Thứ Hai, 11 tháng 10, 2010

Sự thay đổi Việt Nam đã gõ cửa

Sự thay đổi Việt Nam đã gõ cửa
Posted on 30/09/2010 by danlambaoblog
Trần Lâm - Cái lợi cho nhân dân Việt Nam: trắng đen rõ ràng, đi với Trung Quốc là mất nước. Trước đây nhân dân Việt Nam đòi dân chủ, trọng tâm là nhìn vào những người lãnh đạo Việt Nam. Nay nhân dân Việt Nam đòi độc lập vừa nhìn vào giới lãnh đạo Việt Nam vừa nhìn vào Trung Quốc. Thế là khẩu hiệu đấu tranh Độc Lập và Dân Chủ được hoàn chỉnh. Cái thuyết “leo dây” tự nó đã phá sản. Con đường theo Trung Quốc là mất cả Đảng, mất cả dân tộc…
“Tư bản hoang dã”
Gần hai trăm năm trước, các nước phương Tây chiếm nhiều thuộc địa. Thế giới khi ấy dân số ít, khoa học kỹ thuật thấp, các thuộc địa càng lạc hậu hơn, mù chữ và lao động tay chân. Thế mà Anh xây dựng được Hồng Kông, Thượng Hải, Calcuta, đường sắt Ấn Độ rất tốt, những hải cảng, những thành phố công nghiệp; Pháp xây dựng được Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẵng, đường sắt xuyên Đông Dương đến Vân Nam. Các nước thực dân còn vơ vét tài nguyên, tiền bạc đưa về chính quốc, nuôi bộ máy cai trị hùng hậu, vơ vét để cung cấp cho hai cuộc chiến tranh thế giới…
Khi tôi còn bé, con đường đá qua làng được mở, cái “hồ lô” là một khối đá hình trụ, to bằng cái ôtô, hàng mấy chục người kéo để làm đường. Họ như những người tù khổ sai. Con đường càng dài ra thì các nấm mồ vô chủ nối tiếp bên đường cũng ngày càng nhiều. Người ta mộ phu đi Tân Thế Giới; một cái xe ọp ẹp chở đám phu mộ, cái xe nổ máy, vợ con, cha mẹ những người phu mộ khóc ré lên! Sau này tôi mới hiểu đó là một cuộc ra đi không hẹn ngày về.
Những cái đã làm được ở thuộc địa của các nước phương Tây trước đây hơn 100 năm mà hôm nay vẫn thấy hợp lý, bền chắc và đẹp là khác, làm cho ta ngỡ ngàng.
Nhiều tài liệu nói lên sự phát triển với tốc độ kinh ngạc của Trung Quốc. Các thành phố ven biển thì thật phồn vinh. Trung Quốc khai thác triệt để lao động của hàng ngàn, hàng triệu người dân vùng sâu, vùng xa, tù nhân, người nghèo làm hàng giá rẻ bán ở Mỹ và tích lũy được hàng ngàn tỉ USA, cho Mỹ nợ… Trung Quốc đầu tư khắp thế giới, thu về lợi nhuận khổng lồ cùng tài nguyên khoáng sản… Trung Quốc đang cố gắng vươn lên chiếm lĩnh các đỉnh cao các ngành khoa học, hiện đại hoá quân đội để phục vụ cho mục đích bành trướng…
Chuyện mấy trăm năm cũng còn xa. Chuyện gần đây, nhiều người nói ở Tân Rai công nhân Trung Quốc nheo nhóc lắm, người già nói giống như lính Tàu sang nước ta hồi năm 1945.
Sự thần kỳ của Trung Quốc hôm nay không có gì bí ẩn ngoài cái gọi là “Tư bản hoang dã”! Còn tư bản hoang dã có sức sống hay không, và với đà hiện tại Trung Quốc đi đến đâu, là số 1 thế giới hay là lụi tàn như quy luật đã dành cho các nước toàn trị?
“Quyền lực mềm”
Nhiều người đang bàn về chủ thuyết “Quyền lực mềm” của giáo sư Jozep Nye. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng dự hội thảo. Có lẽ chủ thuyết được quan tâm vì đang có việc Trung Quốc lăm le thôn tính Việt Nam.
Đã có kết luận qua hàng ngàn năm, khi nào mạnh lên là Trung Quốc bành trướng. Có nhà sử học kết luận: Lịch sử Trung Quốc là lịch sử bành trướng, đúng là lịch sử Trung Quốc không có chiến trường xa, Thành Cát Tư Hãn không phải là người Hán. Lúc này Trung Quốc đang mạnh. Thôn tính theo hướng phương Nam là thuận nhất. Cái không thuận là vấp phải Viêt Nam: Đất rộng, người đông, vị trí đặc biệt và khó chịu nhất là Việt Nam thiện chiến, đã đọ sức nhiều lần với Trung Quốc. Trung Quốc luôn nghĩ Việt Nam “rắn mặt”, “khó bảo”, “xảo quyệt và dũng cảm”…
Giải quyết được Việt Nam, việc lớn của phương Nam coi như đã thành công.
Ông Hồ Cẩm Đào sang thăm Việt Nam. Truyền hình đưa tin chớp nhoáng với câu nói ngắn gọn: “Nhân dân Việt Nam nên tuân thủ những điều mà lãnh đạo Việt Nam đã ký kết”. Ông Đào như thừa nhận Trung Quốc nắm chắc lãnh đạo Việt Nam nhưng lo ngại là nhân dân ta chống đối.
Phóng viên truyền hình thật nhạy bén và sâu sắc. Ông Đào thật là biết người, biết mình. Ông Đào đánh giá thật đúng nhân dân Việt Nam. Nhà đài thật hiểu ông Đào, còn lãnh đạo ta thì không ngẫm nghĩ gì: Bảo không nghe thì bắt bỏ tù, đánh từ người tu hành, đến trí thức, công thần… đánh hết rồi sống một thân một mình giữa thế giới sôi động và đầy bất trắc.
Có người cho là việc kiện Thủ tướng là “con kiến mà kiện củ khoai”! Chưa hẳn thế! Phải coi đây là một thông điệp gửi cho các nhà cầm quyền, là lời kêu gọi và cổ súy cho quyền công dân, cho dân chủ.
Có người cho mấy cái tàu Kilo, còn chưa đóng, bé tí tẹo thì đánh ai? Chưa hẳn thế! Phải coi đây là một thông điệp gửi Trung Quốc là chúng tôi sẵn sàng nghênh chiến, là lời kêu gọi “Độc lập hay là chết”, là một cái tát vào mặt nhóm quỳ gối trước Trung Quốc.
Có người cho trang mạng Bauxit info cũng bình thường như mọi cái đầy trên mạng. Chưa hẳn thế! Đây là một lời tố cáo sự lệ thuộc vào Trung Quốc, vạch ra hiểm hoạ mất nước, nêu cao cảnh giác cho toàn dân.
Những người chủ trương ba việc trên đã nói lên lòng dân, lại đúng lúc, và họ trở nên danh tiếng. Họ đã nêu cao khẩu hiệu: Hoà bình, Độc lập, Dân chủ. Đó là khát vọng của loài người, của nhân dân Việt Nam trong lúc này.
Ba việc trên, Trung Quốc đón nhận, thái độ hung hăng đã giảm bớt, nó mới là một sự khởi động, nó còn âm vang và phát triển thành ngàn triệu tiếng vang, lòng dân đã chuyển đổi, sẽ ngày càng mạnh lên.
Những năm gần đây Trung Quốc xây 14 đập thuỷ điện trên sông Mê Kông thuộc đất họ. Họ còn giúp Thái Lan và Campuchia xây các đập trên đất hai nước. Trung Quốc đã trúng thầu xây đựng các nhà máy thuỷ điện, họ sẽ liên doanh, liên kết. Việt Nam bị phớt lờ. Trung Quốc còn viện trợ cho Campuchia trên 60 tỷ USD. Trung Quốc lại “vũ trang đến tận răng” cho Mianma, một thông tin mới, không có bình luận. Người ta nghĩ đến “con ngựa thành Troa” đối với Asean. Nước sông Mê Kông phía Việt Nam và cả Campuchia và Lào cùng cạn kiệt, tàu thuyền nằm trên cát, cá mất giống… Thế là Trung Quốc cho đồng bằng sông Cửu Long lúc thì chết khát, lúc thì chết đuối, tùy theo ý của Trung Quốc.
Trung Quốc hô hào và đứng lên làm chủ soái cái gọi là “xây dựng hành lang kinh tế sông Mê Kông”.
Có thể tóm lược: Từ đất Trung Quốc, xây dựng 6 tuyến đường bộ, đi qua các nước Mianma, Thái Lan. Lào, Campuchia, Việt Nam… sẽ chuyển hoá các trục này từ hành lang giao thông thành hành lang kinh tế; phát triển rộng khắp 6 tuyến, liên kết với nhau, liên kết với các nước ven đường, rồi tổ chức các tuyến này theo một thể thống nhất “nhất thể hoá”, từ các tuyến này hội nhập các nền kinh tế tại chỗ, “lan toả”, có thể hiểu là thâm nhập kinh tế khu vực. Đó là khái quát những ý đồ cụ thể. Phần đường đầu mối từ Trung Quốc đã làm xong. Trung Quốc đang giúp các nước làm cầu, làm đường nối tiếp. Trong 6 tuyến này, thì 5 tuyến điểm cuối cùng là Việt Nam: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Sài Gòn, toàn bộ là vị trí xung yếu trải rộng cả Việt Nam… Ta mới có 2 đường Lạng Sơn và Móng Cái đã thấy điêu đứng, nay có thêm 5 đường đi khắp nơi, sức đâu để bảo vệ kinh tế quốc phòng… “Nhất thể hoá”, “ Lan toả”, với một nội dung mù mờ. Thế có phải là một thể chế cho phép các hành lang này như khu nhượng địa nằm khắp Việt Nam? Thế là Việt Nam như con ếch nằm trong cái rọ: Bắc là Trung Quốc, Nam là biển, Tây có hành lang này, có Myanma canh gác, Đông có cái lưỡi bò.
Có phải Trung Quốc mềm với các nước Asean rắn với Việt Nam, giải quyết xong Việt Nam, coi như việc lớn đã thành công?
Nghĩ đi, nghĩ lại, ông Đặng Tiểu Bình gọi Việt Nam là “bọn côn đồ”, ông Hồ Cẩm Đào thì kín đáo hơn: Dân Việt Nam có thể không chịu phục tùng Trung Quốc, ông Tôn Quốc Tường thì răn đe công khai: “Hợp tác thì phát triển, chống đối thì thất bại!”. Đó là cái nợ truyền kiếp giữa những người cầm quyền của hai nước, qua bao thời đại ngấm dần vào lòng dân, đến nay sự hoà hợp là vô cùng khó. Những ông lớn của thế giới thì ngán ngẩm, còn các ông lớn của ta thì vẫn hồn nhiên một cách bất ngờ. Coi dân như cỏ rác.
Không hiểu ông Nye đánh giá thế nào các hành vi côn đồ, cướp biển, các việc cho thuê đất rừng, những việc hợp tác song phương giữa các tỉnh, những hợp đồng xây dựng khai thác tài nguyên mà Trung Quốc tự cấp mọi thứ, như là trên đất của Trung Quốc, rồi ngăn cách như một khu nhượng địa?
Không hiểu ông Dũng và ông Nye xác định các hành vi dùng đồng Đô la, dùng gái đẹp để mua chuộc, khống chế những người cầm quyền buộc phục tùng Trung Quốc thì đó là quyền lực gì? Mềm hay cứng?
Ông Dũng và ông Nye có xét đến các mặt mạnh yếu của ta hiện nay và vì sao chúng ta nên nông nỗi này?
Phải chăng nó bắt nguồn từ xa xưa của mối quan hệ Việt Trung? Có phải nó trực tiếp và sâu đậm từ cuộc gặp Thành Đô không? Có phải ta tự thấy yếu kém mà ta phải tự gắn bó với Trung Quốc, tự mình nhận làm học trò của Trung Quốc rồi tự mình trở thành tôi tớ của Trung Quốc? “Người ta mạnh vì anh quỳ gối” hay ta bị mắc lừa?
Hãy suy xét lại: Tại sao ta không bằng Hàn Quốc, Đài Loan mà trước đây họ không hơn gì ta? Thế là ta bị lạc hậu kéo dài, độc lập thì bị đe doạ.
* * *Truyền thông thế giới đưa tin rất nhiều về sức mạnh Trung Quốc, những toan tính, những hoạt động muốn vươn lên giành ngôi bá chủ thế giới. Truyền thông thế giới muốn thức tỉnh nhân loại trước hiểm hoạ Trung Quốc. Thế kỷ trước, thế giới đã nhìn thấy điểm này, gọi là “cái hoạ da vàng”(Le peril jaune)
Trước thế chiến thứ hai, Julius Fuxích, nhà báo Tiệp Khắc, đã hô hào thế giới ngăn chặn hiểm hoạ Phát xít. Ông đã chết trên giá treo cổ của Hitler, để lại câu nói bất hủ: “Hỡi con người, hãy cảnh giác!” Tên ông khắc sâu trong lòng nhân dân thế giới! Truyền thông thế giới lúc này đi theo con đường Fuxích là đúng đắn, cần hoan nghênh.
Nói nhiều đến Trung Quốc có lượng đô la khổng lồ, thâm nhập khắp nơi trên thế giới, chế tạo vũ khí tối tân, tăng cường lực lượng quân sự như là sắp đánh Mỹ; Mỹ thì yếu đi, nợ nần chồng chất… rồi lại nêu lên cái G2: Trung Quốc và Mỹ cùng hoạch định mọi việc của thế giới… Thế nên, ở Việt Nam bất ngờ đẻ ra cái tâm lý: “Mỹ yếu đi, Tàu thì mạnh lên, ta thì bê bối quá, khó chịu quá, hay là chịu là một tỉnh của Tàu cho yên thân!”. “Liệu Mỹ và Trung Quốc có chia đôi Việt Nam không? Có lấy Đà Nẵng làm ranh giới không?” May thay, hình như đây mới là số ít, còn ở dạng trầm ngâm…
Thế mới biết: Cái gì “thái quá cũng bất cập”, “một chiều” là lệch lạc.
Xin hãy cùng suy nghĩ theo một hướng khác:
Số ngoại tệ dự trữ của Trung Quốc lớn đến mức làm mọi người choáng ngợp, hỏi đem chia cho một tỉ 300 triệu người, mỗi người được bao nhiêu? Thị trường hàng hoá rẻ đang bị thu hẹp. Vùng ven biển phát triển, ngoài ra thì mọi nơi đều khó khăn. Có tài liệu tính toán chỉ có 300 triệu người hưởng lợi từ cải cách mở cửa, 1 tỉ người chưa được gì.
Có người nói: Ai có nhiều đô la và nhiều thuốc súng, kẻ ấy là mạnh nhất. Nếu đi sâu, có lúc điều đó chỉ đúng một phần:
Lãnh đạo Trung Quốc kêu gọi xây dựng một xã hội hài hoà làm cho người ta hiểu là: Trung Quốc phát triển, hiện đại cũng đúng mà nói Trung Quốc còn nhiều chậm tiến cũng không sai.
Về mặt quân sự, Trung Quốc đang vươn tới vai trò như Mỹ; đã lên vũ trụ, lên mặt trăng, đã trở thành nhà sản xuất và bán vũ khí, đã có căn cứ hải quân ở nước ngoài, đã chế được tên lửa các loại, đã có những hạm đội…
Chúng ta vừa nhận được tin tàu chiến Trung Quốc đang tập dượt việc thực hiện hành trình xa, đủ lương thực, đủ nhiên liệu; lại thấy Trung Quốc mua hàng không mẫu hạm cũ về để nghiên cứu, tự chế tạo… Trung Quốc chưa hề tham gia các cuộc chiến tranh thế giới như các nước Mỹ, Anh, Pháp, Đức. Khi tôi còn nhỏ tôi đã biết có các trận Lữ Thuận giữa Nhật và Nga, trận đổ bộ Nooc man di, trận tập kích Trân Châu Cảng trong thế chiến thứ hai. Tóm lại lực lượng quân sự Trung Quốc vẫn ở giai đoạn phát triển, định hình, tập dượt tiến tới hiện đại.
