Thứ Hai, 11 tháng 10, 2010

Sự thay đổi Việt Nam đã gõ cửa

Sự thay đổi Việt Nam đã gõ cửa
Posted on 30/09/2010 by danlambaoblog
Trần Lâm - Cái lợi cho nhân dân Việt Nam: trắng đen rõ ràng, đi với Trung Quốc là mất nước. Trước đây nhân dân Việt Nam đòi dân chủ, trọng tâm là nhìn vào những người lãnh đạo Việt Nam. Nay nhân dân Việt Nam đòi độc lập vừa nhìn vào giới lãnh đạo Việt Nam vừa nhìn vào Trung Quốc. Thế là khẩu hiệu đấu tranh Độc Lập và Dân Chủ được hoàn chỉnh. Cái thuyết “leo dây” tự nó đã phá sản. Con đường theo Trung Quốc là mất cả Đảng, mất cả dân tộc…
“Tư bản hoang dã”
Gần hai trăm năm trước, các nước phương Tây chiếm nhiều thuộc địa. Thế giới khi ấy dân số ít, khoa học kỹ thuật thấp, các thuộc địa càng lạc hậu hơn, mù chữ và lao động tay chân. Thế mà Anh xây dựng được Hồng Kông, Thượng Hải, Calcuta, đường sắt Ấn Độ rất tốt, những hải cảng, những thành phố công nghiệp; Pháp xây dựng được Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẵng, đường sắt xuyên Đông Dương đến Vân Nam. Các nước thực dân còn vơ vét tài nguyên, tiền bạc đưa về chính quốc, nuôi bộ máy cai trị hùng hậu, vơ vét để cung cấp cho hai cuộc chiến tranh thế giới…
Khi tôi còn bé, con đường đá qua làng được mở, cái “hồ lô” là một khối đá hình trụ, to bằng cái ôtô, hàng mấy chục người kéo để làm đường. Họ như những người tù khổ sai. Con đường càng dài ra thì các nấm mồ vô chủ nối tiếp bên đường cũng ngày càng nhiều. Người ta mộ phu đi Tân Thế Giới; một cái xe ọp ẹp chở đám phu mộ, cái xe nổ máy, vợ con, cha mẹ những người phu mộ khóc ré lên! Sau này tôi mới hiểu đó là một cuộc ra đi không hẹn ngày về.
Những cái đã làm được ở thuộc địa của các nước phương Tây trước đây hơn 100 năm mà hôm nay vẫn thấy hợp lý, bền chắc và đẹp là khác, làm cho ta ngỡ ngàng.
Nhiều tài liệu nói lên sự phát triển với tốc độ kinh ngạc của Trung Quốc. Các thành phố ven biển thì thật phồn vinh. Trung Quốc khai thác triệt để lao động của hàng ngàn, hàng triệu người dân vùng sâu, vùng xa, tù nhân, người nghèo làm hàng giá rẻ bán ở Mỹ và tích lũy được hàng ngàn tỉ USA, cho Mỹ nợ… Trung Quốc đầu tư khắp thế giới, thu về lợi nhuận khổng lồ cùng tài nguyên khoáng sản… Trung Quốc đang cố gắng vươn lên chiếm lĩnh các đỉnh cao các ngành khoa học, hiện đại hoá quân đội để phục vụ cho mục đích bành trướng…
Chuyện mấy trăm năm cũng còn xa. Chuyện gần đây, nhiều người nói ở Tân Rai công nhân Trung Quốc nheo nhóc lắm, người già nói giống như lính Tàu sang nước ta hồi năm 1945.
Sự thần kỳ của Trung Quốc hôm nay không có gì bí ẩn ngoài cái gọi là “Tư bản hoang dã”! Còn tư bản hoang dã có sức sống hay không, và với đà hiện tại Trung Quốc đi đến đâu, là số 1 thế giới hay là lụi tàn như quy luật đã dành cho các nước toàn trị?
“Quyền lực mềm”
Nhiều người đang bàn về chủ thuyết “Quyền lực mềm” của giáo sư Jozep Nye. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng dự hội thảo. Có lẽ chủ thuyết được quan tâm vì đang có việc Trung Quốc lăm le thôn tính Việt Nam.
Đã có kết luận qua hàng ngàn năm, khi nào mạnh lên là Trung Quốc bành trướng. Có nhà sử học kết luận: Lịch sử Trung Quốc là lịch sử bành trướng, đúng là lịch sử Trung Quốc không có chiến trường xa, Thành Cát Tư Hãn không phải là người Hán. Lúc này Trung Quốc đang mạnh. Thôn tính theo hướng phương Nam là thuận nhất. Cái không thuận là vấp phải Viêt Nam: Đất rộng, người đông, vị trí đặc biệt và khó chịu nhất là Việt Nam thiện chiến, đã đọ sức nhiều lần với Trung Quốc. Trung Quốc luôn nghĩ Việt Nam “rắn mặt”, “khó bảo”, “xảo quyệt và dũng cảm”…
Giải quyết được Việt Nam, việc lớn của phương Nam coi như đã thành công.
Ông Hồ Cẩm Đào sang thăm Việt Nam. Truyền hình đưa tin chớp nhoáng với câu nói ngắn gọn: “Nhân dân Việt Nam nên tuân thủ những điều mà lãnh đạo Việt Nam đã ký kết”. Ông Đào như thừa nhận Trung Quốc nắm chắc lãnh đạo Việt Nam nhưng lo ngại là nhân dân ta chống đối.
Phóng viên truyền hình thật nhạy bén và sâu sắc. Ông Đào thật là biết người, biết mình. Ông Đào đánh giá thật đúng nhân dân Việt Nam. Nhà đài thật hiểu ông Đào, còn lãnh đạo ta thì không ngẫm nghĩ gì: Bảo không nghe thì bắt bỏ tù, đánh từ người tu hành, đến trí thức, công thần… đánh hết rồi sống một thân một mình giữa thế giới sôi động và đầy bất trắc.
Có người cho là việc kiện Thủ tướng là “con kiến mà kiện củ khoai”! Chưa hẳn thế! Phải coi đây là một thông điệp gửi cho các nhà cầm quyền, là lời kêu gọi và cổ súy cho quyền công dân, cho dân chủ.
Có người cho mấy cái tàu Kilo, còn chưa đóng, bé tí tẹo thì đánh ai? Chưa hẳn thế! Phải coi đây là một thông điệp gửi Trung Quốc là chúng tôi sẵn sàng nghênh chiến, là lời kêu gọi “Độc lập hay là chết”, là một cái tát vào mặt nhóm quỳ gối trước Trung Quốc.
Có người cho trang mạng Bauxit info cũng bình thường như mọi cái đầy trên mạng. Chưa hẳn thế! Đây là một lời tố cáo sự lệ thuộc vào Trung Quốc, vạch ra hiểm hoạ mất nước, nêu cao cảnh giác cho toàn dân.
Những người chủ trương ba việc trên đã nói lên lòng dân, lại đúng lúc, và họ trở nên danh tiếng. Họ đã nêu cao khẩu hiệu: Hoà bình, Độc lập, Dân chủ. Đó là khát vọng của loài người, của nhân dân Việt Nam trong lúc này.
Ba việc trên, Trung Quốc đón nhận, thái độ hung hăng đã giảm bớt, nó mới là một sự khởi động, nó còn âm vang và phát triển thành ngàn triệu tiếng vang, lòng dân đã chuyển đổi, sẽ ngày càng mạnh lên.
