũng thành bình thường, nhiều quá hoá nhàm, và kết quả là lượng thông tin của từ bị giảm đi, nghĩa bị mòn đi. Những từ mới lạ trở thành sáo ngữ. Khi trung tâm chú ý của xã hội thay đổi thì sáo ngữ cũng nhanh chóng thay đổi. Rồi những từ ngữ mới khác lại xuất hiện.

Cùng thời với “đổi mới tư duy”, trong đường lối hoạch định chính sách rộ lên những từ kinh tế vĩ mô, vi mô; hộp đen; đầu vào, đầu ra… Không hiểu bản chất của một khái niệm nhưng thấy thiên hạ dùng nhiều thì cũng cố mà dùng cho có vẻ “trình độ”, “thức thời”. “Nói như lời ông Trần Đình Hoan là […] không còn quy hoạch cán bộ theo kiểu “chiếc hộp đen” như trước nữa mà thay bằng “sân chơi bình đẳng…” (TTCN, 1.6.2003). GS Hoàng Tuỵ đã phê phán sự lạm dụng từ ngữ này. Từ “hộp đen” trên báo chí ít hẳn đi, nó được trả lại đúng vị trí trong những bài viết về lý thuyết thông tin.

Lớp từ thời thượng sau Đại hội VII là kinh tế thị trường, kinh tế trang trại, cổ phần hoá… rồi những phần mềm, internet, thị trường chứng khoán, nền kinh tế tri thức… Những từ này nay trở thành bình thường. Mặc dầu từ “điện tử” đã xuất hiện từ lâu, nhưng từ năm 2002, mới nở rộ lên những “Chính phủ điện tử”, “bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn điện tử”, “công dân điện tử”, “cử tri điện tử” rồi “nghị viện điện tử cho toàn cầu”, “Quốc hội điện tử”…

Mấy từ thời thượng hiện thời

Hiện nay buôn bán phát triển nên “thương hiệu” trở thành mốt, bị lạm dụng, lan sang nhiều ngành mà ở đó không có chuyện kinh doanh buôn bán gì cả: “Bà đã giúp làm tăng thương hiệu Sarkozy”; ông đã làm nên một “thương hiệu Putin”. Những chính khách, những nguyên thủ quốc gia có buôn bán gì đâu mà thương hiệu? Trong lĩnh vực giáo dục cũng vậy. Người ta quyết tâm “xây dựng thương hiệu khoa báo chí và truyền thông”, “xây dựng thương hiệu trường chuyên X”… Nhà trường, sao phải xây dựng “thương hiệu” mà không là xây dựng “học hiệu”? Không rõ thiên hạ có dùng thương hiệu Harvard, Oxford, Cambridge không?

Gần đây nhất là những từ “tầm nhìn”, “tái cơ cấu”… Người ta hoạch định những đề án, những công trình, những chiến lược với tầm nhìn 30 năm, 40 năm… Phải có tầm nhìn 50 năm để làm đường sắt cao tốc. Rồi sách “Việt Nam tầm nhìn 2050”. Tầm nhìn nào cho khu đô thị Trung Yên Hà Nội mới xây hiện đại kiểu Pháp, sau trận mưa lớn (2008) đã biến thành sông hồ? Tầm nhìn nào cho những công trình giao thông vừa bàn giao đã xuất hiện nhiều chục “hố tử thần”?

Chúng ta đang tái cơ cấu Vinashin. Nay mai liệu có “tái cơ cấu EVN” khi tập đoàn Điện lực Việt Nam đang đứng ở “chân tường” (TT, 11.1.2011)? Và còn tái cơ cấu những gì nữa?

GS.TS Nguyễn Đức Dân

http://sgtt.vn/Khoa-giao/136191/Nhung-tu-thoi-thuong.html

Rét đau

Posted by Báo Dân


Hồng Phúc – Thay vì tài trợ cho các cuộc thi người đẹp, nếu ai đó đồng ý tài trợ cho cuộc thi người chịu lạnh giỏi nhất thì vương miện chắc chắn thuộc về người nghèo.

Người nghèo đang “trình diễn” sức chịu đựng giỏi giang của mình. Trong khi người ta quấn các loại vải vóc kín mít mà miệng vẫn luôn trách móc ông trời thì người nghèo chẳng nói chẳng rằng, chỉ với mỗi cái áo khoác mỏng, cũ, thậm chí mặc áo mưa, vẫn đạp xe, phóng xe chở rau cỏ phăm phăm ngoài phố.

Người nghèo cũng chẳng cần ăn nhiều, chỉ cái bánh mì nhỏ xíu, hay gói xôi, dĩa cơm bụi mươi, mười lăm ngàn. Bà bán cơm còn dọa: “Sau đợt rét này, giá sẽ khác”.

Ở Hà Nội có những cửa hàng bán quần áo, đồ dùng cho chó, mèo với giá cả triệu đồng mỗi món thì nhiều đứa trẻ con nhà nghèo vẫn mong manh trong gió buốt thấu xương. Trong khi nhiều người lũ lượt sắm quần áo, ô tô lên núi xem băng tuyết thì cũng có những người chảy nước mắt vì trâu bò, gia cầm chết, ruộng vườn héo hon. Anh bạn làm ở công ty du lịch nhấp ngụm nước chè: “Đi chơi vùng càng nghèo, càng đẹp”.

Lửa là thứ duy nhất để chống rét của người nghèo bởi các thiết bị sưởi bằng điện quá đắt đỏ. Nhưng cũng chính vì dùng than, lửa để sưởi mà các tai nạn chết người đã xảy ra. Rét làm lộ ra hết sự nghiệt ngã trong đời sống của người thu nhập thấp. Bình thường, sự khốn khó có thể che đậy bằng những tấm áo hoa, nhưng vì nó quá mỏng nên đã không giấu nổi sự giả vờ no ấm.

Rét còn làm lộ ra văn hóa của một số người giàu, có thể mua sắm hàng lô lốc hàng hóa nhưng vẫn cù cưa bớt một thêm hai với một phụ nữ co ro trong tấm áo mưa bán mớ rau vừa hái dưới ruộng lên chỉ vì vài ngàn đồng.

Rét cũng làm các viên chức lấy cớ để “tiện thể” nhiều thứ. Cô nhân viên làm giấy tờ chứng thực ở phường được dịp “đi vắng” từ 3 giờ chiều. “Rét mướt thế này phải cho người ta về sớm, ai đón con tôi?”, cô quấn khăn đi ra cửa, bỏ lại một dấu hỏi cho người dân đang chờ làm thủ tục hành chính. “Tại sao không cho trẻ con nghỉ đông thay vì nghỉ hè?”. Ừ, mà chúng nó có hè đâu cơ chứ!

Giá như bên cạnh một tòa nhà cao nhất, con đường đẹp nhất, mâm cỗ to nhất, hay lễ hội hoành tráng nhất, có thêm một vài nơi trú chân cho những người lao động ngày ngày cặm cụi bươn bải trên mọi nẻo đường đang phải giấu mình đâu đó trong cái thành phố tắc nghẽn ô tô này.

Những hôm thế này người nhà quê gọi là rét ngọt, nhưng là rét đau, bạn tôi bảo thế. Ông trời còn “khuyến mãi” thêm mấy hạt mưa cho thấm thía. Chỉ thương những bờ vai gầy, chẳng áo nào che…

Chuyện Lê Hoàn Lên ngôi hoàng đế

Lê Hoàn sinh năm Tân Sửu (941) tại làng Trung Lập, Châu Ái (nay làng này thuộc Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa), mất năm Ất Tị (1005), thọ 64 tuổi. Thuở nhỏ, vì gia đình nghèo, Lê Hoàn đi ở và làm con nuôi. Sau, Lê Hoàn theo Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp loạn mười hai sứ quân. Nhờ có tài, lại được Đinh Bộ Lĩnh yêu, ông thăng tiến rất nhanh. Dưới triều Đinh Tiên Hoàng, Lê Hoàn giữ chức Thập Đạo Tướng Quân, tức là chức võ quan cao nhất lúc bấy giờ.
Năm 979, khi Đinh Tiên Hoàng và con trai trưởng là Nam Việt Vương Đinh Liễn bị giết hại, con thứ của Đinh Tiên Hoàng là Vệ Vương Đinh Toàn được đưa lên nối ngôi, Lê Hoàn là Phó Vương, giữ quyền nhiếp chính. Các quan trong triều như Đinh Điền, Nguyễn Bặc và Phạm Hạp nghi ngờ Lê Hoàn sẽ làm việc mờ ám, bèn dấy binh để đánh, nhưng rốt cuộc lại bị Lê Hoàn đánh bại và giết chết. Từ đó, uy danh của Lê Hoàn ngày một lớn hơn. Tuy nhiên, khi nội loạn vừa dẹp yên thì ngoại xâm lại tràn tới. Nghe theo lời tâu của Hầu Nhân Bảo, nhà Tống xua quân đến xâm lược nước ta. Triều đình đương thời đứng trước một thực tế rất khó xử, rằng ai sẽ là người đủ uy tín và đủ năng lực để điều khiển vận mệnh quốc gia? Tháng bảy năm Canh Thân (980), một sự kiện lớn đã diễn ra tại kinh đô Hoa Lư. Sự kiện này được sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (chính biên, quyển 1, tờ 13) chép lại như sau:

“Quan giữ đất Lạng Châu (vùng Lạng Sơn và Quảng Ninh ngày nay) đem việc đó (chỉ việc quân Tống tràn sang xâm lược nước ta) tâu lên, Dương Thái Hậu bèn sai Lê Hoàn tuyển lựa dũng sĩ để chống lại. Triều đình cho Phạm Cự Lượng (em của Phạm Hạp, người Nam Sách, nay thuộc tỉnh Hải Dương) làm Đại Tướng, được quyền bày mưu tính kế đánh giặc. Phạm Cự Lượng cùng các tướng, mặc nguyên quân phục, vào thẳng nội điện, nói thẳng với mọi người rằng:

- Thưởng người có công, trị người phạm tội, ấy là phép dùng binh. Nay, chúa thượng thì thơ ấu, dẫu bọn ta có liều chết mà đánh rồi may lập được chút công lao, thì ai sẽ là người biết cho? Vậy thì chi bằng trước hãy tôn ngay quan Thập Đạo Tướng Quân (tức Lê Hoàn) lên ngôi Thiên Tử rồi sau đó mới xuất quân.

Quân sĩ nghe vậy thì đều tung hô “vạn tuế”. Dương Thái Hậu cũng một lòng mến phục, liền sai lấy tấm Long Cổn khoác lên người Lê Hoàn, rồi cũng chính Dương Thái Hậu khuyên Lê Hoàn lên ngôi. Lê Hoàn lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Phúc, giáng Hoàng Đế là Đinh Toàn xuống làm Vệ Vương như cũ”.

Lời bàn: Đinh Tiên Hoàng mất, vua nối ngôi là Đinh Toàn chỉ mới được sáu tuổi, Lê Hoàn làm Phó Vương, giữ quyền nhiếp chính, ấy là vì sự thể lúc đó buộc phải làm như vậy. Sau, vận nước lâm nguy, xã tắc không thể phó thác cho Đinh Toàn bé nhỏ, chư tướng cùng Dương Thái Hậu tôn Lê Hoàn lên ngôi, và Lê Hoàn đã vui nhận ý tôn lập đó, ấy cũng bởi sự thể lúc bấy giờ buộc phải làm như vậy đó thôi.

Ai lên ngôi để hưởng cuộc đời nhung lụa, còn Lê Hoàn lên ngôi trước hết là để nhận lấy sứ mệnh vinh quang mà cực kì khó khăn, đó là chỉ huy cuộc chiến đấu chống quân Tống xâm lăng, bảo vệ nền tự chủ và thái bình cho xã tắc, kính thay!

Cũng là anh em ruột thịt một nhà nhưng nếp nghĩ của Phạm Hạp và Phạm Cự Lượng mới khác nhau làm sao. Ai dám bảo rằng Phạm Hạp bất tài và bất trung? Nhưng, chút suy nghĩ nông cạn đã đẩy Phạm Hạp vào ngõ cụt đầy bi kịch. Mới hay, giữa cái tốt và cái xấu, giữa cao thượng với thấp hèn, giữa anh hùng với phản nghịch, tất cả, đôi khi chỉ xuất phát từ một phút suy nghĩ nông cạn và rất điên rồ đó thôi.

Trách Phạm Cự Lượng và chư tướng sao chỉ nghĩ đến việc cần người ghi nhận công lao cho mình ư? Rằng đúng thì kể cũng có phần đúng, nhưng nếu cứ lấy đạo đức ngày nay làm chuẩn để xét đoán, thì lịch sử sẽ chẳng còn là lịch sử nữa. Có phải cái đúng bao giờ cũng đúng hết với mọi thời đâu. Ngẫm mà xem!