Có chiến tranh, Trung Quốc đi đầu, Myanma, Triều Tiên đi tiếp, có thể Việt Nam và Cu Ba đi sau. Thật đây là một đội hình gây cười… Trung Quốc gây chiến là đụng đến toàn bộ khối Dân chủ, họ đông lắm, họ khoẻ lắm, họ ở khắp nơi, họ ở sát nách Trung Quốc. Hoạ chăng, Trung Quốc hoá rồ Trung Quốc mới gây chiến tranh. Còn chỉ đánh riêng Mỹ, thì chỉ có cách hai bên dàn quân ra hai phía Đông, Tây của Thái bình Dương và đua nhau bắn tên lửa như các chú bộ đội bắn pháo hoa ngày Tết.
Trung Quốc đang lên như diều mà vẫn có nổi loạn ở Tân Cương, Tây Tạng. “Năm ngôi sao trên một lá cờ!”, hình ảnh trang trọng như vậy mà đầu rơi máu chảy. “Năm anh em trên một chiếc xe tăng” đúng là hình ảnh chiến tranh nhưng sao lại thấy ấm áp, lắng đọng trong lòng mọi người.
Trung Quốc gây chiến tranh không những không huy động được sức mạnh toàn dân, ngược lại kích đông những lực lượng đối kháng: Dân chủ, Tôn giáo, Sắc tộc, những vùng miền khó khăn vươn lên giành quyền sống. Cái âm vang Thiên An Môn, Tây Tạng, Tân Cương, những biến động xã hội thời Mao Trạch Đông vẫn còn khắc sâu trong lòng mọi người.
Khi Trung Quốc cảm thấy khoẻ, có thể gây được chiến tranh thì cũng là lúc Ấn Độ và Nga mạnh lên không kém gì Trung Quốc. Các nước châu Á đã tăng cường lực lượng quân sự, cũng là một cản trở không nhỏ với Trung Quốc.
Hậu cần là khâu quan trọng của chiến tranh. Nhật đầu hàng trong thế chiến thứ hai nguyên nhân là vì thiếu nhiên liệu. Cái khó khăn này đang là một ám ảnh không nguôi đối với Trung Quốc.
Nước nào gây chiến tranh cũng phải dựa vào một nền khoa học kỹ thuật tiên tiến. Đây là thế yếu của Trung Quốc: Số đăng ký phát minh của Trung Quốc chỉ bằng 50% của Hàn Quốc. Thế giới xếp Trung Quốc về khoa học kỹ thuật vào tốp 10. Lúc này Trung Quốc đang bỏ tiền mua kỹ thuật của các nước. Phương tiện chiến tranh còn đang trong giai đoạn sao chép.
Gây chiến tranh phải có luận điểm lôi cuốn lòng người. Đầu thế kỷ XX, khi còn nhỏ tôi đã đọc ở vườn hoa châu Âu người ta có cái biển cấm: “Cấm chó và người Tàu”. Trung Quốc chưa làm gì để gột rửa điều này!
Truyền thông thế giới đánh giá phải 15 năm, Trung Quốc mới có thể gây chiến tranh trên quy mô lớn.
(6 – 2010)
Thuỷ chiến Mỹ-Trung, hành động của chúng ta
Các trung tâm nghiên cứu chiến lược của các nước lớn đều nghĩ cách để thống trị thế giới.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, Mỹ như nhẹ gánh, tập trung mọi sức lực tiến vào Trung Đông. Phải chăng người Mỹ có ý nghĩ: Tay cái gậy, tay củ cà rốt, lưng đeo thùng dầu lửa thì đối với thiên hạ, bảo gì mà chẳng phải nghe. Thế rồi mất người, mất của, nợ nần chồng chất…
“Giấc mơ Mỹ” vụt tắt cùng với lửa thiêu Trung Tâm Thương Mại Thế Giới…
Trung Quốc thực hiện đường lối Đặng Tiểu Bình, phát triển thật nhanh đến mức kinh ngạc, nhưng không biết đây là sách cũ của Anh, Pháp: mạnh là nhất thời còn suy yếu là lâu dài. Anh Pháp thức thời thu về sống êm ả, nhà mình mình ở, đất mình mình làm, gạo mình mình ăn. Người Anh cố quên đi một thời huênh hoang: “Mặt trời không bao giờ lặn trên đất đai của Đế Quốc Anh”, chấp nhận Luân Đôn sương mù bao phủ. Pháp bằng lòng cho qua cái thời tự phong: “Pari – Kinh Đô Ánh Sáng!”.
Từ sau 1975, Mỹ như quên Đông Nam Á, mọi sức lực dành cho Trung Đông. Mỹ lại quá coi thường sự trỗi dậy của Trung Quốc. Trung Quốc mạnh lên, việc tiếp thu văn hoá phương tây chậm chạp, cái truyền thống ông cha lại quá nặng nề. Trung Quốc dồn sức lực vào hai mục tiêu: Bành trướng, hướng chính là phương Nam, chuẩn bị binh lực, cái chính là hải quân để diệt Mỹ, làm bá chủ thế giới. Hai mục tiêu trên ngày một rõ ràng, rõ như ban ngày. Việc chuẩn bị dang dở mà kẻ thù đã “ngửi” thấy nên bối rối, tức bực là không có gì lạ.
Mỹ thấy rất rõ: Mỹ không để chờ Trung Quốc mạnh lên mới đánh, như thế là ngờ nghệch quá! Mỹ phải hành động ngay. Cuộc chiến tranh thế giới khó xảy ra vì không có lý do gì lôi cuốn được Nga, Ấn Độ… vào cuộc. Chiến tranh lại không thể xảy ra trên đất Mỹ hoặc đất Trung Quốc vì không có dấu hiệu nào được ghi nhận, chỉ có thể là thuỷ chiến.
Một tướng Mỹ đã nói: Mỹ đang chuẩn bị phương án một trận thuỷ chiến với mục tiêu tiêu diệt thuỷ quân Trung Quốc từ trong trứng. Có tướng khác nói: Chiến trường sẽ là vùng biển Hoàng Hải, Biển Hoa Đông… vì đó là nơi tập trung binh lực của Mỹ và đồng minh, là nơi cận kề Trung Quốc, là nơi xung yếu về kinh tế, chính trị, quân sự, là nơi quần cư của Trung Quốc. Có tướng khác của Mỹ còn nói: Mỹ sẽ chọn cách đánh phối hợp tàu ngầm, tàu chiến, máy bay giống như đánh nhau trên bộ với sự hợp đồng tác chiến của máy bay, xe tăng, tên lửa…
Mỹ tức tốc trở lại Đông Nam Á, chậm còn hơn không. Chiến tranh để tồn tại hay nằm im chờ chết? Nước Mỹ từ năm 1945 đến nay không ngày nào ngưng nghỉ việc binh đao. Trung Quốc như bất ngờ trước việc Mỹ trở lại Đông Nam Á. Trung Quốc trở tay không kịp, thế là một trò diễu võ dương oai của hai bên. Hai bên hối hả lôi kéo tay sai, kết bạn vội vàng.
Trung Quốc cũng phô trương sức mạnh nhưng nửa kín nửa hở, cũng lôi kéo bạn bè nhưng Asean như đã lạnh nhạt, Trung Quốc tức giận điên cuồng. Có đường dây nóng đấy, có người săn sóc Việt Nam đấy, thế mà không một lời nặng nề với Việt Nam. Trước đây chỉ một việc không mua hàng giá rẻ của Trung Quốc mà Trung Quốc đã cử người đến tận Văn Phòng Chính Phủ để quở trách. Trong cuộc họp gần đây khi bà Hilary ngừng lời, ngoại trưởng Trung Quốc bỏ phòng họp ra ngoài, khi trở lại nhìn thẳng vào Đại Sứ Singapo, to tiếng: “Trung Quốc là nước lớn!”
Cái thế ngoài biển khơi, trên bàn đàm phán Trung Quốc đã có dấu hiệu suy yếu.
“Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết”, cũng vẫn có ngoại lệ: Trong làng có anh bần nông, dành dụm được chút tiền còm, đành nhét mái gianh, không thực hiện được mơ ước có mảnh đất cắm dùi. Ai bán đất, Cụ Chánh, Cụ Lý đều mua hết. Nay hai Cụ kiện nhau, diệt nhau đến mức phải bán đất để lo lót, thời cơ anh cố nông được đổi đời đã đến.
Ngày 9/3/1945, Trường Chinh ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau, hành động của chúng ta!”. Tại sao ngày nay chúng ta không viết được: “Trung Mỹ bắn nhau, hành động của chúng ta!”. Tại sao không?
Trung Quốc ngang ngược quá: Chuẩn bị chiến tranh chưa đi đến đâu đã như thách thức, đã như đe doạ. Thế là các nước họ phải cụm lại chống Trung Quốc. Những lợi ích kinh tế mà Trung Quốc đưa đến chưa đủ sức gắn chặt họ với Trung Quốc… Thật ly kỳ, một lúc Trung Quốc đẩy cho 2 cựu thù trở lại như “gương vỡ lại lành”. Xét kỹ thì cả hai như những chiến binh Nam chinh Bắc chiến, 100 năm không lúc nào rời tay súng. Đó là Việt Nam và Mỹ.
Trung Quốc thật vụng suy: Hàng ngàn tướng lĩnh của Trung Quốc chỉ mới được nếm mùi thuốc súng trong diễn tập. Ba triệu binh sĩ của Trung Quốc là 3 triệu đứa con một, là 3 triệu con cầu tự, là 3 triệu công tử. Tàu sân bay còn đang trên bản vẽ… Trung Quốc rồi sẽ hối hận về sự hồ đồ của mình, hối hận vì đã không nghe lời dặn của Đặng Tiểu Bình: “Nín thở qua sông”.
Đến hôm nay, mọi toan tính của Trung Quốc và Mỹ đã rõ ràng. Càng ngày sự đối kháng càng tăng lên, chiến tranh là có thể xảy ra. Chúng ta phải đặt ra nhiều tình huống, khả năng, chuẩn bị ứng phó để không bị lung túng, nhầm lẫn, kể cả không bị sui dại, không bị lừa bịp. Ngay bây giờ chuẩn bị bộ máy Chính Phủ và Quốc Hội, khi hai bên bắn nhau là lúc chúng ta thay đổi thể chế. Ai muốn ngăn chặn cũng trở tay không kịp. Khi thiên hạ ổn định thì việc của ta đã trở thành việc đã rồi. Ai thắng, ai thua cũng thế thôi, ta vẫn đạt được mục tiêu đang mong ước.
Thời kháng chiến chống Pháp, tôi sống chung trong một căn nhà dài ven rừng thưa với hai cha con cụ giáo già. Lúc này hai cha con cụ đã là cán bộ chủ chốt của tỉnh. Có lần cụ giáo bảo tôi: “Cái dân Việt Nam mình nó lạ lắm, cứ sắp chết là lại vùng lên, đã từng chết đến cả 1000 năm, sống lại thành ngay Phù Đổng”.
Trong đời tôi đã có 5 lần đợi chờ lo âu rồi oà lên sung sướng: Ngày Cách Mạng Tháng 8, ngày chiến thắng Điện Biên, Ngày thống nhất đất nước, ngày Việt Nam đăng ký chủ quyền biển và gần đây nhất, ngày bà Hilary đến Việt Nam… Hôm nay tôi vẫn nhớ đến hai cha con ông giáo già, những người tận tuỵ vì nước, vì dân.
Cách đây 2 – 3 năm, ông Lý Quang Diệu nói với người cầm quyền nước ta: “Phải tìm mọi cách để Mỹ trở lại Việt Nam, Việt Nam phải là đầu tàu của Asean”. Ông chính là người cha của Singapo, một chính khách lỗi lạc, người bạn chân thành của Việt Nam. Điều tiên đoán, điều mong muốn, lời nhắn nhủ của ông nay đã trở thành hiện thực.
Tình hình hôm nay, Việt Nam đã có chỗ đứng, Asean đã khởi sắc, ai đã làm nên thành quả ban đầu nhưng đầy hứa hẹn này? Không nghi ngờ, đó là bè bạn thế giới, những người thức thời trong bộ máy cầm quyền cùng nhiều người trong nhân dân lo cho mình, lo cho nhà, lo cho nước mà sôi sục đấu tranh để có phong trào như ngày hôm nay. Chúng ta hãy chờ từng ngày sự xuất hiện những bộ mặt mới. Công đầu khiêm tốn nhưng đầy hứa hẹn, đã gây cảm kích cho mọi người.
Tôi tin Mỹ thực lòng với ta lúc này. Mỹ muốn chống Trung Quốc, không có ta chống nhau với Trung Quốc sao được. Mỹ muốn kiềm chế Trung Quốc, không có ai làm nhiệm vụ này hơn Việt Nam. Trước mắt và trong thời gian không thể là ngắn, cái thế Việt – Mỹ là như vậy.
Trung Quốc không dễ dàng rút lui, cho Mỹ nghênh ngang, ta chờ Trung Quốc xem họ phản ứng ra sao.
Còn ở Việt Nam, những người cộng sản tử tế, những người yêu nước đã đứng lên, quan hệ với Mỹ đã khai thông. Những thắng lợi ban đầu đã có.
Trước đây người ta nói đến hiện tượng “Tự Vỡ” với hàm ý là Đảng và Nhà Nước tha hoá, tự mình làm hỏng mình để phải rời chính trường.
Hôm nay với việc Mỹ trở lại Đông Nam Á, người ta lại nói đến một “cú hích” thật mạnh, làm cho phong trào nhân dân mạnh lên, nhanh chóng, bất ngờ, sự phân hoá trong lãnh đạo ngày càng rõ nét, quan hệ Trung Việt là sự thận trọng thay cho huênh hoang, ác khẩu…
Mục tiêu vẫn là độc lập, dân chủ, quan hệ với Trung Quốc là bình đẳng, có sự trọng thị thích đáng, với Mỹ cứ dần dần trở thành đồng minh từ thấp đến cao.
Tình hình đã phát triển, có thể dự kiến 3 tình huống, cũng là suy ngẫm còn thực tế thì uốn theo tình hình từng lúc, miễn sao giữ vững và phát triển mục tiêu đã định.
a. Chiến tranh Trung Mỹ xảy ra, Mỹ thắng, Trung quốc sẽ làm gì được ta? Phe thân Trung Quốc tự tan vỡ. Cái gì cần đến rồi sẽ đến.
b. Chiến tranh Trung Mỹ xảy ra, Trung Quốc thắng, Mỹ thua. Việt Nam tồn tại được chỉ có một con đường duy nhất: Những người hướng theo Mỹ và những người theo Trung Quốc, nhân nhượng xoá bỏ dĩ vãng, cùng nhau đứng lên, cùng nhau dành chủ quyền như phần trên đã nói.
Khi có chiến tranh, Trung Quốc yếu đi, ta có một khoảng thời gian rất ngắn, phải “đóng cửa bảo nhau”. Trường hợp khó khăn quá có thể có đa đảng, có đối lập, cùng nhau làm tròn trách nhiệm với dân với nước. Cái bài học đau đớn của 50 – 60 năm qua là “Rước Voi về dầy mồ” sẽ ngăn chặn xu hướng tự chạy vào tay áo Trung Quốc. Và xu thế dân chủ hoá đất nước càng rõ, càng được khẳng định. Bỏ Đông thì phải sang Tây, mất Đảng không sao, chỉ cần giữ Nước.
c. Trường hợp Mỹ – Trung hoà hoãn, chiến tranh không xảy ra:
Mỹ sẽ vẫn lo lắng vì cái hậu hoạ vẫn còn đấy. Mỹ có một thói quen: những cản trở lớn thường dùng chiến tranh để giải quyết. Bao nhiêu năm nay, có lúc nào Mỹ buông súng! Ông Obama có tiếng là ưa chuộng hoà bình thế mà khi lên cầm quyền đã gửi 30.000 quân sang Afganistan. Mỹ đâu có ngán chiến tranh!
Sự lo sợ chiến tranh thuộc về Trung Quốc: Chúng ta đã nói nhiều về những khó khăn, những hậu quả mà Trung Quốc sẽ gánh chịu nếu có chiến tranh. Trung Quốc sợ chiến tranh xuất phát từ cái sợ chính dân mình. Có nghĩa là sợ cả trong, sợ cả ngoài, ngày đêm như thấy kẻ thù lẩn quất quanh mình, “Sợ cái bóng của mình”.
Thế thượng phong trong hiệp ước hoà bình thuộc về Mỹ. Để khống chế Trung Quốc, hỏi lấy ai ngoài Việt Nam, ngoài Asean?
Không có chiến tranh Việt Nam cũng sẽ Dân Chủ và Độc Lập, trở lại ngày 19/8 thiêng liêng.