Những năm gần đây Trung Quốc xây 14 đập thuỷ điện trên sông Mê Kông thuộc đất họ. Họ còn giúp Thái Lan và Campuchia xây các đập trên đất hai nước. Trung Quốc đã trúng thầu xây đựng các nhà máy thuỷ điện, họ sẽ liên doanh, liên kết. Việt Nam bị phớt lờ. Trung Quốc còn viện trợ cho Campuchia trên 60 tỷ USD. Trung Quốc lại “vũ trang đến tận răng” cho Mianma, một thông tin mới, không có bình luận. Người ta nghĩ đến “con ngựa thành Troa” đối với Asean. Nước sông Mê Kông phía Việt Nam và cả Campuchia và Lào cùng cạn kiệt, tàu thuyền nằm trên cát, cá mất giống… Thế là Trung Quốc cho đồng bằng sông Cửu Long lúc thì chết khát, lúc thì chết đuối, tùy theo ý của Trung Quốc.
Trung Quốc hô hào và đứng lên làm chủ soái cái gọi là “xây dựng hành lang kinh tế sông Mê Kông”.
Có thể tóm lược: Từ đất Trung Quốc, xây dựng 6 tuyến đường bộ, đi qua các nước Mianma, Thái Lan. Lào, Campuchia, Việt Nam… sẽ chuyển hoá các trục này từ hành lang giao thông thành hành lang kinh tế; phát triển rộng khắp 6 tuyến, liên kết với nhau, liên kết với các nước ven đường, rồi tổ chức các tuyến này theo một thể thống nhất “nhất thể hoá”, từ các tuyến này hội nhập các nền kinh tế tại chỗ, “lan toả”, có thể hiểu là thâm nhập kinh tế khu vực. Đó là khái quát những ý đồ cụ thể. Phần đường đầu mối từ Trung Quốc đã làm xong. Trung Quốc đang giúp các nước làm cầu, làm đường nối tiếp. Trong 6 tuyến này, thì 5 tuyến điểm cuối cùng là Việt Nam: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Sài Gòn, toàn bộ là vị trí xung yếu trải rộng cả Việt Nam… Ta mới có 2 đường Lạng Sơn và Móng Cái đã thấy điêu đứng, nay có thêm 5 đường đi khắp nơi, sức đâu để bảo vệ kinh tế quốc phòng… “Nhất thể hoá”, “ Lan toả”, với một nội dung mù mờ. Thế có phải là một thể chế cho phép các hành lang này như khu nhượng địa nằm khắp Việt Nam? Thế là Việt Nam như con ếch nằm trong cái rọ: Bắc là Trung Quốc, Nam là biển, Tây có hành lang này, có Myanma canh gác, Đông có cái lưỡi bò.
Có phải Trung Quốc mềm với các nước Asean rắn với Việt Nam, giải quyết xong Việt Nam, coi như việc lớn đã thành công?
Nghĩ đi, nghĩ lại, ông Đặng Tiểu Bình gọi Việt Nam là “bọn côn đồ”, ông Hồ Cẩm Đào thì kín đáo hơn: Dân Việt Nam có thể không chịu phục tùng Trung Quốc, ông Tôn Quốc Tường thì răn đe công khai: “Hợp tác thì phát triển, chống đối thì thất bại!”. Đó là cái nợ truyền kiếp giữa những người cầm quyền của hai nước, qua bao thời đại ngấm dần vào lòng dân, đến nay sự hoà hợp là vô cùng khó. Những ông lớn của thế giới thì ngán ngẩm, còn các ông lớn của ta thì vẫn hồn nhiên một cách bất ngờ. Coi dân như cỏ rác.
Không hiểu ông Nye đánh giá thế nào các hành vi côn đồ, cướp biển, các việc cho thuê đất rừng, những việc hợp tác song phương giữa các tỉnh, những hợp đồng xây dựng khai thác tài nguyên mà Trung Quốc tự cấp mọi thứ, như là trên đất của Trung Quốc, rồi ngăn cách như một khu nhượng địa?
Không hiểu ông Dũng và ông Nye xác định các hành vi dùng đồng Đô la, dùng gái đẹp để mua chuộc, khống chế những người cầm quyền buộc phục tùng Trung Quốc thì đó là quyền lực gì? Mềm hay cứng?
Ông Dũng và ông Nye có xét đến các mặt mạnh yếu của ta hiện nay và vì sao chúng ta nên nông nỗi này?
Phải chăng nó bắt nguồn từ xa xưa của mối quan hệ Việt Trung? Có phải nó trực tiếp và sâu đậm từ cuộc gặp Thành Đô không? Có phải ta tự thấy yếu kém mà ta phải tự gắn bó với Trung Quốc, tự mình nhận làm học trò của Trung Quốc rồi tự mình trở thành tôi tớ của Trung Quốc? “Người ta mạnh vì anh quỳ gối” hay ta bị mắc lừa?
Hãy suy xét lại: Tại sao ta không bằng Hàn Quốc, Đài Loan mà trước đây họ không hơn gì ta? Thế là ta bị lạc hậu kéo dài, độc lập thì bị đe doạ.
* * *Truyền thông thế giới đưa tin rất nhiều về sức mạnh Trung Quốc, những toan tính, những hoạt động muốn vươn lên giành ngôi bá chủ thế giới. Truyền thông thế giới muốn thức tỉnh nhân loại trước hiểm hoạ Trung Quốc. Thế kỷ trước, thế giới đã nhìn thấy điểm này, gọi là “cái hoạ da vàng”(Le peril jaune)
Trước thế chiến thứ hai, Julius Fuxích, nhà báo Tiệp Khắc, đã hô hào thế giới ngăn chặn hiểm hoạ Phát xít. Ông đã chết trên giá treo cổ của Hitler, để lại câu nói bất hủ: “Hỡi con người, hãy cảnh giác!” Tên ông khắc sâu trong lòng nhân dân thế giới! Truyền thông thế giới lúc này đi theo con đường Fuxích là đúng đắn, cần hoan nghênh.
Nói nhiều đến Trung Quốc có lượng đô la khổng lồ, thâm nhập khắp nơi trên thế giới, chế tạo vũ khí tối tân, tăng cường lực lượng quân sự như là sắp đánh Mỹ; Mỹ thì yếu đi, nợ nần chồng chất… rồi lại nêu lên cái G2: Trung Quốc và Mỹ cùng hoạch định mọi việc của thế giới… Thế nên, ở Việt Nam bất ngờ đẻ ra cái tâm lý: “Mỹ yếu đi, Tàu thì mạnh lên, ta thì bê bối quá, khó chịu quá, hay là chịu là một tỉnh của Tàu cho yên thân!”. “Liệu Mỹ và Trung Quốc có chia đôi Việt Nam không? Có lấy Đà Nẵng làm ranh giới không?” May thay, hình như đây mới là số ít, còn ở dạng trầm ngâm…
Thế mới biết: Cái gì “thái quá cũng bất cập”, “một chiều” là lệch lạc.
Xin hãy cùng suy nghĩ theo một hướng khác:
Số ngoại tệ dự trữ của Trung Quốc lớn đến mức làm mọi người choáng ngợp, hỏi đem chia cho một tỉ 300 triệu người, mỗi người được bao nhiêu? Thị trường hàng hoá rẻ đang bị thu hẹp. Vùng ven biển phát triển, ngoài ra thì mọi nơi đều khó khăn. Có tài liệu tính toán chỉ có 300 triệu người hưởng lợi từ cải cách mở cửa, 1 tỉ người chưa được gì.