(Theo “Việt sử giai thoại” của Nguyễn Khắc Thuần – NXB Giáo D

Lý Công Uẩn lên ngôi

Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 1, tờ 32 a-b và tờ 33 a-b) chép rằng:
“Có một lần, Lê Ngọa Triều (tức Lê Long Đĩnh) ăn khế nhưng khi bổ ra lại thấy ở trong có hạt mận thì tin ở lời sấm truyền (xem giai thoại số trước), bèn ngầm sai bộ hạ tìm người họ Lý để giết đi, ấy thế mà Lý Công Uẩn ở ngay bên cạnh vẫn không biết. (Mận - cây mận, quả mận - âm Hán Việt là lý, cho nên Lê Ngọa Triều suy chữ lý là mận ra chữ lý là họ Lý). Đến khi Lê Ngọa Triều băng, con nối ngôi thì còn quá bé, cho nên, Lý Công Uẩn cùng với quan giữ chức Hữu Điện Tiền Chỉ Huy Sứ là Nguyễn Ðê, mỗi người được đem năm trăm quân Tùy Long (quân hầu riêng cho Thiên Tử) vào làm quân túc vệ. Bấy giờ, quan Chi Hậu là Ðào Cam Mộc dò biết Lý Công Uẩn có ý muốn được truyền ngôi, bèn nhân lúc vắng người, nói khích với Lý Công Uẩn rằng:

- Bấy nay, chúa thượng ngư tối và bạo ngược, làm nhiều việc bất nghĩa, khiến trời ghét nên không cho hưởng thọ mà con nối thì thơ ấu, không thể kham nổi việc lớn đầy khó khăn, trăm sự đều phiền nhiễu, thần linh không ưa, dân chúng nháo nhác tìm chân chúa. Vậy tại saô quan Thân Vệ (chỉ Lý Công Uẩn) lại không nhân cơ hội này mà nghĩ mưu cao, quyết đoán sáng suốt, xa thì xem dấu cũ của vua Thang, vua Vũ, gần thì xem việc của họ Đinh, họ Lê... trên thuận lòng trời, dưới hợp lòng người (nắm lấy ngôi báu có phải là hơn việc) khư khư giữ chút tiết hạnh bề tôi nhỏ nhoi hay không?

Lý Công Uẩn lấy làm vừa ý với câu nói của Ðào Cam Mộc, nhưng lại còn sợ Ðào Cam Mộc có mưu khác, bèn giả vờ mắng lại rằng:

- Sao ông dám ăn nói như thế? Tôi phải bắt ông đem nạp cho bá quan mới được.

Ðào Cam Mộc thong thả nói với Lý Công Uẩn rằng:

- Tôi thấy việc trời và việc người như thế cho nên mới dám nói ra. Nay ông muốn tố cáo tôi thì tôi cũng xin thưa rằng tôi đâu sợ chết!

Lý Công Uẩn nói:

- Tôi đâu nỡ tố cáo ông, chẳng qua chỉ vì sợ lời nói của ông mà tiết lộ ra thì chúng ta đều phải chết nên mới răn như thế đó thôi.

Hôm sau, Ðào Cam Mộc lại bảo Lý Công Uẩn rằng:

- Người trong nước cho rằng họ Lý sẽ làm nên nghiệp lớn, lời sấm đã hiện ra rồi, tai họa không thể che giấu được nữa. Nay, chuyện chuyển họa thành phúc phải làm ngay trong một sớm một chiều mà thôi. Đây chính là lúc mà trời thì ban cho, người thì theo về, ông còn ngần ngại gì nữa?

Lý Công Uẩn nói:

- Tôi hiểu ý ông cũng không khác gì ý của nhà sư Vạn Hạnh. Đã vậy thì nên tính kế như thế nào?

Ðào Cam Mộc nói:

- Thân Vệ là người khoan thứ, nhân từ, người người đều theo. Hiện nay, trăm họ đều đã mỏi mệt vì kiệt quệ, dân khó mà sống nổi, Thân Vệ nên nhân đó, lấy ân đức mà vỗ về, ắt người người đều vui theo, chẳng khác gì nước chảy xuống chỗ trũng, không ai có thể cản lại được.

Ðào Cam Mộc biết rõ việc đã cần kíp lắm rồi, để nữa sợ sinh biến, liền trình bày với các bậc quan lại trong triều, ai ai cũng đều đồng lòng cả. Ngay ngày hôm ấy, họ họp lại, bàn rằng:

- Hiện nay, dân chúng muốn triệu người đều có lòng khác, trên dưới cách biệt, ai cũng ghét tiên đế hà khắc, bạo ngược nên không muốn theo về với vua nối nghiệp (còn nhỏ tuổi) mà muốn suy tôn quan Thân Vệ, bọn ta không nhân cơ hội này mà tôn lập Thân Vệ làm Thiên Tử, lỡ để xẩy ra việc gì, liệu chúng ta có giữ nổi đầu mình nữa hay không?

Thế rồi họ cùng nhau dìu Lý Công Uẩn lên chính điện, tôn làm Thiên Tử. Trăm quan đều lạy rạp dưới sân, trong ngoài cùng tung hô vạn tuế! Tiếng hô vang dậy cả cung đình.

Lý Công Uẩn lên ngôi, đại xá thiên hạ, lấy năm sau làm năm Thuận Thiên thứ nhất. Nhà vua sai đốt giềng lưới, bãi ngục tụng (ý muốn nói ban ân đức đến cả con người lẫn loài vật), đồng thời xuống chiếu rằng: từ nay, hễ ai có việc gì cần tranh kiện thì cho phép được đến triều đình tâu bày, nhà vua sẽ thân hành xét xử. Các quan dâng tôn hiệu cho Vua là Phụng Thiên Chí Lý Ứng Vận Tự Tại Thánh Minh Long Hiện Duệ Văn Anh Vũ Sùng Nhân Quảng Hiếu Thiên Hạ Thái Bình Khâm Minh Quang Trạch Chương Minh Vạn Bang Hiển Ứng Phù Cảm Uy Chấn Phiên Man Duệ Mưu Thần Trợ Thánh Trị Tắc Thiên Đạo Chính Hoàng Đế”.

Lời bàn:

Trước đó, Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán rồi lên ngôi vương, Đinh Bộ Lĩnh quét sạch loạn mười hai sứ quân rồi lên ngôi đế, sự nghiệp tuy mỗi người một vẻ, nhưng cái chung vẫn là ở chỗ, từ công đức lớn, các bậc hào kiệt ấy đã hiên ngang bước lên ngôi chí tôn.

Đến đây, Lý Công Uẩn nhờ đại đức toả sáng mà được bá quan văn võ tôn phò. Có gì may mắn hơn, khi mà Hoàng Để là bậc nhân từ khoan thứ và cẩn trọng hơn người?

Từ đây, triều Lý bắt đầu, nền thái bình thực sự cũng bắt đầu và Đại Việt dần dần trở thành một cường quốc ở Đông Nam Châu Á. Có ai hay những trang hào hùng sau đó của lịch sử lại được mở đầu bằng sự kiện ngỡ như rất bình dị này?

Có người lên thuyền khiến cho thuyền bị nghiêng đổ, nhưng cũng có người lên thuyền khiến cho thuyền có thể lướt tới băng băng. Lý Công Uẩn chính là một trong những người bước lên và đã có công khiến cho con thuyền Đại Việt băng băng lướt tới. Kính thay!

(Theo “Việt sử giai thoại” của Nguyễn Khắc Thuần – NXB Giáo Dục)

Lê Long Đĩnh gặp may

Sau một thời gian chém giết người ruột thịt chẳng chút ghê tay, Lê Long Đĩnh đã chiếm được ngôi vua. Cuộc chém giết khủng khiếp này chẳng những người trong nước đều biết mà cả nhà Tống bên Trung Quốc cũng hay. Bọn quan lại ở vùng biên ải phía Nam của Trung Quốc đã dâng thư về triều, thúc giục vua Tống nhanh chóng lợi dụng cơ hội thuận tiện này để xuất quân sang đánh chiếm nước ta, nhưng vua Tống đã không chấp thuận. Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 1, tờ 27-b và tờ 28-b) chép chuyện này như sau:

“Mùa hạ, tháng sáu (năm Bính Ngọ, 1006) quan Tri Châu của Quảng Châu (Trung Quốc) là Lăng Sách dâng thư về triều Tống, nói rằng:

- Nay, Giao Chỉ (chỉ nước ta) đang có loạn, vậy xin cho thần cùng với quan giữ chức Duyên Biên An Phủ Sứ là Thiệu Việp được bàn tính kế sách để dâng lên. Bọn thần dựa theo lời của Hoàng Khánh Tập, kẻ cầm đầu hơn ngàn người ở Giao Chỉ đã theo về và nay được quan ở Liêm Châu (thuộc Trung Quốc) dẫn đến, nói rằng: các con của Nam Bình Vương (chỉ tước vị của Lê Hoàn) mỗi người đặt trại sách phân tán một nơi, quan lại thì lìa tan, nhân dân thì lo sợ, vậy, xin đem quân đến đánh dẹp. Bọn Hoàng Khánh Tập sẽ làm tiên phong, xin được hẹn ngày đánh chiếm lấy nước ta. Nếu triều đình ưng chuẩn lời thỉnh cầu này thì xin lấy quân đang đóng tại các đồn ở những châu thuộc Quảng Nam (tức vùng Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc ngày nay) và xin thêm năm ngàn quân ở Kinh Hồ (Trung Quốc) để thủy bộ cùng tiến, nhất định sẽ bình định được ngay.

Vua Tống nói:

- Họ Lê thường sai con sang chầu, góc biển ấy vẫn được yên, chưa từng bất trung, bất thuận. Nay nghe tin Lê Hoàn mới mất, chưa có lễ thăm viếng mà đã vội đem quân đánh kẻ đang có tang, đó chẳng phải là việc làm của đấng vương giả.

Nói rồi vua Tống xuống chiếu cho bọn Lăng Sách tiếp tục vỗ về, cốt sao cho mọi sự được yên lặng. Sau, vua Tống lại sai bọn Thiệu Việp đem thư sang bày tỏ uy đức của Thiên Triều, bảo không nên giết hại lẫn nhau nữa. Nếu anh em cứ giành nhau, không định rõ ngôi thứ thì quân của Thiên Triều sẽ sang hỏi tội, họ Lê nhất định chẳng còn ai sống sót. Vua Lê Long Đĩnh sợ, bèn xin cho em sang nạp cống”.

Lời bàn: Bấy giờ, Lê Long Đĩnh đồng thời đứng trước 3 đại hoạ. Một là anh em ruột thịt vẫn chưa chịu ngừng chém giết lẫn nhau, ngôi vua chưa có gì đáng gọi là chắc. Hai là bọn Hoàng Khánh Tập đã cam lòng đi từ chỗ chống Nhà vua đến chỗ phản bội đất nước, khiến cho vận mệnh quốc gia đứng trước thử thách thật cam go. Ba là quan biên ải của nhà Tống vốn sẵn dã tâm xâm lược, đến đây lại biết rõ nội tình triều Lê rối ren, ra sức xúi giục triều đình đem quân sang thôn tính. Ba đại họa ấy, đủ để triều đình Lê Long Đĩnh có nguy cơ bị tan rã, xã tắc cũng nhất định sẽ lâm nguy. May thay, vua nhà Tống đã không dám xuất quân. Vua nhà Tống bỗng dưng từ tâm hẳn ra chăng? Một lần bị Lê Hoàn đánh cho đại bại, đủ để vua Tống nghìn lần đắn đo khi toan tính đánh báo thù đó thôi.

(Theo “Việt sử giai thoại” của Nguyễn Khắc Thuần – NXB Giáo Dục)

Nhân cách Lê Long Đĩnh

Lê Hoàn có tất cả mười hai người con trai, gồm mười một con ruột và một con nuôi. Lê Long Đĩnh là con thứ năm của Lê Hoàn. Năm Ất Tị (1005), Lê Hoàn mất. Một cuộc ác chiến để giành ngôi giữa các con của Lê Hoàn đã diễn ra. Cuối cùng, Lê Long Đĩnh đã cướp được ngôi báu và làm vua gần 5 năm (1005 - 1009).
Sách Đại Việt sử lược (quyển 1) đã dành một đoạn khá dài để viết về nhân cách của Lê Long Đĩnh. Chúng tôi xin giới thiệu lời dịch đoạn viết này và xin nhường lời bàn cho độc giả:

“Vua vốn tính hiếu sát. Có tội nhân phải tội chết, Vua bắt lấy cỏ tranh cuốn vào người rồi đốt, hoặc giả có lần sai tên hề là Liêu Thủ Tâm, lấy con dao thật cùn, xả vào người tội nhân cho chết dần, làm như thế, tội nhân phải kêu la thảm thiết đến vài ngày. Liêu Thủ Tâm thấy vậy thì bỡn cợt rằng:

- Mày không quen chịu chết à!

Nhà vua thấy thế cũng cười to lên, lấy làm thích thú lắm. Mỗi khi đi đánh trận, họ bắt được tù binh là Nhà vua lại sai áp giải họ đến bờ sông. Khi nước thủy triều xuống thì sai làm cái lồng, đặt sẵn dưới nước cạn và nhốt tù binh vào đó để đến khi nước triều lên thì tù binh sẽ bị chết chìm dưới nước. Lại cũng có khi Nhà vua bắt tù binh phải trèo lên cây cao rồi sai người chặt cây cho ngã xuống mà chết. Có lần Nhà vua đi chơi ở khúc sông có lắm thuồng luồng, bèn sai trói tù binh vào mạn thuyền, chạy qua chạy lại, lấy họ làm mồi cho thuồng luồng.

