Thứ Hai, 2 tháng 5, 2011

TƯỚNG NGUYỄN KHOA NAM ĐÃ PHÓNG THÍCH ÔNG NGUYỄN KHOA ĐIỀM RA KHỎI TÙ ?


     Phạm Viết Đào.


Đây là đề tài nhiều lần được đưa ra trao đổi, bàn luận tại trụ sở Hội Nhà văn VN số 9 Nguyễn Đình Chiểu, tất nhiên không phải tại các cuộc hội thảo chính thức mà tại các câu chuyện bàn trà giữa các nhà văn thường hay quan tâm tới chuyện thế sự…
Tôi đã nhiều lần nghe một số nhà văn trạc tuổi với ông Nguyễn Khoa Điềm, từng tham gia chiến tranh cho biết: Có nhiều khả năng, ông Nguyễn Khoa Điềm đã được đích thân Tướng Nguyễn Khoa Nam can thiệp, cứu để được phóng thích ra khỏi nhà lao Thừa Phủ-Huế mà không bị kèm theo một điều kiện gì ?! Bởi hai ông có quan hệ họ hàng thân tộc khá gần gũi với nhau…Tôi cũng chưa biết rõ quan hệ của 2 ông như thế nào; có người bảo ông Nguyễn Khoa Nam là chú ông Nguyễn Khoa Điềm, cũng có người cho biết là anh con ông bác ?
Đây là một dấu hỏi nghe nói sau này nhiều lần được đặt ra đối với sự nghiệp tham chính của ông Nguyễn Khoa Điềm. Có một số người biết rõ tình hình nội bộ thuộc chiến trường Trị Thiên-Huế trước giải phóng cho biết: sau khi được phóng thích, ông Nguyễn Khoa Điềm hình như không được tin dùng lắm…Đại loại là một nhà thơ đã có tên tuổi nhưng ông Nguyễn Khoa Điềm có lúc lại được bố trí đi chăn bò, trồng sắn để thử thách, canh chừng…
Nghe nói do được biệt phái đi chăn bò, trồng sắn nên Nguyễn Khoa Điềm có được cảm hứng để viết bài thơ: Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ; sau đó được Trần Hoàn phổ nhạc thành bài Lời ru trên nương...Trong bài thơ này Nguyễn Khoa Điềm danh nghĩa là viết thơ ru cậu bé " Cu Tai " ( Tai Họa ) nhưng thực ra là để ru " Cu Điềm " qua cơn bĩ cực:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka Lưi
Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi... 

Bởi vì thông thường khi bị địch bắt, hoặc là anh chiêu hồi, đầu thú, khai báo gì đấy thì may ra mới được ưu đãi, không bị tra tấn hành hạ; nếu anh không nhận hợp tác, hoặc không có gì ràng buộc với phía bên kia mà tự nhiên được thả tất nhiên sẽ bị đặt dấu hỏi…Cái sự được thả, được phóng thích của ông Nguyễn Khoa Điềm khác với hàng loạt tù binh được trao trả năm 1973 theo Hiệp định Pari…
Cái câu chuyện bí ẩn này bây giờ chỉ có ông Điềm kể ra thì may ra mới tin được, còn như các ý kiến theo kiểu “ cờ ngoài, bài trong “ thì cũng chỉ là thứ đoán già đoán non mà thôi theo kiểu của anh em nhà “Mao Tôn Cương” về Tam Quốc diễn nghĩa để cho thế sự thêm phần huyền bí…
Theo như dân văn hóa-thông tin đồn: ông Nguyễn Khoa Điềm đã gặp rắc rối khi nằm trong top được thăng tiến vào vị trí “ tứ trụ “; Khi ông làm Chủ tịch Hội Nhà văn VN kiêm Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin thì việc vào Bộ Chính trị để đảm nhận chức Trưởng Ban Tư tưởng Văn hóa  không mấy chướng ngại; vì đây là mảng mà ít đối thủ cạnh tranh…Còn khi vào “ tứ trụ “ thì nghe nói cuộc chiến khốc liệt lắm, nhiều đơn kiện lắm, nhiều chuyện từ củ tỷ, củ tỏi được lôi ra bằng hết…
Nghe đồn các cơ quan chức năng cũng đã vào cuộc, xác minh chuyện này chuyện kia qua các tàng thư của chế độ cũ và không phát hiện ra điều gì nặng nề với ông Nguyễn Khoa Điềm? Sau vụ này khi ông Nguyễn Khoa Điễm vững ghế, người ta thấy ông tự nhiên ưu đãi một vài người, điều này khiến cho dân văn hóa cũng cảm thấy chắc là phải có ân nghĩa gì sâu sắc lắm…
Trở lại mối  quan hệ giữa ông Nguyễn Khoa Điềm và Tướng Nguyễn Khoa Nam, trong bài Hỏi chuyện người trong nhà của nhà văn Hoàng Minh Tường, được mạng Trannhuong.com đưa có đoạn đối thoại giữa nhà văn Hoàng Minh Tường và nhà văn Lê Văn Thảo sau đây, trong chuyến bay do hai người cùng ngồi trong máy bay bay sang Nga; ( nhà văn Lê Văn Thảo là cháu của cựu Tổng thống Việt Nam cộng hòa Dương Văn Minh ):
“- Nghe nói, cách đây hơn chục năn, các nhà lãnh đạo cao nhất Đảng và Nhà nước ta đã từng bàn đến chuyện tấn phong cho Tổng thống Dương Văn Minh danh hiệu Anh hùng?- Tôi hỏi nhà văn Lê Văn Thảo.
- Có chuyện đó đấy.
 - Tổng thống Dương Văn Minh xứng đáng với danh hiệu ấy.-Tôi nói – Bởi khi ấy, chỉ cần một hành động quá khích, chỉ nghĩ đến hận thù, đến tử thủ mà quên sự tồn vong của dân tộc, quên cốt nhục đồng bào… thì sẽ thành nồi da nấu thịt, máu hàng triệu người lại tiếp tục đổ xuống, và Sài Gòn sẽ thành bình địa... Lịch sử sẽ phải ghi công cho ông Dương Văn Minh…
Nhà văn Lê Văn Thảo dốc bầu tâm sự:
- Đó là thời kỳ ông Võ Văn Kiệt còn làm Thủ tướng và ông Nguyễn Khoa Điềm đang giữ chức Trưởng Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương. Chính tôi đã nghe nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm nói về chuyện này… Nhưng có một số người phản đối… Rồi ông bác tôi mất…
- Thật tiếc - Tôi thở dài. Nghe thấy tiếng Lê Văn Thảo cũng thở dài
…”
Qua chi tiết này được phát lộ một cách tình cờ, vô tư cho thấy, ông Nguyễn Khoa Điềm chừng mực nào có sự giao cảm với người của phía bên kia, do đo ông mới ủng hộ cái việc phong anh hùng cho Tướng Dương Văn Minh; mặc dù vẫn là có tiếng là rắn về lập trường…Tỷ như việc ông ngăn không cho báo đăng thư của ông Võ Văn Kiệt khiến cho ông Kiệt phải làm toáng lên? Hay vụ ứng xử với đám tang ông Trần Độ? Vụ này diễn ra dưới thời ông Nguyễn Khoa Điềm làm Trưởng Ban Tư tưởng Văn hóa...
Nhưng có lẽ do bởi tình thế lúc đó, và còn vì sự an toàn cho sự nghiệp chính trị của bản thân, do đó nên cái tình cảm le lói lên đó nhanh chóng bị vụt tắt…Bởi theo sự suy đoán của những “ Mao Tôn Cương “ thời nay thì: nếu ông Dương Văn Minh được chiêu tuyết, thài độ với tướng lĩnh quân đội của chính quyền Sài Gòn cũng sẽ nhẹ bớt, sự hòa hợp sẽ dễ thở hơn…
Nhân dịp 30/4, người viết bài này có tình cờ xem trên truyền hình VTV1 một đoạn nói về cụm điệp báo A.10 hoạt động trong nội thành Sài Gòn, không xem được từ đầu nên không nhớ kỹ. Qua câu chuyện của một điệp báo của ta, được cài vào Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn ông này đeo lon Thượng sĩ, ông có một ý kiến tôi cho là rất xác đáng và phù hợp với tiến trình lịch sử của đất nước nói chung và ngành tình báo nói riêng. Ông cho biết đại ý: Khi quân đội Mỹ sang đây, họ đã không bao giờ lường tới những quan hệ huyết tộc trong những con người Việt Nam với nhau; cái quan hệ đó rất mạnh nên đôi khi lấn át các quan hệ chính trị…Mà mối quan hệ này có trong rất nhiều gia đình Việt Nam nhất là ở miền Nam: Nhiều gia đình có người tham gia cả 2 phía. Đó chính là cơ sở tốt nhất để cho ngành tình báo Việt Nam hoạt động vượt qua mặt những cơ quan tình báo Mỹ giỏi nhất, trang bị tối tân nhất…
Trở lại chuyện ông Nguyễn Khoa Điềm và Tướng Nguyễn Khoa Nam nhiều nhà văn đều thống nhất: Nếu không có ông Nguyễn Khoa Nam can thiệp khó lòng ông Nguyễn Khoa Điềm được phóng thích vô điều kiện như vậy. Có điều, chắc ông Nguyễn Khoa Nam với tình huyết tộc chắc thế nào cũng khuyên ông Nguyễn Khoa Điềm nên hồi chánh; có điều chắc ông Nguyễn Khoa Điềm không nghe nên ông Nguyễn Khoa Nam can thiệp để tha cho ông…
Nhắc lại câu chuyện này cũng để thấy thêm một dấu ấn lịch sử của cuộc chiến tranh Việt-Mỹ đã ăn sâu vào từng gia đình như thế nào; ngoài ra viết lại câu chuyện này cũng để ghi thêm cho ông Nguyễn Khoa Nam một điểm về tư chất nghĩa hiệp của một chiến binh ngoài phát súng ông tự bắn vào đầu; nếu quả đúng chính ông là người đã can thiệp để ông Nguyễn Khoa Điềm ra khỏi nhà lao Thừa Phủ…
P.V.Đ.

ĐỜI THƯỜNG TRONG DINH ĐỘC LẬP, NGÀY 30-4-1975



Sách giáo khoa lịch sử và cả các phương tiện thông tin đại chúng, khi nhắc đến thời khắc bộ đội ta chiếm Dinh Độc Lập buổi trưa ngày 30-4-1975, suốt 36 năm qua, vẫn chỉ quay đi quay lại hình ảnh chiếc xe tăng 390 húc đổ cổng và Đại đội trưởng Bùi Quang Thận (Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn tăng thiết giáp 203, Quân đoàn 2) cắm cờ Giải phóng trên nóc Dinh Độc Lập. Thế nhưng ít ai biết rằng, ngay sau đó, các đơn vị xe tăng – thiết giáp – bộ binh cũng đã ào ạt đổ về, tập trung địa điểm này. Chiến thắng – Qua những hình ảnh thường thấy bao năm nay, là cờ hoa rợp trời, bộ đội mặc quần áo mới cóong, cấp hàm đỏ tươi, ngồi uy nghiêm trên thùng xe… Ít ai biết: Chiến thắng – Sau thời khắc 11h30 ngày 30-4-1975, tại Dinh Độc Lập là những giây phút đời thường, dung dị và rất đặc trưng của những anh bộ đội miền Bắc trẻ măng; là cái thở phào nhẹ nhõm sau 1 chặng đường hành quân vất vả, cái chết và sự sống cách nhau gang tấc; là quần áo rách bươm, nồng nặc mùi thuốc súng, lăn trên cỏ ngủ ngon lành như chưa bao giờ được ngủ; là tò mò ngắm nghía thành phố mới, người dân mới và những đồ vật, cảnh sắc mới quanh mình… Chiến thắng – Có nghĩa là hết chiến tranh, hết nổ súng, hết đổ máu và được nguyên vẹn trở về với quê hương, gia đình, người thân.
 Xin trân trọng giới thiệu một số hình ảnh khác với hình ảnh ta vẫn thấy, do các phóng viên nước ngoài và phóng viên chiến trường ghi lại, ngay trong ngày 30-4-1975, tại Dinh Độc Lập.
Trước 11h30 phút, khi cờ 3 sọc vẫn còn trên nóc Dinh Độc Lập
Bộ binh tiến vào Dinh sau xe tăng
Sân trước của Dinh Độc lập, thời điểm 11h30 ngày 30-4-1975
Những người lính của chế độ cũ bỏ vũ khí đầu hàng
Sĩ quan Tăng Thiết giáp của chế độ cũ đầu hàng
Trước bậc thềm vào Dinh
Kíp chiến đấu xe tăng 879 trong sân Dinh
Ngồi nghỉ
Nhiều anh em trên 1 chiếc xe tăng
Lính trẻ vào Dinh
Nồi niêu xoong chảo cũng tiến về Dinh
Tay xách nách mang Xe đạp – điếu cày – quạt nan và sự thảnh thơi buổi trưa chiến thắng
Nơi rửa mặt và rửa chân lý tưởng (hình chụp trong Lễ Diễu binh, mừng chiến thắng 5-5-1975)Theo blog Mai Thanh Hải
NHIỆT LIỆT CHÀO MỪNG 55 NĂM NGÀY THÀNH LẬP NGUYỄN QUANG LẬP!