Có tin đồn nếu Mỹ Trung hoà hoãn, cái G2 ra đời họ có chia Việt Nam thành 2 không? Thiết nghĩ, bàn như thế rộng quá. Người ta lại nghĩ rằng chúng ta bị Trung Quốc lừa mị. Trung Quốc sợ chiến tranh, xuất phát từ cái sợ dân Trung Quốc, Mỹ lo ngại Trung Quốc, Mỹ phải kiềm chế Trung Quốc, kiềm chế Trung Quốc phải là người Hàn, người Nhật, người Việt Nam, người Asean…
Có lẽ không một dân tộc nào phải trả giá quá đắt cho hoà bình bằng nhân dân Việt Nam. Thế nhưng, để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ, lãnh hải, biển đảo của mình, để bảo toàn được nền độc lập của mình, nhân dân Việt Nam cũng quá biết mình sẽ phải làm gì để tồn tại.
Tình hình Việt Nam như vậy, các dự liệu, các gợi mở như đặt ra cho mọi người, mỗi người một ý.
Dân tộc nếu muốn tồn tại, phải tự cường. Muốn tự cường phải phát huy sức mạnh dân tộc. Muốn có sức mạnh phải đoàn kết toàn dân. Đoàn kết phải đi đôi với Dân Chủ.
(7 – 2010)
Biển Đông nổi sóng, hành động của chúng ta
Trung Quốc nói: Không gây chiến tranh, chỉ phát triển hoà bình, chúng ta có thể hiểu là không gây chiến với Mỹ và các nước lớn trong giai đoạn hiện nay, còn sau này là chuyện khác. Lại có thể hiểu lấn chiếm, tranh chấp, việc hàng ngày của Trung Quốc không phải là chiến tranh. Hôm nay, một viện nghiên cứu của Trung Quốc ra quyển sách xanh nói về việc Trung Quốc chú tâm phát triển hoà bình, ngày mai tức thì có việc Trung Quốc đánh đắm thuyền, bắt ngư dân Việt Nam. Hãy hiểu cái đa nghĩa trong ngôn từ của ông anh phương Bắc.
Lịch sử cổ đại đã ghi nhận hai cuộc bành trướng: “Pan romana” của Cesar và “Pan china” của Tần Thuỷ Hoàng. Thế là ta đang đương đầu với truyền thống bành trướng 5000 năm.
Luận điểm của Trung Quốc rất rắc rối: Có cái không phải là của mình cứ nhận là của mình, có tranh chấp thì không cho ai tham gia ý kiến, không chơi đa phương, chỉ chơi song phương, như bó đũa tách ra để bẻ gẫy từng chiếc. Không phải của mình nhưng cứ cãi bừa là của mình, dùng sức mạnh để lấn át, lấn át không được thì bàn chơi chung, chơi chung một thời gian thì đòi chia đôi với cái lý là đã nhận chơi chung thì là của chung, tức là mỗi bên 50 – 50. Một thời gian sau, kiếm cớ giở quẻ, đòi cả 100%. Cứ “được đằng chân thì lân đằng đầu”, rỉa dần như loài gặm nhấm và bền bỉ: “đời cha không xong thì đến đời con”. Rất buồn, Chu Ân Lai, người mà tôi ngưỡng mộ, lại chính là người đưa ra con bài “Gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác” với Nhật Bản trong cuộc tranh chấp đảo Điếu Ngư, Biển Hoa Đông… Nhật Bản đã gạt phắt.
Các vụ kiện quốc tế thường kéo dài.
Vụ tranh chấp Biển Đông, có việc chỉ có Trung Quốc và Việt Nam, không có nước nào khác; có việc giữa Việt Nam và nước khác, không có Trung Quốc; có việc giữa nước khác với Trung Quốc không có Việt Nam. Cuối cùng là việc “cái lưỡi bò” Trung Quốc đề ra, thế giới phản đối.
Cuộc tranh chấp ở Biển Đông, đồng nhất với nội dung việc đăng ký thềm lục địa mà Liên Hợp Quốc vừa nhận hồ sơ.
Trong mớ rối bong bong này, tất phải tách ra từng vụ việc để xử lý, đồng thời ghép vào việc đăng ký thềm lục địa, để tránh trùng lặp, tránh bỏ xót, tránh một việc mà xử 2 lần.
Thiết nghĩ cần có một tổ chức để làm việc này.
Hình thức xử lý tranh chấp thì Trung Quốc đòi song phương, Asean thì đòi đa phương. Tuy không nói ra nhưng ai cũng thấy Trung Quốc mạnh quá, khôn ngoan quá, khó mà chọi được tay đôi với Trung Quốc.
Gọi là tranh chấp ở Biển Đông nhưng gần hết là tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam. Việt Nam thì ai cũng biết là bị Trung Quốc chi phối. Việt Nam thất bại thì coi như tất cả tan vỡ.
Vẫn có hy vọng, tuy bề ngoài là mong manh, xét cho cùng thì lại rất mạnh mẽ: “Việt Nam thừa bằng chứng để chứng minh Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam”. Dù Trung Quốc có nhiều mưu ma chước quỷ, Việt Nam còn mạnh đến mức dù bị mua chuộc, người đại diện cũng không dám “ngồi lên sự thật”.
Cũng cần nghiên cứu các thể chế để ràng buộc. Việc giải quyết các tranh chấp phải thực hiện nghiêm chỉnh, đồng thời có lối thoát, khi cuộc tranh chấp có dấu hiệu bất minh. Đó là quy định thêm các bước như: Kết định phải được Quốc Hội phê chuẩn, có khi phải thông qua trưng cầu dân ý.
Cũng còn có thể áp dụng nguyên tắc lấy hình thức để ràng buộc nội dung: Dù đa phương hay song phương, cuộc tranh chấp đều phải tổ chức công khai, có tranh luận, có giám sát, có thông tin báo chí.
Việc giải quyết xong các vụ việc ở Biển Đông, có thể phải mất dăm bẩy năm, thế mà tình hình Biển Đông lại cứ nóng lên từng ngày. Liệu có thể chấp nhận phương án sau:
Quy ước ứng xử tại Biển Đông đã được các nước Asean ký với Trung Quốc. Nhiều nước bày tỏ hoan nghênh quy ước này. Tiếc quy ước không có hiệu lực vì không có chế tài. Liệu ta có thể khôi phục quy ước, đồng thời nghiên cứu và ban bố chế tài, quy định việc theo dõi thực hiện, cùng một lúc sửa đổi bổ sung những điều cần thiết.
Khôi phục quy ước ứng xử tại Biển Đông là biện pháp tình thế, đồng thời là điều kiện để làm sáng tỏ bước đầu của vụ kiện, phục vụ cho việc xét xử cuối cùng tại Toà Án Quốc Tế Liên Hợp Quốc. Trung Quốc đã ký phần chính, không lẽ gì từ chối ký phần bổ sung.
Luật Biển của LHQ có điều khoản: Có chủ quyền theo thời hiệu:
Nước nào ở trên Biển Đảo quá 50 năm mà không có kiện cáo, tranh chấp thì được công nhận chủ quyền. Trung Quốc đã chiếm Trường Sa, đã đóng quân, đã ở, đã xây dựng gần 50 năm rồi, nếu ta im lặng thì mặc nhiên ta đã giao Trường Sa cho Trung Quốc. Việc phản đối, việc gửi công hàm này nọ, việc ra tuyên bố…chỉ là gây dư luận mà thôi, chưa phải là khởi kiện, một hành vi pháp lý. Đó là điều rất cần được quan tâm.
Truyền thông thế giới băn khoăn không hiểu vì sao một vụ việc lớn như Biển Đông trong khi dư luận thế giới rầm rộ, Trung Quốc còn rầm rộ hơn mà Việt Nam lại im lặng. Những người hiểu biết cho rằng lãnh đạo ta sợ Trung Quốc, bị Trung Quốc mua chuộc, bị khống chế nên có “Sự im lặng đáng sợ”, một sự im lặng biến thành trọng tội. Đến hôm nay, gió đã đổi chiều, sao ta không thuận theo thời thế, khơi động trong nhân dân lòng yêu nước, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc thành một phong trào rộng lớn.
Truyền thông thế giới có nhận xét: Không hiểu vì sao các nhà khoa học trong nước và ngoài nước không được nhắc nhở, khuyến khích tham gia cuộc đấu tranh giành Biển Đông. Nhiều người cho biết ở Pháp còn rất nhiều tài liệu lưu trữ về Biển Đông, lại là bản gốc… thế mà ta chưa thấy ai nghĩ đến việc khai thác.
Các luật gia phải là người đi đầu trong cuộc đấu tranh này, đó là thiên chức của họ. Chắc rằng trong lúc này các luật gia đang nhức nhối vì họ không thể “Cầm đèn chạy trước ôtô”. Nhà nước cần có ngay một “cú hích”.
Hãy nhanh chóng sửa sai, nếu không một ngày kia con dân Đất Việt sẽ ngửa mặt than trời: “Hỡi ôi! Mất nước mà chúng tôi không biết gì!”.
Việc Trung Quốc cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa trong tay quân đội VNCH năm 1974, 58 chiến sĩ của VNCH đã hy sinh. Nhiều sĩ quan binh sĩ VNCH tham chiến ngày đó hiện còn sống ở Việt Nam, ở Mỹ…Chưa ai quên được 74 chiến sĩ Hải Quân của QĐND Việt Nam cũng đã ngã xuống trong trận Trung Quốc cưỡng chiếm Đảo Gacma trong nhóm đảo Trường Sa năm 1988.
Vậy mà Trung Quốc vẫn lu loa rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc! Thế thì Trung Quốc hãy chứng minh cho Thế giới biết Trung Quốc đã bị bọn “Tiểu Bá Việt Nam” ăn hiếp, cướp Hoàng Sa, Trường Sa của họ khi nào? Và như thế nào?
Xác minh một sự thật phải có chứng cứ, một chứng cứ mà không ai bác bỏ được là đủ để khẳng định một sự thật.
Hai vụ cưỡng chiếm trên, còn người thực việc thực, hàng trăm chiến sĩ đã hy sinh, còn có biết bao nhiêu chứng cứ khác nữa không ai có thể bác bỏ được rằng: Trước 1974 Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam.
Nếu Đảng và Nhà Nước thực lòng có trách nhiệm với sự vẹn toàn lãnh thổ, tại sao chúng ta không làm một phóng sự điều tra, một cuốn phim để trình chiếu khắp thế giới, gặp gỡ những nhân chứng sống, những người đã từng tham gia trận chiến Hoàng Sa 1974 và Trường Sa 1988 hiện đang còn sống… tạo mọi điều kiện để họ nói hết những gì mà họ đã từng chứng kiến. Sự tránh né của lãnh đạo chúng ta đã khuyến khích Trung Quốc ngày càng thêm ngạo ngược, càng thêm hợm hĩnh, đồng thời đặt Asean và dư luận tiến bộ trên thế giới vào những căng thẳng, bối rối không cần thiết.
Giờ hành động đã điểm. Sự lo sợ, ngại ngần, bối rối, chần chừ…chỉ đưa đến thảm bại, dù ra đi đến phương trời nào, sự nhục nhã vẫn còn đấy!
(8 / 2010)
Đôi điều suy tư
Có thể lấy các việc lớn xảy ra gần đây, có tầm vóc phản ảnh được tình hình đất nước để từ đó suy ra: chúng ta sẽ đi đến đâu?
Vụ Đại hội các nhà văn
Người họp kêu ca: không một văn kiện dù là ngắn gọn để vạch đường cho văn chương, lại có chuyện cho người này nói, “bịt miệng” người kia. Người được nói thì bị la ó. Dềnh dàng 5- 6 ngày mà kết quả bằng không.
Nhiều người buồn, “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”.
Chế Lan Viên: “Một nửa cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết”. Nguyễn Khải: “Văn chương của tôi…nay mai con cháu chỉ để bán cân”. Đổng Chi: “Tôi chỉ là thứ văn nô”. Những cây đại thụ của nền văn chương nước nhà đã tự phủ nhận.
Chính trị nào thì văn chương ấy. Văn chương nào thì Đại hội ấy. Văn chương thường đi trước chính trị, văn chương là “con chim báo bão” đối với chính trị. Văn chương sẽ thay đổi, chính trị sẽ đổi thay. Một nền văn chương đích thực tay trong tay, cùng nền chính trị dân chủ, tự do bước trên con đường mới. Đây là một hình ảnh đẹp không còn xa vời. Có gì mà phải buồn!
Vụ án Hà Giang
Đây là một vụ án về tội phạm tình dục có yếu tố lợi dụng chức quyền, xấu xa, bôi nhọ chính thể…
Nhưng mà hồi hai của vụ án mới là đáng bàn: Người ta đã huy động toàn bộ bộ máy an ninh, tư pháp vào việc che giấu vụ án, xuyên tạc vụ án, chủ tâm gây oan sai những người vô tội và như chưa hề có: nạn nhân biến thành thủ phạm mà lại là trẻ vị thành niên. Hồi hai bộc lộ vụ án đã được phát hiện từ 5 đến 6 năm nay. Rồi lại còn việc Giám đốc công an doạ tố cáo Bí thư Tỉnh uỷ…
Sự nghi ngờ: Hà Giang hẻo lánh còn thế, nơi đô hội có khi còn nghiêm trọng hơn nhiều.
Đáng lý phải kêu hàng chục tội, bắt hàng trăm người mới đúng với tầm cỡ vụ án. Phải chăng vụ Hà Giang là tín hiệu dữ đến với hệ thống chính trị của ta?
Vụ Vinashin
Nếu tôi không nhầm thì việc này khởi đầu từ ông Phan Văn Khải. Tôi đã nghe ông ca ngợi những cái “Se bun” của Hàn Quốc. Rồi thấy các công ty mẹ, các công ty con ra đời. Rầm rộ một lối làm ăn mới.
Rồi lại thấy người ta phê phán: Hàn Quốc mở rộng sản xuất, mở rộng kinh doanh, thay đổi kỹ thuật, mở rộng thị trường thì người ta mới phải mở ra các công ty mẹ,công ty con. Có nghĩa là người ta đi trên con đường phát triển, không phát triển thì tàn lụi, không cạnh tranh thì phá sản. Cái vốn của người ta là vốn tư nhân, kinh doanh là kinh doanh độc lập. Mình là hoàn toàn khác.
Rồi báo chí lại kêu ầm lên: Các tổng giám đốc của ta chăm lo sửa sang trụ sở, mua sắm xe cộ, phương tiện. Người cầm đầu không đọc nổi bản quyết toán tài chính… Tiền nhà nước rót vào hết công ty mẹ lại đến công ty con…
Các nhóm lợi ích ập tới, các mưu ma, chước quỷ được mặc sức tung hoành.
Thế rồi tạo hoả mù…và Vinashin thoắt trở thành một hiện tượng kinh tế huy hoàng, hoành tráng nhất Việt Nam.
Rồi dư luận ầm ĩ: Công ty này của nhóm ông lớn này, công ty kia của nhóm ông lớn kia. Con tàu Hoa Sen được kích giá lên gấp đôi, chạy được hai chuyến không có khách, mang giấu biệt vào trong vịnh Hạ Long với hàng trăm người săn sóc hàng ngày.
Thế rồi lại có tin cơ cấu nợ được xé nhỏ ra để các công ty khác gánh nợ, coi như là tội lỗi không thuộc về ai, tiền nong không hề mất.
Vụ án đã được khởi tố, việc bắt người phạm tội đã dược thực hiện. Liệu vụ án này có được làm đến cùng không hay lại “chìm xuồng”?
Phải chăng đó chính là những tín hiệu về một sự sụp đổ là không tránh khỏi với khu vực kinh tế quốc doanh?
Mở rộng Hà Nội. Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long
Nghìn năm Thăng Long không có nổi một biểu tượng đỉnh cao nào về văn hoá – nghệ thuật, để lại một dấu ấn trong lòng nhân dân cũng như bè bạn quốc tế.
Lễ hội có dấu hiệu không lôi cuốn được lòng người, người nghèo không có điều kiện tiền bạc và khó khăn trong việc đi lại, người có tiền thì lại muốn rời xa thành phố để đi du lịch. Sự đầu tư tiền bạc của nhà nước cho lễ hội là khổng lồ (4,2 tỉ USD) nhưng hiệu quả thực không rõ…
Hà Nội mở rộng tới gần 4 lần! Người đời ngỡ ngàng. Mấy năm qua đã có lúc nói tới một Hà Nội bên Sông Hồng, vậy mà lại thay đổi bất thần. Nhiều điều về Hà Nội mở rộng mà người dân không hiểu.