Có người nói: Ai có nhiều đô la và nhiều thuốc súng, kẻ ấy là mạnh nhất. Nếu đi sâu, có lúc điều đó chỉ đúng một phần:
Lãnh đạo Trung Quốc kêu gọi xây dựng một xã hội hài hoà làm cho người ta hiểu là: Trung Quốc phát triển, hiện đại cũng đúng mà nói Trung Quốc còn nhiều chậm tiến cũng không sai.
Về mặt quân sự, Trung Quốc đang vươn tới vai trò như Mỹ; đã lên vũ trụ, lên mặt trăng, đã trở thành nhà sản xuất và bán vũ khí, đã có căn cứ hải quân ở nước ngoài, đã chế được tên lửa các loại, đã có những hạm đội…
Chúng ta vừa nhận được tin tàu chiến Trung Quốc đang tập dượt việc thực hiện hành trình xa, đủ lương thực, đủ nhiên liệu; lại thấy Trung Quốc mua hàng không mẫu hạm cũ về để nghiên cứu, tự chế tạo… Trung Quốc chưa hề tham gia các cuộc chiến tranh thế giới như các nước Mỹ, Anh, Pháp, Đức. Khi tôi còn nhỏ tôi đã biết có các trận Lữ Thuận giữa Nhật và Nga, trận đổ bộ Nooc man di, trận tập kích Trân Châu Cảng trong thế chiến thứ hai. Tóm lại lực lượng quân sự Trung Quốc vẫn ở giai đoạn phát triển, định hình, tập dượt tiến tới hiện đại.
Có chiến tranh, Trung Quốc đi đầu, Myanma, Triều Tiên đi tiếp, có thể Việt Nam và Cu Ba đi sau. Thật đây là một đội hình gây cười… Trung Quốc gây chiến là đụng đến toàn bộ khối Dân chủ, họ đông lắm, họ khoẻ lắm, họ ở khắp nơi, họ ở sát nách Trung Quốc. Hoạ chăng, Trung Quốc hoá rồ Trung Quốc mới gây chiến tranh. Còn chỉ đánh riêng Mỹ, thì chỉ có cách hai bên dàn quân ra hai phía Đông, Tây của Thái bình Dương và đua nhau bắn tên lửa như các chú bộ đội bắn pháo hoa ngày Tết.
Trung Quốc đang lên như diều mà vẫn có nổi loạn ở Tân Cương, Tây Tạng. “Năm ngôi sao trên một lá cờ!”, hình ảnh trang trọng như vậy mà đầu rơi máu chảy. “Năm anh em trên một chiếc xe tăng” đúng là hình ảnh chiến tranh nhưng sao lại thấy ấm áp, lắng đọng trong lòng mọi người.
Trung Quốc gây chiến tranh không những không huy động được sức mạnh toàn dân, ngược lại kích đông những lực lượng đối kháng: Dân chủ, Tôn giáo, Sắc tộc, những vùng miền khó khăn vươn lên giành quyền sống. Cái âm vang Thiên An Môn, Tây Tạng, Tân Cương, những biến động xã hội thời Mao Trạch Đông vẫn còn khắc sâu trong lòng mọi người.
Khi Trung Quốc cảm thấy khoẻ, có thể gây được chiến tranh thì cũng là lúc Ấn Độ và Nga mạnh lên không kém gì Trung Quốc. Các nước châu Á đã tăng cường lực lượng quân sự, cũng là một cản trở không nhỏ với Trung Quốc.
Hậu cần là khâu quan trọng của chiến tranh. Nhật đầu hàng trong thế chiến thứ hai nguyên nhân là vì thiếu nhiên liệu. Cái khó khăn này đang là một ám ảnh không nguôi đối với Trung Quốc.
Nước nào gây chiến tranh cũng phải dựa vào một nền khoa học kỹ thuật tiên tiến. Đây là thế yếu của Trung Quốc: Số đăng ký phát minh của Trung Quốc chỉ bằng 50% của Hàn Quốc. Thế giới xếp Trung Quốc về khoa học kỹ thuật vào tốp 10. Lúc này Trung Quốc đang bỏ tiền mua kỹ thuật của các nước. Phương tiện chiến tranh còn đang trong giai đoạn sao chép.
Gây chiến tranh phải có luận điểm lôi cuốn lòng người. Đầu thế kỷ XX, khi còn nhỏ tôi đã đọc ở vườn hoa châu Âu người ta có cái biển cấm: “Cấm chó và người Tàu”. Trung Quốc chưa làm gì để gột rửa điều này!
Truyền thông thế giới đánh giá phải 15 năm, Trung Quốc mới có thể gây chiến tranh trên quy mô lớn.
(6 – 2010)
Thuỷ chiến Mỹ-Trung, hành động của chúng ta
Các trung tâm nghiên cứu chiến lược của các nước lớn đều nghĩ cách để thống trị thế giới.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, Mỹ như nhẹ gánh, tập trung mọi sức lực tiến vào Trung Đông. Phải chăng người Mỹ có ý nghĩ: Tay cái gậy, tay củ cà rốt, lưng đeo thùng dầu lửa thì đối với thiên hạ, bảo gì mà chẳng phải nghe. Thế rồi mất người, mất của, nợ nần chồng chất…
“Giấc mơ Mỹ” vụt tắt cùng với lửa thiêu Trung Tâm Thương Mại Thế Giới…
Trung Quốc thực hiện đường lối Đặng Tiểu Bình, phát triển thật nhanh đến mức kinh ngạc, nhưng không biết đây là sách cũ của Anh, Pháp: mạnh là nhất thời còn suy yếu là lâu dài. Anh Pháp thức thời thu về sống êm ả, nhà mình mình ở, đất mình mình làm, gạo mình mình ăn. Người Anh cố quên đi một thời huênh hoang: “Mặt trời không bao giờ lặn trên đất đai của Đế Quốc Anh”, chấp nhận Luân Đôn sương mù bao phủ. Pháp bằng lòng cho qua cái thời tự phong: “Pari – Kinh Đô Ánh Sáng!”.
Từ sau 1975, Mỹ như quên Đông Nam Á, mọi sức lực dành cho Trung Đông. Mỹ lại quá coi thường sự trỗi dậy của Trung Quốc. Trung Quốc mạnh lên, việc tiếp thu văn hoá phương tây chậm chạp, cái truyền thống ông cha lại quá nặng nề. Trung Quốc dồn sức lực vào hai mục tiêu: Bành trướng, hướng chính là phương Nam, chuẩn bị binh lực, cái chính là hải quân để diệt Mỹ, làm bá chủ thế giới. Hai mục tiêu trên ngày một rõ ràng, rõ như ban ngày. Việc chuẩn bị dang dở mà kẻ thù đã “ngửi” thấy nên bối rối, tức bực là không có gì lạ.
Mỹ thấy rất rõ: Mỹ không để chờ Trung Quốc mạnh lên mới đánh, như thế là ngờ nghệch quá! Mỹ phải hành động ngay. Cuộc chiến tranh thế giới khó xảy ra vì không có lý do gì lôi cuốn được Nga, Ấn Độ… vào cuộc. Chiến tranh lại không thể xảy ra trên đất Mỹ hoặc đất Trung Quốc vì không có dấu hiệu nào được ghi nhận, chỉ có thể là thuỷ chiến.