Trong cung, phàm những vật đem về nhà bếp, Nhà vua đều tự tay cắt tiết rồi sau mới giao cho đầu bếp làm. Có lần, Nhà vua kê mía lên đầu bậc tu hành khả kính là Tăng Thống Quách Ngang để róc mà ăn. Vua giả vờ lỡ tay, khiến dao phập vào đầu nhà sư Quách Ngang, máu chảy ra lênh láng. Vua thấy vậy thì cười ầm lên.

Có đêm, Nhà vua sai làm thịt mèo để đãi. Các quan ăn xong, ai nấy nôn thốc nôn tháo cả ra. Khi các quan có việc phải vào và tâu trình các việc thì Nhà vua lại sai những tên hề ra nói leo, khỏa lấp hết mọi lời của quan.

Có lần, kẻ giữ cung làm món chả, Nhà vua cũng cùng với mọi người chạy đến tranh ăn. Bấy giờ, các bậc vương giả chống đối đều bị Nhà vua dẹp yên hết cả”.

“Vua đi đánh các châu Đô Lương và Cử Long (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa), bắt được người Man cùng với khoảng vài trăm con ngựa. Vua sai lấy gậy đánh bọn người Man bị bắt. Vì bị đánh quá đau, họ kêu la ầm ĩ, lỡ xúc phạm tới tên húy của Đại Hành (tức Lê Hoàn, thân sinh của Vua), thì Vua lại thích chí cười ồ lên và lại sai đánh nữa. Mỗi lần bị đánh là mỗi lần họ lại xúc phạm đến tên húy của Đại Hành, nhưng Nhà vua lại lấy đó làm vui. Đi đánh Ái Châu (tức vùng Thanh Hóa ngày nay), bắt được người của châu này, Vua sai làm cái rọ, nhốt họ vào đó rồi cười”.

…“Mùa đông, tháng 10 (năm Kỉ Dậu, 1009), ngày Tân Hợi, Vua băng ở tẩm điện, gọi là Ngọa Triều (Hàng Ðế) bởi vì Nhà vua có bệnh trĩ, mỗi khi ra chầu triều đều phải nằm”.

(Theo “Việt sử giai thoại” của Nguyễn Khắc Thuần – NXB Giáo Dục)

Loạn tam vương

Có một sự kiện rất đáng tiếc đã xẩy ra trong cung đình nhà Lý ngay sau khi vua Lý Thái Tổ mất (năm Mậu Thìn - 1028) đã được sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 2, tờ 11a-b và tờ 12-a) ghi lại như sau:
“Mùa xuân, tháng 2 Vua không khoẻ. Tháng ba, ngày mồng một là ngày Bính Thân, có nhật thực. Đến ngày Mậu Tuất (tức 3 -3), Vua băng ở điện Long An. Bầy tôi đều đến cung Long Đức xin Thái tử (Phật Mã) vâng di chiếu lên ngôi. Tam vương là Đông Chinh, Dực Thánh và Vũ Đức nghe tin, đều đem quân ở phủ mình vào phục sẵn trong cấm thành. Đông Chinh Vương phục ở trong Long Thành, hai vương Dực Thánh và Vũ Đức phục trong cửa Quảng Phúc, cùng đợi Thái tử đến thì đánh úp. Một lúc sau, Thái tử đi từ cửa Tường Phù vào, đến điện Càn Nguyên thì biết có biến, bèn sai người hầu đóng hết các cửa điện và sai vệ sĩ ở trong cung phòng giữ. Thái tử nhân đó bảo tả hữu rằng :

- Ta đối với anh em không phụ bạc chút nào. Nay tam vương làm việc bất nghĩa, quên di mệnh của tiên đế, muốn mưu chiếm ngôi báu, các khanh nghĩ thế nào ? Nội thị là Lý Nhân Nghĩa nói :

- Anh em với nhau, bên trong có thể hiệp sức bàn mưu, bên ngoài có thể cùng nhau chống giặc. Nay tam vương làm phản, thì là anh em hay là kẻ thù ? Xin cho chúng thần được đánh một trận để quyết được thua.

Thái tử nói :

- Ta lấy làm xấu hổ là tiên đế mới mất, thi thể chưa quàn mà cốt nhục đã đánh nhau, há chẳng để cho muôn đời chê cười sao ? Nhân Nghĩa nói :

- Thần nghe rằng, muốn mưu xa thì phải quên ơn gần, giữ đạo công thì phải dứt tình riêng, đó là việc Ðường Thái Tông và Chu Công Đán bất đắc dĩ phải làm. (Ý muốn chỉ việc Ðường Thái Tông giết hai anh, Chu Công Đán giết em là Quản Thúc để giữ ngôi vua cho Ðường Thái Tông và cho Chu Thành Vương). Nay, điện hạ có cho Ðường Thái Tông và Chu Công là chăm mưu xa và giữ đạo công chăng ? Hay hai người ấy chỉ tham công gần và đắm tình riêng chăng ? Điện hạ biết theo dấu cũ của Đường Thái Tông và Chu Công thì đời sau ca tụng công đức còn chưa hết, còn đâu mà chê cười ?

Nhân Nghĩa lại nói :

Tiên đế cho điện hạ là người hiền, đủ để nối được chí, có tài để làm nổi việc, nên đem thiên hạ phó thác cho điện hạ. Nay giặc đến vây bức cửa cung mà ẩn nhẫn như thế, thì đối với sự phó thác của tiên đế ra sao ?

Thái tử im lặng hồi lâu rồi bảo Nhân Nghĩa và bề tôi trong cung là bọn Dương Bình, Quách Thịnh, Lý Huyền Sư, Lê Phụng Hiểu rằng :

- Ta há lại không biết việc làm của Ðường Thái, Chu Công hay sao ? Chỉ vì ta muốn che giấu tội ác của tam vương, khiến họ tự ý rút quân chịu tội để được vẹn toàn tình cốt nhục là hơn.

Khi ấy, phủ binh của tam vương vây bức càng gấp, Thái tử liệu không thể ngăn được, liền nói :

- Thế đã như vậy, ta còn mặt mũi nào trông thấy tam vương nữa. Ta chỉ biết làm lễ thành phục (lễ mặc đồ tang) đến hầu tiên đế, ngoài ra đều uỷ thác cho các khanh cả.

Bọn Nhân Nghĩa đều lạy hai lạy, nói :

- Chết vì vua gặp nạn là chức phận của chúng thần. Nay đã được chỗ đáng chết, còn từ chối gì nữa.

Nói xong, bèn ra lệnh cho vệ sĩ trong cung mở cửa ra đánh, ai cũng vui lòng xông phá, có sức một người chọi với cả trăm người. Khi quân đánh nhau chưa phân được thua, Phụng Hiểu tức giận rút gươm chạy thẳng đến cửa Quảng Phúc, hô to rằng :

- Bọn Vũ Đức Vương ngấp nghé ngôi báu, không coi vua nối dõi vào đâu, trên quên ơn tiên đế, dưới trái nghĩa tôi con, vì thế thần là Phụng Hiểu xin đem thanh gươm này để dâng.

Nói rồi, xông thẳng đến chỗ ngựa của Vũ Đức Vương. Vương quay ngựa tránh, ngựa quỵ xuống, bị Phụng Hiểu bắt giết. Phủ binh của tam vương thua chạy, quan quân đuổi theo chém chết không sót một tên nào, chỉ có hai vương là Đông Chinh và Dực Thánh chạy thoát được”.

Lời bàn:

Dẫu là người dưng mà chém giết nhau để giành quyền cao chức trọng, cũng đã đủ để tiếng xấu đến muôn đời, huống chi là anh em ruột thịt, nồi da nấu thịt. Đông Chinh, Dực Thánh và Vũ Đức làm sao có thể gọi là hợp mưu để giết Phật Mã được? Ngôi vua thì chỉ có một, dẫu có giết được Phật Mã đi chăng nữa, chẳng lẽ sau đó, cả ba lại cùng nhau làm vua? Cả ba chỉ lừa nhau, liên minh giả dối với nhau để rồi kẻ thắng thế duy nhất cũng chính là kẻ nham hiểm cao tay nhất.

Đông Chinh và Dực Thánh chạy thoát lưỡi gươm đương thời, nhưng làm sao thoát được lời búa rìu khinh ghét của muôn đời !

(Theo “Việt sử giai thoại” của Nguyễn Khắc Thuần – NXB Giáo Dục)

Dương thái hậu và 76 thị nữ bị giết hại

Tháng 1 năm Nhâm Tý (1072), vua Lý Thánh Tông qua đời, thái tử Càn Đức bấy giờ mới 6 tuổi lên nối ngôi, đó là vua Lý Nhân Tông (1072-1127). Thái tử Càn Đức là con đẻ của Ỷ Lan nguyên phi, nay Càn Đức lên ngôi, Ỷ Lan được tôn phong là Linh Nhân thái phi, còn hoàng hậu họ Dương thì được tôn phong là Dương thái hậu. Lễ xưa quy định, hễ hoàng đế lên ngôi lúc còn nhỏ tuổi thì thái hậu được quyền buông mành giữa triều đình để ngồi ở phía sau mành mà nghe quần thần tâu bày chính sự, ấy gọi là thùy liêm. Chỉ thái hậu mới được quyền buông mành nhưng Dương thái hậu lại không phải là mẹ đẻ của Lý Nhân Tông, điều đó khiến Linh Nhân thái phi căm tức. Năm Quý Sửu (1073), một vụ tàn sát bi thảm đã diễn ra mà nạn nhân chính là Dương thái hậu cùng 76 thị nữ (cũng có sách nói chỉ có 72 thị nữ mà thôi). Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 3, tờ 7-a) chép rằng:

“Linh nhân có tính hay ghen, cho mình là mẹ đẻ mà không được dự chính sự, mới kêu với Vua rằng: “Mẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú quý thì người khác thưởng, vậy con để mẹ già vào đâu?”. Vua bèn sai giam Dương thái hậu và 76 người thị nữ vào cung Thượng Dương rồi bức phải chết, cho chôn theo lăng của Thánh Tông”.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói : Nhân Tông là người nhân hiếu, Linh Nhân là người sùng Phật, sao lại đến nỗi giết Thái hậu, hãm hại người vô tội đến mức tàn nhẫn như thế? Ấy vì ghen là tính thường có của đàn bà, huống chi lại là mẹ đẻ mà không được dự chính sự. Linh Nhân dẫu là người hiền cũng không thể nhẫn nại được, cho nên phải kêu với Vua. Bấy giờ, Vua còn trẻ thơ, chỉ biết chiều lòng mẹ là thích mà không biết là lỗi to…”.

Lời bàn:

Dương thái hậu buông mành điều khiển chính sự, ấy là bởi quy định của điển lễ xưa, âu cũng là bổn phận phải làm vậy. Linh Nhân thái phi buồn vì sự đời bất như ý, từ đó đâm ra ghen tức, ấy cũng là sự thường của người lòng dạ hẹp hòi, đàn ông đàn bà gì cũng thế mà thôi. Một đời Linh Nhân có biết bao cống hiến, sử sách ghi đầy đủ, nhưng một lần Linh Nhân tàn sát hơn bảy chục người, sử sách cũng không quên. Bởi việc tàn sát này mà nhân tâm li tán, kẻ thù lợi dụng, thử hỏi lúc đó nếu không có Lý Thường Kiệt thì vận mệnh nước nhà sẽ ra sao?

(Theo “Việt sử giai thoại” của Nguyễn Khắc Thuần – NXB Giáo Dục)

Di chiếu của Lý Nhân Tông

Lý Nhân Tông (1072 - 1127), húy là Càn Đức, con trưởng của vua Lý Thánh Tông (1054 - 1072), mẹ đẻ là Ỷ Lan thái phi. Vua sinh vào tháng 1 năm Bính Ngọ (1066).
Càn Đức chào đời hôm trước thì ngay ngày hôm sau được phong làm thái tử và đến năm lên 6 tuổi (Nhâm Tí - 1072) thì được lên nối ngôi. Chân dung vua Lý Nhân Tông được sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 3, tờ 6-b) miêu tả đại lược như sau:

“Vua trán dô, mặt rồng, tay dài quá gối, sáng suốt thần võ, trí tuệ hiếu nhân, nước lớn sợ, nước nhỏ mến, thần giúp, người theo, thông âm luật, chế ca nhạc, dân được giàu đông, mình được thái bình, là vua giỏi của triều Lý”.

Lý Nhân Tông ở ngôi 56 năm, thọ 62 tuổi, là vị vua trị vì lâu dài nhất trong lịch sử Việt Nam. Nhưng, Lý Nhân Tông bất diệt không phải là chỗ trị vì lâu dài, mà là ở lời di chiếu chứa chan lòng yêu nước, thương dân. Cũng sách trên (tờ 25-b và 26-b) đã trang trọng ghi lại lời di chiếu ấy. Xin trích hai đoạn sau đây:

“… Trẫm nghe, phàm các loài sinh vật, không loài nào là không chết. Chết là số lớn của trời đất và lẽ đương nhiên của mọi vật. Thế nhưng người đời chẳng ai không thích sống mà ghét chết. Chôn cất hậu làm mất cơ nghiệp, để tang lâu làm tổn tính mệnh, trẫm không cho thế là phải. Trẫm ít đức, không lấy gì làm cho trăm họ được yên, đến khi chết đi lại khiến cho thứ dân mặc áo xô gai, sớm tối khóc lóc, giảm ăn uống, bỏ cúng tế... làm cho lỗi ta thêm nặng, thiên hạ sẽ bảo ta là người thế nào? Trẫm xót phận tuổi thơ phải nối ngôi báu, ở trên các vương hầu, lúc nào cũng nghiêm kính sợ hãi. Đã 56 năm nay, nhờ anh linh của tổ tông, được hoàng thiên phù hộ, bốn biển yên lành, biên thùy ít biến, chết mà được xếp sau các bậc tiên quân là may rồi, còn phải thương khóc làm gì ?”