Không có gì là lạ, đây là việc của Lý Công Uẩn, của Pi-e đại đế, của Napoleon, của Minh Trị Thiên Hoàng, nó không phải chỉ bó hẹp trong địa bàn Hà Nội, nó phải có tính toàn quốc. Hơn nữa nó là việc xây dựng đời sống đô thị theo nghĩa rộng, không phải chỉ bó gọn trong việc quy hoạch và xây dựng. Chúng ta không làm được, chúng ta sẽ mắc sai lầm, không phải chỉ có quyền lực là làm được tất cả, chúng ta là con đẻ của bao cấp và chiến tranh.
Chúng ta muốn để lại cái gì đầy ấn tượng, nhưng chúng ta không đủ tầm, đã phạm sai lầm, làm cho thủ đô trở thành hỗn loạn, bất hợp lý…
Vụ Biển Đông
Trung Quốc cứ tưởng ép được Việt Nam là xong việc. Việt Nam nghĩ sợ quá phải nghe Trung Quốc. Cả hai cùng không đếm xỉa đến nhân dân và thế giới. Ai ngờ các nước nhảy vào. Triển vọng là Trung Quốc không thể chiếm được Biển Đông.
Cái lợi cho nhân dân Việt Nam: trắng đen rõ ràng, đi với Trung Quốc là mất nước. Trước đây nhân dân Việt Nam đòi dân chủ, trọng tâm là nhìn vào những người lãnh đạo Việt Nam. Nay nhân dân Việt Nam đòi độc lập vừa nhìn vào giới lãnh đạo Việt Nam vừa nhìn vào Trung Quốc. Thế là khẩu hiệu đấu tranh Độc Lập và Dân Chủ được hoàn chỉnh. Cái thuyết “leo dây” tự nó đã phá sản. Con đường theo Trung Quốc là mất cả Đảng, mất cả dân tộc.
Mục tiêu đấu tranh, phương hướng đấu tranh, khẩu hiệu đấu tranh như được giản đơn dễ hiểu lợi cho việc dân chủ hoá đất nước.
Việc chấp nhận phương tây trở thành một điều bó buộc. Trung Quốc là tác giả của sự bẻ lái này của Việt Nam.
Vụ Biển Đông là một đột phá của tình hình, khiến tình hình chuyển biến mau lẹ hơn, rõ ràng hơn, giản đơn hơn.
Các vụ việc kể trên đủ để nói rằng chúng ta đều bất cập, quá nhiều sai sót trên phương diện quản lý tầm vĩ mô. Điều đó đã nói lên: Sự thay đổi là cấp thiết, là không thể đặng đừng.
***
Trước đây tôi có nói với một vài người về các việc thay đổi, anh em đều cười, không thuận, không bác. Nay tôi xin nói lại cho rõ.
“Lobby chính trị” (Vận động hành lang)
Anh em cười, thấy hay hay. Theo tôi thì không có đảng đối lập, ai làm việc vận động chính trị là công an hỏi thăm ngay. Cần có một số người có tấm lòng, đi truyện trò vận động từ từ, thời cơ đến thì phát triển, khó khăn thì ngừng lại. Đó là tiền đề của đảng đối lập. Có hai điều kiện: Người vận động là người không có ý định tham gia tổ chức, nếu không mọi người sẽ cho là vận động “xôi thịt”, là những người phải biết người biết của, có hiểu biết về chính trị, nói có người nghe, người tin. Người được vận động thì phải là người trong giới tinh hoa, quần chúng biết mặt, biết tên và có lòng tin, họ chịu dấn thân trong lúc khó khăn. Phải nghĩ đến điều kiện của một người làm chính trị trong cả 2 trường hợp trên. Có việc cứ tiến hành và cứ lớn dần. Khi đảng cầm quyền có dấu hiệu suy sụp, bỏ dần trận địa, bên tiếp tục dấn thân… tiến tới 2 bên ngồi vào bàn tròn. Trong việc chuyển đổi ở Ba Lan, việc hiệp thương, việc hội nghị bàn tròn tiến hành đến mấy chục cuộc họp kéo dài tới 6 tháng.
Thời điểm của việc vận động hành lang chấm dứt khi được một hai chục người thì chính họ sẽ chủ động tiến hành các bước tiếp theo. Trong tình hình hiện nay, việc đảng phái đối với nước ta là rất mới mẻ, nhưng vì mở rộng giao lưu quốc tế nên các kiến thức về đảng phái, nhiều người hiểu một cách sâu rộng. Những người được vận động đứng lên quyết định mọi viêc. Đó là lúc những người làm việc vận động hành lang có thể xoa tay trước một việc đã hoàn tất.
Tôi không hô hào bạo động, tôi không có âm mưu lật đổ, tôi chỉ quan sát và suy nghĩ, về cái về lý thuyết “tự vỡ”, cái trì trệ với cái tiến bộ, luôn tranh chấp, tôi mong cái tiến bộ tràn đầy, cái toàn trị thì khô kiệt. Sự thay đổi, cái cũ cứ ra đi cái mới cứ tiến dần. Tôi không phải “Gần chùa gọi Bụt bằng Anh”, nhưng tôi hiểu rằng lụt lội thì tượng gỗ trôi lềnh bềnh, tượng đất thì hoá bùn. Phải có tượng đồng bia đá trong lòng dân mới tồn tại được với thời gian.
Lúc này ta đang học Lý Công Uẩn: Nhìn xa trông rộng thấu hiểu lòng dân, còn chúng ta chỉ biết ra lệnh, nghe người ta nói là làm ngay.
Tách Đảng ra làm hai
Xã hội Việt Nam có phần nào giống Thái Lan, có hai thành phần chính: giới tinh hoa và giới đám đông. Hiện hai thành phần: Áo đỏ và áo vàng đang tranh chấp quyền lực ở Thái Lan.
Đứng về nguyên lý, đảng phái chính trị thường là thuộc về nhóm tinh hoa. Chúng ta đang bàn về dân chủ, về đa nguyên, về một đảng đích thực, nghĩa là chúng ta đang nghĩ tới giới tinh hoa Việt Nam.
Giới tinh hoa hiện nay nằm ở trong các ngành, trong các tổ chức kinh doanh… từng lĩnh vực họ đều biết nhau… Nếu nhóm vận động hành lang tìm được những người tiêu biểu thì tổ chức sẽ có máu, có xương, có tim, có óc.
Riêng giới tinh hoa hiện nay còn nằm trong đảng thì chúng ta đánh giá ra sao?
Đảng cộng sản thấy ai có tài đều tìm mọi cách để lôi cuốn vào Đảng. Đáng lẽ những người cầm quyền phải tôn vinh, phải lắng nghe, phải làm mọi cách cho trí thức hết lòng phục vụ nhân dân, ngược lại những người cầm quyền lại ép buộc những trí thức, những chuyên gia phục vụ các ý đồ sai trái ngang ngược của mình, sự rạn nứt là từ đó. Các ngành không được sự soi sáng của trí thức, của khoa học. bao nhiêu sai lầm và đổ vỡ đã chứng minh điều này. Trí thức và chuyên gia trong đảng như là bị tách rời khỏi xã hội. Cái chủ trương thay đổi là đổi ngôi là giao quyền hành cho trí thức, cho nhóm tinh hoa, đó chính là mục đích, thực chất của thay đổi.
Việc kết nạp lại là như vậy để giữ lấy tinh hoa, là dịp để thanh toán những người vào Đảng vì những lý do không chính đáng. Số này tôi tin là họ sẽ không nộp đơn xin kết nạp lại. Kết nạp lại thực chất là hình thức “Thanh Đảng”.
Một Đảng gồm giới tinh hoa, có tấm lòng, tự nó phải bước tới dân chủ đa nguyên.
Thực chất việc tách Đảng ra làm hai, việc kết nạp lại đảng viên là những cố gắng bảo toàn những giá trị vốn có của Đảng, của dân tộc, đẩy lùi được mọi mặc cảm bất lợi rất dễ xuất hiện trong lòng những người đảng viên biết tự trọng, có đức, có tài.
Vậy chuyển đổi có thể gây ra những lộn xộn không?
Xét trên bình diện quốc tế, việc “Hoa quân nhập Việt” là không thể xảy ra vì Trung Quốc đang muốn hoà hoãn, vẫn còn lép vế, việc tiến quân vào Việt Nam là một hành vi gây chiến tranh. Hành vi đó sẽ không bó hẹp trong phạm vi Việt Nam.
Xét trên bình diện trong nước, những người bị mất quyền, họ chẳng có lực lượng gì. Tôi biết có ông Bí thư tỉnh uỷ về hưu ngại ngần không dám ra đường, sợ người đời chửi đổng, gây sự.
Hiện nay nước ta là nhà nước độc đảng, thế thì làm sao có lực lượng đối kháng tranh quyền cướp vị bằng vũ trang được?
Về quân đội, gần đây đã có dấu hiệu án binh bất động trước những tranh chấp thuộc lĩnh vực dân sự.
Về công an, không thấy có một đảng nào khác ngoài Đảng Cộng Sản để họ bảo vệ, không có một nhân vật nào đủ tầm, đủ lực để lôi cuốn họ. Xét cho cùng, công an cũng xuất thân từ nhân dân lao động… Việc họ thẳng tay đàn áp nhân dân là khó có thể xảy ra.
Trong bài viết này, người viết chỉ nói lên việc thay đổi vào thời điểm “nhóm vận động hành lang” hoàn thành công việc. Bởi lẽ những người được mời đều có đủ hiểu biết và kinh nghiệm để làm việc nước…Hơn nữa bộ máy nhà nước vẫn giữ nguyên, công việc vẫn chạy đều, sự chuyển đổi vẫn tiến hành từ từ và yên ả.
Chuyển đổi thể chế sang dân chủ, quyền lực thuộc về dân, quyền lợi thuộc về dân. Hai việc chống tham nhũng và việc dân oan là việc phải làm nhưng không biết giao cho ai, không biết làm thế nào!?
Tôi xin đề cập đến hai việc này sau./.
(09 – 2010)
Trần Lâm
Đoàn Luật Sư Hải Phòng
Điện thoại:0982744336
Email: tranlam1925@gmail.com

Bắt đầu một giai đoạn thay đổi dồn dập

Bắt đầu một giai đoạn thay đổi dồn dập
Posted on 26/08/2010 by Dân Báo
Nguyễn Gia Kiểng – Việt Nam cũng đã phải nhượng bộ [về nhân quyền]. Theo ông Phạm Gia Khiêm, Hà Nội đã chấp nhận coi tình trạng nhân quyền tại Việt Nam như là một vấn đề để thảo luận chứ không còn là một vấn đề nội bộ nữa…
Vấn đề là một quan hệ hợp tác chặt chẽ với Hoa Kỳ mâu thuẫn với sự duy trì chế độ độc tài đảng trị, vì thế ban lãnh đạo đảng CSVN đã ngoan cố chống lại. Nhưng ngày nay họ đã bị bắt buộc phải đổi ngược chính sách vì không còn chọn lựa nào khác do áp lực không những của nhân dân Việt Nam mà còn của chính đa số đảng viên cộng sản.
Quan hệ Việt – Trung đã thay đổi từ ngày 31-12-2008. Ngày hôm đó Việt Nam và Trung Quốc hoàn tất việc cắm mốc biên giới một cách tưng bừng, nhưng sau đó quan hệ giữa hai nước nhanh chóng chuyển sang thế đối đầu. Các biến cố gây căng thẳng dồn dập tới.
Một vài thí dụ.
Tháng 4-2009 Trung Quốc đơn phương ra lệnh cấm ngư dân Việt Nam đánh cá trên Biển Đông từ 15/5 đến hết tháng 8 và ngay sau đó gia tăng uy hiếp ngư dân Việt Nam, bắn chết nhiều người, bắt giam, tịch thu tài sản, phạt tiền v.v. Việt Nam mới đầu im lặng, thậm chí còn nhìn nhận ngư dân Việt Nam có ăn cắp lưới để biện minh cho sự khiếp nhược của mình, sau đó phản đối một cách ngày càng quả quyết hơn.
Tháng 5-2009 Trung Quốc đơn phương tuyên bố chủ quyền kinh tế trên biển với một vùng hình lưỡi bò bao gồm gần trọn Biển Đông và biểu quyết đạo luật bảo vệ vùng biển và các hải đảo; Việt Nam phản đối và tranh thủ được sự đồng tình của Malaysia trong một bản tuyên bố chung về lãnh hải của hai nuớc đệ trình Liên Hiệp Quốc.
Tháng 7-2009, cùng với việc Mỹ chấp nhận ký Thoả Ước Hữu Nghị và Hợp Tác với ASEAN để có thể tham gia Hội Nghị Thượng Đỉnh Đông Á (East Asia Summit, EAS), ngoại trưởng Mỹ trưởng Mỹ Hillary Clinton trịnh trọng tuyên bố tại Bangkok: “Mỹ trở lại Đông Nam Á”.
Trung Quốc tổ chức du lịch trên Hoàng Sa và Việt Nam phản đối. Trung Quốc và Việt Nam đều đặt chính quyền địa phương tại Hoàng Sa và Trường Sa. Gần đây, tháng 3 năm nay, Trung Quốc tiến thêm một bước quyết định trong tham vọng bành trướng, tuyên bố coi Biển Đông là vùng “quyền lợi cốt lõi”, một cách để nói rằng sẵn sàng dùng võ lực nếu cần.
Một số sự kiện khác cũng đã góp phần đầu độc quan hệ giữa hai bên một cách quyết định. Các báo điện tử Trung Quốc cho đăng một số bài đe doạ đánh Việt Nam, hoặc cảnh giác về “nguy cơ” Việt Nam sẽ tấn công họ; tướng hồi hưu Tô Quang Vũ tuyên bố: “Sở dĩ trong quá khứ chúng tôi bình lặng trong các tranh chấp với các nước láng giềng là vì hải quân của chúng tôi chưa đủ sức bảo vệ các khu kinh tế của mình, nhưng bây giờ thì hải quân đã có khả năng làm nhiệm vụ”. Sự “bình lặng” của Trung Quốc cho tới nay đã quá ngột ngạt rồi, người ta tự hỏi Trung Quốc sẽ còn hung hăng như thế nào trong thời gian sắp tới? Gần như một lời tuyên chiến. Nên nhớ là khác với tại các nước phương Tây, các tướng hồi hưu Trung Quốc vẫn còn sinh hoạt đảng và đo đó những điều họ tuyên bố về chính sách của nhà nước vừa phản ánh những gì họ đã biết trong thời gian tại chức vừa không thể trái với chính sách hiện hành. Vả lại đảng và nhà nước cộng sản Trung Quốc đã không hề đưa ra một lời đính chính nào sau đó. Các nước trong vùng đều đã hiểu là Trung Quốc đã dứt khoát chọn lựa chính sách bá quyền khu vực dựa trên sức mạnh, và họ đều đã nhanh chóng tăng cường sức mạnh không quân và hải quân, đặc biệt là Việt Nam, nước chịu áp lực trực tiếp và mạnh nhất của Trung Quốc, đồng thời cũng là nước có thể bị thiệt hại quyền lợi nhiều nhất. Chính quyền CSVN đã hiểu là dù muốn hay không đối đầu cũng là chọn lựa bắt buộc. Một đối sách mới bắt đầu. Việt Nam làm ngơ để cho một số trí thức lên án Trung Quốc, cụ thể là phản đối dự án cho Trung Quốc khai thác bôxit tại Tây Nguyên, sau đó bộ ngoại giao lập trang Web Biên Giới Lãnh Thổ chủ yếu đưa những thông tin và tuyên cáo phản đối sự chèn ép của Trung Quốc; Việt Nam mua máy bay chiến đấu hiện đại và tàu ngầm của Nga và Trung Quốc coi đây như là một sự chuẩn bị để đối đầu với họ. Việt Nam gia tăng quan hệ hợp tác về quân sự với các cường quốc, bộ trưởng quốc phòng Việt Nam thăm viếng Hoa Kỳ, và Trung Quốc nói bóng gió rằng Việt Nam đang tìm hậu thuẫn để chống lại họ.