Một tướng Mỹ đã nói: Mỹ đang chuẩn bị phương án một trận thuỷ chiến với mục tiêu tiêu diệt thuỷ quân Trung Quốc từ trong trứng. Có tướng khác nói: Chiến trường sẽ là vùng biển Hoàng Hải, Biển Hoa Đông… vì đó là nơi tập trung binh lực của Mỹ và đồng minh, là nơi cận kề Trung Quốc, là nơi xung yếu về kinh tế, chính trị, quân sự, là nơi quần cư của Trung Quốc. Có tướng khác của Mỹ còn nói: Mỹ sẽ chọn cách đánh phối hợp tàu ngầm, tàu chiến, máy bay giống như đánh nhau trên bộ với sự hợp đồng tác chiến của máy bay, xe tăng, tên lửa…
Mỹ tức tốc trở lại Đông Nam Á, chậm còn hơn không. Chiến tranh để tồn tại hay nằm im chờ chết? Nước Mỹ từ năm 1945 đến nay không ngày nào ngưng nghỉ việc binh đao. Trung Quốc như bất ngờ trước việc Mỹ trở lại Đông Nam Á. Trung Quốc trở tay không kịp, thế là một trò diễu võ dương oai của hai bên. Hai bên hối hả lôi kéo tay sai, kết bạn vội vàng.
Trung Quốc cũng phô trương sức mạnh nhưng nửa kín nửa hở, cũng lôi kéo bạn bè nhưng Asean như đã lạnh nhạt, Trung Quốc tức giận điên cuồng. Có đường dây nóng đấy, có người săn sóc Việt Nam đấy, thế mà không một lời nặng nề với Việt Nam. Trước đây chỉ một việc không mua hàng giá rẻ của Trung Quốc mà Trung Quốc đã cử người đến tận Văn Phòng Chính Phủ để quở trách. Trong cuộc họp gần đây khi bà Hilary ngừng lời, ngoại trưởng Trung Quốc bỏ phòng họp ra ngoài, khi trở lại nhìn thẳng vào Đại Sứ Singapo, to tiếng: “Trung Quốc là nước lớn!”
Cái thế ngoài biển khơi, trên bàn đàm phán Trung Quốc đã có dấu hiệu suy yếu.
“Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết”, cũng vẫn có ngoại lệ: Trong làng có anh bần nông, dành dụm được chút tiền còm, đành nhét mái gianh, không thực hiện được mơ ước có mảnh đất cắm dùi. Ai bán đất, Cụ Chánh, Cụ Lý đều mua hết. Nay hai Cụ kiện nhau, diệt nhau đến mức phải bán đất để lo lót, thời cơ anh cố nông được đổi đời đã đến.
Ngày 9/3/1945, Trường Chinh ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau, hành động của chúng ta!”. Tại sao ngày nay chúng ta không viết được: “Trung Mỹ bắn nhau, hành động của chúng ta!”. Tại sao không?
Trung Quốc ngang ngược quá: Chuẩn bị chiến tranh chưa đi đến đâu đã như thách thức, đã như đe doạ. Thế là các nước họ phải cụm lại chống Trung Quốc. Những lợi ích kinh tế mà Trung Quốc đưa đến chưa đủ sức gắn chặt họ với Trung Quốc… Thật ly kỳ, một lúc Trung Quốc đẩy cho 2 cựu thù trở lại như “gương vỡ lại lành”. Xét kỹ thì cả hai như những chiến binh Nam chinh Bắc chiến, 100 năm không lúc nào rời tay súng. Đó là Việt Nam và Mỹ.
Trung Quốc thật vụng suy: Hàng ngàn tướng lĩnh của Trung Quốc chỉ mới được nếm mùi thuốc súng trong diễn tập. Ba triệu binh sĩ của Trung Quốc là 3 triệu đứa con một, là 3 triệu con cầu tự, là 3 triệu công tử. Tàu sân bay còn đang trên bản vẽ… Trung Quốc rồi sẽ hối hận về sự hồ đồ của mình, hối hận vì đã không nghe lời dặn của Đặng Tiểu Bình: “Nín thở qua sông”.
Đến hôm nay, mọi toan tính của Trung Quốc và Mỹ đã rõ ràng. Càng ngày sự đối kháng càng tăng lên, chiến tranh là có thể xảy ra. Chúng ta phải đặt ra nhiều tình huống, khả năng, chuẩn bị ứng phó để không bị lung túng, nhầm lẫn, kể cả không bị sui dại, không bị lừa bịp. Ngay bây giờ chuẩn bị bộ máy Chính Phủ và Quốc Hội, khi hai bên bắn nhau là lúc chúng ta thay đổi thể chế. Ai muốn ngăn chặn cũng trở tay không kịp. Khi thiên hạ ổn định thì việc của ta đã trở thành việc đã rồi. Ai thắng, ai thua cũng thế thôi, ta vẫn đạt được mục tiêu đang mong ước.
Thời kháng chiến chống Pháp, tôi sống chung trong một căn nhà dài ven rừng thưa với hai cha con cụ giáo già. Lúc này hai cha con cụ đã là cán bộ chủ chốt của tỉnh. Có lần cụ giáo bảo tôi: “Cái dân Việt Nam mình nó lạ lắm, cứ sắp chết là lại vùng lên, đã từng chết đến cả 1000 năm, sống lại thành ngay Phù Đổng”.
Trong đời tôi đã có 5 lần đợi chờ lo âu rồi oà lên sung sướng: Ngày Cách Mạng Tháng 8, ngày chiến thắng Điện Biên, Ngày thống nhất đất nước, ngày Việt Nam đăng ký chủ quyền biển và gần đây nhất, ngày bà Hilary đến Việt Nam… Hôm nay tôi vẫn nhớ đến hai cha con ông giáo già, những người tận tuỵ vì nước, vì dân.
Cách đây 2 – 3 năm, ông Lý Quang Diệu nói với người cầm quyền nước ta: “Phải tìm mọi cách để Mỹ trở lại Việt Nam, Việt Nam phải là đầu tàu của Asean”. Ông chính là người cha của Singapo, một chính khách lỗi lạc, người bạn chân thành của Việt Nam. Điều tiên đoán, điều mong muốn, lời nhắn nhủ của ông nay đã trở thành hiện thực.
Tình hình hôm nay, Việt Nam đã có chỗ đứng, Asean đã khởi sắc, ai đã làm nên thành quả ban đầu nhưng đầy hứa hẹn này? Không nghi ngờ, đó là bè bạn thế giới, những người thức thời trong bộ máy cầm quyền cùng nhiều người trong nhân dân lo cho mình, lo cho nhà, lo cho nước mà sôi sục đấu tranh để có phong trào như ngày hôm nay. Chúng ta hãy chờ từng ngày sự xuất hiện những bộ mặt mới. Công đầu khiêm tốn nhưng đầy hứa hẹn, đã gây cảm kích cho mọi người.
Tôi tin Mỹ thực lòng với ta lúc này. Mỹ muốn chống Trung Quốc, không có ta chống nhau với Trung Quốc sao được. Mỹ muốn kiềm chế Trung Quốc, không có ai làm nhiệm vụ này hơn Việt Nam. Trước mắt và trong thời gian không thể là ngắn, cái thế Việt – Mỹ là như vậy.
Trung Quốc không dễ dàng rút lui, cho Mỹ nghênh ngang, ta chờ Trung Quốc xem họ phản ứng ra sao.
Còn ở Việt Nam, những người cộng sản tử tế, những người yêu nước đã đứng lên, quan hệ với Mỹ đã khai thông. Những thắng lợi ban đầu đã có.
Trước đây người ta nói đến hiện tượng “Tự Vỡ” với hàm ý là Đảng và Nhà Nước tha hoá, tự mình làm hỏng mình để phải rời chính trường.