“… Việc tang thì chỉ ba ngày là bỏ áo trở, nên thôi thương khóc. Việc chôn thì nên theo Hán Văn Đế, cốt phải kiệm ước, không xây lăng mộ riêng, nên để ta hầu bên cạnh tiên đế. Than ôi! mặt trời đã xế, tấc bóng khó dừng, từ giã cõi đời, nghìn thu vĩnh quyết. Các ngươi nên thực lòng kính nghe lời trẫm, bảo rõ cho các vương công, bày tỏ cho hết trong ngoài”…

Lời bàn:

Thói thường, lời vĩnh quyết cũng có thể là lời vô nghĩa nhất mà cũng có thể là lời minh tuệ nhất. Lời Lý Nhân Tông thuộc loại thứ hai. Nhưng, lời ấy không phải là lời bất chợt của phút chót cuộc đời mà là lời phản ánh một đời nặng lo gánh vác trọng trách trước sơn hà xã tắc. Lý Nhân Tông là nhân vật gắn liền với ba sự kiện lớn ở nửa sau của thế kỷ Xl. Một là đã mở khoa thi Nho học đầu tiên vào năm Ất Mão (1075). Từ đây, phương thức tuyển lựa quan lại bằng thi cử được thiết lập. Cũng từ đây, đội ngũ quan lại chính quy dần dần thay thế đội ngũ quý tộc thế tập. Hai là đã lập ra Quốc Tử Giám vào năm Bính Thìn (1076). Từ đây, nền đại học của nước nhà được khai sinh. Cũng từ đây, trước khi tham chính, quí tộc phải trải qua một giai đoạn đào tạo hẳn hoi. Ba là đã chỉ huy quân dân cả nước đập tan cuộc xâm lăng của nhà Tống vào năm Đinh Tị (1077), làm cho “nước lớn sợ”, làm cho uy danh của nước Đạt Việt trở nên lừng lẫy.

Con người có nhiều cống hiến lớn lao ấy lại không muốn xây lăng mộ riêng, cho dẫu trước sau. Ông vẫn là đại diện cao nhất của giai cấp quý tộc đương thời. Ngày nay, khi đến với Thăng Long cổ kính, ai cũng biết và cũng muốn đến với khu Quốc Tử Giám nổi tiếng ngàn năm, nhưng hầu như chẳng ai biết và cũng ít ai muốn về thăm nấm mồ bình dị của ông. Ông đã hoá thân thành lịch sử và chính ông cũng là một phần của lịch sử nước nhà vậy.

(Theo “Việt sử giai thoại” của Nguyễn Khắc Thuần – NXB Giáo Dục)

GIAN TRUÂN NGHỀ CÂU ẾCH

Hiện nay, ếch đồng là một đặc sản, một món ăn ưa thích của hầu hết mọi người. Muốn bắt được chúng có rất nhiều cách, nhưng phổ biến nhất vẫn là câu.

Như ta đã biết, ếch là loài động vật lưỡng cư, sống nửa nước nửa cạn. Vào mùa khô, chúng sống trong hang. Đến khi mùa mưa bắt đầu, khoảng đầu tháng 4 (âm lịch), ếch sẽ ra khỏi hang để kiếm thức ăn và sinh sản. Ếch đực có một túi kêu dưới má, nhỏ bằng hạt bắp, nhăn nheo, màu vàng xậm; đầu nhỏ, bụng thon, trọng lượng nhỏ hơn ếch cái, có chai tay ở ngón tay thứ nhất bàn tay trước như giác bám để ôm ếch cái khi sinh sản. Tất cả các loại ếch đều thích bắt mồi động. Ở Việt Nam có hai loài ếch phổ biến là ếch da nâu và ếch cốm. Ếch da nâu là ếch ta thường thấy, còn ếch cốm có da hơi xanh, nhỏ hơn ếch da nâu một chút.


Một chú ếch cốm đang nổi đầu. Ảnh: internet

Ở vùng quê, khi mùa mưa đến cũng là lúc mọi người chuẩn bị vào mùa câu ếch. Đồ nghề câu khá đơn giản. Ta chỉ cần một cây trúc dài khoảng 10m, không cần độ cong và dịu như cần câu cá rô. Sở dĩ như vậy là vì ếch là loài tương đối nhút nhát, khó lại gần nên phải có cần câu dài thì mới có thể ở xa mà đưa mồi câu đến được chúng. Dây câu thường được làm bằng dây ni lông, dài khoảng 1,5 - 2m. Lưỡi câu là loại dùng để câu cá lóc. Mồi câu là những loại lá, hoa, quả có màu sắc sặc sỡ, thậm chí chẳng cần mồi câu. Còn đồ đựng ếch thì chỉ cần một cọng dây chuối để buộc thành sâu là được. Lưu ý, câu ếch khác với cắm câu ếch ở chỗ là ta đi câu vào ban ngày, chỉ sử dụng một cần câu và một lưỡi câu duy nhất. Ngoài ra, cần câu, dây câu cũng dài hơn, lưỡi câu to hơn, mồi câu cũng khác hơn.

Thông thường, đi câu vào những ngày đầu mùa ít có ếch lớn mà chỉ toàn ếch lứa lứa. Do đó, thời điểm lí tưởng nhất là lúc khoảng một tháng sau khi rớt hột mưa đến hết mùa mưa. Vì lúc này những con ếch lứa đã lớn, những con ếch bố mẹ cũng vừa sinh sản xong, nên chúng cần ăn nhiều hơn nên xuất hiện nhiều hơn, to hơn, dạn hơn.

Vào cuộc đi câu, đầu tiên ta tìm những cái mương thích hợp, đi dọc theo mé từ đầu đến cuối mương, vừa đi chân vừa dậm xuống đất hoặc các bụi rậm. Làm như vậy mục đích là để cho ếch nghe tiếng động mà phóng xuống mương. Dấu hiệu để biết ếch vừa mới phóng là lắng nghe âm thanh kết hợp với quan sát mặt nước. Nếu ếch nhỏ ta sẽ nghe tiếng “chụt”, ếch lớn nghe “xộn”, nhưng có những con rất khôn, nó không tạo ra âm thanh mà chỉ chuồi nhẹ xuống nước không tiếng động. Đối với người đi câu, những dấu hiệu này rất quan trọng, vì nó giúp họ biết ếch to (ếch bà) hay nhỏ, nhiều hay ít, và đó có phải là con ếch hay không. Bởi nhiều khi thấy phóng xuống nhưng hóa ra chỉ là một con chàng hiu, một con nhái hoặc một con bồ tọt mà thôi. Những cách thức kể trên hay ở chỗ, thay vì đứng chết một nơi để đợi một con nổi lên, ta lại có nhiều cơ hội tiếp cận với nhiều con cùng một lúc, do đó câu được nhiều hơn và tốn ít thời gian hơn.

Theo kinh nghiệm, ếch nhỏ lặn rất mau, đôi lúc vừa phóng xuống thì chúng đã nổi lên ngay. Còn với các con ếch bà, chúng có thể lặn đến vài tiếng đồng hồ, rất khôn và nhát, nhiều lúc đợi cả buổi mà chẳng thấy tăm hơi chúng đâu. Bù lại đó, ếch có một đặc tính là nếu phóng ở bờ này thì gần như sẽ nổi ở bờ kia. Cũng có một số ít nổi ngay chỗ vừa phóng hoặc giữa mương, và nhiều khi cả mùa mưa chúng chỉ ở quanh quẩn chỗ đó mà thôi. Do vậy, chỉ cần nhớ chúng phóng ở đâu thì cứ đến gần chỗ ấy để xem chừng là có thể câu được ngay. Nên nhớ rằng, câu ếch ngại nhất là tiếng động. Vì thế, sau khi đuổi xong, người câu có thể đi tới lui để quan sát nhưng phải hết sức cẩn thận. Những người chuyên nghiệp họ không đi lại nhiều mà lựa một góc để đứng sao cho quan sát được xa và rõ.

Nhưng dù đứng ở đâu, khi thấy ếch nổi, ta phải hết sức bình tĩnh, mọi động tác đều phải hết sức nhẹ nhàng. Cứ thế, ta móc một chiếc lá có màu sắc vào lưỡi câu rồi đưa cần câu ngày một dài ra. Lưu ý là không được đưa mồi ngay ếch một cách đột ngột mà phải nhấp nhấp cách đó một quảng rồi từ từ tiến lại gần. Nguyên nhân là do mắt ếch kém, chỉ phát hiện các loại mồi động nên nếu ta đưa mồi xuất hiện bất ngờ quá thì ếch sẽ hoảng hồn mà lặn mất. Tuy nhiên, có những người không bao giờ dùng mồi để câu mà chỉ đưa lưỡi lại gần ếch rồi canh sao cho khi giật lưỡi phải móc vào thân ếch. Cách này dân câu thường gọi là giật mép, nó cũng khá hiệu quả nhưng nếu giật xẩy ếch sẽ rất nhát.


Những con ếch bà bị tóm. Ảnh: internet

Và cũng theo kinh nghiệm, ếch nhỏ thường dễ câu hơn ếch lớn, bởi chúng rất háo mồi và dạn dĩ. Riêng đối với những con ếch bà thì lại câu rất cực. Vì như trên đã nói, ếch bà rất khôn và nhát, không háo mồi như ếch nhỏ, chỉ cần một sai sót là chúng lặn ngay, nhiều khi không bao giờ nổi nữa. Vì vậy, khi đưa mồi hay lưỡi câu đến những con ếch này ta phải thật sự tập trung mới có thể câu được chúng.

Nhưng những lúc ếch nổi ở gần còn đỡ, chứ khi nó nổi ở xa, ta câu còn cực hơn gấp bội. Bởi lẽ ta không thể đi thẳng lưng và mạnh dạn như đi câu cá mà phải khom, phải bò, phải trườn như tập quân sự, từng bước tiến lại gần đối tượng, hồi hộp và căng thẳng chẳng vô cùng. Những nơi có nhiều cây cho khuất khuất còn đỡ, gặp những nơi trống trải thì bò rất khổ vì sợ ếch thấy. Nói không ngoa chứ nhiều khi câu xong một con kiểu như vậy, người câu như muốn đừ ra vì tâp trung cao độ. Nhưng nếu cực như vậy mà bắt được ếch thì cũng không nói gì, đằng này nhiều khi bò từ đầu mương đến cuối mương mà có chút động tĩnh là ếch lặn mất. Cũng vì nguyên nhân đó mà nhiều buổi đi câu ta chỉ được một vài con.


Ếch xào cải chua. Ảnh: internet

Thật ra, những gì đã nói ở trên chỉ là một trong rất nhiều cách câu ếch. Vì nhiều nơi họ không làm như vậy mà dùng mồi có màu sắc rồi kéo lê hoặc nhấp trên mặt đất, mặt nước, mé mương,…để dụ ếch ra khỏi chỗ ẩn nấp. Cách này cũng không cho kết quả cao vì bị vướng cỏ và không phải con nào cũng chịu ra khỏi chỗ ở và chịu ăn mồi, nhất là với ếch bà. Và nếu so với đi cắm câu ếch thì cả hai cách trên đều thua xa.

Nhưng dù cho có câu cách nào đi nữa thì ai cũng phải công nhận rằng, câu ếch tuy không dễ nhưng là một công việc thú vị. Thú vị vì nó tập cho ta tính kiên nhẫn, chịu khó và tỉ mỉ. Vì vậy, khi câu được nhiều ếch ta cảm thấy rất hãnh diện. Thú vị nữa là vì thịt ếch rất ngon, chế biến được rất nhiều món ăn hấp dẫn như: Ếch xào lăn, ếch xào cải chua, ếch muối ớt nướng vỉ, ếch kho sả, ếch ôm măng, ếch nấu măng chua, ếch nướng lá dâu, ếch rán, canh ếch, ếch trộn rau nhút, ếch kho tộ,… Có thể nói, đó chính là động lực để nhiều người luôn mãi gắn bó với nghề câu ếch, dù biết “nghề chơi” cũng lắm công phu.


Xuân Sắc

Cuộc Sống Việt _ Theo Tài hoa trẻ 584

ĐẶT CÁ CHẠCH

Khi mùa nước nổi về, khoảng tháng 9, tháng 10 (âm lịch), cũng là lúc người dân vào vụ đánh bắt cá đồng. Và trong vô số những nghề vào mùa ấy, có nghề đặt cá chạch rất độc đáo.

Ở Việt Nam ta có 6 loại cá chạch: Chạch khoang, chạch rằn, chạch lá tre (chạch gai), chạch bông, chạch sông (chạch lấu) và chạch bùn. Riêng ở ĐBSCL, khi mùa nước nổi về, bên cạnh các loại các đồng khác, cá chạch cũng sinh sôi nẩy nở rất nhanh. Vào mùa này, những sinh vật phù du, tép rong, cá nhỏ rất phong phú nên đó là nguồn thức ăn dồi dào để cá chạch lớn nhanh, mập ú. Để bắt cá chạch, người ta sử dụng rất nhiều cách khác nhau như giăng lưới, chài, đào bùn, cào,… nhưng những cách ấy cho hiệu quả không cao. Ở một số vùng quê, người dân nghĩ ra một cách tuy lạ mà quen là dùng những cái lợp giống như lợp đặt cá bống hoặc tép để dụ chúng vào.