Tháng 3 và tháng 4-2010 Trung Quốc cho tập trận hải quân trong vùng Đông Nam Á xuống tận phía đông eo biển Malacca và thực tập oanh tạc các mục tiêu ngoài biển trong vùng Trường Sa. Trung Quốc cũng không giấu mục tiêu nới rộng hoạt động của hải quân ra khắp Thái Bình Dương. Sự leo thang dồn dập của Trung Quốc đã khiến Hoa Kỳ hiểu rằng họ phải hiện diện tích cực hơn tại vùng này. Các tàu chiến Mỹ trang bị hoả tiễn Tomahawk được điều động đến thăm viếng thường xuyên Biển Đông và các vùng biển lân cận. Nên lưu ý là trái với các hoả tiễn nguyên tử chỉ có mục đích phô trương một khả năng hành động trong trường hợp tuyệt vọng, các hoả tiễn Tomahawk là những hoả tiễn chính xác với tầm hoạt động 2500km đã từng được sử dụng, chúng nói lên một ý chí sẵn sàng can thiệp nếu cần. Mỹ cũng bán thêm vũ khí cho Đài Loan và tập trận với hải quân Hàn Quốc ngay sát nách Trung Quốc. Báo chí và các quan chức Việt Nam nói tới các chuyển động của hải quân Mỹ một cách có thiện cảm.
Người ta còn có thể kể vô số thí dụ khác. Điều đáng lưu ý là những lời qua tiếng lại giữa Trung Quốc và Việt Nam ngày càng nhiều và càng ít nể nang. Tuy chưa có những lời tuyên bố thực sự thù địch giữa hai chính quyền nhưng người ta không thấy một thiện chí hoà giải nào, trái lại căng thẳng ngày càng gia tăng.
Và điểm đoạt tuyệt vừa đạt tới.
Tại Diễn Đàn Khu Vực ASEAN (ARF) khai mạc tại Hà Nội ngày 23-7 vừa qua, ngay sau hội nghị các ngoại trưởng ASEAN, Mỹ và các nước ASEAN, đặc biệt là Việt Nam, đã công khai đứng cùng một phía đối đầu với Trung Quốc, cùng phản bác những yêu sách của Trung Quốc và cùng ủng hộ công thức giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông qua thảo luận đa phương thay vì qua những cuộc thương thuyết song phương như Trung Quốc vẫn đòi hỏi. Ngay trước mặt ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì, Ngoại trưởng Hillary Clinton đã tuyên bố rằng quyền lợi quốc gia của Hoa Kỳ gắn bó với tình hình an ninh, tự do lưu thông và sự tôn trọng công pháp quốc tế trên Biển Đông, do đó Hoa kỳ đặc biệt quan tâm tới những tranh chấp trong vùng biển nàykể cả những tranh chấp trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và Hoa Kỳ sẽ ủng hộ các nước muốn giải quyết những tranh chấp bằng thương thuyết thay vì sức mạnh. Bà Clinton nói thêm rằng chủ quyền kinh tế trên biển chỉ có thể xác định dựa trên chủ quyền đã được nhìn nhận về đất và đảo. Ngoài việc phủ nhận cái lưỡi bò của Trung Quốc đây là lần đầu tiên mà Hoa Kỳ chính thức bác bỏ chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và, một cách gián tiếp nhưng rõ rệt, đứng về phía các nước ASEAN và Việt Nam trong thế đối đầu với Trung Quốc. Đúng là Hoa Kỳ đã trở lại Đông Nam Á.
* * *
Phải nhìn bước ngoặt quan trọng này như thế nào?
Trước hết, đối với Hoa Kỳ trở lại Đông Nam Á vào lúc này chỉ giản dị là trở lại Việt Nam. Bởi vì người Mỹ không có nhu cầu “trở lại” Đông Nam Á. Họ chưa hề ra đi và còn đang hiện diện rất mạnh tại đây. Năm nước Đông Nam Á quan trọng – Indonesia, Philippines, Thái Lan, Malaysia và Singapore – đều là những đồng minh thân thiết của Hoa Kỳ. Trở lại Việt Nam có nghĩa là Mỹ sẽ tăng cường quan hệ hợp tác với Việt Nam và sẽ không để cho Trung Quốc ức hiếp Việt Nam. Và quả như thế, đầu tháng 8, tàu sân bay George Washington đến thăm cảng Đà Nẵng, một hội nghị giữa Hoa Kỳ và bốn nước thuộc hạ lưu sông Mê Kông đang khốn khổ vì Trung Quốc xây đập giữ nước trên thượng nguồn – Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan – sắp được triệu tập; sau đó là một hội nghị thượng đỉnh ASEAN – Mỹ vào tháng 10 sắp tới. Tất cả như báo hiệu một liên kết giữa các nước ASEAN dựa vào Mỹ để đương đầu với Trung Quốc.
Điều thứ hai cần được đặc biệt lưu ý là Mỹ đã trở lại Đông Nam Á trong thế thượng phong. Từ lâu các nước ASEAN đã muốn Hoa Kỳ hiện diện tích cực hơn trong vùng. Từ nhiều năm nay họ đã yêu cầu Hoa Kỳ ký Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác với ASEAN để hiện diện trong Hội Nghị Thượng Đỉnh Đông Á (EAS) nhưng Hoa Kỳ đã từ chối. Lý do là vì hiệp ước này qui định các nước ký kết không can thiệp vào các vấn đề nội bộ của nhau, thí dụ như không đặt vấn đề nhân quyền. Đó là điều khoản mà Hoa Kỳ không chấp nhận, họ đang trừng phạt Myanmar (Miến Điện), một thành viên ASEAN, vì vi phạm nhân quyền và cũng dành quyền nhắc nhở Việt Nam vì cùng lý do. Dù điều khoản này chỉ hiện diện trong hiệp ước như một nguyên tắc chứ không phải như một ràng buộc – không có qui định chế tài nào đối với các nước không tôn trọng – nhưng Hoa Kỳ vẫn muốn giữ khả năng can thiệp một cách danh chính ngôn thuận, và vấn đề đã dùng dằng từ nhiều năm nay. Sau cùng thì trước chính sách bá quyền ngày càng lộ liễu của Trung Quốc các nước ASEAN đã phải nhượng bộ để có được hậu thuẫn của Hoa Kỳ. Chính họ, trong hội nghị các ngoại trưởng ASEAN tại Hà Nội ngay trước Diễn Đàn Khu Vực ARF, đã phải vị phạm nguyên tắc này bằng cách phê phán mạnh mẽ tập đoàn quân phiệt Myanmar. Việt Nam cũng đã phải nhượng bộ. Theo ông Phạm Gia Khiêm, Hà Nội đã chấp nhận coi tình trạng nhân quyền tại Việt Nam như là một vấn đề để thảo luận chứ không còn là một vấn đề nội bộ nữa. Tóm lại, dù cần bảo vệ quyền lợi và chỗ đứng của mình tại Đông Nam Á và trên Biển Đông, Hoa Kỳ đã chỉ trở lại trong thế mạnh, với sự cầu khẩn của các nước ASEAN, và đặc biệt của chính quyền CSVN. Không những thế Mỹ còn trở lại với sự đồng tình và đồng hành của Pháp. Cần lưu ý là ngay sau Diễn Đàn Khu Vực ARF bộ trưởng quốc phòng Pháp Hervé Morin đã đến Hà Nội ký hiệp ước hợp tác quân sự giữa hai nước theo đó Pháp sẽ cung cấp thiết bị và giúp đào tạo các sĩ quan không quân và hải quân Việt Nam. Tuy thua xa Mỹ nhưng Pháp vẫn là cường quốc thứ 5 trên thế giới về kinh tế và thứ 3 về quân sự.
Thứ ba là chọn lựa sáp lại với Mỹ và tách khỏi ảnh hưởng Trung Quốc không thể đảo ngược được và sẽ được thể hiện ngày càng nhanh và mạnh hơn. Đồng minh với Hoa Kỳ chắc chắn có lợi cho Việt Nam về mọi mặt, kể cả để có thể chung sống bình yên với Trung Quốc. Điều này mọi người đều đã biết từ lâu. Vấn đề là một quan hệ hợp tác chặt chẽ với Hoa Kỳ mâu thuẫn với sự duy trì chế độ độc tài đảng trị, vì thế ban lãnh đạo đảng CSVN đã ngoan cố chống lại. Nhưng ngày nay họ đã bị bắt buộc phải đổi ngược chính sách vì không còn chọn lựa nào khác do áp lực không những của nhân dân Việt Nam mà còn của chính đa số đảng viên cộng sản. Thay đổi ngoạn mục nhất trong nội bộ ĐCSVN trong thời gian qua đã là sự kiện chỉ trong vài tháng hầu như mọi cấp lãnh đạo đều trở thành chống Trung Quốc. Không gì mạnh hơn một ý kiến đã chín muồi. Không ai có thể đảo ngược chọn lựa này. Trái lại, như một thay đổi phải có nhưng đã bị trì hoãn quá lâu, khi cuối cùng phải đến nó sẽ có sức đẩy rất mạnh.
Ngoài ra cũng phải nói chính thái độ của Trung Quốc cũng đóng góp khiến chọn lựa này vừa không thể đảo ngược vừa phải gia tăng cường độ. Trung Quốc không thể vụng về hơn. Họ đã quá ngang ngược và tham lam, không để cho Việt Nam, và các nước ASEAN nói chung, một chọn lựa nào khác hơn là dựa hẳn vào Mỹ để đương đầu với họ. Riêng đối với Việt Nam, Bắc Kinh đáng lẽ phải hiểu là sau khi cắm xong mốc biên giới Việt – Trung trên đất liền Việt Nam đã được giải toả khỏi một một đe doạ lớn, đe doạ bị gặm nhấm đất đai, và không còn phải sợ như trước nữa. Nhưng thay vì đổi thái độ theo chiều hướng hoà nhã họ đã xấc xược và kẻ cả hơn. Kết quả là trong Diễn Đàn Khu Vực ARF vừa qua Trung Quốc đã hoàn toàn bị cô lập trước cả một khối ASEAN đoàn kết với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ.
Điểm thứ tư là đồng minh với Mỹ là một chọn lựa rất an toàn cho Việt Nam, dù không an toàn cho đảng cộng sản. Dù tức giận tới đâu Trung Quốc cũng không thể gây hấn. Sức mạnh quân sự của Trung Quốc so với Mỹ còn quá kém và sự thua kém này tiếp tục tăng lên chứ không giảm đi vì ngân sách quốc phòng Trung Quốc (72 tỉ USD năm 2009) dù đã gia tăng nhanh chóng (14,8% năm 2009 và 17,6% năm 2008) vẫn chỉ bằng 11% ngân sách quốc phòng của Mỹ. Thực tế đã cho thấy Trung Quốc đã bắt đầu nhượng bộ. Tại Hà Nội, trả lời bà Clinton, ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì nói rằng Mỹ đã dựa vào một lý cớ hoàn toàn không có thực là an ninh trên Biển Đông để “tấn công” Trung Quốc, rằng an ninh trên Biển Đông hoàn toàn được bảo đảm và Trung Quốc luôn luôn chủ trương giải quyết các tranh chấp một cách hoà bình qua thương thuyết, Trung Quốc cũng sẵn sàng thương thuyết trên mọi vấn đề, kể cả Trường Sa. Qua lời lẽ cứng rắn, đây rõ ràng là bước đầu của một sự nhượng bộ. Ngay sau đó bộ ngoại giao Trung Quốc đưa ra đề nghị năm điểm trong đó Trung Quốc chấp nhận “thương thuyết giữa sáu nước”. Như vậy thương thuyết song phương không còn là đòi hỏi bất di bất dịch nữa, dù Bắc Kinh vẫn chưa chịu thảo luận về Hoàng Sa.
Nhận định thứ năm là Việt Nam bắt buộc phải đi đến thế đồng minh với Mỹ, không thể khác. Một mặt, Mỹ có thừa sức bảo vệ Việt Nam nhưng cũng sẽ chỉ bảo vệ Việt Nam nếu Việt Nam là một đồng minh của họ, mặt khác các nước ASEAN và Việt Nam cần sự bảo vệ này nếu không chắc chắn sẽ bị Trung Quốc chèn ép. Trung Quốc đã bộc lộ rõ rệt thái độ sẵn sàng dùng sức mạnh quân sự. Đề nghị giải quyết các tranh chấp bằng thảo luận tay đôi giữa Trung Quốc và từng nước liên hệ chỉ là cách để dùng sức mạnh trấn áp từng nước một và đề nghị tạm gác các tranh chấp để cùng khai thác Biển Đông chỉ là để cho phép Trung Quốc thực hiện tuyên bố chủ quyền kinh tế đơn phương của họ.
Cần đánh tan một hiểu lầm. Thực ra chính quyền cộng sản Việt Nam đã không chọn làm đồng minh của Trung Quốc, họ là một trong những chính quyền thù ghét Trung Quốc nhất. Hai bên đã từng có chiến tranh biên giới trong mười năm và đã mạt sát nhau thậm tệ. Việt Nam đã mất nhiều đất cho Trung Quốc, nhiều lắm chứ không phải chỉ có thác Bản Giốc và ải Nam Quan, và vẫn còn bị chèn ép sau thời gian “hữu nghị”. Đảng CSVN đã chỉ chọn “không đi với Mỹ” và vì chọn lựa này mà họ phải bất đắc dĩ cầu hoà với Trung Quốc để được nương tay phần nào trong thế cô lập. Nói cách khác, chỉ vì không dám đi với Mỹ mà đành ngậm bồ hòn đi với Trung Quốc. Như vậy từ nay khi đã nhận thấy là không thể đu dây nữa, phải dựa vào Mỹ và lại thấy có thể được Mỹ bảo vệ họ sẽ không còn cần phải nhịn nhục như trước nữa; ngược lại Trung Quốc cũng không còn lý do để nương tay nữa, trừ khi sợ phản ứng của Mỹ. Cái vòng xoắn thù địch này sẽ bắt buộc Việt Nam dù không muốn cũng phải trở thành đồng minh thực sự của Mỹ.
Cũng cần nói thêm là Việt Nam không những bị bắt buộc mà còn được khuyến khích tách rời khỏi quỹ đạo Trung Quốc và tiến đến thế đồng minh với Mỹ. Trung Quốc ngày càng bị cô lập, một tâm lý bài Trung Quốc đang dần dần mạnh lên trên khắp thế giới, các phê phán đối với Trung Quốc ngày càng nhiều và gay gắt. Ngay tại Châu Phi, nơi Trung Quốc đã đổ ra rất nhiều tiền để tranh thủ những đồng minh và tăng cường sự hiện diện, họ cũng đang gây thất vọng. Nigeria, Angola và Congo, những nước mà Trung Quốc đầu tư nhiều nhất, đang xét lại nhiều hợp đồng với Trung Quốc theo chiều hướng bất lợi. Diễn Đàn Khu Vực ASEAN (ARF) vừa qua tại Hà Nội cho thấy Trung Quốc đã bị cô lập ngay tại Đông Á, vùng mà họ vẫn coi là đất nhà. Cũng nên hiểu lý do tại sao thế giới ngày càng nhìn Trung Quốc như một đe doạ. Đó là vì Trung Quốc mạnh lên trong khi vẫn là một nước độc tài chuyên chính. Trước đây, sau thế chiến II, Nhật và Đức đã phục hồi rất mạnh mẽ -kinh tế Nhật đã tăng trưởng trung bình 17% mỗi năm từ 1956 đến 1980, nhân tổng sản lượng bình quân trên mỗi đầu người lên 40 lần, từ 300 USD lên 12.000 USD, trong vòng 24 năm- nhưng không hề gây một lo ngại nào cả, trái lại còn được hoan nghênh vì đó là những nước đã dứt khoát chọn lựa dân chủ và do đó không đe doạ hoà bình thế giới.
* * *
Sau cùng và quan trọng nhất, việc chọn lựa tách khỏi ảnh hưởng Trung Quốc để trở thành đồng minh với Mỹ sẽ có hậu quả nào đối với Việt Nam?
Dù có thể là thừa cũng cần nhắc lại một lần nữa rằng đây là một chọn lựa hoàn toàn đúng và rất có lợi cho Việt Nam. Chọn Mỹ cũng là chọn cả khối phương Tây, Châu Âu và Nhật. Chúng ta có rất nhiều điều để học ở họ. Đặc biệt là ở Hoa Kỳ, quốc gia giàu mạnh và tân tiến nhất đồng thời cũng là quốc gia năng động và sáng tạo nhất thế giới. Chúng ta cần học nơi họ những kiến thức khoa học kỹ thuật, cách suy nghĩ và lý luận độc lập, óc mạo hiểm chấp nhận rủi ro, tinh thần thượng tôn luật pháp; quí báu hơn hết là sự tôn trọng tự do cá nhân và phẩm giá con người với niềm tin rằng con người tự do có tiềm năng rất lớn. Nói chung là những giá trị nền tảng của một xã hội dân chủ mà Trung Quốc hầu như không có.
Về mặt thương mại Hoa Kỳ cũng là một thị trường to lớn và đầy hứa hẹn, như Châu Âu. Ngoại thương với Hoa Kỳ đem lại cho chúng ta một thặng dư lớn (gần 10 tỉ USD năm 2009) và còn có thể lớn hơn gấp nhiều lần trong tương lai. Ngược lại quan hệ thương mại với Trung Quốc là một tai hoạ, thâm thủng nặng (hơn 11 tỉ USD năm 2009), chưa kể số hàng lậu đang bóp nghẹt sản xuất nội địa của ta. Càng ngày càng có nhiều người, ngay cả trong số cán bộ đảng viên cộng sản, nhận ra rằng quan hệ đối với Trung Quốc hoặc phải được lành mạnh hoá hoặc phải chấm dứt.
Sở dĩ cho tới nay Hà Nội vẫn ngoan từ chối chọn lựa này và theo chân Trung Quốc mặc dù biết bao tủi nhục và mất mát là vì các cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam nhận định rằng không thể đi với Mỹ và phương Tây mà vẫn duy trì chế độ độc tài đảng trị. Đây là một nhận định đúng dù nó chỉ nhắm quyền lợi của đảng cộng sản và hoàn toàn trái ngược với quyền lợi dân tộc. Nó đã làm mất hơn hai mươi năm cho đất nước nhưng đã giúp chế độ tiếp tục tồn tại sau khi bức tường Berlin sụp đổ. Nhưng thế giới đã thay đổi và xã hội Việt Nam cũng đã thay đổi, thời gian đã làm công việc của nó. Và hiện nay cũng chính nhu cầu sống còn buộc ban lãnh đạo cộng sản phải làm chọn lựa ngược lại để tránh một sụp đổ tức khắc, do sự nổ bùng ngay trong nội bộ đảng. Họ đã phải chọn giải pháp mà từ lâu họ biết chắc là sẽ dẫn đến sự đào thải của chế độ.
Dĩ nhiên sau khúc quanh lịch sử này chọn lựa hợp lý kế tiếp cho ĐCSVN là thẳng thắn chấp nhận dân chủ đa nguyên, thực hiện hoà giải và hoà hợp dân tộc -bắt đầu bằng cách trả tự do cho mọi tù nhân chính trị và phục hồi danh dự và quyền lợi cho các nạn nhân của chế độ- và tự hoá thân thành một đảng hoàn toàn khác về cả đường lối lẫn nhân sự lãnh đạo. Chần chừ đồng nghĩa với tự sát, bởi vì một thay đổi bắt buộc nhưng bị trì hoãn quá lâu thường rất dữ dội khi cuối cùng phải đến. Tuy nhiên, tâm lý tham quyền cố vị sẽ khiến những người cầm đầu đảng cộng sản cố tự đánh lừa mình và lý luận quanh co để ngụy biện rằng chế độ vẫn có thể tồn tại sau một vài thích nghi, rồi vẫn ngoan cố chống lại mọi đòi hỏi dân chủ hoá.
Đảng cộng sản sẽ chọn con đường tự sát vì lý do giản dị là chấp nhận dân chủ là một quyết định cực kỳ khó khăn đối với một đảng mà thành tích duy nhất chỉ là chiến tranh chống phương Tây và trong suốt quá trình thành lập và trưởng thành chỉ biết có một triết lý chính trị chuyên chính và khủng bố. Hơn nữa đảng cộng sản cũng không có một lãnh tụ nào đủ uy tín để áp đặt chọn lựa đau nhức này. Càng nhức nhối vì chấp nhận dân chủ cũng là chấp nhận thất bại. Không ai có thể đánh giá đầy đủ sự thù ghét của quần chúng đối với đảng và chế độ cộng sản. Nó mạnh hơn nhiều lần mức độ mà người ta có thể tưởng tượng. Đã không có đảng cộng sản nào sống sót được trong cuộc chuyển hoá về dân chủ của các nước Đông Âu và thuộc Liên Xô cũ, dù so với đảng CSVN đó phần lớn là những đảng cộng sản chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn hơn và cũng gây ít oán thù hơn đảng CSVN. Không phải là một sự ngẫu nhiên mà chủ nghĩa cộng sản bị coi là một tội ác đối với loài người. Trong một nước Việt Nam dân chủ và hoà giải có thể có tương lai chính trị cho những đảng viên cộng sản lương thiện và tiến bộ nếu họ lập ra một đảng hoàn toàn khác, nhưng chắc chắn sẽ không có tương lai nào cho đảng cộng sản. Nó sẽ bị quét sạch ngay trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên và mọi đảng được coi như là sự tiếp nối của nó cũng sẽ chịu cùng số phận. Điều oái oăm hiện nay chính là ở chỗ đảng CSVN tuy còn tất cả quyền lực và cũng rất giàu nhưng lại chỉ có một chọn lựa duy nhất là tự huỷ. Chọn lựa này quá khó, vì vậy có mọi triển vọng là đại hội 11 sắp tới sẽ không làm gì khác ngoài việc nhắc lại những khẳng định mà mọi người đều biết là tuyệt vọng.
Những biện luận sắp tới, theo đó chế độ vẫn có thể tiếp tục tồn tại, sẽ chẳng thuyết phục được ai vì thế đồng minh Mỹ bao hàm những hậu quả nghiêm trọng cho đảng cộng sản.
Nó khiến cuộc chiến tranh “chống Mỹ cứu nước” xuất hiện như một sai lầm đẫm máu và một thiệt hại lớn cho dân tộc mà đảng cộng sản là thủ phạm. Nó đồng thời cũng biến sự du nhập chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam như một tội lớn. Cuộc tranh cãi về công và tội của đảng cộng sản sẽ chấm dứt và phán quyết sẽ không có phúc thẩm vì chính quyền cộng sản lại là một chính quyền cực kỳ tham nhũng.
Nó cũng khiến các áp lực dân chủ hoá gia tăng ở một mức độ ngột ngạt. Những áp lực chính trị của chính phủ Mỹ -và các nước Châu Âu- tuy sẽ gia tăng nhưng sẽ không đáng kể so với những áp lực hàng ngày đến từ sự cọ sát thường trực, qua từng hợp đồng thương mại và đầu tư, qua sự điều hành các công ty có vốn nước ngoài, qua trao đổi văn hoá, giáo dục, âm nhạc, báo chí v.v. Vài thí dụ cụ thể: chính quyền cộng sản sẽ không thể cấm các công ty nước ngoài tuyển dụng những nhân viên mà họ muốn, cấm những người Mỹ gốc Việt Nam về làm việc tại Việt Nam, cấm nhập khẩu sách báo Mỹ, công an Việt Nam không còn có thể đánh phá và gửi vi trùng vào các báo điện tử v.v. Tất cả sẽ nhanh chóng tạo ra một bối cảnh chính trị mới, khiến chính sách đàn áp trở thành vừa bất lực vừa vô duyên.
* * *
Dân chủ sẽ đến, nhưng sẽ đến lúc nào, trong vòng hai năm hay mười năm? Và sẽ đến như thế nào, dân chủ lành mạnh hay một thứ dân chủ hình thức bệnh hoạn, mafia, cũng không khá hơn bao nhiêu so với chế độ này?
Đó là những câu hỏi lớn vượt ngoài khuôn khổ của bài này. Nhưng có ít nhất hai điều cần được khẳng định ngay:
- Một là Mỹ và các nước dân chủ khác sẽ tuyệt đối không tìm cách lật đổ chính quyền cộng sản, trái lại họ không muốn có xáo trộn chính trị. Họ sẽ chỉ đòi chính quyền này tôn trọng một số quyền tự do chính trị cơ bản. Những đòi hỏi này, mà chính quyền cộng sản Việt Nam không thể tiếp tục trắng trợn bác bỏ như cho tới nay, sẽ tạo ra một bối cảnh thuận lợi cho cuộc vận động dân chủ hoá đất nước, nhưng có thay đổi chính quyền hay không và thay đổi sớm hay muộn hoàn toàn do người Việt Nam. Phải có một lực lượng dân chủ đủ mạnh để thắng sự ngoan cố của ban lãnh đạo cộng sản.
-Hai là để giành thắng lợi cho dân chủ cũng như để xây dựng thành công sau đó một nước Việt Nam dân chủ chúng ta cần những người dân chủ gắn bó với nhau trong một tổ chức mạnh. Phải có ít nhất một đảng dân chủ đúng nghĩa và có tầm vóc.
Trước mắt, một giai đoạn đoạn dồn dập thay đổi đầy hứa hẹn nhưng cũng đầy thử thách sắp mở ra. Như thường lệ sẽ vẫn có những nhân sĩ thấy tình hình thuận lợi nhảy ra đề nghị bắt đầu lại từ số không, tranh đua gây tiếng vang bằng những tuyên ngôn tuyên cáo và thành lập vội vã những kết hợp chỉ có vỏ mà không có ruột. Những manh động này cuối cùng chỉ có tác dụng đánh lạc sự chú ý khỏi những cố gắng nghiêm chỉnh. Cũng sẽ không thiếu những “tổ chức dân chủ” do đảng cộng sản lập ra trong mục đích đánh lừa dư luận và biến môi trường dân chủ thành một chợ trời nhốn nháo. Những người dân chủ đứng đắn, dù ở trong hay ngoài nước, dù ở trong hay ngoài bộ máy đảng và nhà nước cộng sản, phải cảnh giác để phân biệt hàng thực và hàng giả, những cố gắng có chiều sâu và những vọng động phù phiếm. Quan trọng hơn họ phải dám kết nghĩa với nhau một cách chặt chẽ, mạnh bạo, thực tình trong một tổ chức dân chủ thực sự, có mục tiêu trong sáng và có đội ngũ gắn bó. Tóm lại, quyết tâm và sáng suốt.
Nguyễn Gia Kiểng
© Thông Luận 2010

CHỬI CHÀY VÀ CỐI :

CHỬI CHÀY VÀ CỐI :
CHỬI CHA MẤY THẰNG CƯỚP ĐẤT CỦA BÀ
ĐỂ XẢ XÌ TRÉT MỜI CÁC ĐỌC CHO VUI :
“ Mả bố đứa nào chiếm đất của bà! Mày lấy đất bà, mày rào, mày ngăn, mày xây nhà ngói, mày rói, mày gói, mày dâng cho thằng trắng râu đầu bạc, nó sắp sửa ngồi bát bình hương nhà mày nó xơi nhá ” .
- Làng trên xóm dưới, bên ngược bên xuôi, tôi có miếng đất bằng ba ngón tay. Hôm qua tôi còn trồng rau, thế mà bây giờ nó bị mất.Ai lấy thì cho tôi xin, nếu không trả thì tôi chửi cho mà nghe. Ấy…ấy…
- Bố cái thằng chết đâm, cha cái thằng chết xỉa. Mày day tay mặt, mày đặt tay trái, nỡ lòng nào chiếm của bà đây miếng đất, Này bà bảo cho chúng mày biết: Miếng đất là của ông cha bà để lại, nó bị chiếm về tay nhà mày thì nó thành cái bãi tha ma chôn hết dòng họ nhà mày,chôn ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con cái nhà mày đấy. Ấy…ấy….
Mày ăn không miếng đất nhà bà thì mày ăn một mét vuông, chết một đứa, ăn hai mét vuông chết hai đứa, ăn ba mét vuông chết ba đứa và ăn cả miếng đất đó sẽ chết cả ổ nhà mày…
- Bốn thằng bò xanh đứng đầu ngõ, ba thằng cờ đỏ đứng đầu làng, đưa đám tang cả nhà mày ra đồng làng chôn đấy. Mày có khôn hồn mang trả ngay miếng đất đó cho tao, kẻo không tao đào mồ, quật mả cao tầng tổ khảo, cao tằng tố tỉ, thúc, bá, huynh, đệ, cô, dì, tỉ muội nhà mày đấy.
- Cha tiên nhân ông nội, ông ngọai, ông dại, ông khôn, đồng môn chi rễ nhà mày nhé. Mày gian tham đã ăn trộm đất của bao người, chôm chỉa miếng đất nhà tao. Rồi ra, nhà chúng mày chết một đời cha, chết ba đời con, đẻ non, đẻ ngược, chân ra trước, đầu ra sau, đẻ sót nhau. Chết mau chết sớm, chết trẻ đẻ ngang nhé…
“ Cha tiên nhân tam tứ đại đồng đường nhà mày, đồ quạ tha ma bắt, đồ ăn gian nói dối, dám đổi trắng thay đen, dám vu oan giá họa cho nhà bà. Bà truyền bảo ba hồn chí vía cho nhà mày biết: Quân điêu ngoa đi ngang về tắt, quen thói giăng hoa chim chuột, không chết treo chết chém thì cũng chết sông chết ngòi, chết đường chết xá, mưa sa gió dập đời mày. Ba vạn chín nghìn âm binh quen đựng điều đặt chuyện, cũng không cứu nổi cái tội mỏng môi hay hớt của m..à..y…m…à..y..đấy nhá !”
Miếng đất của tao có được bằng mồ hôi, bằng nước mắt của tổ tiên tao, vậy thằng cha nhà mày đã chiếm của tao. Nó là mảnh đất thờ tự, nó về nhà mày là miếng đất dữ, nó ếm đứa nào ăn miếng đất nhà tao.. Mày không trả đất nhà tao , tao đóng ghế 9 tháng 10 ngày, buổi sáng tao chửi, buổi chiều tao tế, buổi trưa tao hú, buổi tối tao nguyền. Tao rủa cho cây vàng lá, cho quả chột thui, cho thần trùng đến rút từng khúc ruột cha, ông, vợ, con nhà mày ra.
- Tao hú ba hồn bẩy vía thằng đàn ông, ba hồn chín vía con đàn bà đã chiếm đất nhà tao. Thằng đứng chiếu ngang, thằng sang chiếu dọc, thằng đọc văn tế, thằng bế cái hài, thằng nhai thủ lợn. Tao gọi ông cầm cờ xanh đứng đầu ngõ, ông cờ đỏ đứng sau nhà, ông cờ vàng dựa bên hữu, ông cờ trắng nghiêng bên tả, yểm cho nhà mày đẻ con ra thì ngược, sinh cháu ra thì ngang vì dám cả gan ăn con gà mái nhà tao
“ Cha đẻ mẹ thằng đàn ông, con đàn bà nào quen thói bán không mua chịu, quên vay đầy giả vơi, đẻ con có mồm mà nói điêu, có mắt mà nói mò như mày…Cha đẻ nhà chúng mày nhá… ”.
- Hôm nay tao chửi một, ngày mai tao chửi hai, tao chửi cho chúng mày hóa điên hóa cuồng, tao rủa suốt tháng liên miên không ngừng, năm này qua năm nọ. Bây giờ tao mệt quá rồi, tao vào lo cơm nước cho con tao, muốn sống thì phải trả đất cho tao , lạy tao hai lạy, tao tha cho mày. Nếu không, ngày mai tao tế sống chúng mày cho mà biết, chúng mày hãy vén màng tai, gài mái tóc, chặt hàng rào cho thấp mà nghe tao chửi: Bớ con nào chiếm đất nhà tao là chúa lộn chồng, thằng nào ăn đất nhà tao là đàn ông ba đời đi ở đợ, đẻ con không có lỗ ~~~. Bớ…
Có là…là… hùm, là hổ thì cũng chui từ cái lỗ kín của đàn bà mà ra. Từ ông ba mươi đến con thối thây, thối xác cũng chẳng thóat được cái lỗ rò ấy. Đời con đời cháu nhà mày cũng ở cái giống ấy mà chui ra. Này, bà báo đời cho mày biết nhá, con đĩ gầy, đĩ rạc, con đĩ chửa hoang…”
Cha năm đời mười đứa nào chiếm đất của bà thì thò mặt ra nghe bà chửi thêm nhé! Màychôm chỉa đất tao, mày ủi mày rào, mày cào, mày xây. Cho vợ, cho chồng, cho con, cho cái, khi khi khú khí với nhau nhá! Mày có khôn hồn thì trả ngay cho bà, nếu không ngày rằm, ngày một bà trồng cây chuối ngược, bà gọi thần trùng đỏ mỏ, mặt xanh nanh trắng đến bắt cả nhà mày đi! “
NHÁI THEO BÀI “chửi mất gà”

Hiến chương 08 (Linh Bát Hiến Chương)

Hiến chương 08 (Linh Bát Hiến Chương)
• Tư tưởng triết học
• Thế giới
Khánh Đăng lược dịch
Thông Luận
Văn kiện dưới đây, gọi là Hiến chương 08 (Linh Bát Hiến Chương) do hơn 300 công dân có tiếng tăm ở Trung Quốc ký vào, được ấp ủ và viết ra trong sự khâm phục tận đáy lòng đối với những người sáng lập ra bản Hiến chương 77 ở Tiệp Khắc, là nơi mà vào năm 1977, hơn hai trăm nhà trí thức khoa bảng Tiệp Khắc đã lập ra một tập hợp công khai, không chính thức gồm nhiều người có cùng một ý chí, đoàn kết lại với nhau để tranh đấu cho nhân quyền và dân quyền ở đất nước họ và trên khắp thế giới.