Hôm nay với việc Mỹ trở lại Đông Nam Á, người ta lại nói đến một “cú hích” thật mạnh, làm cho phong trào nhân dân mạnh lên, nhanh chóng, bất ngờ, sự phân hoá trong lãnh đạo ngày càng rõ nét, quan hệ Trung Việt là sự thận trọng thay cho huênh hoang, ác khẩu…
Mục tiêu vẫn là độc lập, dân chủ, quan hệ với Trung Quốc là bình đẳng, có sự trọng thị thích đáng, với Mỹ cứ dần dần trở thành đồng minh từ thấp đến cao.
Tình hình đã phát triển, có thể dự kiến 3 tình huống, cũng là suy ngẫm còn thực tế thì uốn theo tình hình từng lúc, miễn sao giữ vững và phát triển mục tiêu đã định.
a. Chiến tranh Trung Mỹ xảy ra, Mỹ thắng, Trung quốc sẽ làm gì được ta? Phe thân Trung Quốc tự tan vỡ. Cái gì cần đến rồi sẽ đến.
b. Chiến tranh Trung Mỹ xảy ra, Trung Quốc thắng, Mỹ thua. Việt Nam tồn tại được chỉ có một con đường duy nhất: Những người hướng theo Mỹ và những người theo Trung Quốc, nhân nhượng xoá bỏ dĩ vãng, cùng nhau đứng lên, cùng nhau dành chủ quyền như phần trên đã nói.
Khi có chiến tranh, Trung Quốc yếu đi, ta có một khoảng thời gian rất ngắn, phải “đóng cửa bảo nhau”. Trường hợp khó khăn quá có thể có đa đảng, có đối lập, cùng nhau làm tròn trách nhiệm với dân với nước. Cái bài học đau đớn của 50 – 60 năm qua là “Rước Voi về dầy mồ” sẽ ngăn chặn xu hướng tự chạy vào tay áo Trung Quốc. Và xu thế dân chủ hoá đất nước càng rõ, càng được khẳng định. Bỏ Đông thì phải sang Tây, mất Đảng không sao, chỉ cần giữ Nước.
c. Trường hợp Mỹ – Trung hoà hoãn, chiến tranh không xảy ra:
Mỹ sẽ vẫn lo lắng vì cái hậu hoạ vẫn còn đấy. Mỹ có một thói quen: những cản trở lớn thường dùng chiến tranh để giải quyết. Bao nhiêu năm nay, có lúc nào Mỹ buông súng! Ông Obama có tiếng là ưa chuộng hoà bình thế mà khi lên cầm quyền đã gửi 30.000 quân sang Afganistan. Mỹ đâu có ngán chiến tranh!
Sự lo sợ chiến tranh thuộc về Trung Quốc: Chúng ta đã nói nhiều về những khó khăn, những hậu quả mà Trung Quốc sẽ gánh chịu nếu có chiến tranh. Trung Quốc sợ chiến tranh xuất phát từ cái sợ chính dân mình. Có nghĩa là sợ cả trong, sợ cả ngoài, ngày đêm như thấy kẻ thù lẩn quất quanh mình, “Sợ cái bóng của mình”.
Thế thượng phong trong hiệp ước hoà bình thuộc về Mỹ. Để khống chế Trung Quốc, hỏi lấy ai ngoài Việt Nam, ngoài Asean?
Không có chiến tranh Việt Nam cũng sẽ Dân Chủ và Độc Lập, trở lại ngày 19/8 thiêng liêng.
Có tin đồn nếu Mỹ Trung hoà hoãn, cái G2 ra đời họ có chia Việt Nam thành 2 không? Thiết nghĩ, bàn như thế rộng quá. Người ta lại nghĩ rằng chúng ta bị Trung Quốc lừa mị. Trung Quốc sợ chiến tranh, xuất phát từ cái sợ dân Trung Quốc, Mỹ lo ngại Trung Quốc, Mỹ phải kiềm chế Trung Quốc, kiềm chế Trung Quốc phải là người Hàn, người Nhật, người Việt Nam, người Asean…
Có lẽ không một dân tộc nào phải trả giá quá đắt cho hoà bình bằng nhân dân Việt Nam. Thế nhưng, để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ, lãnh hải, biển đảo của mình, để bảo toàn được nền độc lập của mình, nhân dân Việt Nam cũng quá biết mình sẽ phải làm gì để tồn tại.
Tình hình Việt Nam như vậy, các dự liệu, các gợi mở như đặt ra cho mọi người, mỗi người một ý.
Dân tộc nếu muốn tồn tại, phải tự cường. Muốn tự cường phải phát huy sức mạnh dân tộc. Muốn có sức mạnh phải đoàn kết toàn dân. Đoàn kết phải đi đôi với Dân Chủ.
(7 – 2010)
Biển Đông nổi sóng, hành động của chúng ta
Trung Quốc nói: Không gây chiến tranh, chỉ phát triển hoà bình, chúng ta có thể hiểu là không gây chiến với Mỹ và các nước lớn trong giai đoạn hiện nay, còn sau này là chuyện khác. Lại có thể hiểu lấn chiếm, tranh chấp, việc hàng ngày của Trung Quốc không phải là chiến tranh. Hôm nay, một viện nghiên cứu của Trung Quốc ra quyển sách xanh nói về việc Trung Quốc chú tâm phát triển hoà bình, ngày mai tức thì có việc Trung Quốc đánh đắm thuyền, bắt ngư dân Việt Nam. Hãy hiểu cái đa nghĩa trong ngôn từ của ông anh phương Bắc.
Lịch sử cổ đại đã ghi nhận hai cuộc bành trướng: “Pan romana” của Cesar và “Pan china” của Tần Thuỷ Hoàng. Thế là ta đang đương đầu với truyền thống bành trướng 5000 năm.
Luận điểm của Trung Quốc rất rắc rối: Có cái không phải là của mình cứ nhận là của mình, có tranh chấp thì không cho ai tham gia ý kiến, không chơi đa phương, chỉ chơi song phương, như bó đũa tách ra để bẻ gẫy từng chiếc. Không phải của mình nhưng cứ cãi bừa là của mình, dùng sức mạnh để lấn át, lấn át không được thì bàn chơi chung, chơi chung một thời gian thì đòi chia đôi với cái lý là đã nhận chơi chung thì là của chung, tức là mỗi bên 50 – 50. Một thời gian sau, kiếm cớ giở quẻ, đòi cả 100%. Cứ “được đằng chân thì lân đằng đầu”, rỉa dần như loài gặm nhấm và bền bỉ: “đời cha không xong thì đến đời con”. Rất buồn, Chu Ân Lai, người mà tôi ngưỡng mộ, lại chính là người đưa ra con bài “Gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác” với Nhật Bản trong cuộc tranh chấp đảo Điếu Ngư, Biển Hoa Đông… Nhật Bản đã gạt phắt.
Các vụ kiện quốc tế thường kéo dài.
Vụ tranh chấp Biển Đông, có việc chỉ có Trung Quốc và Việt Nam, không có nước nào khác; có việc giữa Việt Nam và nước khác, không có Trung Quốc; có việc giữa nước khác với Trung Quốc không có Việt Nam. Cuối cùng là việc “cái lưỡi bò” Trung Quốc đề ra, thế giới phản đối.
Cuộc tranh chấp ở Biển Đông, đồng nhất với nội dung việc đăng ký thềm lục địa mà Liên Hợp Quốc vừa nhận hồ sơ.
Trong mớ rối bong bong này, tất phải tách ra từng vụ việc để xử lý, đồng thời ghép vào việc đăng ký thềm lục địa, để tránh trùng lặp, tránh bỏ xót, tránh một việc mà xử 2 lần.
Thiết nghĩ cần có một tổ chức để làm việc này.