Cá chạch lấu. Ảnh: internet

Điểm đầu tiên khi chọn lợp phải là lợp tốt, được làm bằng tre già, cọng nan nhỏ và tròn, được chuốt bóng. Hơn nữa, khoảng cách giữa các nan phải không quá thưa, vì như vậy cá chạch có thể chen ra ngoài khi vào lợp. Tiếp sau đó là ta chuẩn bị mồi để đặt. Mồi đặt cá chạch khá đơn giản, chỉ cần lấy xẻng đào ít trùn, sau đó cho chúng vào một tấm vải nhỏ buộc túm lại rồi cho vào trong lợp. Khi chuẩn bị xong, ta bắt đầu đi đặt lợp. Lưu ý, ta chỉ đặt vào ban ngày, vì ban đêm cá chạch ít khi vô lợp, đây là một đặt điểm khá lạ so với các loài cá khác.

Địa điểm đặt lợp tuy dễ nhưng chỉ những người có kinh nghiệm thì mới biết nên đặt ở đâu là lý tưởng nhất. Nên nhớ là cá chạch có thể sống khắp nơi trên cánh đồng, tuy nhiên, sẽ có những thửa ruộng chúng tập trung đông đúc đến kì lạ. Và những nơi ấy thường là những thửa ruộng trũng, nước trong, ấm và ít biến động. Khi đặt, ta móc một lỗ bùn sao cho vừa với cái lợp rồi đặt xuống, khoảng cách giữa các lợp khá xa nhau, nhiều khi một thửa ruộng chỉ đặt vài cái là đủ. Khác với khi đặt các loài cá khác, thời gian thăm lợp cá chạch khá lâu. Trong ngày, ta chỉ thăm tối đa hai lần, nên khi đặt xong, ta có thể đi làm những công việc khác nhưng tránh làm động đến những nơi vừa đặt.

Tuy chờ đợi khá lâu nhưng khi thăm ta sẽ lập tức quên đi quãng thời gian mỏi mòn trước đó. Khi dỡ lợp lên, nếu có cá chạch, ta sẽ thấy từng cái lưng bóng láng màu xanh nhạt và hai bên đuôi có những chấm đen hiện ra, khẻ cựa quậy lúc nhúc và kẹt cứng lại trong hom. Cá chạch rất nhạy mồi, nếu không có thì thôi, còn nếu có thì chúng sẽ vô chật cả lợp, rất ít khi dính 1 - 2 con.


Cá chạch kho nghệ. Ảnh: internet

Cá chạch bắt về còn tươi trong, rộng cho nhả hết mồi rồi chế biến thành nhiều món ngon độc đáo như: Chạch kho nghệ, chạch xào sả ớt, chạch nấu lẩu, chạch nấu cháo, chạch nấu canh chua,…Có một điều đặc biệt là khi làm cá chạch người ta không mổ bụng mà chỉ làm sạch nhớt. Với những người sành ăn, cá chạnh mà mổ bụng thì coi như thất sách, vì bụng cá là cái quí nhất, là tinh túy mà cá chạch có được. Trong trường hợp ăn không hết, người dân thường đem cá chạch phơi khô để ăn lâu dài. Đây cũng là một trong những món đặc sản trứ danh mà mọi người đều ưa thích, nhất là khi khô được nướng lên ăn kèm ít rau sống và nhắm cùng rượu đế thì quả là ngon và thú vị không gì bằng.

Xuân Sắc

ĐẶT CÁ BỐNG DỪA

Cá bống dừa từ lâu đã là món ăn ưa thích của người dân khắp vùng sông nước Cửu Long. Để bắt chúng người ta có thể câu hay dùng rổ để vớt những tàu mo nan, trái dừa chuột ăn, nhưng phổ biến nhất vẫn là đặt lợp hoặc ống trúm (xà di).

Cá bống dừa có ở khắp nơi trên các sông, rạch, thậm chí là trên các cánh đồng nước. Cá bống dừa có tập tính rất ham ăn, nước ròng thì núp trong lá cây, cỏ ước, và nhất là trong các mo nan, bẹ dừa, trái dừa bị chuột ăn rớt xuống nước, đó cũng là lí do vì sao mà người ta gọi chúng là cá bống dừa.


Cá bống dừa. Ảnh: internet

Để bắt cá bống dừa người ta có thể câu hay dùng rổ để vớt những tàu mo nan và trái dừa chuột ăn, nhưng với những người “chuyên nghiệp”, họ sẽ dùng lợp hoặc ống trúm để đặt chúng. Lợp và ống trúm được làm bằng tre hoặc trúc. Lợp là tập hợp nhiều cộng nan tròn, dài khoảng 3cm, được bện lại với nhau theo hình ống, bên trong có hom trước và hom sau, cửa trút cá nằm sau cùng, khi đặt lợp được đặt nằm. Khác với lợp, ống trúm gồm những cộng nan dẹp được đang khéo léo tựa như một cái hồ lô, hom nằm ngay phía dưới nơi thâm trúm phình ra, cửa trút cá nằm nơi đỉnh đầu và được đặt đứng. Cả hai loại dụng cụ trên khi đặt đều có một cây cặm xuống đất được buộc cố định vào thân nhằm tránh nước trôi đi mất.

Mồi đặt cá bống dừa là cua, ốc và nhạy nhất là con còng. Còng có hình dáng giống như cua nhưng nhỏ hơn, có màu đỏ hoặc tím (còng gió), thường sống cặp bờ kênh hoặc các mé cỏ. Vì còng có mùi tanh rất mạnh nên cá bống rất thích, và nếu thử làm một thí nghiệm nho nhỏ giữa mồi còng và các loại mồi khác, ta sẽ thấy hiệu quả chênh nhau rõ rệt. Còng được bắt về, đập ra nhưng không nát quá, lưu ý không nên bỏ quá nhiều mồi mà nên bỏ vừa đủ sao mỗi lần thăm ta lại thêm một ít mồi mới để đảm bảo mùi tanh để thu hút cá vào.

Đặt cá bống dừa ta chỉ đặt vào nước lớn, lí tưởng nhất là lúc nước vừa nhá lên mé xẻo, vì vào thời điểm này cá bống rất dạng dĩ, nước đi tới đâu chúng đi đến đó và liên tục tìm kiếm thức ăn. Địa điểm đặt cá bống cũng rất dễ, ta có thể đặt cặp mé sông, mé mương, giữa lòng con rạch,… Tuy nhiên, để bắt được nhiều cá ta nên chọn những con rạch không quá sâu, nơi có lỗ mọi hoặc mương lạng với một ít cỏ, một ít tàu dừa, mo nan, lục bình,… Lưu ý là không nên đặt nơi có quá nhiều cây cối hoặc cỏ rác chật chội, vì những nơi ấy cá bống ít trú ẩn, còn nếu có cũng chỉ toàn cá nhỏ, ăn không ngon.

Lưu ý, khi đặt hom của các ống trúm hoặc lợp phải xuôi theo chiều nước và có thể đặt gần nhau, khoảng 4 - 5m là được. Khi đặt xong ta canh chừng 10 phút là có thể thăm, và trong thời gian chờ đợi ấy ta có thể quan sát cá ăn rất thú vị. Khi vừa đặt xuống, mùi của mồi sẽ lan theo dòng nước, do rất nhạy mồi nên cá bống sẽ nhận thấy và bơi ngược dòng tìm đến. Ban đầu chúng sẽ bơi xung quanh để thăm dò và tìm đường vào bên trong. Khi tìm được miệng hom, từng con một sẽ chui vào, chúng tranh nhau ăn làm động cả một vùng nước. Trong nhiều trường hợp, khi chúng vào quá nhiều, cộng với nền đất mền, cây cắm lại nong nên ống trúm có thể ngã ngay, còn nếu là lợp sẽ bị nước trôi đi. Do vậy, với những tình huống đó, ta phải thăm ngay vì nếu khi trúm hoặc lợp bị ngã cá sẽ hoảng hồn và chui hết ra ngoài.

Khi thăm ta phải lội thật nhẹ, đồng thời lấy tay bịt miệng hom lại để hạn chế cá thoát ra vì tiếng động. Nếu có cá, chúng sẽ quậy rồ rồ, nhiều khi làm hư cả hom. Khi dỡ, ta trút cá vào thùng hoặc sô, nước rộng cá chỉ vừa đủ, không nên nhiều quá vì như vậy cá rất dễ bị chết. Khi trút xong ta bóp thêm vài con còng bỏ vào, thông thường ta phải dời chỗ mới, còn nếu chỗ vừa dỡ có nhiều cá và nước chưa lên cao thì ta có thể đặt lại. Cứ như vậy, khi đặt xong ta lại chờ và thăm tiếp; riêng với những người đặt nhiều khi vừa đặt xong cái cuối cùng là có thể quay lại thăm từ đầu. Với những đứa trẻ, khi thăm xong một lượt chúng lại đọ xem cá của ai nhiều hơn, to hơn và cũng cạnh tranh nhau quyết liệt về chỗ đặt. Riêng với những chỗ đã đặt hôm trước thì hôm sau không nên đặt lại vì cá rất ít. Do đó, muốn đặt được nhiều cá cũng đồng nghĩa với việc ta phải di chuyển liên tục về địa điểm.


Cá bống dừa kho tiêu. Ảnh: internet

Sau một buổi đặt, tùy gia đình mà họ có thể để cá ăn hoặc đem bán. Cá bống dừa có lợi thế là rộng được lâu nên ta có thể để ăn lâu dài. Do có ưu điểm là thịt chắc, lại rất ngọt và thơm nên cùng với cá lóc, cá, rô, cá sặc,… cá bống dừa cũng là một món khá ăn phổ biến trong bữa cơm của người Nam Bộ như: cá bống dừa kho sả, kho tiêu, kho nghệ, nấu canh tập tàng,…Nhìn chung, món nào cũng ngon và đều đậm đà hương vị quê hương.

Xuân Sắc

10 thay đổi của bé khi lên 1 tuổi

Mới 1 tuổi, bé chưa thể chơi các đồ chơi, nhưng lại thực sự muốn tham gia với bạn bè cùng trang lứa. Đây chính là khởi đầu cho sự phát triển kỹ năng xã hội của bé.

Đây chính là khởi đầu cho sự phát triển kỹ năng xã hội của bé.

Suy nghĩ, cảm xúc và những kỹ năng chân tay của bé phát triển từng ngày. Vì vậy bạn nên tìm hiểu tỉ mỉ tâm lý của bé ở tuổi này để giúp bé phát triển, chăm sóc bé tốt hơn.

Bé phát triển nhờ những thành công

Mỗi một bước tiến đều có tác dụng giúp bé phát triển từng ngày. Những tiến bộ có thể chỉ đơn giản là việc bé bắt đầu tự cởi được đôi tất mà không cần đến sự giúp đỡ của mẹ. Lời khen và sự động viên của bạn sẽ làm tăng sự hài lòng và tự tin về bản thân của bé.

Các trò chơi vận động chân tay

Kỹ năng chân tay của bé đặc biệt tiến bộ trong thời kỳ này, phần lớn là nhờ vào khả năng đi mà bé vừa chập chững tập được. Bé có thể e ngại hoặc tỏ ra sợ hãi khi trèo lên những đồ chơi kích cỡ lớn, vì vậy bạn hãy ủng hộ và khuyến khích mỗi bước bé tập đi.

Đoán biết tâm lý của bé

Có những lúc bé đang rất vui vẻ bập bẹ, "nói chuyện" với những người xung quanh nhưng ngay sau đó lại bật khóc khi có người lạ lại gần bắt chuyện. Ở giai đoạn này, khả năng tự tin của bé chưa ổn định. Bé sẽ thấy thoải mái hơn khi có người thân bên cạnh giúp bé làm quen và "trò chuyện" cùng mọi người.

Bé tìm kiếm những kinh nghiệm mới

Bé là một nhà thám hiểu nhỏ luôn mong muốn tìm kiếm những điều mới mẻ về thế giới xung quanh. Tính tò mò của bé là vô hạn. Vì thế bạn đừng ngạc nhiên khi bé khám phá tủ đựng chén bát hay thậm chí bò vào gầm ghế để tìm hiểu.

Bé thích được khuyến khích

Khi bé một tuổi, tình yêu thương và sự tán dương của bạn giúp bé rất nhiều. Kỹ năng của bé phát triển từng ngày, vì thế bạn không cần phải bận bịu trông coi suốt ngày, nhưng bạn sẽ thấy là bé rất dễ chán vào những lúc tĩnh lặng. Bạn hãy lên kế hoạch hàng ngày cho con để bé luôn bận rộn cùng những trò chơi thú vị.

Bé hay khóc và nổi cáu

Trẻ em thường thiếu tính chịu đựng, vì thế bé dễ dàng nổi cáu khi mọi việc không như ý muốn. Điều này lý giải tại sao khi bé bật khóc khi miếng ghép cuối cùng của bộ đồ chơi xếp hình lại không được gắn vào dễ dàng.