Hiến chương 08 không những chỉ kêu gọi cải tổ lại hệ thống chính trị hiện thời ở Trung Quốc, nhưng còn kêu gọi chấm dứt một số nét đặc trưng của chế độ, trong đó có quyền cai trị độc đảng, và thay thế bằng một hệ thống đặt căn bản trên dân chủ nhân quyền.
Những công dân ký tên vào bản Hiến chương 08 bao gồm những người trong chính quyền lẫn dân sự, không phải chỉ có các nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng và giới trí thức khoa bảng, mà có cả các cán bộ trung cấp và thành phần lãnh đạo ở nông thôn. Họ chọn ngày 10 tháng 12, dịp kỷ niệm lần thứ 60 ngày công bố bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, là ngày để họ bày tỏ các ý kiến chính trị và phác thảo ra viễn kiến của họ về một nước Trung Hoa dân chủ và hợp hiến. Họ dự kiến rằng Hiến chương 08 sẽ được dùng như một bản thiết kế cho những thay đổi chính trị cơ bản ở Trung Quốc trong những năm sắp tới đây. Những người ký tên vào văn kiện này sẽ thành lập ra một nhóm không theo quy định nào, và không giới hạn số người tham gia, cùng đoàn kết trong một quyết tâm để cổ suý việc dân chủ hoá và bảo vệ nhân quyền ở Trung Quốc và khắp nơi.
Vào ngày 8 tháng 12, hai người nổi tiếng ký tên vào bản Hiến chương 08, nhà văn Lưu Hiểu Ba (Liu Xiaobo) và học giả Trương Tổ Hoa (Zhang Zuhua) đã bị công an Trung Quốc bắt giữ. Ông Trương Tổ Hoa đã được thả vào ngày 9 tháng 12, còn ông Lưu Hiểu Ba vẫn còn bị giam giữ.
Dưới đây là bản tiếng Việt Hiến chương 08 do Khánh Ðăng lược dịch từ bản Anh ngữ của Perry Link. Giáo sư Perry Link là giáo sư dạy môn Văn học Trung Hoa tại Đại học California, Riverside. Bản tiếng Anh của Gs. Perry Link sẽ được ấn hành trong tập san The New York Review of Books, vol. 56, số 1 (đề ngày 15/01/2009 nhưng sẽ phát hành ngày 02/01/2009. Tuy vậy, bạn đọc có thể tìm đọc bản dịch tiếng Anh này trên trang báo điện tử của The New York Review of Books. Bạn đọc cũng có thể tìm đọc bản tiếng Anh này trên trang blog của nhóm sinh viên Trung Hoa tại đại học Luật Harvard có tên là "Quê nhà là nơi trái tim nương náu" (Home is where the heart dwells).
I. Lời Nói Ðầu
Một trăm năm đã trôi qua kể từ khi bản hiến pháp đầu tiên của Trung Quốc được viết ra. Năm 2008 cũng đánh dấu dịp kỷ niệm lần thứ 60 ngày công bố bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, kỷ niệm lần thứ 13 ngày Bức tường Dân chủ ở Bắc Kinh bị biến mất, và kỷ niệm lần thứ 10 ngày Trung Quốc ký kết bản Công Ước Quốc Tế về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị. Chúng ta đang tiến đến dịp kỷ niệm lần thứ 20 cuộc Thảm sát Thiên An Môn của các học sinh xuống đường biểu tình ủng hộ cho dân chủ. Người dân Trung Quốc, là những người đã cam chịu các thảm hoạ về nhân quyền và vô số sự vất vả trong suốt những năm tháng này, bây giờ gồm cả nhiều người đang nhìn thấy rõ rằng tự do, bình đẳng, và nhân quyền là những giá trị phổ quát của nhân loại; và nền dân chủ với một chính phủ hợp hiến là khuôn khổ cơ bản để bảo vệ những giá trị này.

Nhà văn Lưu Hiểu Ba (Liu Xiaobo)
Bằng cách tách rời khỏi những giá trị này, việc tiến hành công cuộc “hiện đại hoá” của chính phủ Trung Quốc đã chứng minh là một thảm bại. Chính phủ Trung Quốc đã tước đoạt khỏi người dân quyền làm người của họ, phá huỷ nhân cách, và làm hư hỏng mối quan hệ bình thường giữa con người với nhau. Cho nên chúng tôi thắc mắc rằng: Ðất nước Trung Quốc đang đi về đâu trong thế kỷ thứ 21? Có phải Trung Quốc sẽ tiếp tục công cuộc “hiện đại hoá” dưới chế độ độc tài, hay sẽ đón nhận những giá trị nhân bản phổ quát, tham gia vào cùng với dòng chính của các quốc gia văn minh, và xây dựng một chế độ dân chủ? Không thể nào tránh khỏi những câu hỏi này.
Những dao động của ảnh hưởng Tây phương trên Trung Quốc trong thế kỷ thứ 19 đã phơi bày trần trụi một hệ thống độc đoán suy tàn và đánh dấu sự khởi đầu của điều thường được gọi là “những thay đổi vĩ đại nhất trong hàng ngàn năm” cho Trung Quốc. Một “phong trào tự lực cánh sinh” đã theo sau, nhưng đơn giản chỉ nhắm riêng vào việc dùng kỹ thuật để đóng tàu vũ trang và những mục tiêu vật chất khác cho Tây phương. Trận hải chiến thất bại nhục nhã vào tay Nhật Bản năm 1885 chỉ xác minh thêm bản chất lỗi thời của hệ thống nhà nước Trung Quốc. Dự tính đầu tiên nhằm thay đổi sang một nền chính trị hiện đại đã đến với những cải cách ở mùa hè bất hạnh năm 1898, nhưng những cải cách này đã bị nghiến nát một cách tàn bạo bởi những kẻ bảo thủ cực đoan của toà án phong kiến Trung Hoa. Với cuộc cách mạng năm 1911, khai mào một nước cộng hoà đầu tiên ở Á Châu, hệ thống phong kiến độc đoán kéo dài hàng thế kỷ cuối cùng coi như bị chôn vùi. Nhưng xung đột xã hội bên trong đất nước chúng ta và những áp lực từ bên ngoài đã ngăn ngừa nó; Trung Quốc rơi vào một tình trạng chấp vá với những lãnh địa của các sứ quân và nước cộng hoà tân lập trở thành một giấc phù du.
Sự thất bại của cả “tự lực cánh sinh” lẫn cải tiến chính trị đã làm cho cha ông chúng ta phải suy ngẫm một cách sâu sa không biết có phải một “căn bệnh văn hoá” đã làm đau đớn tổ quốc mình hay không. Trạng thái này làm phát sinh ra, trong Phong trào 4 Tháng 5 ở cuối thập niên 1910, cuộc tranh đấu cho “khoa học và dân chủ”. Nhưng nỗ lực đó cũng bị đắm chìm vì loạn sứ quân dai dẳng và cuộc xâm lăng của Nhật Bản [bắt đầu ở Mãn Châu vào năm 1931] đã đưa đến cuộc khủng hoảng toàn quốc.
Chiến thắng chống Nhật Bản vào năm 1945 giúp cho Trung Quốc có thêm một cơ hội để tiến đến một nhà nước hiện đại, nhưng việc Cộng sản đánh bại Quốc gia trong cuộc nội chiến đã xô đẩy cả nước vào vực thẳm của chủ nghĩa độc tài. Nước “Trung Quốc mới” xuất hiện vào năm 1949 tuyên bố rằng “nhân dân làm chủ” nhưng thực ra đã xếp đặt ra một hệ thống trong đó “Ðảng nắm tất cả mọi quyền lực”. Ðảng Cộng sản Trung Quốc chiếm đoạt quyền kiểm soát tất cả các tổ chức nhà nước và các tiềm lực chính trị, kinh tế, xã hội, và dùng các tiềm lực này để sản xuất ra một vệt dài các thảm hoạ nhân quyền, mà trong đó, cùng với nhiều thứ khác như chiến dịch Chống Cánh Hữu (1957), chiến dịch Ðại Nhảy Vọt (1958–1960), cuộc Cách mạng Văn hoá (1966-1969), cuộc Thảm sát Thiên An Môn ngày 4 Tháng 6 (1989), và sự trù dập hiện nay đối với tất cả các tôn giáo không có phép hoạt động của nhà nước, và đàn áp phong trào weiquan [một phong trào nhắm vào mục đích bảo vệ những quyền lợi của công dân đã được chính thức công bố trong Hiến pháp Trung Quốc, và tranh đấu cho nhân quyền đã được thừa nhận bởi các công ước quốc tế mà chính phủ Trung Quốc đã ký kết]. Qua những sự kiện này, người dân Trung Quốc đã phải trả một cái giá vô cùng to lớn. Hàng triệu người bị thiệt mạng, và hàng thế hệ phải chứng kiến tự do, hạnh phúc và nhân phẩm con người bị chà đạp tàn bạo.
Trong hai thập niên cuối của thế kỷ thứ 20, chính sách “cải cách và mở cửa” của chính phủ đã giúp cho người dân Trung Quốc bớt đi nỗi khổ sở vì nghèo đói và tình trạng chuyên chế độc đoán lan tràn khắp nơi trong thời kỳ Mao Trạch Ðông, đồng thời đem lại sự gia tăng rất đáng kể về vật chất và tiêu chuẩn đời sống cho rất nhiều người Trung Quốc, cũng như một phần nào đó khôi phục lại tự do và quyền lợi về kinh tế. Xã hội dân sự bắt đầu tiến triển, và nhiều tiếng nói rất phổ biến kêu gọi thêm cho quyền lợi và tự do chính trị gia tăng nhanh chóng. Trong khi giới quyền cao chức trọng chuyển về hướng tư hữu và kinh tế thị trường, họ đã bắt đầu từ hoàn toàn bác bỏ “các quyền con người” sang nhìn nhận một phần nào các quyền này.
Vào năm 1998 chính phủ Trung Quốc đã ký kết hai văn kiện nhân quyền quốc tế quan trọng; vào năm 2004 họ đã sửa đổi hiến pháp để thêm vào câu “tôn trọng và bảo vệ nhân quyền”; và trong năm nay, 2008, họ đã hứa hẹn sẽ đề xướng một “kế hoạch hành động cho nhân quyền trên toàn quốc”. Nhưng thật là bất hạnh, hầu hết các tiến bộ chính trị này không vượt ra khỏi tờ giấy mà nó được viết lên. Ðiều thực tế về chính trị, rất đơn giản cho mọi người cùng thấy, là Trung Quốc có rất nhiều luật, nhưng lại không được cai trị bằng luật pháp; họ có một hiến pháp, nhưng không có một chính phủ hợp hiến. Thành phần quyền cao chức trọng tiếp tục bám víu vào quyền lực độc đoán và chống lại bất cứ hành động nào nhắm vào việc thay đổi chính trị.
Những kết quả rất lố bịch là quốc nạn tham nhũng lan tràn, một nền pháp trị bị xói mòn, nhân quyền yếu kém, đạo đức suy đồi, tư bản bè phái, sự bất bình đẳng giữa kẻ giàu người nghèo ngày càng gia tăng, sự cướp phá các môi trường thiên nhiên cũng như các môi trường của con người và lịch sử, một danh sách dài về những bất đồng trong xã hội đang trầm trọng, nhất là trong thời gian gần đây, mối oán thù giữa cán bộ nhà nước và người dân càng thêm sâu sắc.
Những bất đồng và khủng hoảng này hơn lúc nào hết đang tăng thêm mức độ căng thẳng, và giới cầm quyền không bị mất mát gì vẫn tiếp tục đè nát và tước mất của người dân quyền được tự do, được sở hữu tài sản và được mưu cầu hạnh phúc, chúng ta nhìn thấy thành phần không có quyền thế trong xã hội – những kẻ yếu đuối, là những người đã bị đàn áp và theo dõi, những người đã phải chịu đựng các hành động tàn ác và thậm chí cả tra tấn, và những người không có một lối thoát thích đáng nào để phản kháng, không toà án nào nghe lời kêu nài của họ– đang trở nên hung hãn hơn và có khả năng phát động ra một cuộc xung đột dữ dội với một thảm hoạ khôn lường. Sự tàn tạ của hệ thống hiện thời đã tiến đến lúc thay đổi không còn là một sự lựa chọn.
II. Những Nguyên Tắc Cơ Bản Của Chúng Tôi
Ðây là lúc lịch sử cho Trung Quốc, và tương lai của chúng ta đang treo lơ lửng. Trong khi nhìn lại tiến trình hiện đại hoá chính trị qua hàng trăm năm qua hoặc hơn, chúng tôi xin nhắc lại và tán thành những giá trị phổ quát căn bản như sau:
Tự do. Tự do là cốt lõi của giá trị nhân bản phổ quát. Tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do sống nơi mình muốn sống, và tự do bãi công, biểu tình, phản đối cùng với nhiều thứ tự do khác, là những hình thức mà quyền tự do cần có. Không có tự do, Trung Quốc sẽ luôn luôn đứng cách xa những lý tưởng văn minh.
Nhân quyền. Nhân quyền không phải do nhà nước ban cho. Mọi người đều sinh ra với quyền thừa hưởng về phẩm cách và tự do. Chính phủ chỉ tồn tại để bảo vệ quyền làm người cho công dân của họ. Việc thi hành quyền lực nhà nước phải do nhân dân định đoạt. Những thảm hoạ chính trị liên tục trong lịch sử gần đây của Trung Quốc là hậu quả trực tiếp của việc chế độ cầm quyền bất chấp không đếm xỉa gì đến nhân quyền.
Bình đẳng. Sự chính trực, phẩm cách, và tự do của tất cả mọi người—bất kể địa vị xã hội, nghề nghiệp, phái tính, điều kiện kinh tế, sắc tộc, màu da, tôn giáo, hay lập trường chính trị—đều giống nhau. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và bình đẳng trong xã hội, kinh tế, văn hoá, dân sự và quyền lợi chính trị phải được tôn trọng.
Cộng hoà. Nền cộng hoà nắm giữ quyền lực phải được cân xứng trong các ban ngành khác nhau của chính phủ và việc tranh đua vì lợi ích phải được đáp ứng, giống như lý tưởng chính trị truyền thống của Trung Hoa “Thiên hạ bình đẳng”. Nền cộng hoà cho phép các nhóm lợi ích, các tổ chức xã hội khác nhau, và những người từ các nền văn hoá tín ngưỡng khác biệt, được thực hiện quyền dân chủ tự trị và bàn thảo nhằm mục đích tiến đến một giải pháp ôn hoà cho những vấn đề chung trên căn bản tự do, đồng đều, tranh đua ngay thẳng trong việc tham gia vào chính phủ.
Dân chủ. Nguyên tắc cơ bản nhất của dân chủ là người dân làm chủ, và người dân chọn lựa chính phủ cho mình. Dân chủ có những đặc điểm sau: (1) Quyền lực chính trị bắt đầu từ người dân và tính chính đáng của một chế độ bắt nguồn từ người dân. (2) Quyền lực chính trị được thực hiện qua những lựa chọn mà người dân đã xếp đặt. (3) Những người nắm giữ các chức vụ quan trọng chính thức trong chính phủ ở tất cả các cấp được xác định qua các cuộc tranh đua bầu cử theo định kỳ. (4) Trong khi tôn trọng ý muốn của đa số, thì phẩm cách, tự do và quyền làm người cơ bản của thiểu số phải được bảo vệ. Một cách ngắn gọn, thì dân chủ là phương tiện hiện đại để đạt đến một chính phủ thật sự là “của dân, do dân và vì dân”.
Hiến trị. Hiến trị là sự cai trị bằng một hệ thống pháp luật và những quy tắc của pháp luật để thi hành những nguyên tắc được ghi rõ ràng trong hiến pháp. Hiến trị có nghĩa là bảo vệ tự do và quyền lợi của công dân, giới hạn và định rõ phạm vi quyền lực chính đáng của chính phủ, và cung cấp cho chính quyền các cơ quan cần thiết để phục vụ cho những mục đích này.
III. Những Ðiều Chúng Tôi Cổ Vũ
Chủ nghĩa độc tài nói chung đang suy tàn trên toàn thế giới; ở Trung Quốc cũng thế, thời kỳ của các hoàng đế và chúa tể đang biến mất. Thời cơ đang đến khắp nơi cho các công dân làm chủ lấy đất nước mình. Ðối với Trung Quốc, con đường để đưa chúng ta ra khỏi tình trạng khó khăn hiện thời là tự gạt bỏ khái niệm độc đoán của việc lệ thuộc vào một “chúa tể” hoặc một “quan chức”, và thay vào đó quay sang một hệ thống tự do, dân chủ, và pháp trị, đồng thời tiến đến việc khuyến khích cổ vũ cho ý thức của các công dân mới, là những người xem quyền con người là cơ bản và việc góp phần vào là một nhiệm vụ. Theo đó, và trong tinh thần của nghĩa vụ này như những công dân có trách nhiệm và tinh thần xây dựng, chúng tôi xin đưa ra những đề nghị sau về việc cai quản đất nước, về quyền công dân, và phát triển xã hội.
1. Một Hiến Pháp Mới. Chúng ta nên đúc kết lại bản hiến pháp hiện thời, huỷ bỏ những điều khoản trái ngược với nguyên tắc quyền làm chủ phải thuộc về người dân và biến bản hiến pháp thành một văn kiện bảo đảm thật sự cho nhân quyền, uỷ quyền việc thực hiện quyền lực công cộng, và phục vụ như một nền tảng để giúp chống đỡ cho việc dân chủ hoá Trung Quốc. Hiến pháp phải là luật cao nhất trong nước, nằm ngoài tầm ảnh hưởng của bất cứ cá nhân, phe nhóm hoặc đảng phái chính trị nào.
2. Phân Chia Quyền Lực. Chúng ta nên xây dựng một nhà nước hiện đại, trong đó việc phân chia các quyền lập pháp, tư pháp, và hành pháp được bảo đảm. Chúng ta cần có một Ðạo luật Hành chánh để định rõ ra phạm vi trách nhiệm của chính phủ và ngăn ngừa việc lạm dụng quyền lực hành chánh. Chính phủ phải có trách nhiệm đối với người đóng thuế. Việc phân chia quyền lực giữa các chính quyền địa phương và trung ương phải tôn trọng triệt để nguyên tắc quyền lực trung ương là những quyền được hiến pháp đặc biệt trao cho, và tất cả các quyền lực khác thuộc về các chính quyền địa phương.
3. Dân Chủ Lập Pháp. Thành viên của các cơ quan lập pháp ở tất cả các tầng lớp phải được lựa chọn bằng bầu cử trực tiếp, và dân chủ lập pháp phải tuân theo các nguyên tắc công bình và vô tư.
4. Toà Án Ðộc Lập. Tinh thần pháp trị phải nằm trên mọi quyền lợi của bất cứ một đảng phái chính trị nào, và các thẩm phán phải độc lập. Chúng ta cần thiết lập một toà án hiến pháp tối cao và lập ra những thủ tục để duyệt xét lại hiến pháp. Càng sớm càng tốt, chúng ta nên huỷ bỏ tất cả các Uỷ ban Chính trị và Pháp vụ hiện đang cho phép các đảng viên Ðảng cộng sản các cấp được quyết định các trường hợp chính trị nhạy cảm. Chúng ta nên nghiêm cấm chặt chẽ việc dùng các công sở vào mục đích tư nhân.
5. Kiểm Soát Công Khai Công Chức Nhà Nước. Quân đội phải chịu trách nhiệm trước chính phủ, chứ không phải trước một đảng phái chính trị nào, và phải có tính chuyên nghiệp hơn nữa. Các sĩ quan binh sĩ phải tuyên thệ trung thành với hiến pháp và duy trì một thái độ vô tư không đảng phái. Nghiêm cấm các tổ chức đảng phái chính trị không được dính dáng đến quân sự. Tất cả các quan chức nhà nước kể cả công an phải phục vụ trong tư cách vô tư không đảng phái, và cái thói quen hiện thời thiên vị về một đảng phái chính trị trong việc thuê mướn công chức làm việc cho nhà nước phải chấm dứt.
6. Bảo Ðảm Nhân Quyền. Phải có sự bảo đảm nghiêm chỉnh cho nhân quyền và tôn trọng phẩm giá con người. Phải có một Uỷ ban Nhân quyền, chịu trách nhiệm trước cơ quan lâp pháp cao nhất, để ngăn ngừa chính phủ lạm dụng quyền lực công cộng vào việc vi phạm nhân quyền. Ðặc biệt là một Trung Quốc dân chủ và hợp hiến phải bảo đảm quyền tự do cá nhân cho các công dân. Không một ai bị bắt buộc phải chịu đựng những sự bắt bớ, giam cầm, hạch hỏi, buộc tội hoặc trừng phạt một cách trái phép. Chính sách “Giáo dục cải tạo lao động” phải được huỷ bỏ.
7. Bầu Cử Các Chức Vụ Nhà Nước. Phải có một hệ thống bầu cử dân chủ toàn diện đặt căn bản trên “mỗi người một lá phiếu”. Việc bầu cử trực tiếp các chức vụ đứng đầu các cơ quan hành chánh các cấp ở các quận huyện, tỉnh thành, và toàn quốc phải được thực hiện một cách có hệ thống. Quyền tổ chức và tham gia các cuộc bầu cử tự do theo định kỳ của công dân phải gắn liền với nhau.
8. Bình Ðẳng Giữa Nông Thôn Và Thành Thị. Chế độ đăng ký hộ khẩu theo hai tầng lớp phải được huỷ bỏ. Chế độ này thiên vị cư dân thành thị và gây tác hại cho dân chúng ở nông thôn. Thay vào đó chúng ta nên thiết lập một hệ thống cho phép mọi công dân đều có quyền lợi giống nhau trước hiến pháp và quyền tự do như nhau trong việc lựa chọn nơi sinh sống.
9. Tự Do Thành Lập Hội Ðoàn. Quyền tự do của công dân được thành lập các hội đoàn phải được bảo đảm. Chính sách hiện thời về việc đăng ký các tổ chức phi chính phủ, đòi hỏi tổ chức đó “phải được nhà nước chấp thuận”, phải được thay thế bằng một hệ thống trong đó các tổ chức chỉ cần đơn giản tự đăng ký. Việc thành lập các đảng phái chính trị nên được quản lý bởi hiến pháp và theo luật định, có nghĩa là chúng ta phải huỷ bỏ các đặc ân dành cho một đảng phái được độc quyền nắm giữ quyền lực, và bảo đảm cho nguyên tắc tự do thẳng thắn tranh đua giữa các đảng phái chính trị.
10. Tự Do Hội Họp. Hiến pháp quy định rằng việc tụ họp ôn hoà, biểu tình, phản đối và tự do bày tỏ tư tưởng là những quyền cơ bản của một công dân. Ðảng cầm quyền và chính phủ không được phép nhúng tay vào can thiệp trái phép hoặc gây trở ngại trái với hiến pháp.
11. Tự Do Bày Tỏ Tư Tưởng. Chúng ta phải làm cho quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, và tự do học hỏi được phổ biến, do đó bảo đảm rằng mọi công dân đều được thông tin và có thể thực hiện quyền giám sát chính trị của mình. Các quyền tự do này nên được nâng đỡ bằng một Luật Báo Chí nhằm huỷ bỏ tất cả các hạn chế chính trị trên báo chí. Ðiều khoản hiện hành trong Bộ Luật Hình Sự nhắc đến “tội kích động lật đổ quyền lực nhà nước” phải được huỷ bỏ. Chúng ta nên chấm dứt cái thói quen coi chữ nghĩa là tội ác.
12. Tự Do Tôn Giáo. Chúng ta phải bảo đảm cho quyền tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng và tiến hành việc tách rời tôn giáo ra khỏi nhà nước. Chính phủ không được phép can thiệp vào các hoạt động tôn giáo ôn hoà. Chúng ta phải huỷ bỏ bất cứ mọi luật lệ, quy định hoặc phép tắc của địa phương nào làm giới hạn hoặc cấm đoán quyền tự do tôn giáo của công dân. Chúng ta phải huỷ bỏ cái chính sách hiện hành đòi hỏi các tổ chức tôn giáo (và nơi thờ phượng của họ) phải xin phép được chính quyền chấp thuận trước, và thay thế bằng một hệ thống, trong đó việc đăng ký và những ai muốn đăng ký, là do tự động lựa chọn.
13. Giáo Dục Công Dân. Trong các nhà trường chúng ta phải huỷ bỏ các môn học và kiểm tra chính trị được đề ra để nhồi sọ tư tưởng của nhà nước vào đầu các học sinh, và làm thấm nhuần sự ủng hộ cho quyền cai trị độc đảng. Chúng ta phải thay thế các môn học chính trị này bằng môn giáo dục công dân để thăng tiến các giá trị phổ quát và các quyền của người dân, nuôi dưỡng ý thức công dân và khuyến khích các đức tính nhằm phục vụ cho xã hội.
14. Bảo Vệ Tài Sản Tư Nhân. Chúng ta phải thiết lập và bảo vệ quyền tư hữu tài sản, và đề xướng ra một hệ thống kinh tế thị trường tự do và công bằng. Chúng ta phải huỷ bỏ việc nhà nước độc quyền trong thương mãi, kỹ nghệ và bảo đảm quyền tự do khai trương ra một doanh nghiệp mới. Chúng ta nên thiết lập một Uỷ ban Tài sản Nhà nước, báo cáo cho quốc hội rằng sẽ giám sát và chuyển nhượng các doanh nghiệp quốc doanh sang cho tư nhân làm chủ, trong một phương cách cạnh tranh thẳng thắn, và trật tự. Chúng ta phải tiến hành một chính sách cải cách ruộng đất nhằm khuyến khích quyền tư hữu đất đai, bảo đảm quyền tự do được mua bán đất đai, và cho phép giá trị thật sự của tài sản tư nhân được phản ánh tương xứng trên thị trường.
15. Tài Chánh Và Cải Cách Thuế Vụ. Chúng ta phải thiết lập một hệ thống tài chánh công cộng có trách nhiệm theo quy định dân chủ để bảo đảm cho quyền lợi của người đóng thuế được bảo vệ và hoạt động dưới các thủ tục pháp lý. Chúng ta cần một hệ thống mà trong đó, tất cả các nguồn thu nhập công cộng thuộc về một cấp chính quyền nào đó —trung ương, tỉnh thành, quận huyện hoặc địa phương— được kiểm soát ở cấp đó. Chúng ta cần một cuộc cải cách thuế vụ quan trọng để huỷ bỏ bất cứ các loại thuế bất công nào, đơn giản hoá hệ thống thuế vụ, và chia sẻ gánh nặng thuế má một cách đồng đều. Quan chức chính phủ không được phép gia tăng thuế má, hoặc đặt ra những loại thuế mới, nếu không có sự bàn thảo công khai và được một quốc hội dân chủ chấp thuận. Chúng ta nên cải cách chính sách về quyền sở hữu nhằm mục đích khuyến khích sự tranh đua khắp nơi của nhiều thành phần tham gia thị trường khác nhau.
16. An Sinh Xã Hội. Chúng ta phải thiết lập một hệ thống an sinh xã hội công bằng và thích ứng để che chở cho tất cả các công dân, và bảo đảm cho các đường lối căn bản dẫn đến giáo dục, chăm sóc y tế, an sinh hưu trí và việc làm.
17. Bảo Vệ Môi Trường. Chúng ta cần bảo vệ môi trường thiên nhiên và khuyến khích phát triển bằng một phương cách có thể chịu đựng được và có trách nhiệm đối với con cháu chúng ta cũng như toàn nhân loại. Ðiều này có nghĩa là đòi hỏi nhà nước và quan chức các cấp không chỉ làm những gì họ phải làm để đạt được những mục tiêu này, nhưng cũng phải chấp nhận sự giám sát và tham gia của các tổ chức phi chính phủ.
18. Một Cộng Hoà Liên Bang. Một nước Trung Quốc dân chủ phải tìm cách hành động như một cường quốc quan trọng có trách nhiệm để góp phần vào nền hoà bình và phát triển ở khu vực Á Châu Thái Bình Dương, bằng cách tiếp xúc với những quốc gia khác trong tinh thần bình đẳng và thẳng thắn. Tại Hong Kong và Macao, chúng ta phải ủng hộ những quyền tự do đã có sẵn ở đó. Về vấn đề Ðài Loan, chúng ta phải tuyên bố cam kết những nguyên tắc tự do dân chủ, và sau đó, thương lượng trong tư cách bình đẳng, và sẵn sàng thoả hiệp để tìm một công thức cho sự thống nhất trong hoà bình. Chúng ta phải giải quyết các mối bất đồng trong các khu vực dân tộc thiểu số ở Trung Quốc với một đầu óc rộng mở, tìm kiếm những phương cách để tạo ra một cơ cấu có khả năng làm việc, mà trong đó tất cả các nhóm thiểu số và tổ chức tôn giáo có thể phát triển. Cuối cùng chúng ta nên nhắm vào mục tiêu một liên bang các cộng đồng dân chủ Trung Quốc.
19. Sự Thật Trong Hoà Giải. Chúng ta phải phục hồi uy tín cho tất cả mọi người kể cả thân nhân của họ, những người đã phải chịu đựng nhiều vết nhơ trong các chiến dịch đàn áp chính trị trong quá khứ, hoặc những người bị gán cho là thành phần tội phạm vì tư tưởng, lời nói hoặc tín ngưỡng của họ. Nhà nước nên bồi thường cho những người này. Tất cả các tù nhân chính trị và lương tâm phải được trả tự do. Nên có một Uỷ ban Ðiều tra Sự thật với nhiệm vụ tìm kiếm sự thật và xác định trách nhiệm về những nỗi bất công và hành động tàn bạo trong quá khứ, duy trì công lý, và trên những căn bản này, tìm kiếm sự hoà giải xã hội.
Trung Quốc là một quốc gia quan trọng trên thế giới, là một trong năm thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, và là một thành viên của Hội đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, phải đóng góp vào nền hoà bình nhân loại và tiến bộ về nhân quyền.
Nhưng bất hạnh thay, tư thế của chúng ta hôm nay lại là quốc gia duy nhất trong các quốc gia quan trọng vẫn còn sa lầy trong vũng bùn của độc tài chính trị. Hệ thống chính trị của chúng ta tiếp tục gây ra những thảm hoạ nhân quyền và khủng hoảng xã hội, do đó, không những chỉ bóp chặt sự phát triển của chính Trung Quốc, nhưng còn giới hạn sự tiến bộ của tất cả các nền văn minh nhân loại. Ðiều này phải được thay đổi, thật sự là phải được thay đổi. Việc dân chủ hoá nền chính trị Trung Quốc không thể để lâu hơn.
Vì thế, chúng tôi gắng sức đưa tinh thần vào hành động bằng cách công bố Hiến chương 08. Chúng tôi hy vọng rằng đồng bào của chúng tôi, những người cùng có những cảm nhận tương tự về sự khủng hoảng, tinh thần trách nhiệm, và sứ mệnh, cho dù là họ đang ở trong hay ngoài chính quyền, bất kể đến địa vị xã hội, sẽ gạt những mối bất hoà nhỏ nhoi sang một bên để nắm lấy những mục tiêu to lớn của phong trào công dân này. Cùng với nhau, chúng ta có thể làm việc cho những thay đổi quan trọng trong xã hội Trung Quốc, và nhanh chóng thiết lập một quốc gia tự do, dân chủ và hợp hiến. Chúng ta có thể đem lại cho thực tế những mục tiêu và lý tưởng này mà đồng bào chúng ta đã không ngừng tìm kiếm suốt hơn một trăm năm, và có thể mang lại một chương rực rỡ mới cho nền văn minh Trung Quốc.
Nguồn: Charter 08 (translated from the Chinese by Perry Link) in The
New York Review of Books, Vol. 56, No. 1 (January, 2009)
Khánh Ðăng lược dịch từ bản Anh ngữ của Perry Link