Hình thức xử lý tranh chấp thì Trung Quốc đòi song phương, Asean thì đòi đa phương. Tuy không nói ra nhưng ai cũng thấy Trung Quốc mạnh quá, khôn ngoan quá, khó mà chọi được tay đôi với Trung Quốc.
Gọi là tranh chấp ở Biển Đông nhưng gần hết là tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam. Việt Nam thì ai cũng biết là bị Trung Quốc chi phối. Việt Nam thất bại thì coi như tất cả tan vỡ.
Vẫn có hy vọng, tuy bề ngoài là mong manh, xét cho cùng thì lại rất mạnh mẽ: “Việt Nam thừa bằng chứng để chứng minh Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam”. Dù Trung Quốc có nhiều mưu ma chước quỷ, Việt Nam còn mạnh đến mức dù bị mua chuộc, người đại diện cũng không dám “ngồi lên sự thật”.
Cũng cần nghiên cứu các thể chế để ràng buộc. Việc giải quyết các tranh chấp phải thực hiện nghiêm chỉnh, đồng thời có lối thoát, khi cuộc tranh chấp có dấu hiệu bất minh. Đó là quy định thêm các bước như: Kết định phải được Quốc Hội phê chuẩn, có khi phải thông qua trưng cầu dân ý.
Cũng còn có thể áp dụng nguyên tắc lấy hình thức để ràng buộc nội dung: Dù đa phương hay song phương, cuộc tranh chấp đều phải tổ chức công khai, có tranh luận, có giám sát, có thông tin báo chí.
Việc giải quyết xong các vụ việc ở Biển Đông, có thể phải mất dăm bẩy năm, thế mà tình hình Biển Đông lại cứ nóng lên từng ngày. Liệu có thể chấp nhận phương án sau:
Quy ước ứng xử tại Biển Đông đã được các nước Asean ký với Trung Quốc. Nhiều nước bày tỏ hoan nghênh quy ước này. Tiếc quy ước không có hiệu lực vì không có chế tài. Liệu ta có thể khôi phục quy ước, đồng thời nghiên cứu và ban bố chế tài, quy định việc theo dõi thực hiện, cùng một lúc sửa đổi bổ sung những điều cần thiết.
Khôi phục quy ước ứng xử tại Biển Đông là biện pháp tình thế, đồng thời là điều kiện để làm sáng tỏ bước đầu của vụ kiện, phục vụ cho việc xét xử cuối cùng tại Toà Án Quốc Tế Liên Hợp Quốc. Trung Quốc đã ký phần chính, không lẽ gì từ chối ký phần bổ sung.
Luật Biển của LHQ có điều khoản: Có chủ quyền theo thời hiệu:
Nước nào ở trên Biển Đảo quá 50 năm mà không có kiện cáo, tranh chấp thì được công nhận chủ quyền. Trung Quốc đã chiếm Trường Sa, đã đóng quân, đã ở, đã xây dựng gần 50 năm rồi, nếu ta im lặng thì mặc nhiên ta đã giao Trường Sa cho Trung Quốc. Việc phản đối, việc gửi công hàm này nọ, việc ra tuyên bố…chỉ là gây dư luận mà thôi, chưa phải là khởi kiện, một hành vi pháp lý. Đó là điều rất cần được quan tâm.
Truyền thông thế giới băn khoăn không hiểu vì sao một vụ việc lớn như Biển Đông trong khi dư luận thế giới rầm rộ, Trung Quốc còn rầm rộ hơn mà Việt Nam lại im lặng. Những người hiểu biết cho rằng lãnh đạo ta sợ Trung Quốc, bị Trung Quốc mua chuộc, bị khống chế nên có “Sự im lặng đáng sợ”, một sự im lặng biến thành trọng tội. Đến hôm nay, gió đã đổi chiều, sao ta không thuận theo thời thế, khơi động trong nhân dân lòng yêu nước, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc thành một phong trào rộng lớn.
Truyền thông thế giới có nhận xét: Không hiểu vì sao các nhà khoa học trong nước và ngoài nước không được nhắc nhở, khuyến khích tham gia cuộc đấu tranh giành Biển Đông. Nhiều người cho biết ở Pháp còn rất nhiều tài liệu lưu trữ về Biển Đông, lại là bản gốc… thế mà ta chưa thấy ai nghĩ đến việc khai thác.
Các luật gia phải là người đi đầu trong cuộc đấu tranh này, đó là thiên chức của họ. Chắc rằng trong lúc này các luật gia đang nhức nhối vì họ không thể “Cầm đèn chạy trước ôtô”. Nhà nước cần có ngay một “cú hích”.
Hãy nhanh chóng sửa sai, nếu không một ngày kia con dân Đất Việt sẽ ngửa mặt than trời: “Hỡi ôi! Mất nước mà chúng tôi không biết gì!”.
Việc Trung Quốc cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa trong tay quân đội VNCH năm 1974, 58 chiến sĩ của VNCH đã hy sinh. Nhiều sĩ quan binh sĩ VNCH tham chiến ngày đó hiện còn sống ở Việt Nam, ở Mỹ…Chưa ai quên được 74 chiến sĩ Hải Quân của QĐND Việt Nam cũng đã ngã xuống trong trận Trung Quốc cưỡng chiếm Đảo Gacma trong nhóm đảo Trường Sa năm 1988.
Vậy mà Trung Quốc vẫn lu loa rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc! Thế thì Trung Quốc hãy chứng minh cho Thế giới biết Trung Quốc đã bị bọn “Tiểu Bá Việt Nam” ăn hiếp, cướp Hoàng Sa, Trường Sa của họ khi nào? Và như thế nào?
Xác minh một sự thật phải có chứng cứ, một chứng cứ mà không ai bác bỏ được là đủ để khẳng định một sự thật.
Hai vụ cưỡng chiếm trên, còn người thực việc thực, hàng trăm chiến sĩ đã hy sinh, còn có biết bao nhiêu chứng cứ khác nữa không ai có thể bác bỏ được rằng: Trước 1974 Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam.
Nếu Đảng và Nhà Nước thực lòng có trách nhiệm với sự vẹn toàn lãnh thổ, tại sao chúng ta không làm một phóng sự điều tra, một cuốn phim để trình chiếu khắp thế giới, gặp gỡ những nhân chứng sống, những người đã từng tham gia trận chiến Hoàng Sa 1974 và Trường Sa 1988 hiện đang còn sống… tạo mọi điều kiện để họ nói hết những gì mà họ đã từng chứng kiến. Sự tránh né của lãnh đạo chúng ta đã khuyến khích Trung Quốc ngày càng thêm ngạo ngược, càng thêm hợm hĩnh, đồng thời đặt Asean và dư luận tiến bộ trên thế giới vào những căng thẳng, bối rối không cần thiết.
Giờ hành động đã điểm. Sự lo sợ, ngại ngần, bối rối, chần chừ…chỉ đưa đến thảm bại, dù ra đi đến phương trời nào, sự nhục nhã vẫn còn đấy!
(8 / 2010)
Đôi điều suy tư
Có thể lấy các việc lớn xảy ra gần đây, có tầm vóc phản ảnh được tình hình đất nước để từ đó suy ra: chúng ta sẽ đi đến đâu?
Vụ Đại hội các nhà văn
Người họp kêu ca: không một văn kiện dù là ngắn gọn để vạch đường cho văn chương, lại có chuyện cho người này nói, “bịt miệng” người kia. Người được nói thì bị la ó. Dềnh dàng 5- 6 ngày mà kết quả bằng không.
Nhiều người buồn, “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”.