Bé thích sử dụng lời nói

Một tuổi là thời gian kỹ năng ngôn ngữ và khả năng nói của bé phát triển rất nhanh. Bé tự tăng vốn từ của mình bằng cách bắt đầu kết hợp các từ thành các cụm từ. Giai đoạn này bé sẽ nhận thức được giá trị của giao tiếp và sử dụng ngôn ngữ để kết hợp với người thân và các trẻ bằng tuổi.

Bé cố gắng độc lập

Khoảng thời gian bắt đầu tập đi, bé muốn tự quyết định những gì liên quan đến mình, như chơi đồ chơi gì và khi nào thì đi ngủ? Vì thế, điều bạn cần làm là dạy cho bé biết cách tự chủ và độc lập để giúp bé rèn luyện các thói quen.

Bé cần tình yêu thương và sự quan tâm của bạn

Khi một tuổi, tâm sinh lý của bé phụ thuộc rất nhiều vào tình yêu và sự ủng hộ của cha mẹ, kể cả những lúc bé nổi cáu. Vì vậy, bạn hãy luôn dành cho bé nhiều lời khen và sự âu yếm, thậm chí nếu bé có hơi bướng bỉnh.

( Theo CNMS)

10 cách giúp trẻ phát triển kỹ năng đọc

Dù con bạn mới biết đọc hay đã biết đọc, nên áp dụng thêm những cách đã được thực nghiệm sau đây để giúp trẻ tập đọc ở nhà.
Sau đây là một số phương pháp để khuyến khích các em mới tập đọc và tạo sự say mê đọc sách.

1. Chỉ cho trẻ những chữ cái và từ then chốt:

Lần đầu tiên con bạn tập đọc, hãy chỉ tay vào một từ đặc biệt nào đó, giải thích và nhấn mạnh nghĩa của từ, nhớ đừng chỉ vào hình. “Chúng ta tìm từ con gấu ở trang này. Con có nhìn thấy chữ g trong từ gấu không?”. Trẻ em thường nhớ những chữ cái trong tên của mình trước nên bạn hãy tìm những từ có những chữ cái đó.

2. Đọc theo mẫu:

Khi con bạn đã đọc được một số từ, hãy cho đọc lại những từ đó trong những truyện đơn giản. Hãy đọc chữ đầu tiên và yêu cầu trẻ đọc tiếp cho đến hết câu.

3. Cùng trẻ đọc truyện:

Đọc một câu truyện quen thuộc rồi cho trẻ đọc lớn tiếng một mình. Giọng đọc của bạn sẽ giúp trẻ hiểu được và vượt qua những chi tiết đòi hỏi sự tinh tế. Vì muốn ghi nhớ và đọc to chuyện đòi hỏi một sự tập trung cao độ, nên hãy thay phiên mỗi người đọc 1 trang, trẻ có thời gian để nghỉ ngơi và nghe bạn đọc.

4. Đừng vội vàng:

Khi trẻ chuẩn bị đọc chuyện cho bạn nghe, để ý xem quyển sách đó có quá khó với trẻ hay không. Nếu nhận thấy cứ 10 từ thì trẻ lại mắc kẹt một từ thì hãy chọn một cuốn sách khác dễ hơn. Đừng từ chối nếu trẻ muốn đọc đi đọc lại câu truyện mặc dù chưa hiểu rõ vì đọc lại một quyển sách giúp trẻ tự tin hơn và trẻ có thể khoe khoang về điều đó.

5. Diễn tập trước:

Trẻ em thường không thích đọc những quyển sách mới vì chúng không muốn bị vấp trước mặt cha mẹ. Trẻ em muốn coi trước, cũng như diễn viên sẽ gặp khó khăn khi diễn xuất mà không đọc trước kịch bản. Vì thế, nên cho trẻ xem hình minh họa rồi hỏi trẻ xem cuốn sách đó có ý nói về cái gì. Nếu gặp loại sách khó đọc, nên cho trẻ đọc trước những từ khó.

6. Giúp đỡ khi gặp từ khó:

Nếu con bạn bị vấp từ nào, đừng ép đọc nữa. Trước hết, nói trẻ bỏ qua từ đó, đọc tiếp phần còn lại của câu rồi hãy quay lại. Đố trẻ đoán nghĩa của từ đó. Bắt trẻ nhìn vào những chữ cái ở đầu và cuối của từ để hình dung ra từ đó. Nếu trẻ vội nản, khuyến khích trẻ rằng từ đó không khó và cũng dễ ghi nhớ.

7. Tránh xao lãng:

Mặc dù cùng đọc với con bạn nửa tiếng mỗi ngày là cần thiết, nhưng đừng nên đọc liên tục quá 10 phút. Nếu bạn tập trung vào việc dạy trẻ, chúng sẽ nhận thức được tầm quan trọng của việc tập đọc.

8. Trò chuyện:

Những cuộc nghiên cứu cho thấy, trò chuyện với trẻ em bằng cách kể chuyện sẽ làm giàu vốn từ vựng và sự hiểu biết của trẻ. Khi đi dạo hoặc khi đọc sách xong, trẻ thích thảo luận về những gì nó vừa đọc. Lúc đó, bạn nên hỏi: “Theo con thì sau đó chuyện gì sẽ xảy ra?”. Hoặc khích lệ trẻ nêu ra cảm nghĩ của mình về câu chuyện. Điều này sẽ giúp các em hiểu rõ cốt truyện.

9. Gọt bút chì:

Trước đây các nhà ngôn ngữ cho rằng trẻ em cần biết đọc trước khi biết viết, nhưng hiện nay họ nhận ra rằng viết cũng là hình thức học đọc. Bạn nên khuyến khích con mình viết ra giấy những đồ vật thường dùng hàng ngày. Những cuộc nghiên cứu gần đây cho thấy viết đúng chính tả giúp người mới tập đọc hiểu được mối quan hệ giữa các chữ cái và phát âm. Bạn hãy đọc cho trẻ viết một lá thư gởi cho bà ngoại và giải thích cho trẻ hiểu về cách dùng từ cũng như cấu trúc một lá thư.

10. Duy trì việc đọc:

Khoảng 12 – 13 tuổi, trẻ em mới có thể hiểu hết được những cuốn sách khá phức tạp mà chúng tự đọc. Đối với trẻ, việc đọc giúp cho các em mở rộng vốn từ và khả năng suy luận. Dĩ nhiên, bạn có thể trải qua những giây phút vui vẻ tập đọc với con.

Làm thế nào để kích thích trẻ học hỏi?

Một điều mà bất cứ ông bố bà mẹ nào cũng mong muốn đó là làm sao khiến con cái mình ham mê học hỏi. Nhưng làm sao để kích thích nhu cầu này ở trẻ thì không phải ai cũng biết.
Thực tế, trẻ em luôn là đối tượng có nhu cầu tìm hiểu kiến thức rất cao. Hằng ngày, chúng ta luôn phải đối mặt với những chuỗi câu hỏi “nhức đầu” của bé: “Bố ơi tại sao?”, “Mẹ ơi làm thế nào?”. Thế nhưng, dường như việc “ngập chìm” trong những quyển sách với muôn vàn chữ nghĩa và bài học khô khan, cứng nhắc tại trường lớp đã làm bé chán ngán với việc tìm hiểu thế giới xung quanh. Vậy bí quyết nào có thể kích thích niềm ham mê học hỏi của trẻ.

Theo các nhà nghiên cứu, trẻ tiếp thu nhanh nhất, hiệu quả nhất là thông qua hình ảnh, âm thanh. Để dạy bé biết trái đất có hình gì, thay vì nói với bé 10 lần từ “hình tròn” bạn hãy đưa bé xem, chỉ 1 lần thôi, bức tranh ngộ nghĩnh về trái đất. Chỉ với một phép thử đó, bạn sẽ thấy hình ảnh và âm thanh có vai trò to lớn thế nào!

Nắm bắt được bí quyết đó, có rất nhiều sản phẩm, dịch vụ đã ra đời như một công cụ hữu hiệu cho các ông bố bà mẹ muốn kích thích ham muốn học hỏi của con mình. Đó là những chương trình truyền hình dành cho thiếu nhi với chủ đề khám phá thiên nhiên, khám phá khoa học. Đó là những cuốn sách bách khoa bằng tranh dành cho bé. Những chương trình này đã khiến không ít bậc phụ huynh phải mừng vui khi thấy bé ngày một ham học hỏi.

Tiếp bước sự thành công của những sản phẩm này, website socnhi.com đã cho ra đời chuyên mục Bác học nhí - một chuyên mục cung cấp kiến thức qua những hình ảnh đầy sắc màu và âm thanh sinh động. Bước vào Bác học nhí, bé như được hòa mình vào một không gian thiên nhiên kì thú và cảm thấy vô cùng hào hứng với những câu đố hấp dẫn về thế giới muôn màu của người bạn Sóc Nhí. Dường như với bé, Sóc nhí đã trở thành một người bạn học tuyệt vời.

Kiến thức là hành trang theo bé suốt cuộc đời. Vì vậy xây dựng cho bé một niềm đam mê học hỏi, tìm tòi là điều cần làm ngay từ lúc thơ bé. Hy vọng với website socnhi.com cũng như rất nhiều những sản phẩm khác dành cho trẻ, bé sẽ ngày một yêu thích khám phá thế giới hơn.

Theo Dân Trí

Tranh Đông Hồ: nét dân gian lưu giữ hồn Việt

Tranh dân gian góp phần không nhỏ vào việc lưu giữ các vốn văn hoá cổ xưa của dân tộc, làm cho đời sống tinh thần của người Việt Nam thêm phong phú và đa dạng. Trong các dòng tranh dân gian, tranh Đông hồ khá gần gũi với đại đa số dân chúng Việt Nam, nhắc tới hầu như ai cũng đều biết. Tranh gần gũi vì nó gắn với làng quê, ngõ xõm, với cuộc sống lao động của người nông dân bình dị, chất phác và hình ảnh của nó đã đi vào thơ, văn:
“Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”

Không phải tự nhiên mà tranh Đông Hồ được nhà thơ Hoàng Cầm nhắc đến đầy tự hào và kiêu hãnh trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” như một đặc sản nghệ thuật của vùng quê Kinh Bắc. Cái làm nên nét đặc sắc độc đáo của tranh Đông Hồ chính là chất liệu làm tranh, được chế biến thủ công từ các nguyên liệu có sẵn trong thiên nhiên: Giấy làm từ cây dó, màu đỏ từ gạch non, màu vàng từ hoa điệp vàng, màu đen từ lá tre đốt, màu trắng được nghiền từ vỏ sò, ốc… Trên cơ sở những màu sắc cơ bản ấy người dân đã tạo thêm nhiều màu sắc khác nhau từ việc trộn lẫn các màu. Để hoàn thành một sản phẩm, không kể khâu khắc tranh trên bản gỗ, có sẵn giấy và màu, người làm tranh phải rất công phu, cẩn thận trong từng giai đoạn: sơn hồ lên giấy, phơi giấy cho khô hồ, quết điệp rồi lại phơi giấy cho khô lớp điệp, khi in tranh phải in từng màu lần lượt, nếu có 5 màu thì 5 lần in, mỗi lần in là một lần phơi… Cứ thế, dưới ánh sáng mặt trời lấp lánh từng hình ảnh, đường nét của cảnh sắc thiên nhiên, nếp sinh hoạt của người dân, những hình ảnh của cuộc sống thường ngày ... như “bừng” sáng trên giấy dó. Mọi giai đoạn đều thật công phu nên đòi hỏi người làm tranh luôn cẩn trọng, cầu kì, chú ý đến từng chi tiết nhỏ để có được một bức tranh đẹp.
Trước kia tranh được bán ra chủ yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh về dán trên tường, hết năm lại lột bỏ, dùng tranh mới. Tranh Đông Hồ xuất xứ từ làng Đông Hồ (xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Làng Mái là tên gọi dân gian xưa kia của làng tranh Đông Hồ bây giờ. Vào thế kỷ XVI tranh Đông Hồ xuất hiện nhưng không ai thống kê hết được có bao nhiêu mẫu tranh mà chỉ biết gồm có 5 loại là: Tranh thờ, Tranh lịch sử, Tranh chúc tụng, Tranh sinh hoạt và Truyện tranh. Từ cuối thế kỷ XIX đến 1944 là thời kì cực thịnh của làng tranh. Lúc ấy, trong làng có 17 dòng họ thì tất cả đều làm tranh. Đến hẹn lại lên, cứ khoảng tháng 7, tháng 8 hàng năm là cả làng đã tất bật để chuẩn bị cho mùa tranh Tết, khắp làng rực rỡ sắc màu của giấy điệp, không một mảnh đất trống nào không được người dân làng Hồ tận dụng để phơi giấy: từ sân nhà, sân đình, ven các ngõ xóm, đường làng, dọc theo triền đê cho đến các nóc nhà, nóc bếp….Không khí trong làng rộn rạo từ sáng đến tối suốt mấy tháng liền như thế.
Mỗi năm, chợ tranh chỉ nhộn nhịp và tấp nập nhất vào tháng Chạp, họp 5 phiên vào các ngày 6, 11,16, 21 và 26. Bà con, du khách thập phương đổ về mua tranh đông vui, tấp nập. Hàng nghìn, hàng triệu bức tranh các loại được mang ra xếp gọn lại bán cho những lái buôn, hoặc bán lẻ cho các gia đình mua về làm tranh treo tết để mang phú quý, vinh hoa cho nhà mình. Sau phiên chợ tranh cuối cùng (26/12 âm lịch) những gia đình nào còn lại tranh đều bọc kín đem cất đi chờ đến mùa tranh năm sau lại mang ra chợ tranh bán. Đến chợ tranh làng Hồ không chỉ có khách buôn và mua tranh, mà có cả những người hâm mộ nghệ thuật tranh dân gian thích thăm thú, xem tranh và đi trảy hội mùa xuân.
Tranh Đông Hồ có được sức sống lâu bền và có sức cuốn hút đặc biệt với nhiều thế hệ con người Việt Nam cũng như du khách nước ngoài cũng bởi những đề tài trên tranh phản ánh đậm chất cuộc sống mộc mạc, giản dị, gần gũi gắn liền với văn hoá người Việt. Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế đã giải thích về ý nghĩa của việc dùng màu sắc sao cho phù hợp với mỗi đề tài khác nhau: nền màu đỏ cho tranh đánh ghen để lột tả được cái nóng giận bực bội ngột ngạt của không khí lúc đó, nền màu vàng cho cảnh vui tươi tràn ngập sắc xuân trên các bức tranh ngày tết, nền màu hồng nhạt cho tranh làng quê yên bình …
Đôi khi những bức tranh Đông Hồ còn được những nghệ nhân trang trí kèm theo những từ chỉ dẫn hoặc những tứ thơ tình tứ, lãng mạn,




“Trong như ngọc, trắng như ngà
Đây chèo đấy hứng cho vừa lòng nhau”
(Hứng Dừa)
“Thôi thôi một giận làm lành
Chị đừng tức giận cho nhục lòng ta”…
( Đánh Ghen)

Trạng Chuột ơn vua cưới vợ làng,
Kiệu son lộng lẫy lọng hoa vàng !
Nàng dâu xứ chuột chân đi đất,
Ngón nhỏ bùn non vẫn dính chân !
(Đám cưới chuột)

Cứ bóc tách từng lớp nang văn hoá hiện trên mỗi bức tranh Đông Hồ cũng đủ cho chúng ta thấy vốn liếng văn hoá Việt thuần khiết và trong sáng, đa dạng và vô cùng độc đáo.
Các nghệ nhân Đông Hồ đã chuyển hóa những lời hay - ý đẹp, những kinh nghiệm đúc rút trong cuộc sống từ ngàn đời để lại vào tranh dân gian với những cách thể hiện rất riêng:
Những ai đã yêu thích tranh Đông Hồ hẳn rất quen thuộc với các tranh gà: Gà mẹ con, gà đại cát, gà dạ xướng, kê cúc. Chẳng hạn bức "Gà thủ hùng".
Theo sử sách xưa kể lại, vào khoảng năm 1915 cụ Chánh Hoàn gả con gái cho một anh Phán, Cụ Đám Giác ( tên thật là Nguyễn Thể Thức (1882 - 1943) là một nghệ nhân sáng tác nổi tiếng của Đông Hồ. Ngoài tranh về cuộc sống ở nông thôn cụ còn vẽ nhiều tranh truyện tranh phong cảnh, tranh tố nữ...)đã mừng đám cưới bằng một mẫu tranh mới: một gia đình gà gồm gà trống, gà mái và đàn con. Bằng ngôn ngữ ước lệ, các con gà được cách điệu hóa, chúng sống động mà không cần giống thực. Gà mái có bố cục theo đường xoắn ốc - tạo nên sự nũng nịu. Gà trống được đặt trong một hình thang, đáy lớn nằm trên - tạo nên tư thế chủ gia đình, che chở cho gà mái và đàn con. Bức tranh gợi không khí hạnh phúc, đầm ấm trong một gia đình. Trên tranh có dòng chữ nôm "Lắm con nhiều cháu, giống cánh giống lông" một lời chúc thật sâu sắc! Bức tranh này được xây dựng từ câu phương ngôn: "Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh".
Con trâu "đầu cơ nghiệp của nhà nông", cũng được các nghệ nhân Đông Hồ dành nhiều tâm huyết.Tranh cưỡi trâu thổi sáo có chữ: "Hà diệp cái thanh thanh" (Lọng lá sen xanh xanh). Một tàu lá sen dựng đứng như chiếc ô - ý tưởng thật thú vị. Con trâu nghển cổ thưởng thức tiếng sáo, tư thế, dáng vẻ của nó khiến ta cùng nghe thấy tiếng sáo réo rắt, thấy bầu trời trong xanh lồng lộng, thấy cuộc sống thanh bình...
Tranh cưỡi trâu thả diều có chữ "Vũ thu phong nhất tướng" (Một hình ảnh gió thu múa). Một cậu bé nằm ngửa trên lưng trâu thả diều... thật thú vị. Một câu phương ngôn về trẻ chăn trâu: " Đầu đội nón mé như lộng che - Tay cầm cành tre như roi ngựa". Thực tế khó có thể nằm trên lưng trâu mà dong các diều bằng nón mê như vậy? Thế mà ngắm tranh ta vẫn thấy khoái! Bức tranh thả diều còn có hai dị bản khác, một bức có chữ "Vũ thu phong nhất dực" (gió thu múa, một cánh), bức kia có chữ "Nhất tương phúc lộc điền" (một hạnh phúc của nhà nông) - cũng thú vị không kém.
Xuất phát từ câu phương ngôn: "Tre già măng mọc" nghệ nhân Nguyễn Thể Thức có đôi tranh, bức thứ nhất có tên: "Cử chỉ hữu cương thường", trên đó có câu thơ: "Tre già dẻo đã có thì - còn phần tráng trực để tùy người sau". Bức kia có tên: "Kim ngân hóa luật lệ" với câu thơ: "Lệ luật thì giáp là trên - Kim ngân hóa ắt vượt lên ai bì".
Trải qua nhiều thăng trầm, lệ mua tranh Đông Hồ treo ngày Tết đã mai một, làng tranh cũng thay đổi nhiều: Trong những năm kháng chiến chống pháp, khi cả nước điêu linh, Đông Hồ cũng rơi vào cảnh đạn bom lay lắt, làng tranh bị giặc đốt phá tan hoang, người dân trong làng lo chạy loạn khắp nơi, các bản khắc tranh cũng bị thiêu cháy rụi. Nghề tranh từ đó cũng bị gián đoạn. Hoà bình lập lại (1954) làng tranh được khôi phục. Nhiều tổ hợp tác sản xuất tranh Đông Hồ được thành lập, đây cũng là thời điểm tranh Đông Hồ được xuất khẩu sang các nước XHCN đạt kết quả cao. Nhưng từ năm 1985- 1990, do tác động của nền kinh tế thị trường, nhu cầu thẩm mỹ của người dân thay đổi, việc xuất khẩu tranh gặp nhiều khó khăn. Người dân làng tranh chuyển dần sang làm hàng mã. Nghề làm tranh tồn tại yếu ớt, chỉ còn lẻ tẻ một vài gia đình bám trụ với nghề tranh như: gia đình ông Nguyễn Đăng Chế, gia đình ông Nguyễn Hữu Sam… Đến nay, nhờ công gìn giữ của các nghệ nhân ấy mà tranh dân gian này được khôi phục lại. Cùng với nhiều sáng tạo mới mẻ, tranh dân gian Đông Hồ lại chiếm được cảm tình của nhiều du khách trong và ngoài nước mỗi khi đặt chân đến mảnh đất văn vật hữu tình này.
Tuy nhiên, điều đáng buồn là giờ đây tranh Đông Hồ không còn mang tính “thuần Việt” như thời xưa mà đang dần bị thương mại hoá. Theo đánh giá của một số họa sĩ, tranh Đông Hồ in ở thời điểm hiện tại thường không có màu sắc thắm như tranh cổ, nguyên nhân là người ta trộn màu trắng vào điệp quét giấy để bớt lượng điệp khiến giấy mất độ óng ánh và trở nên "thường", màu sắc sử dụng cũng chuyển sang loại màu công nghiệp, các bản khắc mới có bản không được tinh tế như bản cổ. Một điểm đáng lưu ý khác nữa là một số bản khắc đã đục bỏ phần chữ Hán (hoặc chữ Nôm) bên cạnh phần hình của tranh khiến tranh ít nhiều bị què cụt về mặt ý nghĩa. Dự đoán nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là:
Có một thời chữ Hán (và chữ Nôm) bị coi là phong kiến lạc hậu, liệt vào danh mục bài xích nên thợ in đục bỏ đi.
Thế hệ sau này không phải ai cũng đọc và hiểu được các ký tự ấy nên tự ý bỏ đi.
Cũng do không đọc hiểu được nên các ván khắc truyền lại "tam sao thất bản", đến mức còn lại các ký tự nhưng không đọc được ra chữ gì.
Đến với chợ tranh Đông Hồ bây giờ, người ta không còn được thấy cảnh tấp nập bán mua, cũng không còn cảnh người người, nhà nhà ưa chuộng tranh Đông Hồ như ngày xưa nữa. Các thế hệ sau cũng ít muốn học và theo nghề tranh truyền thống của cha ông vì quá vất vả mà lại ít lợi nhuận. Du khách đến làng tranh bây giờ vẫn thấy cảnh phơi giấy nhưng đó lại là giấy để làm hàng mã chứ không phải giấy dó in tranh...
Mặc dù gần đây đã có nhiều dự án khôi phục lại làng nghề, phát triển du lịch làng nghề truyền thống song làng tranh dân gian Đông Hồ vẫn chỉ đang tồn tại ở mức độ "phảng phất", chưa thực sự được quan tâm đầu tư để phát triển. Hi vọng trong tương lai gần, cùng với các làng nghề truyền thống khác trên cả nước, làng tranh Đông Hồ sẽ tìm lại được vị trí vốn có của mình và ngày càng phát triển, làm giàu thêm cho nền văn hoá đậm đà bản sắc của dân tộc Việt Nam.

Làng tranh Ðông Hồ

Tranh Ðông Hồ có từ thời Lê, thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Hà Bắc.Theo câu thơ của thi sĩ Hoàng Cầm "Anh đ­a em về bên kia sông Ðuống...", đến thị xã Bắc Ninh ngày x­a đây là đất dừng chân của cánh buôn tranh Ðông Hồ,nay chỉ giản đơn là đất dừng chân của người đợi qua phà Hồ.


Dù ai buôn bán trăm nghề

Nhớ đến tháng chạp thì về buôn tranh...

Dịp đó các ngày 6, 11, 16, 21, 26, chợ tranh họp 5 phiên trong tháng duy nhất của năm-tháng chạp. Chợ chỉ họp và bán tranh sau khi các gia đình đã sửa lễ cúng thánh.

Tranh đẹp hay không đẹp đều chỉ nhất loạt giữ giá một, ng­ời sành chơi có thể tuỳ ý lựa chọn. Không khí Tết chộn rộn không chỉ ở cảnh kẻ bán ng­ời mua tấp nập, mà cả bởi vẻ rực rỡ, sắc màu t­ơi rói cử những bộ tứ bình, Thạch Sanh, những gà, lợn, mèo, chuột, ngựa...

&a mp;n bsp; Tranh Ðông Hồ gà lợn nét t­­ơi trong

Hồn dân tộc sáng hừng trên giấy điệp

Có thể nói, cái đặc biệt của tranh Ðông Hồ là ở chỗ đó. Tranh dân gian Hàng Trống, Kim Hoàng, Huế ... không thể có sắc màu muôn hồng ngàn tía của tranh Ðông Hồ, cũng không thể có nền giáy điệp quyến rũ đó.

Ng­ời sành tranh Ðông Hồ chính bởi chất dân gian chứa đựng trong tờ tranh nền giấy điệp trắng ngà, lướt nhẹ lượt hoà vàng hay vang đỏ, không khỏi chạnh lòng nhớ tranh Ðông Hồ ngày xưa

Ở cái làng nghèo mà hào hoa như làng tranh Đông Hồ trước đây thường truyền nhau câu ca "Làng Mái có lịch có lề - Có sông tắm mát, có nghề làm tranh" và "Lịch sử cũng thế Đông Hồ". Không khí sầm uất vào cữ một chạp, các thuyền từ xứ Đôn xứ Đoài ghé bến "ăn tranh". Người làng tranh trước ở ngoài đê vào mùa vụ làm tranh cũng phải một sương hai nắng tất bật khuya sớm. Thôi thì chỗ này rậm rịch tiếng chày giã điệp, chỗ nọ dỡ ván in tranh cọ rửa lau chùi sạch sẽ. Khói đốt than lá tre ẩn hiện la đà trên các ngọn cây. Làng Đông Hồ ruộng đất ít, từ cụ già đến con trẻ đều mê và nghiện trà đặc. Thuốc lào Tiên Lãng và chè móc câu Thái Nguyên là thứ không thể thiếu được trong các đêm làm tranh. Tiếng rít thuốc lào sòng sọc nghe vui tai, nước trà đặc sánh, làm cho đầu óc minh mẫn, tỉnh táo khiến cho nét vẽ, màu vẻ thêm sống động, có hồn có vía. Nhất là nết ăn, nết ở của người lang tranh hào hoa có vẻ hơi cầu kỳ nhưng bao giờ cũng trọng chữ tín và nghĩa tình trong quan hệ xóm giềng. Không biết tự bao giờ đã thành lệ, các cụ làng Đông Hồ được mời đi ăn cổ làng bên chỉ đụng đũa đụng bát cho phải phép, ở nhà vẫn lo cơm canh cất dọn đàng hoàng. Rượu chỉ uống chén hạt mít, ăn cũng chỉ qua loa dăm miếng thịt là các cụ đứng dậy xin phép gia chủ ra về. Khi có khách xa đến được mời cơm, gia chủ hân hạnh ngồi đầu nồi xới cơm, không đụng đũa cả vào cạng nồi cơm. Người sắp mâm thiếu thức gì biết ý phải đi lấy, không để khách phải g ọi, nếu để sơ suất dễ bị nói! Ngay ông Nguyễn Đăng Sấn được mời ra trường Mỹ thuật Việt Nam giới thiệu cho lớp sinh viên về dòng tranh Đông Hồ, ngay phút lâm chung ông cũng yêu cầu di hài mai táng tại quê nhà nơi ông gắn bó với làng tranh một đời. Và ông Sần nhất định đòi cậu con trai chuyển bằng được bộ sưu tập ông đã dầy công sưu tầm cho anh Trần Nhật Tấn người trong họ như muốn truyền lại cái tinh hoa của dòng tranh Đông Hồ đến người tâm huyết:

"Chỉ có cậu Tấn mới có khả năng tiếp thu được, tôi cho cậu để phát huy cái hay, cái đẹp của dòng tranh ông cha để lại" Nghĩ kể cũng lạ, bất cứ người làng Hồ đi làm ăn xa về xin ván tranh khắc, các cụ nghệ nhân trong làng nhất định không cho. Ngay cả dân làng Hồ chuyên sản xuất tranh nhưng chẳng bao giờ treo trong nhà mà đem bàn hoặc cho thiên hạ hết. Người làng ra Hà Nội sinh sống làm ăn tập trung quanh chợ Đồng Xuân làm lại nghề lâu rồi và do đó quen gọi là phố Hàng Mã. Mà cũng chỉ làm hàng mã thật chứ tịnh không thấy sản xuất tranh như ở làng Đông Hồ. Nghề làm tranh trong làng rất được trọng vọng; ai có hoa tay, có thú chơi cầm, kỳ, thi, họa đều được mọi người vị nể (cũng là theo cái thú tao nhã của nhà nho xưa). Làng tranh cũng trải qua biết bao nhiêu thăng trầm. Các cụ nghệ nhân trong làng kể lại: Hồi Pháp thuộc, người ở nhà Bác Cổ thỉnh thoảng lại đánh xe ô tô về mua tranh, thậm chí mua cả bản khắc tranh nữa! Nhà cụ Lử có bản khắc tranh gà rất quý đưa đi đóng cửa chuồng gà, người Pháp phát hiện ra hỏi mua cụ bán liền. Nghĩ mà tiếc đứt ruột! Lại còn nhớ cái thuở Tây càn, dân làng Hồ chạy loạn, binh lửa chiến tranh liên miên và cái khí hậu ẩm ướt khắc nghiệt của thiên nhiên miền Bắc, ván khắc tranh bị hỏng và thất lạc khá nhiều. Bản gốc tranh Đánh ghen, Gà đại cát, lợn ăn lá dày... cũng không còn nữa. Sau ngày Hòa Bình lập lại thấy trên báo Pháp có in tranh dân gian làng Hồ, Chính phủ ta phải liên hệ với Đảng Cộng sản Pháp xin cho khắc lại ván tranh để bảo tồn. Tranh Đông Hồ có một dạo lên đến điểm "cực thịnh", đã từng sáng giá trong các triển lãm nghệ thuật lớn ở các nước trên thế giới với nét vẽ nhuần nhụy, tươi tắn như hồn người đất Việt. Bà con Việt kiều khi về nước cũng phải tìm mua bằng được những "bức tranh làng Hồ và cô Tố Nữ dáng quê hương" (Thơ Chế Lan Viên) để khi ở xa quê trong sương mù Luân Đôn hay cái giá lạnh của Pa-ri hoa lệ, cảm thấy ấm lòng ở chốn tha hương.

Thực trạng của làng tranh bây giờ ra sao? Cũng khó tìm ra được lời giải đáp cụ thể nếu Nhà nước không đứng ra đầu tư và tiêu thụ. Có một dạo Xuhasaba (Hà Nội) nhận đặt và xuất khẩu với số lượng tranh lớn cũng làm nức lòng người dân nơi đây vì giá thành tranh không đắt lắm. Nhu cầu vài năm gần đây thay đổi, cứ mạnh ai nấy làm. Người làng tranh bây giờ nảy sinh tâm lý: ai đặt thì làm, nhiều khi với số lượng tranh quá ít cũng không muốn làm. Thi thoảng lắm cũng có nơi về làng tranh đặt vài nghìn tờ, không sản xuất được thường xuyên nên cũng khó tổ chức sản xuất tranh được đều đặn trong năm, ảnh hưởng đến thu nhập của người làm tranh. Các nghệ nhân như cụ Thú c, ông Sâm, ông Lăng... có tay nghề cao và kinh nghiệm, đều mắt mỏi tay run hoặc dần dần khuất núi cả. Lại nhớ đến ông Lý Lăng, hơn mười năm trước tôi và anh bạn về thăm ông trong ngôi nhà tranh bốn gian tường vách tranh đạm. Ông là nghệ nhân vẽ mẫu tranh nổi tiếng làng Đông Hồ theo kinh nghiệm. Nghĩa là vừa làm vừa học... Cứ bắt chước, cứ học hỏi dần. Nhà này nhờ vẽ mẫu tranh này, nhà khác gọi giúp mẫu tranh khác... Cũng là tình xóm giềng, ông chẳng tiếc sức, tiếc công! Ngoài việc sáng tác mẫu tranh, ông còn truyền đạt kinh nghiệm nghề nghiệp của mình cho lớp trẻ học hỏi. Chẳng hiểu bây giờ còn bao nhiêu người cụ đã truyền nghề cho, "trụ lại" được với nghề trước thủ thách của cơ chế thị trường khắc nghiệt, nhất là đối với một dòng tranh như dòng tranh Đông Hồ...

Dẫu người làng tranh có làm tranh đi nữa cũng phải chạy theo thị trường, nghĩa là khi pha màu chủ yếu là bột goát để giá thành được rẻ... Còn đâu như thủa nào tranh làng Hồ giữ nguyên được sắc màu tươi tắn, nhuần nhụy của các màu lấy từ... cây vườn, nội cỏ! Họa chăng tranh làng Hồ còn giữ được sắc thái tự nhiên (theo nguyên nghĩa của từ này) chỉ còn được chiêm ngưỡng ở Viện bảo tàng và các sưu tập tư nhân mà thôi! Mà sức sống của tranh dân gian này chủ yếu phản ánh tâm tư nguyện vọng của người lao động. "Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp", một nhà thơ xứ Bắc đã từng viết như thế.

Chỉ cần vài tờ tranh cuộn lại bên cạnh nải quả cúng tổ tiên và dán treo trên vách nứa tường tre cũng làm nhẹ nhõm thư thái lòng người khi tết đến và nguôi đi nổi nhọc nhằn cấy hái trên đồng ruộng! Đấy là chưa kể những khu du lịch ở khắp đất nước ta nếu tiêu thụ được cũng là có dịp để giới thiệu cho bạn bè năm châu thấy cái hay, cái đẹp của tranh dân gian, phần nào góp phần xây dựng đời sống văn hóa trên cơ sở tìm về cội nguồn dân tộc.

Bây giờ ở làng tranh Đông Hồ này có lẽ hiếm có ai lại mê vẽ như anh Trần Nhật Tấn. Thới buổi của cơ chế thị trường, hầu như cả làng đổ xô vào làm hàng mã, cũng vốn là "mặt hàng" truyền thống trước đây. Thôi thì đủ loại: hoa tai, đồng hồ, nhà táng, hon-da, "cúp" giấy. Rẻ cũng mươi đồng, đắt cũng đến hàng trăm nghìn... tùy theo nhu cầu người đặt mua. Làng thường giao cho người bán buôn đi Hà Nội.Còn tranh Đông Hồ một thời nổi tiếng của dòng tranh xứ Bắc, kỹ thuật công phu, giấy đắt, đủ các loại màu lấy từ chất liệu tự nhiên, tiêu thụ lại khó. Người sành tranh lắm băy giờ mới dám chơi tranh Đông Hồ, chứ không như ngày nào tranh bày bán trên mẹt quê khắp các chợ Ph ủ Thuận và ở nhiều nơi khác. Dạo qua các hè phố cứ thấy tranh Tàu, tranh Thái bày treo la liệt trên các quầy sách báo và văn hóa phẩm như lấn áp người xem, người mua. Lâu rồi chúng tôi mới có dịp trở lại làng Đông Hồ, thăm anh Tấn, quanh cảnh xóm thôn nghe chừnh đổi khác nhưng nét chân tình trong con người anh vẫn như xưa. Vẫn giọng nói hồ hởi khi anh nói về tranh và lật giở tờng tranh cho chúng tôi xem, nghe anh giảng giải kỹ thuật vẽ tranh mới càng thấy biết bao công phu trong nghề. Có hôm trời nắng nóng độ khô ẩm tăng phải gia giảm màu cho phù hợp với độ xốp của tranh. Quấy hồ đặc quá, giấy cong vênh như bánh đa quá lửa, không in tranh được... Rồi kỹ thuật khắc ván tranh, chế tạo màu từ lá tre, rỉ đồng, hoa hòe, vỏ điệp... Anh Tấn tâm sự: "Nhà đông, tôi cũng phải cho các cháu làm thêm hàng mã để sống. Nhưng mình không l à m tranh nữa mà để mai một dòng tranh thì thật tuổi hổ với ông cha, các anh ạ! nhiều khi tôi dành hẳn một gian buồng trong nhà để sáng tác mẫu tranh. Gian ngoài cho các cháu làm hàng khỏi bề bộn và đỡ bận tâm đến không khí sáng tác của mình. Kinh tế gia đình từ những năm kinh tế cũng đỡ nên tôi cũng có điều kiện vẽ tranh hơn". Do chịu khó học hỏi và yêu nghề làm tranh dân gian, anh Tấn được các cụ nghệ nhân trong làng "truyền nghề"cho. Các loại tranh in ván, tranh khắc, trổ lé... anh đều nắm vững và xử lý kỹ thuật làm tranh thuần thục. Những năm trước anh Tấn đã được tín nhiệm phụ trách tổ làm tranh Đông Hồ gia công cho Nhà nước theo chủ trương phụ hồi dòng tranh dân gian. Các nhà nghiên cứu nghệ thuật Vương Như Chiêm, Chu Quang Trứ, khi về Đông Hồ đều tìm đến anh Tấn để hiểu ngọn ngành của dòng tranh "độc nhất vô nh ị " này... Nhiều đoàn khách nước ngoài: Nhật, Tiệp, Thụy Điển, I-ta-li-a, Mỹ, Đức... qua sự trình bày của anh Tấn đều viết bài ca ngợi vẻ đẹp của làng tranh với sức sáng tạo dồi dào của các nghệ nhân trên các báo và tạp chí nổi tiếng của thế gjới. Anh Tấn đã sáng tác hàng trăm tranh, có nhiều tranh chưa đưa ra xuất bản, biểu hiện công phu tìm tòi xử lý chất lượng trong tranh dân gian. Các tranh "Bắt sống giặc lái Mỹ", "Bác Hồ về thăm làng" đã được bảo tàng mỹ thuật Việt Nam bày treo trang trọng và in trong các vựng tập là niềm vui của anh trên đường tìm về với những giá trị văn hóa dân tộc. Nét say mê nghệ thuật ấy chưa bao giờ giảm, mặc dù anh sắp vào tuổi sáu mươi. Anh vẫn cất công ra các phố phường Hà Nội để sưu tầm bộ tranh Bát tiên và Tố nữ cổ mà lâu nay thất lạc. Có lẽ mong muốn hơn cả trong anh là tỉ nh Hà Bắc và Bộ Văn hóa thông tin sớm ra đời Trung tâm tranh Đông Hồ để khôi phục và phát triển dòng tranh dân gian đang có nguy cơ bị mai một.











Đám Cưới Chuột
Thơ : Ngô Văn Phú




Trạng Chuột ơn vua cưới vợ làng,
Kiệu son lộng lẫy lọng hoa vàng !
Nàng dâu xứ chuột chân đi đất,
Ngón nhỏ bùn non vẫn dính chân !







Có con mèo mướp ngồi trên chốc,
Chổm hổm vênh râu, nhận lễ dâng
Chú chuột thổi kèn chân dúm lại,

Con chép đồng quê, vẩy ngấn vàng !

Không biết quan mèo có chịu yên ?
Có đòi lễ lạt phải nhiều thêm ?
Mà bao năm tháng trong tranh Tết,
Tiếng trống vinh quy vẫn rộn ràng.




Ngựa hồng quan trạng giong cương bước,
Vợ chuột chưa hay mình đã quan.
Một bước nên bà là thế đấy !
Khối "em" chuột khác nghĩ mà thèm !

Chao ơi, thi cử xưa là thế
Đời trước, đời sau vẫn ước mơ
Hoa tay nghệ sĩ, Người không vẽ,
Vẽ Chuột nhung nhăng đến tận giờ.