Định không nói gì đến sinh nhật sinh nheo nhưng bạn bạn bè nhắn tin chúc mừng nhiều quá, cũng phải có đôi lời không mang tiếng khiếm nhã.
Tui vào Sài Gòn từ tháng 3 năm ngoái, rứa là hai lần sinh nhật ở SG rồi. Vào SG vì khí hậu ở đây hợp với sức khỏe của tui hơn và cũng muốn con cái làm ăn ở SG, dù gì thì kiếm sống ở SG vẫn dễ hơn nhiều so với ở HN. Chứ tui già rồi, sức tàn lực kiệt rồi, hết hy vọng giàu có từ lâu rồi, danh vọng cũng tắt ngấm từ lâu.
Ở trọ ròng rã một năm trời mới kiếm được căn hộ. Diện tích thì đủ chứa gia đình 5 người lớn nhưng nội thất thì xấu quá. Hết tiền, định cứ ở liều vậy, đợi khi nào có tiền rồi sửa sang nội thất. Nhưng nhìn nó xấu chịu không thấy. Ai cũng kêu trời vì cái nội thất quê mùa này. Cái ông hàng xóm người Đài Loan suốt ngày càu nhau hết terribly lại awfully, hi hi. Thôi thì làm liều vậy. Được anh em bạn bè ra tay giúp đỡ cuối cùng cũng xong, nhẹ cả người. tiện đây khoe với bà con đôi chút về căn hộ của tui.
Thiết kế &thi công: kts Hoàng Hữu Đạt.
Tổng chỉ huy: Nguyễn Hải Phong.
A dua & ăn theo: Nguyễn quang Lập

Phòng khách
 Bàn thờ
 Ban công nhìn ra sông SG
Bếp
Toilet
Phòng ngủ của đôi uyên ương hết đát, he he
Ngoài ra trong ngày này blog Nụ cười có chế tạo ảnh bọ Lập như một người nổi tiếng thế giới, he he ( Bấm vào đây). Blog Bạch Dương lại nhắc đến những kỉ niệm Quê choa (Bấm vào đây), còn blog Mùa thu Hà Nội thì kể chuyện đến chơi nhà bọ Lập ( Bấm vào đây).
Xin cảm ơn và xin cảm ơn!
( Nguồn: Blog Bọ Lập )

Những câu chuyện kể về bóng ma Tòa Bạch Ốc


Nhiều câu chuyện kể về những cuộc viếng thăm lại nhà trắng của bóng ma cố tổng thống đã và đang được lưu truyền. Tuy nhiên, câu chuyện phổ biến và được nhiều người biết đến nhất là về Abraham Lincoln. Bóng ma Lincoln, hay còn gọi là bóng ma nhà trắng, được tương truyền là luôn xuất hiện tại nhà trắng kể từ cái chết của ông. Nhiều người còn tin rằng khi còn là đương kim tổng thống, Lincoln đã dự đoán trước được về vụ ám sát.
Bóng ma Lincoln vẫn lởn vởn tại Nhà Trắng? (Ảnh: mulesandmoviestars.com)
Nỗi ám ảnh về linh hồn và thế giới siêu nhiên
Tại sao những câu chuyện về bóng ma tổng thống Mỹ lại có sức hút kì lạ đến vậy? Câu trả lời chính là mối quan hệ giữa tổng thống và thế giới siêu nhiên trong suốt cuộc đời ông, và cả khi ông đã mất. Lincoln thường có những giấc mơ tiên tri và niềm tin mạnh mẽ vào thế giới tâm linh. Do đó, cho đến nay, vẫn có nhiều người dân Mỹ tin vào việc Lincoln có mối tâm giao người chết.
Abraham Lincoln luôn là một người u sầu. Cái chết của mẹ khi ông vẫn còn là một đứa trẻ; và việc lao động khókhăn để đấu tranh cho sự sinh tồn và giáo dục đã tạo nên một người đàn ông nghiêm túcCuộc nội chiến đã khiếnông đau khổ và mất mát nặng nề. Trong những năm đó, ông ngủ rất ít và hiếm khi rời khỏi nhà Trắng.
Có rất nhiều câu chuyện kể về sợi dây nối giữa tổng thống Lincoln và thế giới siêu nhiên. Một trong số đó là câu chuyện khi ông còn đang sống tại Springfield trong thời kì bỏ phiếu tổng thống năm 1860.
Ngày bầu cử tại thành phố diễn ra với những tiếng pháo nổ nồng nhiệtâm nhạc và sự phấn khíchLincoln đã dànhcả ngày và đêm với bạn bè tại một văn phòng điện báoĐến nửa đêmông nhận được tin đã trúng cử. Một bữa ănđêm đã được tổ chức để vinh danh ông  sau đó ông trở về văn phòng để cập nhập thêm thông tin. Súng bắn tronglễ kỷ niệm suốt đêm.
Sáng sớm hôm sau, Lincoln trở về nhà và nằm dài trên ghế trường kỉ. Trước mặt ông là một tấm gương lớn. Một hình ảnh kì lạ xuất hiện. Ông thấy trong gươngkhuôn mặt mình xuất hiện với hai hình ảnh riêng biệt. Đỉnh mũi của hai hình ảnh này cách nhau 3 inch. Hình ảnh biến mất rồi lại xuất hiện ít phút sau đó và trở nên rõ ràng hơn. Một hình ảnh dường như nhợt nhạt hơn hình ảnh kia, và ám màu người chết. Đó là một điềm báo, thế nhưng Lincoln cho rằng ông đã bị ảo giác do quá phấn khích và mệt mỏi sau một đêm dài thiếu ngủ.
Tuy nhiên, hình ảnh đó tiếp tục xuất hiện vào những đêm sau đó. Vợ ông không bao giờ nhìn thấy, nhưng bà tin những gì ông kể lại. Bà cũng nhận ra điều tiên đoán ẩn dưới hình ảnh kì lạ đó. Khuôn mặt khỏe mạnh là khuôn mặt thật của Lincoln trong suốt nhiệm kì tổng thống đầu tiên. Và ngược lại, khuôn mặt của một xác chết chính là điểm gở tiên đoán về cái chết trong nhiệm kì thứ hai của ông.
Cái chết của những cậu con trai đã khiến Tổng thống Lincoln tê liệt. Đầu tiên là Eddie, sau đến Willie và cuối cùng là Tad. Câu chuyện về cái chết của Willie vẫn còn là một điều bí ẩn. Nhiều câu chuyện ghi lại là cả Willie và Eddie đều bị nhiễm trùng cấp tính hoặc thương hàn do uống phải nguồn nước ô nhiễm. Trong năm 1860, Washington đã mở một số cống rãnh và kênh đào bẩn thỉu để kiếm nước uống. Rác thải của thành phố đã đổ vào nguồn nước cách Nhà Trắng không xa. Ban đầu, Lincoln định chôn Willie bên cạnh Eddie tại Springfield, thế nhưng sau đó ông thay đổi ý và quyết định an táng con trai mình tại nghĩa trang của gia đình Carroll do không chịu nổi ý nghĩ phải rời xa cậu bé.
Sau tang lễLincoln cố gắng tập trung vào công việc của mình, nhưng tinh thần của ông đã bị đè bẹp bởi cái chết củaWillieMột tuần sau đám tang, ông giam mình trong phòng cả ngày  khócVào thời điểm này, Lincoln đã trên bờ vực tự tửnhưng không ai dám chắc chắn về điều đóÔng sống thu mình hơn và bắt đầu đi sâu hơn nữa vào các vấn đề tâm linh  ông đã quan tâm từ rất lâu.
Abraham Lincoln đã không chỉ tin vào siêu nhiên mà ông còn thực sự tham gia vào trong đóCó những người khácnói rằng ông đã tham gia vào các lễ chiêu hồn được tổ chức tại Nhà Trắng. Nhiều nhà linh hồn học đã trở thành khách tại đây, một vàingười trong số họ thậm chí còn cảnh báo Lincoln về bóng tối bao trùm lên cuộc đời ông.
Lincoln cũng bắt đầu kể về linh hồn Willie. Ông luôn cảm nhận được sự hiện diện của cậu con trai nhỏ tại nhà cũng như phòng làm việc. Một số lý thuyết cho rằng chính nỗi ám ảnh của Lincoln đã khiến linh hồn Willie nán lại và không chịu đi về thế giới bên kia.
Lincoln hiếm khi nói về niềm tin vào thế giới tâm linh, nhưng Mary vợ ông thì ngược lại. Bà gặp rất nhiều nhà linh hồn học, mời họ tới Nhà Trắng khi họ tuyên bố có thể “vén bức màn mòng” cho phép bà trò chuyện cùng Willie. Nettie Colburn Maynard, nhà linh hồn học thân thiết nhất của Mary đã tổ chức một lễ chiêu hồn kì lạ vào năm 1863. Trong buổi lễ siêu nhiên đó, các nhạc cụ đều tự dưng bay lên khỏi sàn nhà. Lincoln  Đại tá Simon Kase đều leo lên cây đàn piano đang lơ lửng, và chỉ nhảy xuống khi nó nhảy và lắc lư quá mạnh. Từ sự kiện đó, Lincoln bắt đầu tin vào"sức mạnh vô hình."
Giấc mơ về cái chết
Có lẽ câu chuyện siêu nhiên nổi tiếng nhất có liên quan tới Lincoln chính là giấc mơ tiên tri về vụ ám sát ông.
Ward Hill Lamon, vệ sĩ và cũng là một người bạn cũ của Lincoln đã nhiều lần xin từ chức bởi Lincoln không bao giờ để tâm tới sự an toàn của mình. Thế nhưng cuối cùng đều bị Lincoln thuyết phục và tiếp tục làm việc. Lamon đã thật sự bị ám ảnh sau vụ ám sát tổng thống. Ông đặc biệt không bao giờ có thể tha thứ cho bản thân mình bởi vụ ám sát này đã nhiều lần được cảnh báo trước.
Nhiều năm sau vụ ám sát, Lamon nhớ lại việc Lincoln đã nhìn thấy ma trong gương vào năm 1860. Tổng thống cũng kể lại cho ông và Mary rằng ông đã có một giấc mơ kì lạ về cái chết trước khi vụ ám sát xảy ra.
"Khoảng mười ngày trước, tôi ngủ muộn và nhanh chóng chìm vào giấc mộng mịMột sự im lặng chết người bao trùm lấy tôi. Sau đó là tiếng khóc thổn thứcTôi nghĩ tôi đã rời khỏi phòng  lang thang ở tầng dưới. Tôi đi từphòng này qua phòng khác, không có bóng dáng một ai cả. Tất cả mọi căn phòng đều được thắp sáng, tất cả đồ vật đều rất quen thuộc. Thế nhưng, tôi vẫn không thể tìm ra căn phòng nơi có tiếng khóc bi thương đó. Tôi cứ đi tiếp tới căn phòng phía Đông, Trước mắt tôi  một đám tangtrên đó có một xác chết đang mặc áo quanXung quanh là những quân nhân đứng canh và một đám đông đang khóc lóc thảm thiết.
Ai chết vây? Tôi hỏi một người lính
Tổng thống. Ngài bị ám sát. Người lính trả lời.”
Lincoln bị ám sát chỉ vài ngày sau đó. Lễ truy điệu diễn ra tại Phòng phía Đông của Nhà Trắng.
Sự xuất hiện của bóng ma Lincoln
Bóng ma Lincoln dường như xuất hiện nhiều nhất dưới thời của tổng thống Franklin Roosevelt do cả hai có điểm tương đồng là đều nắm trong tay quyền lực điều khiển cuộc chiến tranh lớn của Hoa Kỳ. Trong thời gian 13 năm sống tại Nhà Trắng, Roosevelts đã biến phòng ngủ của Lincoln thành phòng nghiên cứu cho Eleanor. Mặc dù khẳng định chưa bao giờ trông thấy linh hồn của vị cố tổng thống, nhưng bà vẫn luôn cảm nhận được sự hiện hữu của ông lúc đang làm việc. Eleanor tin rằng Lincoln đã luôn ở trong căn phòng đó với mình.
Một kế toán trẻ của Roosevelt khẳng định chắc chắn anh đã nhìn thấy bóng ma Lincoln đang ngồi trên giường và cởi giày.
Cũng dưới thời tổng thống Roosevelt, nữ hoàng Wilhelmina của Hà Lan trong một cuộc viếng thăm và nghỉ lại Nhà Trắng đã có cơ hội trông thấy bóng ma nổi tiếng này. Nửa đêm, bà đã bị đánh thức bởi 1 tiếng gõ cửa phòng ngủ. Bà trả lời, và sững người khi trông thấy bóng ma Abe Lincoln đang nhìn chằm chằm mình từ hành lang.
Từng là một quý ông lịch lãm nên Lincoln thường xuyên gõ cửa. Các tổng thống Theodore Roosevelt, Herbert Hoover và Harry Truman đều kể lại rằng họ đã nghe thấy những tiếng gõ lên cửa phòng ngủ lúc nửa đêm mà không thể giải thích nổi. Họ tin đó là do bóng ma Lincoln, nhưng không một ai dám khẳng định điều đó vì không có cơ sở.
Trong thời kì nắm quyền tổng thống, Lincoln đã luôn trăn trở vì cuộc cuộc nội chiến. Ngay cả khi đã qua đời, linh hồn ông cũng không hề yên nghỉ. Vợ của Calvin Coolidge cho biết bà đã nhiều lần nhìn thấy bóng ma của Lincolnđứng bên cửa sổ phòng Oval, hai bàn tay siết chặt sau lưngánh mắt đăm chiêu như đang chìm đắm trong dòng suy ngẫm về các chiến trường đẫm máu trên Pototmac.
Trong nhiều lần viếng thăm Mỹ, Winston Churchill đã có một cơ hội ngủ lại Nhà Trắng. Ông có thói quen thức khuya, nhâm nhi một ly scotch, hút xì gà và thư giãn khi nằm trong bồn tắm lúc nửa đêm. Lần này, ông rời khỏi bồn tắm, chưa mặc quần áo để đi lấy điếu xì gà ở phòng ngủ kế bên. Thế nhưng, ông đã giật mình khi nhìn thấy Abraham Lincoln đang đứng bên lò sưởi, dựa người vào lớp phủ. Churchill đã nhanh chóng lấy lại bĩnh tĩnh và nói “xin chào tổng thống. Hình như ngài gặp tôi trong trường hợp không tiện cho lắm.” Lincoln cười nhẹ rồi biến mất.
Tổng thống Harry Truman thì khẳng định đã nghe thấy tiếng bước chân của Lincoln. Một đêm, ông nghe thấy tiếng gõ cửa nhưng không có một ai bên ngoài cả. Những người hầu phòng kể lại rằng họ đã trông thấy bóng ma Lincoln vào lúc đó.
Mục sư Norman Vincent Peale kể lại rằng một diễn viên đã trông thấy Lincoln trên sàn nhà và cầu xin sự giúp đỡ.Ông từ chối nêu tên người đàn ông đó.
Tuy nhiên, kể từ đời tổng thống Truman, rất ít khi hồn ma Lincoln xuất hiện bởi nhiều người tin rằng nguyên nhân là do có sự thay đổi trong Nhà Trắng khiến cố tổng thống không thể đi vào trong như trước. Nhiều người khác cho biết họ vẫn thường nhìn thấy Lincoln xung quanh lăng mộ tại Springfield, Illinois.
Một số cũng khẳng định đã nhìn thấy chuyến tàu ma tang lễ của ông nhiều năm sau khi nó đưa thi thể của ông trở lạiSpringfield. Theo các nhân chứng, có hai xe lửa. Chuyến tàu đầu tiên kéo theo một dòng ô tô màu đen và chuyếnthứ hai chỉ kéo một chiếc ô tô chở quan tài của cố tổng thống.
Thanh Loan (Theo prairieghosts)

Vua cũng khổ vì... liệt dương








  Hồi ký của cựu hoàng Trung Quốc này kể ngay từ lúc 10 tuổi, ông đã “biết mùi đàn bà”. Để khỏi phải bận bịu hầu hạ thiên tử, các thái giám thường lùa đám cung nhân vào phòng ngủ “chơi” với cậu bé. Có những đêm Phổ Nghi “được” 2 - 3 cô “phục vụ”, đến mức mệt phờ. “Hôm sau dậy tôi hoa mắt chóng mặt, nhìn mặt trời và mọi thứ đều ra màu vàng ệch” - Phổ Nghi viết trong hồi ký.Hoàng đế Phố Nghi 

Lên ngôi khi chưa đầy ba tuổi, Phổ Nghi trở thành “ông trời con” trong cung cấm và vì thế đã nếm mùi “mây mưa” từ rất sớm.

Hồi ký của cựu hoàng Trung Quốc này kể ngay từ lúc 10 tuổi, ông đã “biết mùi đàn bà”. Để khỏi phải bận bịu hầu hạ thiên tử, các thái giám thường lùa đám cung nhân vào phòng ngủ “chơi” với cậu bé. Có những đêm Phổ Nghi “được” 2 - 3 cô “phục vụ”, đến mức mệt phờ. “Hôm sau dậy tôi hoa mắt chóng mặt, nhìn mặt trời và mọi thứ đều ra màu vàng ệch” - Phổ Nghi viết trong hồi ký.

Chính vì bị “vắt kiệt tinh huyết” ngay khi cơ thể chưa kịp trưởng thành nên Phổ Nghi sớm bị yếu sinh lý. Để có khả năng giao hợp cho khỏi phí phạm đám mỹ nữ sắc nước hương trời, ông thường xuyên phải dùng các loại thuốc kích thích, trợ dương.

Chính Thủ tướng Chu Ân Lai cũng quan tâm, thông cảm với căn bệnh liệt dương của vị vua mất ngôi này, nên đã can thiệp để cựu hoàng được chữa bệnh.

Nhiệm vụ khám và chữa bệnh cho Phổ Nghi được giao cho Bệnh viện Hiệp Hoà Bắc Kinh. Bệnh án của Phổ Nghi ghi: “Bệnh nhân khi lên ngôi hoàng đế 30 năm trước đã bị liệt dương, đã liên tục chữa nhưng vô hiệu”. Kết quả chữa trị không được công bố, tuy nhiên một số thông tin cho biết là có biến chuyển.

Vua Phổ Nghi và hoàng hậu Uyển Dung.

Tuy nhiên, dù thế nào, ông vua này vẫn không có khả năng sinh con, dù ông nhiều lần cưới vợ, kể cả khi đã có tuổi.

Hoàng đế Trần Dụ Tông
Đây là vị vua thứ bảy của nhà Trần, sống ở thế kỷ 14, lên ngôi khi mới 5 tuổi. Chuyện bị bệnh liệt dương và chữa khỏi của ông vua này được kể lại rất ly kỳ: Năm bốn tuổi, khi còn là hoàng tử, ông bị rơi xuống nước khi đi chơi thuyền trên hồ với vua cha là thượng hoàng Minh Tông và các cung nữ.

Khi được vớt lên thì hoàng tử gần như đã chết. Thầy thuốc nổi tiếng Trâu Canh đã kích thích các huyệt đạo để cứu sống cậu bé nhưng “tiên đoán” rằng sau này bệnh nhân sẽ bị liệt dương. Điều này đã được chứng minh khi nhà vua cưới vợ năm 14 tuổi.

Để chữa bệnh cho vua, Trâu Canh đề ra một phương thuốc vô cùng kỳ quái và thất đức: giết một bé trai, lấy mật hoà với dương khởi thạch để uống, và phải thông dâm với chị hay em ruột mới hiệu nghiệm. Dụ Tông làm theo, sai giết người làm thuốc, thông dâm với chị ruột là Thiên Ninh công chúa, và đã khỏi bệnh.

Ngày nay, nhiều ý kiến cho rằng căn bệnh liệt dương của Trần Dụ Tông đến rồi đi đều do mưu ma chước quỷ của vị thầy thuốc hữu tài vô hạnh Trâu Canh. Chính lời “tiên đoán” của ông ta rằng Dụ Tông lớn lên sẽ bị liệt dương đã ám ảnh cậu bé suốt thời thơ ấu như một lời nguyền khắc nghiệt, khiến nạn nhân bị bất lực do tâm lý. Còn phương thuốc kỳ quái kia cũng là cách Trâu Canh “giải lời nguyền”, cởi bỏ áp lực tâm lý cho nhà vua, nên khả năng đàn ông xuất hiện trở lại.

Dân gian lại có một câu chuyện khác về cách điều trị bệnh bất lực cho Dụ Tông: Trâu Canh thuở hàn vi một lần đi bắt cá dưới ao do dây buộc giỏ cá bị đứt nên đã bứt đại sợi dây leo để buộc giỏ ngang lưng, không ngờ thấy dương vật tự nhiên “trỗi dậy” khiến ông không dám lên bờ. Khi cởi sợi dây ra thì hiện tượng này biến mất. Thử đi thử lại nhiều lần thấy kết quả vẫn vậy, Trâu Canh biết là cây thuốc thần. Đến khi triều đình thông báo tìm người chữa bệnh liệt dương cho vua, Trâu Canh đã dùng dây leo này chữa khỏi bệnh cho Dụ Tông.

Các nhà khoa học thời nay cho rằng, việc dùng cây dây leo kia cũng có một phần cơ sở khoa học, giống như một cách chữa rối loạn cương mà thời hiện đại sử dụng: kích thích làm cương dương vật, sau đó thắt ở gốc dương vật để máu từ đấy không rút đi. Hình ảnh sợi dây buộc ngang lưng trong câu chuyện có thể là cách nói bóng gió rằng Trâu Canh đã giúp Trần Dụ Tông giao hợp được bằng cách hướng dẫn buộc dây vào gốc dương vật đã cương.

Hoàng đế Khải Định
Chính vì Khải Định mắc bệnh liệt dương nên người con duy nhất của ông – vua Bảo Đại – mới bị nghi ngờ là giọt máu hoang của người khác.

Nhiều tài liệu kể rằng Khải Định không có khả năng và cũng không thích “gần gũi” đàn bà, chỉ thích nhìn đàn ông. Vì thế khi xem diễn trò, ông chỉ muốn kép nam biểu diễn, kể cả vai nữ. Ông cũng rất thích trau chuốt chuyện ăn mặc, trang điểm, thậm chí còn luôn đầu tư chế ra các kiểu y phục mới.

Vua Khải Định

Trong các thú vui của vua Khải Ðịnh không có tình dục. Các bà vợ ông đều phải sống cảnh cô đơn, lạnh lẽo, trong khi ông chồng mải mê đánh bạc. Mặc dù vậy, vì hám danh lợi, nhiều vị quan vẫn muốn tiến con gái cho hoàng thượng để kiếm chác, thế nên vị vua bất lực này vẫn có tới 12 bà vợ.

Chuyện kể rằng có lần, một ông quan tỏ ý dâng con gái mình cho Khải Định, nhà vua thản nhiên bảo: "Ở đây là cái chùa, ai muốn tu thì cứ đưa vào tu". Câu nói này như một lời cảnh báo cho ông bố kia, rằng nếu muốn con gái chịu cảnh phòng the lạnh lẽo suốt đời thì… tùy.

(Theo Đất Việt)

Ánh Hỏa Châu

_Nguyễn Trọng Hoàn




Con không tin có thiên đường.
Nhưng tin có lắm đoạn trường, Chúa ơi!
LỜI KỂ CỦA DIỄM. 
Nghe mẹ tôi kể lại, bố tôi là người thích đi hát cô đầu. . .Tôi là con lớn nhất trong nhà, lại sinh ra đời đúng vào cái đêm quân đội Quốc gia của cụ Diệm tổng tấn công nhóm Bình Xuyên.
Lúc mẹ trở bụng, bố tôi phải chở mẹ tôi bằng chiếc xe mobylette. Giữa đường, mẹ tôi quằn quại, may nhờ có một xe tuần cảnh kéo mẹ tôi lên xe chạy thẳng vào nhà hộ sinh tư Ðức Chính ở đường Cao Thắng. Bố tôi chạy sau, không mang giấy tờ, bị bắt. Ngày hôm sau, bố được thả, bố tôi vỗ nhè nhẹ vào tôi cười:
- Con bé này lớn lên xinh lắm đây, nhưng lại sinh ra trong một đêm dông bão như đêm qua thế này. .
Mẹ tôi cười:
- Anh đặt tên cho con đi! Ðừng lấy tên đám cô đầu con hát đấy! Vận vào nó tội nghiệp! Bố tôi cười bí mật, đặt tên tôi là Diễm, diễm là diễm lệ, là cao sang.
Khi tôi một tuổi, bố tôi gặp lại một người bạn cựu giao, rủ ông vào ngành cảnh sát, vì trước khi vào Nam, có thời bố tôi làm trong ngành hiến binh. Sở dĩ tôi kể chi tiết ấy, vì nó có liên quan đến cuộc đời của tôi sau này.
Ðúng như bố tôi nói đùa, tôi càng lớn càng xinh đẹp. Hãy nghe một con nhỏ bạn nói về tôi: - Ðôi mắt của con Diễm trong veo, ngơ ngác, dưới hàng mi cong chơm chớm. Ðến thánh cũng phải mềm lòng !
Bà ngoại tôi, mỗi khi có ai khen tôi trước mặt bà, bà ngậm ngùi: “ Hồng nhan đa truân! Mẹ tôi gắt: “ Bà cứ nói vậy, nó vận vào người cháu.” Bà bảo: “ Vẽ, nói ra hết sui!”
Trái với sắc đẹp bề ngoài, việc học hành của tôi thật là tồi tệ. . Có tháng tôi gần đội sổ! Mẹ tôi, do bác Thận giới thiệu, đã nhờ Hinh đến kèm cho tôi học.
Hinh gọi mẹ tôi bằng mợ, “ Mợ bắn cà nông không tới ấy mà!" Mẹ tôi vẫn nói đùa như vậy, nhưng khi mẹ nói đến lần thứ hai, thứ ba thì tôi mới vỡ lẽ ra rằng, câu nói răn đe ấy, chỉ nhắc tôi tập quán cổ xưa “ Nam nữ thụ thụ bất thân” mà thôi. Dù có lời cảnh giác bóng gió đó nhưng mẹ tôi hình như vẫn chưa yên tâm, bà cho Kim Anh, đứa em kế tôi và thằng Tuấn, thằng em út, học chung. Mẹ tôi giáo đầu với Hinh:
- Cốt yếu là cháu dạy con Diễm cho mợ, còn mấy đứa kia, cho nó ngồi vào đấy để chúng khỏi chạy nhông mà thôi.
Hinh không đẹp trai, lại cao và đen. Cặp mắt lúc nào cũng mở to như đang đắm chìm trong một cõi xa xăm nào đó. . . Hinh không bao giờ cười trong suốt thời gian từ khi bước vào cửa nhà cho đến khi anh ra về.
Căn nhà tôi có hai tầng. Cả từng lầu dưới, mẹ tôi mở tiệm may phụ nữ, " Tiệm May Áo Dài Diễm". Lầu trên chia làm hai phòng, có một ô cửa sổ nhỏ, không có cánh cửa, thông với hai phòng, để lâu lâu bố tôi ở phòng bển thò đầu ra, quan sát xem gian bên này chúng tôi làm trò trống gì, hoặc để nói chuyện với Hinh về một tin thời sự nào đó. Trái với mẹ tôi, bố tôi gọi Hinh bằng cậu, mỗi khi chấm dứt câu chuyện, bố tôi cười chỉ thằng Tuấn:
- Thằng ông mãnh kia, cậu giáo cứ đánh khỏe, cho bật chữ ra mới được!
Như tôi đã nói ở trên, tôi rất chậm hiểu, nhưng Hinh luôn luôn kiên nhẫn giảng giải rất cặn kẽ cho tôi học, thậm chí giúp tôi làm bài vở ở trường. Tôi không muốn Hinh chê, nên càng cố gắng. Tôi đã trở thành học sinh giỏi trong lớp, nhưng tôi chỉ thích những môn thuộc khoa học nhân văn, lại chúa ghét môn toán. Cho nên phần lớn thời gian, Hinh chỉ toán cho tôi.
Thời gian ấy, Hinh đang học năm thứ hai y khoa. Có lần tôi đang đứng thử chiếc áo dài, thì tôi nghe thấy thằng Tuấn từ ngoài đường chạy vào, vừa chạy lên cầu thang vừa la lớn:
- Thần sấm sét đã đến, nhanh lên! Nhanh lên!
Mẹ tôi cười:
- Phải vậy mới được.
Tôi khoanh tay:
- Chào cậu ạ.
Mẹ tôi cười, bà nói to cho các cô thợ may nghe:
- Thấy không, nó cao gần bằng cậu giáo rồi đấy, con gái mà chẳng có ý tứ chút nào!
Hinh chào mẹ tôi, anh cúi đầu chào các cô thợ may, rồi đi thẳng lên lầu. Mẹ tôi lại nói to:
- Thấy con nhà người ta mà phát thèm, ngần ấy tuổi mà sắp ra bác sĩ rồi đó!
Có lúc Hinh đỏ mặt cải chính:
- Còn lâu mợ ạ, vả lại thời buổi này, học được ngày nào biết ngày ấy.
Riêng tôi, tôi biết, nếu trông thấy được ước mơ. tôi biết mẹ tôi mơ ước có một ông con rể làm bác sĩ.
Rồi một hôm, Hinh đến sớm hơn thường lệ. Anh ngồi nói chuyện với bố mẹ tôi rất lâu trên căn gác bên. Sau cùng anh đi qua chỗ chúng tôi. Anh nói, hai tay xoắn lại với nhau. Cái cử chỉ bối rối ấy, tôi chưa từng thấy ở Hinh. Anh không nhìn tôi nhưng nhìn chằm chằm vào thằng Tuấn:
- Hôm nay, cậu dạy các cháu là hôm cuối cùng. Sáng thứ hai tuần sau. Cậu nhập ngũ rồi.
Thằng Tuấn cười hô hố, xòe tay ra :
- Chúc cậu giáo thượng lộ bình an!
Tôi tê cứng cả người Tôi cắn chặt môi để cố nén một cảm giác quặn thắt bất chợt. Nước mắt tôi tràn ra, tôi vội lấy cả hai bàn tay úp vào mặt. Con Kim Anh cũng bật khóc.
Suốt thời gian còn lại, tôi không nghe Hinh giảng bài gì cả. Những vòng tròn hình học to nhỏ, Hinh vẽ trên bảng cứ như đang thắt cả lòng tôi lại. . . Tôi ngồi bất động như thế cho đến khi tôi nghe tiếng Hinh:
- Cậu về các cháu nhé. Cậu đi nghe Diễm !
Cả đêm hôm ấy tôi không ngủ . Tôi trằn trọc, rồi bật dậy, mở toang cửa sổ. Ở phía Tây của bầu trời, có một ông trăng mờ nhạt, méo mó đang cùng với những trái hỏa châu lập lòe, mong manh, xa lắc như đang lắng nghe những tiếng đạn đại bác rì rầm vọng từ dưới đất. Rồi hắt vào tận trái tim non nớt của tôi, mách báo tôi rằng, tôi đã yêu anh từ lâu lắm rồi mà bây giờ tôi mới biết. . .
Sáng hôm sau, tôi chào mẹ để đến trường. Mẹ tôi nhìn ngay vào đôi mắt xưng đỏ của tôi:
- Chiều nay, mẹ cho các con đi xem ciné với cậu giáo một bữa. Khí khái hão! Anh hùng rơm! Thiếu gì người đánh giặc kia chứ!
Do Hinh giới thiệu, Quân, một bạn cùng học y khoa với anh nhưng sắp ra trường đến kèm cho chúng tôi. Khác với Hinh, Quân hoạt bát, cười nói luôn mồm. Anh nhanh chóng chinh phục được cảm tình của mẹ tôi và thằng Tuấn. Riêng Kim Anh càu nhàu:
- Ðàn ông, con trai cái gì mà miệng mồm cứ như bà già trầu!
Còn tôi, sau một thời gian dài từ ngày Hinh đi, tôi như người mất hồn, lúc nào đầu óc tôi cũng nghĩ quanh nghĩ quẩn, nghĩ đủ thứ chuyện, mà chuyện nào cũng có thấp thoáng bóng hình Hinh ở trong đó. Tôi không cười, không nói trong suốt thời gian Quân đến dạy học.
Tôi vốn là đứa con gái thiếu tự tin, và thật quái lạ: Mỗi câu nói, tiếng cười của Quân, kể cả lúc anh đùa cợt, tôi có cảm tưởng như những ngọn gió thổi từ một tai ương hung hiểm, mà cứ mỗi lần chờm qua tôi lại làm cho tôi sờn gai ốc. . .
Có lần Kim Anh đứng phắt dạy:
- Cậu luôn luôn nói, cậu Hinh giảng như thế này là sai, thế kia là lòng vòng. Cháu không thích cậu nói như vậy nữa!
Ba tôi thò đầu qua, quát to:
- Con Kim Anh, không được hỗn.
Do sự xúc động khi kể câu chuyện về cuộc đời của tôi, cũng vì tôi muốn so sánh Hinh và Quân mà tôi quên kể một chi tiết, trước ngày Hinh lên Ðà Lạt nhập ngũ. Chi tiết này, nó có liên quan đến tôi, đến những khúc quanh trong cuộc đời tôi sau này.
Hinh đến xin bố mẹ tôi để dẫn ba chị em tôi đi ciné. Phim chiếu thường trực nên khi chúng tôi vào rạp thì bên trong tối hù. Hinh cầm tay Kim Anh và Tuấn. Tôi đi theo, người soát vé lia ánh đèn pin về phía những ghế trống, thì thằng Tuấn len vào ngồi giữa tôi và Hinh. Cái miệng nó bô bô:
- Mẹ dặn em phải ngồi giữa cậu giáo với chị Diễm!
Cho đến khi ngồi viết lại những dòng này, tôi không còn nhớ hôm đó chiếu phim gì, tôi chỉ còn nhớ như in, tôi và Hinh sóng vai trên đường trở về. Con đường Lê Thánh Tôn chiều cuối năm chớm lạnh. Nắng phai vàng bên cạnh tiếng xao xác của lá me gọi gió . . . Mới ba, bốn giờ chiều mà trời như có hơi sương lễnh loãng. Tà áo dài trắng của tôi bay bay trong gió, có lúc quấn cả vào người Hinh. Tôi bồi hồi, muốn ôm cả chiều chớm đông của Sài Gòn hôm ấy vào lòng: Trước mặt tôi, từ cây cỏ đến con người, cái gì cũng đẹp, những vệt nắng quái như còn đang chần chờ trên những tàn lá thấp. Tiếng ríu rít của đàn chim sẻ như một tấu khúc cho tình yêu đầu đời của tôi thăng hoa. Tôi muốn nói điều gì với Hinh để anh hiểu nỗi lòng của tôi lúc bấy giờ, nhưng tôi mắc cỡ không thốt ra lời. . . Bỗng một ý nghĩ lóe ra trong đầu: Tôi thèm được nép sát đầu tôi trong vòng tay của anh, thèm nhìn sâu vào đôi mắt anh, mà ở đó, tôi biết, tôi đã đánh rơi tâm hồn tôi cho mãi mãi về sau. . .
Còn Hinh thì vẫn lầm lì đi bên cạnh. Chỉ có một lần, anh dừng lại nhìn vào mắt tôi, tiếng anh thảng thốt trong gió:
- Diễm này.
Tôi nhìn Hinh chờ đợi, tôi có linh cảm âm hưởng của hai tiếng ấy đang len lén đi vào tận trái tim tôi.
- Gì cơ anh?
Lần đầu tiên tôi gọi Hinh bằng anh. Trong đôi mắt sâu thẳm quen thuộc long lanh kia, có tia nhìn là lạ! Tôi đã biết Hinh muốn nói điều gì rồi! Nhưng con tim con gái của tôi đang chờ một câu câu tỏ tình mà tôi đã từng khao khát. . . Bỗng, có tiếng của thằng Tuấn từ phía sau:
- Cậu giáo dẫn tụi cháu đi ăn kem đi!
Ðêm hôm ấy, lại một đêm nữa, tôi thao thức mãi không ngủ được Trăng khuya vằng vặc chiếu lọt qua cửa sổ như mơn man cánh tay trần của tôi, như một giòng nước đang tan chảy trên da thịt tôi. Có lúc tôi mê đi. . . Có lúc, tôi thấy tôi và Hinh đang ngồi trong một căn nhà nơi đồng không mông quạnh, có gió lạnh rít ngoài liếp cửa, có bếp chấu đỏ hồng cho tôi vùi vào đấy mối tình thơ nồng ấm. . . Có lúc, tôi thấy một giòng sông lấp lánh mặt trời, có những tia sáng ấm nóng đang cuồn cuộn cuốn Hinh và tôi vào một miền sông nước bạt ngàn, đất trời toàn một mầu xanh kỳ ảo.
Sau ngày Kim Anh to tiếng với Quân, anh bớt dè bỉu về Hinh, nhưng có một hôm, trong lúc nghỉ giải lao giữa giờ. Thằng Tuấn đột nhiên nói:
- Sao cậu Hinh lại phải đi lính? Cậu ấy có quyền xin hoãn dịch mà!
Câu nói vô tình của Tuấn như lưỡi dao sắc cứa vào lòng tôi đau buốt.
Kim Anh nói:
- Làm trai , khi quốc biến thì phải ra trận, chứ cứ ru rú ở thành phố thì đâu có phải là con trai!
Lần đầu tiên tôi thấy Quân nổi nóng:
- Nào có phải ai cũng học được đâu! Ði lính cũng là một lối thoát. . .
Tôi thì vẫn lặng thinh. Hình như mọi chuyện, mọi vấn đề, nhất là khi nhắc đến Hinh, Quân chỉ nhằm xem phản ứng của tôi. Tôi biết Quân yêu tôi.
Tháng Sáu năm ấy, Quân nghỉ dậy vì anh phải lên Ðà Lạt học quân sự trước khi mãn khóa. Mẹ tôi cũng cho chúng tôi đi ciné với cậu giáo bữa chót (Nhưng lần này, bà không dặn Tuấn ngồi xen vào giữa tôi và Quân, như lần trước với Hinh nữa). Kim Anh lấy lý do nhức đầu không chịu đi. Tôi biết, thế nào hôm nay, tôi cũng phải trả lời Quân một câu hỏi. Một câu hỏi rất dễ cho tôi trả lời.
Kim Anh tuy nhỏ hơn tôi một tuổi nhưng nó khôn hơn tôi nhiều lắm, tính tình nó lại cứng rắn. Nó tuy là em, nhưng ngay cho đến bây giờ, nó vẫn như một chiếc dù, che mưa nắng, che cả những dông bão trong cuộc đời cho tôi. . .
- Nếu anh chàng có hỏi, mà thế nào cũng hỏi, chị cứ nói thẳng với hắn Yêu làm sao được cái bản mặt ấy!
Hơi lạnh trong rạp làm tôi ơn ớn, Có những lúc tôi thấy một nỗi sợ hãi mơ hồ, y như có một làn hơi thở nóng hổi của Quân đang chờn vờn trên gáy, trên má tôi.
Tôi rút ngay tay lại khi Quân cầm tay tôi:
- Anh yêu Diễm.
Tôi lạnh toát cả người, bàn tay nhơm nhớp mồ hôi của Quân làm tôi nghĩ đến con lươn, con vật mà mỗi khi, chỉ trông thấy lớp da nhờn nhờn, đôi mắt ti hí của nó là tôi đã ù té chạy.
Lần đầu tiên trong đời con gái, tôi nghe một người con trai nói với tôi như thế. Tôi bàng hoàng, len ra phía thằng Tuấn, đang ngồi ở tận đầu dãy.
- Tuấn đổi chỗ cho chị.
Khi về nhà, tôi đi nhanh đến bồn rửa mặt, tôi nhớ đến hơi thở của Quân, nhớ đến bàn tay của Quân, nhớ tới anh Hinh. . . Nước mắt tôi trào ra. Kim Anh đến bên:
- Kỳ cho sạch đi, cái thứ. . . Cà chớn ấy đi chị Diễm ạ!
LỜI KỂ CỦA PHẬN.
Tôi tên là Phận, Hạ sĩ Phận, người ta đặt cho tôi nhiều cái tên nghe ngồ ngộ, nào là: “ Thằng Ô Ðô”, “chú Tà Loọc”, “ anh Cao Bồi” Ôi thôi! Nhiều tên lắm, mà cái tên nào cũng ám chỉ công việc thường ngày của tôi là giúp đỡ việc riêng cho ông Tiểu đoàn trưởng . . .
Ông sếp mới của tôi là Thiếu tá Hinh, còn rất trẻ, hơi đen nhưng có hàm răng đẹp, năm thì mười họa tôi thấy ông cười. Mặt luôn luôn buồn rười rượi. Tôi luôn mang một cảm giác rằng, người chỉ huy tốt bụng của mình hình như nặng chĩu một tâm sự khắc khoải gì đó! Chắc lại chuyện yêu đương gì đó mà thôi! Chứ tôi biết rất rõ, ông ấy chỉ có một bà mẹ già đang bị bệnh tê thấp. Hàng tháng, chiếc phong bì mầu vàng của ban quân lương đưa cho ông thế nào, thì ông đưa nguyên như thế cho tôi, nhờ tôi về trao cho bà cụ ở Ngã ba ông Tạ, với chỉ một lời dặn duy nhất:
- Chú nhớ đấy, mẹ tôi có hỏi, chú nói độ này Tiểu đoàn đang huấn luyện nên không phải đi hành quân. Nhớ đấy!
Cho đến một hôm tôi nhớ rất rõ, y như chuyện này mới xẩy ra hôm qua Sau gần ba tháng hành quân ở biên giới Việt Miên. Tiểu đoàn tôi về dưỡng quân tại Chà Rầy, một căn cứ cũ của Mỹ ở ngay sát phía Nam của mật khu Bời Lời, thuộc địa phận của quận Trảng Bàng.
Khoảng hai giờ chiều ngày hôm ấy, một người con gái, đi chiếc xe honda, dừng lại trạm gác cổng, chiếc áo dài màu trắng đỏ quạch bụi đường. . .
Người con gái dựng xe, bước xuống đến gần ông Thượng sĩ già lễ phép.
- Bác cho cháu hỏi, đây có phải Tiểu đoàn 3 không ạ ?
- Cô muốn gặp ai?
- Cháu muốn gặp anh Hinh.
Ông Thượng sĩ già cao giọng gắt:
- Hinh nào mới được chứ. Ðại đội nào chả có Hinh. Có biết cấp bậc gì không?
- Thưa Hinh, Thiếu tá.
Ông già giật nẩy mình, những ông sếp trước, bà lớn bà nhỏ, nhân tình nhân ngãi ra vào tấp nập, chưa kéo kịp con ngựa gỗ chặn cổng lên là đã bị la rầy. Ðằng này. . . Sao dịu dàng quá!
- Thưa bà, bà là. . .
Người con gái đỏ mặt bình tĩnh trở lại.
- Không! Không, tôi chỉ là em của ông ấy. . . Cho tôi vào nhé!
Chiếc xe đậu trên thềm bộ chỉ huy.
- Sao Diễm biết anh về mà lên?
Người con gái phụng phịu:
- Kim Anh chỉ cho em, eo ơi! Con đường vào đây thấy mà ghê! Lại gặp ông già ở cổng lục vấn muốn đứng tim luôn! Nào anh! Cho em vào trong đi, lính của anh đông quá! Họ đang nhìn em kìa! Mắc cở muốn chết!
Hai người ngồi nói chuyện trong phòng khách. Tôi tò mò lắng nghe, nhưng không biết họ nói chuyện gì. Tôi lại ngạc nhiên, trước kia chẳng có cô gái nào lên thăm sếp cũ mà lại ngồi ở phòng khách cả. Họ thường nói chuyện dăm ba câu rồi vào thẳng phòng ngủ đóng cửa lại, rồi những tiếng rì rầm, tiếng kót két của chiếc giường đóng bằng gỗ thông pháo binh, những tiếng thở dồn dập, rồi sau cùng là những tiếng nước xối ào ào ở phòng tắm kế cận.
Ðằng này, cả giờ đồng hồ rồi mà hai mái đầu vẫn chụm vào nhau, hai người vẫn cứ xoay xoay mãi hai ly chanh đá. Tôi đứng ở phía hông nên chỉ thấy đầu của Thiếu tá cúi gầm xuống, còn đôi vai của người con gái rung lên từng chặp. . . Những lúc tôi đến gần, họ ngưng bặt. . .
Con mắt của người con gái hơi đỏ và ướt.
Tôi bỗng thấy Ðại úy Trưởng ban 3, từ phòng hành quân cầm tấm bản đồ chạy ra. Ông khựng lại:
- Thưa Thiếu tá. . . Chào bà. . .
Hai người đứng lên :
- Xin giới thiệu, đây là Diễm em tôi, còn đây là Ðại úy Hiếu.
Tôi thấy Ðại úy Hiếu có vẻ bối rối:
- Thật rất may mắn cho chị, đường từ ngoài ngã ba Trảng Bàng vào căn cứ, có một chiếc xe lam vừa bị giật mìn.
Người con gái không ngạc nhiên, không tỏ vẻ sợ hãi. Cô như một tiên cô vừa hạ giáng xuống trần. Cô xa lạ với người và cảnh ở đây và hình như cô xem việc cô ngồi bên cạnh Hinh là đã yên ổn lắm rồi, như cô đang mang một nỗi khổ tâm, mà dù có chết chóc, đau khổ thế nào cũng không sánh bằng. . .
Cô thờ ơ hỏi:
- Có sao không anh?
Thiếu tá Hinh cười:
- Còn sao nữa, em đã vào được đến đây rồi! Có điều, không chắc chiều nay em có thể về được đâu!
Thiếu tá quay lại nói với Ðại úy Hiếu:
- Cậu thử điều động thằng 1 ra đó xem sao?
Không biết vì sao tôi cứ thấy vui vui khi con đường bị tắc Và người con gái phải ở lại thật! Bố Hiếu này cố tình lề mề đây ! Ông biết, cấp chỉ huy của ông mới đi hành quân xa lâu ngày mới về. . .
Họ lại ngồi nói chuyện rất lâu trong phòng ngủ mở toang cửa. Tôi đưa lên hai tô cháo gà. Người con gái lúc này đã thay chiếc áo dài bằng bộ đồ màu đen, loại của cán bộ xây dựng nông thôn mà ông Hinh thường mặc ngủ. Bộ đồ vừa rộng thùng thình, vừa tăng thêm một vẻ đẹp đài các.
Người con gái thật thà:
- Tôi lên đây làm phiền chú quá nhỉ?
Bỗng người con gái chỉ về phía cửa sổ:
- Ánh sáng gì mà chập chờn như ánh lửa vậy anh?
- Ánh hỏa châu đấy!
- Thích quá, hàng đêm nó là bạn với em đấy! . . Vào những đêm không ngủ, em thường ngồi nhìn những ánh hỏa châu ấy. Kim Anh nó gọi là ánh thiên chương!
- Sao lại là thiên chương?
- Nó bảo thiên là trời, chương là sáng. Trời soi sáng cho những bước quân hành!
- Lát nữa, anh đưa Diễm ra ngoài, tha hồ mà ngắm!
Ông Hinh cầm một gói đi ra, chỉ một lát sau, ông bước vào:
- Chú cho tôi xin hai cái móc áo. . . Treo ở đây, chỉ sáng mai là khô chứ gì!
Tôi chạy đi lấy móc áo, trở lại thấy ông đang rũ rũ chiếc áo dài trắng. Tôi giật mình:
- Sao Thiếu tá không để cho em giặt?
Ông Hinh cười:
- Cậu tưởng ai cũng có cái diễm phúc giặt áo cho người yêu hay sao?
Tự nhiên tôi cảm thấy vui vui. Từ ngày ở Trung tâm huấn luyện Quang Trung ra, nhờ mau mắn, kín miệng tôi đã được về giúp việc cho nhiều ông Tiểu đoàn trưởng. Tôi đã phải khổ sở, nhục nhã với biết bao nhiêu tính đỏng đảnh tai quái của những bà vợ lớn vợ bé của những ông sếp ấy.
Người con gái thấy tôi thẫn thờ, cô dịu dàng.
- Thôi chú đi nghỉ đi để đấy tôi lo cho.
Sao họ đẹp đôi quá, sao họ phúc hậu quá, ước gì họ lấy được nhau!
Tôi vẫn không ngủ được Tôi chỉ chờ cái cửa phòng kia đóng lại, nhưng tôi đã thất vọng! Cánh cửa cũng đóng, nhưng chỉ có cô gái ngủ ở bên trong, còn Thiếu tá Hinh tội nghiệp của tôi thì nằm ngủ trên một chiếc ghế bố nhà binh ở ngoài.
. . Cũng có những tiếng cót két nhưng đó là tiếng trở mình liên tục của cả hai người, mà tôi biết chắc họ còn đầy ắp những điều không thể nói ra được. . .
Sáng hôm sau, người con gái chuẩn bị ra về. Cô gọi tôi đến, hai tay đưa cho tôi một phong bì:
- Tôi nghe anh Hinh nói chú sắp đi phép, có chút quà gửi cho thím và các cháu!
Tôi đã cảm động muốn khóc Thiếu tá đưa cô ra Trảng Bàng. Tôi ngẩn ngơ nhìn cánh áo đen cô đơn ở đầu giường. . .
Ðó là lần đầu tiên và là lần cuối cùng tôi gặp cô Diễm.
LỜI KỂ CỦA KIM ANH.
Thưở còn bé, nhất là thời gian còn đi học, ai cũng bảo tôi giống chị Diễm. Tôi vẫn thường đỏ mặt vì sung sướng khi có ai nói với tôi điều ấy.Nhưng chị là người mềm yếu. Việc hôn nhân của chị, vào người khác, chắc không đến nỗi tồi tệ như thế đâu!
Trong gia đình tôi, chỉ trừ có mẹ tôi, còn ai cũng phản đối việc chị Diễm tôi lấy Quân. Thấy yếu thế, mẹ tôi dọa sẽ tự tử. Tôi nói với chị:
- Bà già chỉ dọa thôi, đừng mủi lòng đổi ý.
Nhưng mẹ tôi đã làm thật. Lúc xe cứu thương đến để đưa mẹ tôi đi rửa ruột. Chị tôi ôm lấy khuôn mặt nhợt nhạt của mẹ khóc nức nở:
- Mẹ tỉnh lại đi mẹ ơi! Mẹ cứ khỏe lại rồi mẹ bảo như thế nào con sẽ chiều ý mẹ!
Thế là chị tôi đi lấy chồng. Tôi thấm thía với câu thơ Nguyễn Bính:
Người ta pháo đỏ rượu hồng.
Nhưng trên đầu chị một vòng hoa tang.
Trước khi lên xe hoa, mà chị tôi chua chát gọi là xe tang, tôi xúi chị nên đi thăm anh Hinh Chị do dự mãi nhưng cuối cùng cũng đi. Không may, tối hôm ấy, chị không về được. Không may hơn nữa, Quân tới nhà. Thằng Tuấn không biết ất giáp gì bô bô cái miệng:
- Chị Diễm em đi thăm anh Hinh rồi!
Quân hầm hầm ra ngoài xe, ngồi chờ suốt đêm, mẹ tôi gọi thế nào, Quân cũng không vào nhà. Ngồi cho đến sáng, Quân mới bỏ đi.
Chị Diễm về. Mẹ tôi lồng lộn như một con thú bị thương. Trái với tính tình thường ngày là cả nể và thiếu tự tin. Chị nói thẳng với mẹ tôi:
- Con đi thăm anh Hinh thật, con có ngủ lại đêm thật đấy, nhưng con không có làm gì bại hoại gia phong như mẹ vừa nói đâu!
Mẹ tôi vẫn chì chiết.
- Ăn nói với người ta như thế nào bây giờ? Hở trời! Thay quần áo, mẹ dẫn đi xin lỗi nó!
Tôi bật lên :
- Không phải xin lỗi ai hết. Việc gì mà phải xin lỗi cơ chứ?
Mẹ tôi lấy cái thước đo quần áo, run run chỉ vào mặt tôi:
- Mày, muôn sự cũng tại mày mà ra cả!
Rồi mẹ tôi chụp cái kéo, xoay ngược mũi nhọn vào ngực:
- Con không đi, mẹ chết cho con xem!
Chị Diễm tôi nói:
- Thôi được, mẹ để Kim Anh nó đi với con được rồi!
Tôi ngồi dưới xe chờ chị. Khoảng hơn một tiếng đồng hồ sau chị bước xuống. Chị phải vịm tay vào lan can mới lê được những bước chân nặng nhọc. Mặt chị xanh mét. Tôi chạy tới đỡ chị. Bỗng, tôi tái mặt khi nhìn thấy vạt áo phía sau có mấy vệt máu đỏ. Tôi nghiến răng gầm lên:
- Khốn nạn hết sức! Ðể em lên xem nó là con thú hay là bác sĩ đây?
Chị khóc, giữ tay tôi lại:
- Thôi mà Kim Anh! Ảnh muốn chị chứng minh xem đêm qua. . .
Chiến cuộc càng ngày càng khốc liệt giữa một bên là những chiến sĩ can trường của QLVNCH, đang càng ngày càng bị đồng minh và những cuộc biểu tình phản chiến có mang màu sắc tôn giáo làm lung lay, cô lập. . Những cuộc phản kháng của những nhà văn nhà báo, lẽ dĩ nhiên, có sự giật giây của Cộng sản. Họ đòi cho bằng được những thứ mà chiến tranh muốn khất lại họ. Nhưng Tổ quốc thì đang cần những thứ khác kia kìa! Những thứ mà lòng vị kỷ, tham vọng cá nhân và đảng phái không có. . . Với một bên là những người Cộng sản, mang khát vọng dùng giáo điều máu để thôn tính miền Nam bằng bất cứ giá nào!
Ðám cưới chị tôi buồn như một đám cưới chạy tang.
Ngay buổi sáng ngày hôm ấy, tôi đang đứng trên lan can thì có một cái xe jeep trờ tới. Tôi thấy một chú lính quen quen đang ngơ ngác tìm số nhà. Tôi chạy vội xuống.
- Chú kiếm chị Diễm tôi phải không. Có chuyện gì không chú?
- Tôi là Phận, Trung tá bị thương nặng lắm, tôi đến báo cho cô Diễm. Ðây là số phòng của ổng.
Tôi lặng người, rồi vội cầm vội tờ giấy, rồi chạy nhanh lên lầu. Chị Diễm đang ngồi thẩn thờ trên chiếc ghế nhìn ra ngoài cửa sổ ( Vẫn vị trí mà từ ngày anh Hinh ra trận, chị vẫn ngồi đấy để dõi theo những bóng hòa châu chập chờn, leo loét, lắc lư trên vòm trời tối đen của vùng Hố Bò, Bời lời. Có những trái thả lạc, rất gần, hắt vào phòng những tia sáng chập chờn, đầm đìa trên gối)
Tôi đứng lặng thinh nhìn chị một lúc rồi vội vã thay đồ, chạy xuống nhà Mẹ tôi nói, hỏi gì tôi cũng không nghe thấy nữa! Tôi phóng xe thẳng tới Bệnh viện Cộng Hòa.
Tôi vừa đi vừa chạy trên những hành lang đầy thương binh. Mùi máu, mùi ê-te, cùng những tiếng rên xiết cứ như muốn níu chân tôi lại. Chiến tranh! Lần đầu tiên tôi mới thấy tận mắt chiến tranh khốc liệt là chừng nào! Lần đầu tiên tôi mới thấy sự hi sinh và lòng dũng cảm của người lính trận thật là vô bờ vô bến.
Chị Diễm ơi! Chị đã không lầm khi trao trái tim của chị cho một người người anh hùng. . .
Hinh thiêm thiếp trong phòng hồi sức. Vầng trán cao cao của anh còn vương lại những giòng máu đen sậm. Cả phần dưới cặp lông mày chữ mác của anh được băng kín. Chân phải anh cũng bị thương, máu đỏ còn thấm đậm trên những dải băng. Tôi đang đứng lau những vết máu, vết đất trên thân thể anh thì Phận dẫn một cụ già bước vào. . .
Bà cụ đứng trân trân nhìn Hinh. Hai hàng nước mắt chảy trên hai gò má nhăn nheo. Tôi bước vội ra ngoài hành lang. Một thiếu phụ, từ phòng giải phẫu chạy vụt ra, tay ôm con, vừa chạy vừa gào khóc, vừa gọi tên thảm thiết một người. Tiếng gào khản đặc làm lòng tôi quăn đau. Tôi bước nhanh đến chiếc ghế đá dưới gốc cây trứng cá, ngửa mặt nhìn bầu trời cao vời vợi, có những giải mây trắng vắt ngang. Tôi nhắm mắt lại như muốn được chắp cánh cùng mây lên cao, lên cao mãi. . . Tôi đã nhìn thấy các anh rồi! Các anh rực rỡ như muôn ngàn ánh hào quang! Các anh đẹp hơn cả thiên thần, hào hùng hơn cả những tráng sĩ trong chuyện cổ tích!
Lại có tiếng gào thét của một bà già kêu tên một người con nào đó Tôi mím môi, tôi lại thấy buốt nhói trong lồng ngực. Tôi nuốt những giọt nước mắt mằn mặn. . .
Bây giờ thì tôi mới vỡ lẽ ra rằng: Cuộc chiến khốc liệt này đã gây ra biết bao nhiêu nỗi thương đau, mà không có ai có thể chia xẻ cho ai được cả!
Những hình ảnh và âm thanh ấy cứ chập chờn, bám riết lấy tôi, theo tôi về tận đến đầu đường Nguyễn Thiện Thuật. Cả một góc phố đang bị kẹt xe, đang ngập tràn khói pháo! Nhà trai đã đến rước dâu rồi! Tôi nghĩ ngay đến khuôn mặt hí hửng của Quân. Rồi lại nghĩ đến cái đầu băng kín của anh Hinh. Cái đầu có quấn băng trắng ấy, y như một dải khăn tang. Anh đang để tang cho một cuộc tình dang dở. . .
Ðêm hôm ấy, trong lúc cô dâu chú rể đang đi chào bàn. . Bỗng có một người đàn bà, dắt theo một đứa bé trai. Người đàn bà đi thẳng đến chỗ chị Diễm, còn đứa bé, trông giống Quân như đúc, chạy tung tăng đuổi bắt những trái bong bóng đang bay lơ lửng giữa tiếng cười, tiếng nói, tiếng bật của nút chai rượu . . .
Mẹ tôi là người ân hận nhất. Bà lao tới, bao nhiêu tức giận của bà đồn vào một ly nước đầy, hắt mạnh vào mặt Quân. Bà lôi xềnh xệch chị Diễm tôi ra khỏi cửa.
Ðêm ấy, mẹ tôi uống thuốc độc quyên sinh. . .
Bố tôi trước sau vẫn bậm chặt đôi môi, không nói một lời. Hôm đưa ma mẹ tôi. Bố tôi chỉ nói vỏn vẹn :
- Bà đi bình an. Gia đình và con Diễm đã tha thứ cho bà.
LỜI KỂ CỦA TUẤN.
Cả tiểu đoàn râm ran khi nghe tin Trung tá Nhung, Tiểu đoàn trưởng sắp bị thay thế. Tin ấy, có lẽ bắt nguồn từ sau ngày đoàn thanh tra của Sư đoàn (không báo trước) đã đến Tiểu đoàn để thanh tra về quân số. . . Rồi lại xẩy ra chuyện bắn lộn tại bến phà Neak-Luông giữa toán biệt kích của Tiểu đoàn với một toán quân của chính quyền Lon-Nol.
Nhưng chuyện Thiếu tá Hinh, một sĩ quan rất trẻ đến thế “ Ông già” Nhung, làm tất cả bàng hoàng, nhất là cánh sĩ quan. Riêng tôi phấn chấn hơn. Tôi dù về ngay Sài Gòn để khoe với chị Diễm. Chị Kim Anh xía vào:
- Chị Diễm nói thế là không đúng. Vui cái gì cho thằng Tuấn kia chứ! Chỉ làm cho anh ấy khó xử mà thôi! Tôi chúa ghét cái thứ con ông cháu cha!
Tôi xin nói thêm: Tôi có hai người chị Chị Diễm tôi tính tình dịu dàng, nhân hậu nhưng đa sầu đa cảm, còn chị Kim Anh đã đẹp sắc sảo , lại có rất nhiều nam tính. . . Hàng đêm, Hai chị ngủ chung một chiếc giường đôi sát cạnh cửa sổ. Bên ngoài là tàn lá của cây vú sữa thật to của nhà ông Tích. Trong khi chị Kim Anh ngủ khò, thì từ ngày anh Hinh đi lính, chị Diễm tôi thường tựa hai tay vào thành cửa sổ. . . Cùng với bầu trời mùa hè chan hòa ánh trăng, bầu trời mùa đông xám xịt, để mùa này đến mùa khác, mòn mỏi nhìn về khoảng trời có những bóng hỏa châu chao qua nghiêng lại, cùng với tiếng đại bác từ vùng “ anh ấy chắc đang đụng địch” vọng về. Chị say nhìn những chiếc C47 lập lòe trong đêm tối, vừa thả hỏa châu, vừa ném vào vòm trời đêm vô vàn tia đạn , vô vàn hạt sáng, giống như những dải sao ở trên trời! Những âm thanh từ mặt trận vọng về ấy, có lẫn với tiếng rơi khô khốc, não lòng của những chiếc lá vú sữa khua ròn trên mái tôn. . .
Cũng may trong Tiểu đoàn không ai biết việc tôi và “ Cậu giáo” có dính dáng với nhau, chứ nếu họ biết thì còn quê cho tôi biết là chừng nào Vì từ ngày về cả tháng trời đến giờ, mà cái ông tướng nhà trời này không thèm hỏi thăm tôi đến một tiếng!
Phải nói cho ngay, tức thì tức thật. Nhưng từ khi có ông sếp mới, không khí trong Tiểu đoàn tôi có nhiều lột xác: Lính tráng được luân phiên đi phép. Quân số đào ngũ giảm đi rất nhiều. Khu gia binh của Tiểu đoàn được anh cho mấy thợ mộc về tu sửa. Chỉ có những anh chàng ở hậu cứ là bắt đầu từ nay, không còn được lè phè nữa rồi. . .
Tháng Năm năm ấy, thời gian khi anh Hinh về Tiểu đoàn được hơn hai tháng. Tiểu đoàn tôi trở lại chiến trường Căm Bốt lần thứ hai. Lần này, không phải lén lút như lần trước nữa, Chiến đoàn 333 của chúng tôi đã công khai giao chiến với những đám tàn quân của Việt Cộng còn đang lẩn quất, dưỡng quân, tái trang bị võ khí. . .
Biết được bên phía Quốc gia sót từng tính mạng người lính một , lại rất sợ phi pháo và không yểm, Việt Cộng đã đổi chiến thuật, chúng đào hầm, chờ những toán tiền sát của quân ta tới sát gần mới nổ súng Thế là kẹt rồi! Gần quá làm sao đánh bom, làm sao dùng pháo tầm xa đây?
Tôi nằng nặc xin với Ðại úy Khương, Ðại đội trưởng:
- Tôi không thể đứng nhìn mấy “ thằng nhỏ” của tôi nằm chết như thế được! Ðại úy cho trung đội tôi xung phong, lấy xác ra bằng được!
- Không được, Thiếu úy Tuấn giải quyết như vậy là không ổn rồi Phải rút ra xa, cho pháo dập mới tiến vào được. Chúng ta không có quyền phung phí nhân mạng được đâu!
Chúng tôi quay nhìn lại: Tiểu đoàn trưởng Hinh tay cầm bản đồ, địa bàn đứng ngay sau lưng chúng tôi lúc nào không biết! Tôi vốn là đứa ít tự chủ, vội vàng đứng nghiêm, hai chân rập vào nhau:
- Chào Cậu giáo!
Thế là từ bữa đó, cả Tiểu đoàn biết được sự quan hệ giữa tôi và Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng.
Cũng tại mặt trận ấy, tôi bị thương, vết thương này làm tôi phải vĩnh biệt trận mạc Trong lúc chờ trực thăng tản thương. Anh Hinh đến ngồi sát bên tôi, lần đầu tiên, tôi mới thấy anh cười đùa, anh vỗ vỗ vào vai tôi:
- Nhà có một cậu con trai, xuất ngũ làm thừa tự là phải lắm rồi!
Tôi còn gặp anh Hinh hai lần nữa, một lần hôm đưa ma mẹ tôi. Một lần nữa, anh Hinh về gặp ba tôi để xin hỏi cưới chị Diễm, nhưng bị chị tôi cự tuyệt.
Cho đến cái ngày cả miền Nam tan vỡ. . .
LỜI KỂ CỦA CÔ Ý TÁ PHÒNG MẠCH BÁC SĨ QUÂN.
Ngay sau khi chiếm trọn miền Nam, tôi được bố đem tôi vào Sài Gòn Sau này tôi mới biết, sở dĩ mẹ tôi cho tôi đi theo bố tôi vào đây, vì nghe nói, thời chia cắt đất nước, lúc chưa lấy mẹ tôi, bố tôi có chia tay với một mối tình lớn, mà người ấy bây giờ đang ở trong Nam! Hèn gì, ngay khi đặt chân vào “ Vùng vừa giải phóng”. Người ta từ cán bộ đến thường dân, chạy đôn chạy đáo mua gom những thứ mà, mới vài tháng trước đây thôi, họ nghĩ, chỉ có thiên đường mới có. Còn bố tôi thì cứ cầm một mảnh giấy, đi hết đường này đến phố khác để kiếm tìm cái gì mà tôi không thể biết được!
Bố tôi làm trong Ủy ban An ninh Nội chính, nên ông đã không ngần ngại cho tôi thâm nhập vào ngành y ( Vì tôi đang học y khoa ở Hà Nội) để theo dõi các y, bác sĩ của chính quyền Sài gòn đang phục vụ cho cách mạng.
. . Ðó là những thời điểm mà dân chúng miền Nam, với không ít là những người dân thân Cộng, những người đã từng, mặt này hay mặt khác, đã giúp đỡ cho Cộng sản tiến chiếm miền Nam, thì bây giờ đã hoàn toàn vỡ mộng. Nhưng vẫn còn vô số những người mà trong muôn vàn thống khổ của người dân, họ đã ăn nên làm ra. Trong đó có bác sĩ Quân. . .
Thế là tôi được vào làm việc tại đây. Tôi có một chút nhan sắc, lại được biết bà vợ của ông bác sĩ có nhiều máu ghen. Ðối với ông bác sĩ, đó là một nỗi khổ, nhưng đối với tôi. Nó là cái khiên che chắn cho tôi khỏi bị sự tấn công liên tiếp của ông chủ háo sắc.
Tôi cũng nói thêm, như rất nhiều trí thức bỏ ý niệm Quốc gia chạy theo Cộng sản, ông Quân đã làm tới Phó giám đốc của một bệnh viện lớn Ông đã được kết nạp vào đảng, và đã được mời chữa bệnh cho các đảng viên cao cấp. . .
Một buổi chiều cuối năm 1978, có một người phụ nữ hình dung tiều tụy nhưng rất đẹp, trong một bộ đồ bà ba đen sờn vai.
- Có lẽ chị khám bệnh lần đầu. Cho tôi xin chứng minh nhân dân để tôi làm hồ sơ bệnh án!
Người phụ nữ:
- Tôi chỉ muốn gặp Bác sĩ có chút việc riêng, xin chị cứ nói. . . Tôi là Diễm. . .
Bác sĩ Quân chạy ra, như một con hổ đói lâu ngày thiếu mồi, như không hề biết việc có mặt của tôi, bác sĩ Quân kéo tay người phụ nữ vào phòng. Vừa đi vừa thở hỗn hển.
- Anh đã nhắn em! Vào đây, vào đây anh giúp cho!
Người phụ nữ vừa khóc vừa phân bua:
- Xin anh hiểu cho: Không còn cách nào khác, tôi mới đến đây tìm anh!
Một tấm ván ép nhỏ ngăn cách phòng khám bệnh và căn phòng nhận bệnh, nơi tôi ngồi. Ðủ để cho tôi, lần đầu tiên thấy người ta làm chuyện giới tính. Bác sĩ Quân bế thốc người phụ nữ đặt lên cạnh bàn. . . Tôi tròn mắt nhìn, đứng tim, mặt nóng bừng. Tôi run rẩy như đang có một ngọn lửa thiêu đốt ở trong người. Cho đến khi, người phụ nữ ấy vừa gạt nước mắt, vừa nhét một nắm tiền vào cạp quần, ống thấp ống cao, đi như chạy ra khỏi cửa. . .
LỜI KỂ THÊM CỦA TUẤN.
Sau ngày đội quân tinh nhuệ bị bức tử . Hai ông Trung tá, một trong ngành Cảnh sát, một Trung đoàn phó, thuộc Sư đoàn 5 BB. . . Là hai người thân nhất của gia đình tôi bị đưa đi cải tạo bằng chuyến tầu Sông Hương đầu tiên để ra Bắc. Gia đình tôi cũng như bao nhiêu gia đình khác, tan nát, khốn khổ vô cùng tận. . .
Cứ vài tháng một lần chị Diễm phải tìm người đến để bán những đồ đạc trong nhà, để lấy tiền ra Bắc thăm nuôi bố tôi và anh Hinh Cách đây khoảng nửa tháng, gia đình lại nhận được tin ba tôi bệnh nặng, rồi lại được tin anh Hinh trốn trại, bị bắt lại, bị đánh đập, bị đem đi bệnh viện. Cái gì bán được thì gia đình đã bán rồi! Sau cùng, tôi phải đến mượn tiền anh Quân. Anh ấy không thèm nhìn tôi, lạnh lùng nói:
- Cậu bảo cô Diễm đến đây gặp tôi!
Ðồng tiền lúc này đã vượt lên trên cả lòng tự trọng, trên mọi giá trị đạo đức và nhân cách. Lẽ dĩ nhiên chị ấy phải tới. . . Rồi một hôm, vợ ông ấy, đem hai cô em gái đến tận nhà tôi. . . Chị Diễm đã phải quỳ xuống khóc lóc van xin. Tôi ở trên lầu chạy xuống, nhào tới. Ba người đàn ba không dám làm dữ nữa, đứng trước cửa nhà tôi tru tréo cả tiếng. . .
Vào những lúc ấy. . Càng thương bố tôi, thương anh Hinh, thương chị Diễm, tôi lại càng thấm thía, càng hiểu vì sao bao nhiêu chiến sĩ quốc gia, bao nhiêu chàng trai dũng cảm như anh Hinh đã phải nằm xương gối đất, xông pha trước làn tên mũi đạn để bảo vệ cho miền Nam không lọt vào tay Cộng sản. Ðể hàng triệu người vô tội không phải sống lầm than như bây giờ.
Ðang lúc gia đình tôi đi vào ngõ tắt không lối ra, thì nhận được tin của chị Kim Anh từ một trại tỵ nạn. Ngay tháng sau, chị đã mượn tiền người quen để gửi về cho gia đình. Chị Diễm thoát ngay cơn bĩ cực. Thỉnh thoảng, trên đôi mắt bồ câu lúc nào cũng như muốn khóc ấy. Ðã có le lói những tia sinh khí. Chị đem tiền lên biếu mẹ anh Hinh, nhưng cụ bà không nhận. Khi chị kể chuyện chị Kim Anh đã đi thoát và gửi tiền về. Cụ quẹt nước mắt:
- Rồi ra, những người làm phải cũng sẽ được trời đất phù hộ độ trì. . .
Chị em tôi đang định chào cụ xin về, thì bằng một cữ chỉ như muốn ngăn lại. Cụ đi vào trong nhà. Một lúc sau đi ra, cụ vẫy chị Diễm đến gần:
- Con ơi! Ðến đây mẹ bảo!
Cụ lấy ra một sợi dây chuyền, có tượng Phật màu xanh lá mạ, đeo vào cổ chị tôi:
- Thằng Hinh cứ tù biền biệt , mẹ biết sức mẹ không còn chờ nó được nữa rồi. Từ nay, con là con của mẹ. . .
Cụ lau nước mắt. Hai chị em tôi đều khóc.
LỜI KỂ CỦA NGƯỜI . . . KỂ CHUYỆN.
Tôi bị bạn bè cũng như độc giả, nhất là nữ độc giả thường chì chiết tôi về những câu chuyện không đầu không đuôi, lại không có hậu tôi thường viết đăng trên báo, có người còn nghi ngờ những tình tiết tôi dẫn chuyện. . . Và chính tôi cũng chẳng dựng nên truyện này, khi buổi sáng ngày hôm ấy : . . Tôi bị tù chung với Hinh ở Yên Bái, nằm ngay bên cạnh. Tôi và Hinh thân nhau có lẽ vì nỗi bất hạnh của chúng tôi na ná như nhau. . . Anh rất kín tiếng, nhưng khi đã thân rồi, anh đã kể cho tôi nghe về người cha đã chết trận, về một bà mẹ già đang bị thấp khớp, về một cô người yêu đang chịu những đắng cay ngoài đời. Tôi chỉ biết có thế. Cho đến một hôm. Tôi và Hinh cùng được gọi ra thăm nuôi một lúc. Tôi ngạc nhiên vì tôi vốn là một “ đứa mồ côi” Mồ côi có nghĩa là trong thời gian ở tù không được thư từ, thăm nuôi gì cả.
. . Có hai cánh áo bà ba đen vẫy chúng tôi từ đằng xa. . . Hinh ghé tai tôi nói nhỏ : "Có đứa em của Diễm đi theo, cậu nhớ nhận nó là thân nhân như đã ghi trong giấy thăm nuôi.”
Diễm được chỉ định ngồi trước mặt Hinh. Tôi và người em ngồi ngượng nghịu nhìn nhau. Người quản giáo ra lệnh :
- Các anh các chị bắt đầu quan hệ đi.
“ Người em” dúi cho tên quản giáo bao thuốc. Nó cầm ngay lấy, rồi đi đến cuối phòng, nơi có một khung cửa sổ trông ra vườn rau xanh, như một dấu hiệu cho phép chúng tôi tự do.
- Em là Kim Anh, em của chị Diễm.
Tôi đỏ mặt lúng búng. . . Cho đến bây giờ, khi vợ hỏi tôi:
- Sao bữa hổm, lần đầu gặp mặt, mặt anh cứ đỏ nhừ, ấp a ấp úng như thày vụng mất kim vậy?
- Em đừng có cười, tính từ ngày anh bắt đầu vào tù, cho đến ngày gặp em hôm ấy, gần ba năm trời. Anh mới được nói chuyện với người khác phái !
- Thế chị Thư. . .
Bỗng vợ tôi ngừng bặt, nàng biết ngay rằng, nàng đang chạm vào nỗi đau tận cùng của tôi. . Ðó là lần duy nhất, vợ tôi nhắc đến tên một người đã bỏ tôi đi. . .
Vợ tôi hỏi tiếp:
- Thế lần đầu tiên gặp em, anh thấy em thế nào?
Tôi trâng tráo:
- Thì như anh đã nói, lúc ấy, ai cũng là tiên nữ cả thôi!
Sau này, tôi đã kể cho vợ tôi nghe về Thư, Thư đã rẽ sang đường khác, ngay sau khi tôi bước chân vào trại cải tạo, để bỏ lại mình tôi bơ vơ trong nỗi nhục nhằn của một người ngã ngựa. . Mẹ tôi đã già, các anh em tôi thì kiến giả nhất phận. Những ngày trại có cho thăm nuôi, là niềm vui to lớn của những người có thân nhân đến thăm, nhưng cũng là nỗi tủi thân khôn cùng của những người mồ côi. Thường thường vào những ngày đó, tôi cùng những anh em trong cảnh ngộ ấy, lủi thủi mang bàn cờ tướng ra những tảng đá vắng, tiéng là đánh cờ, chứ thực ra để chạy trốn những tiếng lao xao, những tiếng cười ròn rã, những mùi thơm ngào ngạt của đồ ăn, của mùi khói thuốc đê mê. . .
( Các bà Xin tha lỗi! Trước kia, tôi cứ nghĩ chỉ có phụ nữ mới có thói hợm mình, khoe của, khoe hạnh phúc, nhưng đàn ông chúng tôi, đã ở chung với nhau trong hoàn cảnh như thế này, tôi mới thấy, những ý nghĩ trên là có chút khắt khe.)
Họ cũng đem đồ ăn chia cho chúng tôi, đem bánh kẹo ép chúng tôi ăn, nhưng trong cái nhìn xót xa đo, cũng có lấp ló những niềm tự hào, là mình có được bà vợ tần tảo, chính chuyên.
Những trường hợp ấy, dù cho cái bao tử xúi bẩy, tôi khéo léo từ chối, chỉ xin mấy điếu thuốc lào, cầm về chỗ ngủ rít vài hơi cho trời đất quay cuồng rồi ngã lăn ra ngủ.
Cho đến khi Kim Anh ra thăm tôi lần thứ hai, lần này, nàng cho biết, là lần cuối cùng trước khi nàng vượt biên.
(.Nếu các bạn còn được đọc những dòng chữ trên, ấy là do tính tham lam của người viết. Tôi đã tính bỏ chúng đi nhiều lần, viết quá nhiều chi tiết về một nhân vật phụ như thế là người viết đã vô tình lộ ra cái vụng về của mình rồi ) Vì thế, tôi xin trở về với những nhân vật chính:
Khi Kim Anh xem xong bản thảo, nàng băn khoăn:
- Chi tiết nào của anh cũng đều xác thực cả, chỉ có phần kể của cô ý tá, hình như không đúng! Anh đào ở đâu mà ra vậy?
- May quá, em đã giúp cho anh hoàn thành truyện ngắn này mà không sợ bị xúc phạm đến chị ấy!
Tôi cười giả lả với vợ tôi:
- Viết toàn chuyện thật, thì khác nào như viết nhật ký, câu chuyện sẽ nhạt lắm! Ðoạn của cô y tá cũng là chuyện thật, lẽ ra anh phải để ở trên mới phải! Thể hiện một sự thật, cho gần giống như hư cấu thì chỉ nhà văn bậc thày mới làm nổi! Anh thì vốn không có cái tài phân cảnh như thế. . . ( Cho nên những đoạn sau, lẽ ra phải để trong: “ Lời kể thêm của cô y tá phòng mạch bác sĩ Quân”):
. “ . . Sau khi người thiếu nữ ấy bỏ đi, tôi như người bị lên cơn sốt. Tai tôi chỉ nghe thấy những tiếng ú ù như gió thổi, hai má tôi nóng bừng như đang ngồi bên bếp lửa. Toàn thân tôi căng cứng, tất cả tế bào trong như muốn bật văng ra khỏi cái cơ thể đầm đìa mồ hôi.
Bác sĩ Quân bước ra, trên gương mặt ông lộ ra vẻ thỏa mãn Ông nhìn tôi như nhìn một con mồi đã bị mắc bẩy. Ông lấy xe, phóng nhanh ra cửa.
Gần tối ông ta mới về, mặt đỏ bừng, toàn thân bốc ra mùi rượu.
Tôi nói:
- Tưởng bác sĩ không về. Tôi đã không nhận bệnh nữa!
Quân nheo mắt nhìn tôi, có lẽ hắn đã đọc được nỗi khao khát đang bừng bừng trong tôi!
Quân quàng tay qua vai tôi, kéo tôi vào phòng trong. . Lần này, tôi không chống cự nữa. Ðến giờ này, tôi không còn nhớ được cái cảm giác đầu đời ấy ra sao nữa, nhưng tôi nhớ. . . Tôi đã khóc khi nghe Quân nói:
- Ủa, hóa ra em vẫn còn trinh cơ à?
Tôi nghe tiếng xe của Quân bỏ đi. . Tôi nhìn xuống dưới gầm bàn. . . Có một lá thư của một cải tạo viên từ miền Bắc gửi cho một người tên Diễm, chắc là tên người con gái buổi chiều đánh rơi. . .
Ðêm hôm đó, toàn thân tôi đau nhừ, phần vì lần đầu tiên chung đụng xác thịt, phần nữa là vì một nỗi tủi nhục cứ như những đợt sóng ma, đập liên hồi vào thể xác và tâm hồn tôi. Tôi không ngủ được, rồi đem lá thư tôi lượm được ra đọc.
Tôi bật khóc khi xem xong lá thư ấy, rồi lại đọc lần nữa. Lời lẽ của một người tù gởi cho cô Diễm y như một dòng suối chảy trên những ghềnh thác, có những hạt cuội là những nỗi khổ đau triền miên của cả người viết lẫn người nhận! Họ còn chính khí lắm! Một đạo quân, gồm những sĩ quan như người tù này, làm sao lại thua trận được nhỉ? Một người tình hi sinh cho người mình yêu như cô Diễm, tôi đã thấy rất nhiều như thế ( từ ngày tôi đặt chân đến miền đất mà trước khi lên đường, tôi chỉ nghe những lời tuyên truyền xấu về ho. Sao lại bảo đó là một xã hội đồi trụy được nhỉ? )
Bác sĩ Quân bị mất chức Phó giám đốc bệnh viện. Trước đó, bà vợ ông đã bỏ ông ta, đem hai con đi vượt biên. Tôi nghiễm nhiên trở thành bà bác sĩ hờ.
Sau đó một năm, thấy không thể sống chung với chế độ mới được nữa Quân dẫn tôi vượt biên. Trước khi đi, tôi đã lần theo địa chỉ của bức thư để tìm đến nhà cô Diễm, lúc ấy, cô Diễm đã ra ngoài Bắc thăm nuôi. Tôi gửi lại anh Tuấn cuốn nhật ký của tôi. Tôi là đàn bà, tôi biết, những ý nghĩ và nỗi nhục nhằn tôi ghi lại những ngày đầu khi thất thân với người mình không yêu, của cả tôi và của cô Diễm chắc phải giống nhau. Tôi nghĩ, khi đọc lại những dòng tâm sự ấy, cô Diễm sẽ nhẹ đi sự dằn vặt, khổ đau”
LỜI KỂ CỦA BÀ MẸ.
Cậu là người Công giáo, chắc cậu không tin vào thuyết nhân quả đâu nhỉ? Tựu chung, cả một lý thuyết cao siêu vời vợi như thế, chỉ tom gọm vào có một câu cửa miệng của dân gian: Gieo nhân , gặt quả!
Ngay từ khi nó còn đi học, già đã cấm thằng Hinh chơi với cái thằng Quân ấy rồi Thế nhưng, thằng Hinh cứ như bị bỏ bùa! Mợ Thận vẫn áy náy, về việc giới thiệu cho Hinh đến dậy kèm tại nhà ông Ðức Thịnh, để dẫn tới việc thằng Quân lọt vào cái nhà ấy, nó làm cho gia đình nhà người ta tan nát. Nhưng, trời cũng có mắt cậu ạ, rồi người ác cũng bị đoản hậu mà thôi! Nghe nói sau này, vợ bỏ, mang cô y tá Bắc kỳ bẩy-mươi-lăm vượt biên, mất cả tăm cả tích. . .
. . Mãi cho đến năm 1986, thì thằng Hinh được tha, cái hôm cậu lên báo cho già, già cứ tưởng nằm mơ kia đấy! Nhưng thật tội nghiệp, sau khi ở tù ra. Ðó lại là cả một thời kỳ xáo trộn về tâm lý. Cả ngày, cứ lầm lì như chó ăn vụng bột. Con Diễm ở bên thì không sao, nhưng nó mới về Nguyễn Thiện Thuật là cu cậu đã bồn chồn, đã cáu gắt rồi! Ngày xưa nó đâu có như thế?
Một hôm, già bảo nó:
- Phải tính làm sao đi chớ! Con người ta hi sinh cả một đời cho mình. . .
Hinh nó bứt đầu bứt tai:
- Mẹ bảo, con phải làm sao bây giờ? Cổ không chịu. . . Cô ấy bảo, không còn xứng đáng với con nữa! Chiều nay cô ấy lên, mẹ nói giúp con một tiếng. Cổ rất thương mẹ.
Buổi chiều hôm ấy, già đã dự tính những câu để nói với con Diễm, thì thằng Tuấn chạy xe lên báo tin con Diễm bị xe tông, đang nằm nhà thương. Thằng Hinh đến nơi, chỉ để nghe Diễm nói được có mấy tiếng:
- Em bằng lòng lấy anh rồi. . . Nhưng,. . .
Rồi con Diễm mê đi, rồi cả hơn tuần sau mới được chuyển qua phòng hồi sức. . .
( Ghi chú của người viết: Hinh đi HO 30, trước đó một tháng, bà cụ qua đời)
KẾT.
Ngày nào cũng vậy. Ðúng vào lúc chuông nhà thờ Tin lành ở góc đường Texas và Louisiana đổ, thì có một người đàn ông, tóc hoa dâm đẩy một chiếc xe lăn, trên xe là một thiếu phụ rất đẹp về hướng công viên Balboa. . . Thỉnh thoảng, người chồng dừng xe lại, cúi xuống âu yếm sửa cho vợ cái khăn quàng cổ, đó là một chiếc vải dù màu trắng của loại đạn 80 ly chiếu sáng.
Khi đến công viên, người đàn ông lấy ra một chiếc ghế xếp bằng vải, rồi hai người chụm đầu vào nhau nói chuyện, rúc rích như một cặp nhân tình.
Công viên có những hàng cây cao, nhìn về phía tây, những hôm trời lãng đãng sương chiều, chiếc cầu Coloredo ngoằn ngoèo, cao tít , có những đốm đèn xe màu đỏ, nối đuôi nhau, như một con rồng lửa. . Diễm thường chỉ cho chồng:
- Anh xem kìa, giống như những tia đạn lửa. . . đuổi nhau trên vòm trời đêm ngày xưa. . .
Hinh cũng thường âu yếm chỉ cho Diễm:
- Em có thấy, những ánh đèn lù mù chập chờn trong sương kia, y như những bóng hỏa châu, ủa quên! Như bóng thiên chương tỏa sáng qua những tháng năm chiến tranh, những thân phận lận đận ngày nào. . .
Hinh thường xoay cái xe cho đối mặt với anh, rồi anh dùng hai bàn tay xoa bóp đôi chân cho Diễm Diễm xúc động nhìn chồng:
- Tội cho anh quá, biết bao giờ em mới khỏi được đây. . .
- Bác sĩ châm cứu bảo rằng, cứ cái đà này, thế nào em cũng đi lại được, nhưng mình đừng giận. . Ngày xưa, anh chỉ có một ước ao, khi nào chinh chiến tàn, sẽ bắt chước anh chàng Trương Vô Kỵ gác kiếm quy ẩn, cùng Triệu Minh lãng du quan ngoại, chăn ngựa, nuôi cừu, vẽ lông mày cho người yêu!
- Thương thay cho Triệu cô nương bây giờ đã bị phế bỏ võ công rồi Còn anh chàng Trương thì phải cả ngày phải quần quật đi cầy, tối về còn phải hầu vợ. . .
- Với võ công như thế này, thế nào chàng ta chẳng tìm được thuốc giải cho vợ cơ chứ! Yên tâm đi muội muội!
Hai người cùng cười vang.
Bóng thiên chương của một thời xa vắng, từ vùng sương lạnh, lóe ra những hạt nhỏ li ti như những chiếc đèn cù bé tí, đang như muốn kéo cả những cơn dông gió cùng với hai người về nơi chân trời cũ của những ngày trận mạc, có tiếng súng nổ tứ phía, có tiếng hô xung trận, có tiếng phành phạch của trực thăng tản thương. . Về căn nhà ở đường Nguyễn Thiện Thuật, nơi đã lưu giữ của họ tất cả những ước mơ cùng nỗi niềm bất hạnh, căn nhà có khung cửa sổ nhỏ, có ánh trăng như những bóng hỏa châu huyền hoặc, vật vờ khắc khoải. . .
Nguyễn Trọng Hoàn
( Trích từ Ðặc San Trưng Vương- Chu Văn An , Toronto, Tháng Tư, 2002)