Chế Lan Viên: “Một nửa cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết”. Nguyễn Khải: “Văn chương của tôi…nay mai con cháu chỉ để bán cân”. Đổng Chi: “Tôi chỉ là thứ văn nô”. Những cây đại thụ của nền văn chương nước nhà đã tự phủ nhận.
Chính trị nào thì văn chương ấy. Văn chương nào thì Đại hội ấy. Văn chương thường đi trước chính trị, văn chương là “con chim báo bão” đối với chính trị. Văn chương sẽ thay đổi, chính trị sẽ đổi thay. Một nền văn chương đích thực tay trong tay, cùng nền chính trị dân chủ, tự do bước trên con đường mới. Đây là một hình ảnh đẹp không còn xa vời. Có gì mà phải buồn!
Vụ án Hà Giang
Đây là một vụ án về tội phạm tình dục có yếu tố lợi dụng chức quyền, xấu xa, bôi nhọ chính thể…
Nhưng mà hồi hai của vụ án mới là đáng bàn: Người ta đã huy động toàn bộ bộ máy an ninh, tư pháp vào việc che giấu vụ án, xuyên tạc vụ án, chủ tâm gây oan sai những người vô tội và như chưa hề có: nạn nhân biến thành thủ phạm mà lại là trẻ vị thành niên. Hồi hai bộc lộ vụ án đã được phát hiện từ 5 đến 6 năm nay. Rồi lại còn việc Giám đốc công an doạ tố cáo Bí thư Tỉnh uỷ…
Sự nghi ngờ: Hà Giang hẻo lánh còn thế, nơi đô hội có khi còn nghiêm trọng hơn nhiều.
Đáng lý phải kêu hàng chục tội, bắt hàng trăm người mới đúng với tầm cỡ vụ án. Phải chăng vụ Hà Giang là tín hiệu dữ đến với hệ thống chính trị của ta?
Vụ Vinashin
Nếu tôi không nhầm thì việc này khởi đầu từ ông Phan Văn Khải. Tôi đã nghe ông ca ngợi những cái “Se bun” của Hàn Quốc. Rồi thấy các công ty mẹ, các công ty con ra đời. Rầm rộ một lối làm ăn mới.
Rồi lại thấy người ta phê phán: Hàn Quốc mở rộng sản xuất, mở rộng kinh doanh, thay đổi kỹ thuật, mở rộng thị trường thì người ta mới phải mở ra các công ty mẹ,công ty con. Có nghĩa là người ta đi trên con đường phát triển, không phát triển thì tàn lụi, không cạnh tranh thì phá sản. Cái vốn của người ta là vốn tư nhân, kinh doanh là kinh doanh độc lập. Mình là hoàn toàn khác.
Rồi báo chí lại kêu ầm lên: Các tổng giám đốc của ta chăm lo sửa sang trụ sở, mua sắm xe cộ, phương tiện. Người cầm đầu không đọc nổi bản quyết toán tài chính… Tiền nhà nước rót vào hết công ty mẹ lại đến công ty con…
Các nhóm lợi ích ập tới, các mưu ma, chước quỷ được mặc sức tung hoành.
Thế rồi tạo hoả mù…và Vinashin thoắt trở thành một hiện tượng kinh tế huy hoàng, hoành tráng nhất Việt Nam.
Rồi dư luận ầm ĩ: Công ty này của nhóm ông lớn này, công ty kia của nhóm ông lớn kia. Con tàu Hoa Sen được kích giá lên gấp đôi, chạy được hai chuyến không có khách, mang giấu biệt vào trong vịnh Hạ Long với hàng trăm người săn sóc hàng ngày.
Thế rồi lại có tin cơ cấu nợ được xé nhỏ ra để các công ty khác gánh nợ, coi như là tội lỗi không thuộc về ai, tiền nong không hề mất.
Vụ án đã được khởi tố, việc bắt người phạm tội đã dược thực hiện. Liệu vụ án này có được làm đến cùng không hay lại “chìm xuồng”?
Phải chăng đó chính là những tín hiệu về một sự sụp đổ là không tránh khỏi với khu vực kinh tế quốc doanh?
Mở rộng Hà Nội. Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long
Nghìn năm Thăng Long không có nổi một biểu tượng đỉnh cao nào về văn hoá – nghệ thuật, để lại một dấu ấn trong lòng nhân dân cũng như bè bạn quốc tế.
Lễ hội có dấu hiệu không lôi cuốn được lòng người, người nghèo không có điều kiện tiền bạc và khó khăn trong việc đi lại, người có tiền thì lại muốn rời xa thành phố để đi du lịch. Sự đầu tư tiền bạc của nhà nước cho lễ hội là khổng lồ (4,2 tỉ USD) nhưng hiệu quả thực không rõ…
Hà Nội mở rộng tới gần 4 lần! Người đời ngỡ ngàng. Mấy năm qua đã có lúc nói tới một Hà Nội bên Sông Hồng, vậy mà lại thay đổi bất thần. Nhiều điều về Hà Nội mở rộng mà người dân không hiểu.
Không có gì là lạ, đây là việc của Lý Công Uẩn, của Pi-e đại đế, của Napoleon, của Minh Trị Thiên Hoàng, nó không phải chỉ bó hẹp trong địa bàn Hà Nội, nó phải có tính toàn quốc. Hơn nữa nó là việc xây dựng đời sống đô thị theo nghĩa rộng, không phải chỉ bó gọn trong việc quy hoạch và xây dựng. Chúng ta không làm được, chúng ta sẽ mắc sai lầm, không phải chỉ có quyền lực là làm được tất cả, chúng ta là con đẻ của bao cấp và chiến tranh.
Chúng ta muốn để lại cái gì đầy ấn tượng, nhưng chúng ta không đủ tầm, đã phạm sai lầm, làm cho thủ đô trở thành hỗn loạn, bất hợp lý…
Vụ Biển Đông
Trung Quốc cứ tưởng ép được Việt Nam là xong việc. Việt Nam nghĩ sợ quá phải nghe Trung Quốc. Cả hai cùng không đếm xỉa đến nhân dân và thế giới. Ai ngờ các nước nhảy vào. Triển vọng là Trung Quốc không thể chiếm được Biển Đông.
Cái lợi cho nhân dân Việt Nam: trắng đen rõ ràng, đi với Trung Quốc là mất nước. Trước đây nhân dân Việt Nam đòi dân chủ, trọng tâm là nhìn vào những người lãnh đạo Việt Nam. Nay nhân dân Việt Nam đòi độc lập vừa nhìn vào giới lãnh đạo Việt Nam vừa nhìn vào Trung Quốc. Thế là khẩu hiệu đấu tranh Độc Lập và Dân Chủ được hoàn chỉnh. Cái thuyết “leo dây” tự nó đã phá sản. Con đường theo Trung Quốc là mất cả Đảng, mất cả dân tộc.
Mục tiêu đấu tranh, phương hướng đấu tranh, khẩu hiệu đấu tranh như được giản đơn dễ hiểu lợi cho việc dân chủ hoá đất nước.
Việc chấp nhận phương tây trở thành một điều bó buộc. Trung Quốc là tác giả của sự bẻ lái này của Việt Nam.
Vụ Biển Đông là một đột phá của tình hình, khiến tình hình chuyển biến mau lẹ hơn, rõ ràng hơn, giản đơn hơn.
Các vụ việc kể trên đủ để nói rằng chúng ta đều bất cập, quá nhiều sai sót trên phương diện quản lý tầm vĩ mô. Điều đó đã nói lên: Sự thay đổi là cấp thiết, là không thể đặng đừng.
***
Trước đây tôi có nói với một vài người về các việc thay đổi, anh em đều cười, không thuận, không bác. Nay tôi xin nói lại cho rõ.
“Lobby chính trị” (Vận động hành lang)
Anh em cười, thấy hay hay. Theo tôi thì không có đảng đối lập, ai làm việc vận động chính trị là công an hỏi thăm ngay. Cần có một số người có tấm lòng, đi truyện trò vận động từ từ, thời cơ đến thì phát triển, khó khăn thì ngừng lại. Đó là tiền đề của đảng đối lập. Có hai điều kiện: Người vận động là người không có ý định tham gia tổ chức, nếu không mọi người sẽ cho là vận động “xôi thịt”, là những người phải biết người biết của, có hiểu biết về chính trị, nói có người nghe, người tin. Người được vận động thì phải là người trong giới tinh hoa, quần chúng biết mặt, biết tên và có lòng tin, họ chịu dấn thân trong lúc khó khăn. Phải nghĩ đến điều kiện của một người làm chính trị trong cả 2 trường hợp trên. Có việc cứ tiến hành và cứ lớn dần. Khi đảng cầm quyền có dấu hiệu suy sụp, bỏ dần trận địa, bên tiếp tục dấn thân… tiến tới 2 bên ngồi vào bàn tròn. Trong việc chuyển đổi ở Ba Lan, việc hiệp thương, việc hội nghị bàn tròn tiến hành đến mấy chục cuộc họp kéo dài tới 6 tháng.
Thời điểm của việc vận động hành lang chấm dứt khi được một hai chục người thì chính họ sẽ chủ động tiến hành các bước tiếp theo. Trong tình hình hiện nay, việc đảng phái đối với nước ta là rất mới mẻ, nhưng vì mở rộng giao lưu quốc tế nên các kiến thức về đảng phái, nhiều người hiểu một cách sâu rộng. Những người được vận động đứng lên quyết định mọi viêc. Đó là lúc những người làm việc vận động hành lang có thể xoa tay trước một việc đã hoàn tất.
Tôi không hô hào bạo động, tôi không có âm mưu lật đổ, tôi chỉ quan sát và suy nghĩ, về cái về lý thuyết “tự vỡ”, cái trì trệ với cái tiến bộ, luôn tranh chấp, tôi mong cái tiến bộ tràn đầy, cái toàn trị thì khô kiệt. Sự thay đổi, cái cũ cứ ra đi cái mới cứ tiến dần. Tôi không phải “Gần chùa gọi Bụt bằng Anh”, nhưng tôi hiểu rằng lụt lội thì tượng gỗ trôi lềnh bềnh, tượng đất thì hoá bùn. Phải có tượng đồng bia đá trong lòng dân mới tồn tại được với thời gian.
Lúc này ta đang học Lý Công Uẩn: Nhìn xa trông rộng thấu hiểu lòng dân, còn chúng ta chỉ biết ra lệnh, nghe người ta nói là làm ngay.
Tách Đảng ra làm hai
Xã hội Việt Nam có phần nào giống Thái Lan, có hai thành phần chính: giới tinh hoa và giới đám đông. Hiện hai thành phần: Áo đỏ và áo vàng đang tranh chấp quyền lực ở Thái Lan.
Đứng về nguyên lý, đảng phái chính trị thường là thuộc về nhóm tinh hoa. Chúng ta đang bàn về dân chủ, về đa nguyên, về một đảng đích thực, nghĩa là chúng ta đang nghĩ tới giới tinh hoa Việt Nam.
Giới tinh hoa hiện nay nằm ở trong các ngành, trong các tổ chức kinh doanh… từng lĩnh vực họ đều biết nhau… Nếu nhóm vận động hành lang tìm được những người tiêu biểu thì tổ chức sẽ có máu, có xương, có tim, có óc.
Riêng giới tinh hoa hiện nay còn nằm trong đảng thì chúng ta đánh giá ra sao?
Đảng cộng sản thấy ai có tài đều tìm mọi cách để lôi cuốn vào Đảng. Đáng lẽ những người cầm quyền phải tôn vinh, phải lắng nghe, phải làm mọi cách cho trí thức hết lòng phục vụ nhân dân, ngược lại những người cầm quyền lại ép buộc những trí thức, những chuyên gia phục vụ các ý đồ sai trái ngang ngược của mình, sự rạn nứt là từ đó. Các ngành không được sự soi sáng của trí thức, của khoa học. bao nhiêu sai lầm và đổ vỡ đã chứng minh điều này. Trí thức và chuyên gia trong đảng như là bị tách rời khỏi xã hội. Cái chủ trương thay đổi là đổi ngôi là giao quyền hành cho trí thức, cho nhóm tinh hoa, đó chính là mục đích, thực chất của thay đổi.
Việc kết nạp lại là như vậy để giữ lấy tinh hoa, là dịp để thanh toán những người vào Đảng vì những lý do không chính đáng. Số này tôi tin là họ sẽ không nộp đơn xin kết nạp lại. Kết nạp lại thực chất là hình thức “Thanh Đảng”.
Một Đảng gồm giới tinh hoa, có tấm lòng, tự nó phải bước tới dân chủ đa nguyên.
Thực chất việc tách Đảng ra làm hai, việc kết nạp lại đảng viên là những cố gắng bảo toàn những giá trị vốn có của Đảng, của dân tộc, đẩy lùi được mọi mặc cảm bất lợi rất dễ xuất hiện trong lòng những người đảng viên biết tự trọng, có đức, có tài.
Vậy chuyển đổi có thể gây ra những lộn xộn không?
Xét trên bình diện quốc tế, việc “Hoa quân nhập Việt” là không thể xảy ra vì Trung Quốc đang muốn hoà hoãn, vẫn còn lép vế, việc tiến quân vào Việt Nam là một hành vi gây chiến tranh. Hành vi đó sẽ không bó hẹp trong phạm vi Việt Nam.
Xét trên bình diện trong nước, những người bị mất quyền, họ chẳng có lực lượng gì. Tôi biết có ông Bí thư tỉnh uỷ về hưu ngại ngần không dám ra đường, sợ người đời chửi đổng, gây sự.
Hiện nay nước ta là nhà nước độc đảng, thế thì làm sao có lực lượng đối kháng tranh quyền cướp vị bằng vũ trang được?
Về quân đội, gần đây đã có dấu hiệu án binh bất động trước những tranh chấp thuộc lĩnh vực dân sự.
Về công an, không thấy có một đảng nào khác ngoài Đảng Cộng Sản để họ bảo vệ, không có một nhân vật nào đủ tầm, đủ lực để lôi cuốn họ. Xét cho cùng, công an cũng xuất thân từ nhân dân lao động… Việc họ thẳng tay đàn áp nhân dân là khó có thể xảy ra.
Trong bài viết này, người viết chỉ nói lên việc thay đổi vào thời điểm “nhóm vận động hành lang” hoàn thành công việc. Bởi lẽ những người được mời đều có đủ hiểu biết và kinh nghiệm để làm việc nước…Hơn nữa bộ máy nhà nước vẫn giữ nguyên, công việc vẫn chạy đều, sự chuyển đổi vẫn tiến hành từ từ và yên ả.
Chuyển đổi thể chế sang dân chủ, quyền lực thuộc về dân, quyền lợi thuộc về dân. Hai việc chống tham nhũng và việc dân oan là việc phải làm nhưng không biết giao cho ai, không biết làm thế nào!?
Tôi xin đề cập đến hai việc này sau./.
(09 – 2010)
Trần Lâm
Đoàn Luật Sư Hải Phòng
Điện thoại:0982744336
Email: tranlam1925@gmail.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét