Thứ Bảy, 16 tháng 10, 2010

Quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông, nên như thế nào?

Quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông, nên như thế nào? (phần 1)

Ngọc Trân và Trân Văn, thông tín viên RFA

2010-08-15

Kể từ khi Trung Quốc gia tăng những hoạt động nhằm xác lập chủ quyền tại khu vực biển Nam Trung Hoa – tên quốc tế cho vùng biển mà Việt Nam gọi là biển Đông, người ta bắt đầu bàn đến vấn đề “Quốc tế hóa các tranh chấp ở biển Đông”.

Vì sao cần “Quốc tế hóa các tranh chấp ở biển Đông”? Việt Nam phải làm gì để có thể đạt được lợi ích tốt nhất cho mình khi tham gia vào tiến trình này?

Đây sẽ là chủ đề chính của cuộc thảo luận giữa Trân Văn và Ngọc Trân với hai nhà nghiên cứu, một đang sống tại Việt Nam là ông Đinh Kim Phúc – chuyên nghiên cứu lịch sử Việt Nam, làm việc tại Khoa Đông Nam Á học, Đại học Mở TP.HCM, và một đang cư trú tại Hoa Kỳ là ông Lê Xuân Khoa – từng là Viện phó Viện Đại học Sài Gòn, sau đó nghiên cứu và giảng dạy về quan hệ quốc tế tại Đại học Johns Hopkins.

Cơ hội đi kèm thách thức

Trân Văn: Thưa các ông, các tranh chấp về chủ quyền ở biển Đông càng ngày càng có vẻ nghiêm trọng cả về tính chất, lẫn mức độ tác động của chúng đến cục diện chính trị không chỉ riêng ở khu vực Đông Nam Á.

Có lẽ đây là lý do chính khiến càng ngày càng nhiều người đề cập đến ý tưởng “Quốc tế hóa tranh chấp ở biển Đông”.

Với những gì đã diễn ra trên thực tế, một số người cho rằng, “Quốc tế hóa các tranh chấp ở biển Đông” sẽ vừa là thách thức, vừa là cơ hội của Việt Nam . Các ông có nghĩ như thế không?

Ông Đinh Kim Phúc: Theo tôi, bước đầu chúng ta nên thống nhất tên gọi biển Đông là biển Đông Nam Á.

Ở đây có hai vấn đề: Trước nhất, sự thách thức là bắt nguồn từ tham vọng truyền thống của Trung Quốc ở khu vực Đông Nam Á. Hiện nay vì luận cứ và luận chứng của họ yếu nên họ không muốn nói chuyện đa phương để giải quyết việc tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa nói riêng và khu vực biển Đông Nam Á nói chung. Trung Quốc chỉ muốn đàm phán song phương, với mục đích sử dụng lợi thế của một nước lớn, mặc cả và gây sức ép với từng nước nhỏ đang tranh chấp.

Mặc dù việc tranh chấp liên quan đến nhiều nước trong khu vực, nhưng các nước không hợp lại với nhau thành một khối để có tiếng nói chung trong vấn đề tranh chấp.

Còn cơ hội là Việt Nam, các nước Đông Nam Á và đa số cường quốc trên thế giới đều có chung một quyền lợi chiến lược ở khu vực này là an ninh khu vực và tự do hàng hải theo thông lệ quốc tế.

Mỹ đã lên tiếng ủng hộ quan điểm quốc tế hóa biển Đông của các nước đang tranh chấp, qua bài phát biểu của bà Clinton, Ngoại trưởng Mỹ tại Diễn đàn Khu vực ASEAN cuối tháng 7 vừa qua.

Ngọc Trân: Còn ông Lê Xuân Khoa, thưa ông, ông nghĩ thế nào về vấn đề mà chúng tôi vừa nêu?

Ông Lê Xuân Khoa: Trong cuộc tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, tôi muốn nói đến cơ hội cho Việt Nam trước khi nói đến thách thức.

Đây là cơ hội vô cùng thuận lợi cho Việt Nam vì tại diễn đàn ASEAN hồi tháng bảy vừa qua, Hoa Kỳ và các nước ASEAN đều phát biểu quan điểm chung là cuộc tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông cần phải được giải quyết một cách hòa bình trên căn bản đa phương và tôn trọng luật lệ quốc tế về lưu thông hàng hải.

Quan điểm chung này ngăn chặn chính sách “chia để trị” của Trung Quốc đối với các nước Đông Nam Á bằng những cuộc thảo luận song phương, vừa mua chuộc vừa đe dọa với từng nước, để rồi sau hết sẽ thống lĩnh toàn thể khu vực. “Quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông không những chỉ giúp cho Việt Nam thoát ra khỏi hiểm họa Trung Quốc mà còn giúp cho các nước ASEAN vì không nước nào muốn thấy Trung Quốc dùng Việt Nam làm bàn đạp để thực hiện tham vọng bành trướng chủ quyền trong khu vực. Vì vậy các nước ASEAN sẽ càng phải đoàn kết và hậu thuẫn mạnh mẽ cho Việt Nam.

Bây giờ nói đến thách thức thì đây là thách thức đối với chính quyền Việt Nam, vì cho đến rất gần đây chính quyền Việt Nam vẫn cho thấy sự thiên lệch, có thể nói là lệ thuộc, của họ đối với Trung Quốc nhằm bảo vệ quyền lực và quyền lợi của Đảng và chế độ.

Trước thái độ ngang ngược và lấn tới của Trung Quốc, những khẩu hiệu “bốn tốt” và “mười sáu chữ vàng” đã trở thành trò hề, và nguy cơ mất nước đã trở nên quá hiển nhiên, Đảng và Nhà Nước cần phải chọn giải pháp “quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông, thay đổi chính sách lệ thuộc đối với Trung Quốc, thay đổi chính sách đối nội tức là từ bỏ chế độ độc tài toàn trị và thực hiện tiến trình dân chủ hóa. Liệu Đảng và Nhà nước có đủ quyết tâm và dũng cảm chấp nhận thách thức này và biến nó thành cơ hội để cứu nước và tự cứu mình hay không?

Tại sao nên thay đổi cách gọi biển Đông?

Trân Văn: Thưa ông Phúc, hình như ông không phải là người đầu tiên đề nghị thay đổi cách gọi biển Đông thành biển Đông Nam Á. Đề nghị thay đổi cách gọi biển Đông của học giới hình như là một phần của nỗ lực chung trong cuộc vận động “Quốc tế hóa tranh chấp ở biển Đông”. Ông có thể giải thích thêm vì sao cần thay đổi cách gọi biển Đông không?

Ông Đinh Kim Phúc: Tôi nghĩ, mặc dù tên gọi không phản ánh chủ quyền quốc gia theo những quy định của luật pháp quốc tế, nhưng tên gọi biển Nam Trung Hoa hiện đang được Trung Quốc sử dụng như một vũ khí để đánh lừa dư luận quốc tế.

Việc đề nghị đổi tên biển Nam Trung Hoa thành biển Đông Nam Á một mặt để đấu tranh chống lại cái gọi là “miền Đông Hải của Trung Quốc”, mặc khác nó cũng thể hiện ý chí hòa bình và hữu nghị giữa các nước trong khu vực Đông Nam Á.

Ông Lê Xuân Khoa: Tôi đồng ý với câu trả lời của ông Đinh Kim Phúc. Tôi muốn nhận xét thêm rằng việc đổi tên biển sẽ không được đặt thành vấn đề nếu Trung Quốc không lạm dụng tên Biển Nam Trung Hoa để đòi hỏi chủ quyền của họ.

Việc một quốc gia dùng tên nước của họ để đặt tên cho vùng biển kế cận chỉ là một cách thuận tiện để ấn định vị trí địa lý chứ không phải để xác nhận chủ quyền. Như vậy, Biển Nam Trung Hoa chỉ có nghĩa là vùng biển ở phía Nam của Trung Hoa, cũng như Biển Đông Việt Nam chỉ có nghĩa là vùng biển ở phía Đông của Việt Nam.

Từ xưa đến nay giữa hai nước không có vấn đề tranh chấp vì những tên gọi như vậy, cho đến gần đây khi Trung Quốc thấy có cơ hội bành trướng trong khu vực đã tuyên bố chủ quyền của họ trên toàn thể vùng biển tiếp giáp tất cả các nước Đông Nam Á.

Việc Trung Quốc đòi chủ quyền trên Biển Nam Trung Hoa không thể được quốc tế chấp nhận, vì như vậy, Ấn Độ cũng có thể đòi hỏi chủ quyền của nước họ trên toàn thể Ấn Độ Dương, hay ít ra cũng trên hai vùng biển tiếp giáp với bờ biển phía Đông và phía Tây của Ấn Độ, gây tranh chấp với một số các quốc gia Đông Nam Á và một số các quốc gia Trung Đông và Phi châu.

Bởi thế, để vô hiệu hóa đòi hỏi phi lý của Trung Quốc, cần chính danh hóa vùng biển phía Nam của Trung Quốc và phía Đông của Việt Nam bằng tên đúng của nó là Biển Đông Nam Á. Giới học giả Việt Nam và ngoại quốc đã đưa ra đề nghị đổi tên Biển Nam Trung Hoa thành Biển Đông Nam Á từ mấy chục năm nay rồi.

Trong tranh chấp về chủ quyền ở biển Đông Nam Á, khi Trung Quốc hơn hẳn cả về thế lẫn lực, lúc “Quốc tế hóa các tranh chấp ở biển Đông Nam Á” trở thành một cơ hội để Việt Nam có thể tận dụng, nhằm bảo vệ hữu hiệu chủ quyền của mình ở vùng biển phía Đông, Việt Nam cần làm những gì để có thể đạt được lợi ích tốt nhất cho mình nếu tranh chấp được quốc tế hóa? Đó sẽ là nội dung được chúng tôi nêu ra để thảo luận với các ông Đinh Kim Phúc, Lê Xuân Khoa trong lần phát thanh tới, mời quý vị đón nghe.


(Phần 2)


Lần trước, trong cuộc trò chuyện giữa Trân Văn và Ngọc Trân với ông Đinh Kim Phúc - chuyên nghiên cứu lịch sử Việt Nam, làm việc tại Khoa Đông Nam Á học, Đại học Mở TP.HCM và ông Lê Xuân Khoa – từng là Viện phó Viện Đại học Sài Gòn, sau đó nghiên cứu và giảng dạy về quan hệ quốc tế tại Đại học Johns Hopkins, qúy vị đã nghe ông Phúc và ông Khoa trình bày vì sao cần “Quốc tế hóa các tranh chấp ở biển Đông Nam Á”, cũng như nếu tham gia tiến trình này, Việt Nam có thể được gì và phải đối diện với những thách thức nào.

Lần này, Trân Văn và Ngọc Trân tiếp tục thảo luận với ông Đinh Kim Phúc và ông Lê Xuân Khoa về một vấn đề khác, đó là làm sao để có thể đạt được sự đồng thuận nơi người Việt, nhằm tạo ra sự hậu thuẫn, giúp Việt Nam đạt được lợi ích tốt nhất khi các tranh chấp ở biển Đông Nam Á được quốc tế hóa. Mời qúy vị cùng nghe…

Cần đồng thuận nhưng làm gì để đạt đồng thuận?


Ngọc Trân: “Quốc tế hóa tranh chấp ở biển Đông Nam Á” sẽ là một tiến trình liên quan đến nhiều bên. Trong tiến trình đó, chắc chắn là từng bên sẽ có những mục tiêu riêng phù hợp với lợi ích của riêng mình.


Điều này tạo ra mâu thuẫn có tính tất nhiên là làm sao có thể vừa đạt được lợi ích riêng, vừa tạo ra được sự ủng hộ của nhiều bên có liên quan.


Riêng với trường hợp Việt Nam, ngoài yếu tố chính quyền phải có chính sách đối ngoại khôn khéo, linh hoạt, thực tế còn cho thấy là khi đã xác định cần phải “Quốc tế hóa tranh chấp ở biển Đông”, không thể không quan tâm đến sự ủng hộ của người Việt ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam.


Tiếc là trong thời gian vừa qua, chính quyền Việt Nam chưa tạo được niềm tin, vốn là tiền đề của sự hậu thuẫn cho nỗ lực “Quốc tế hóa tranh chấp ở biển Đông Nam Á”, theo hướng có lợi nhất cho Việt Nam. Nhiều người vẫn có cảm giác rằng, chính sách đối ngoại của chính quyền Việt Nam vẫn chỉ nhắm đến lợi ích riêng của đảng cầm quyền, chứ chưa xem lợi ích lâu dài của dân tộc là ưu tiên tối thượng.


Theo các ông, chính quyền Việt Nam cần làm gì để tạo ra được niềm tin và sự hậu thuẫn của mọi người Việt?


Trân Văn: Có lẽ ông Đinh Kim Phúc trả lời câu hỏi này trước sẽ hợp lý hơn. Thưa ông Phúc, ông thấy thế nào?


Đinh Kim Phúc: Tôi không nghĩ rằng chính sách đối ngoại của nhà nước Việt Nam chỉ là phục vụ cho đảng cầm quyền vì Việt Nam là một nước nhỏ và đang sống đan xen trong quyền lợi của các nước lớn nên bước đi phải thận trọng.


Để tạo niềm tin đối với người dân, theo tôi nhà nước Việt Nam cần phải đẩy nhanh hơn nữa việc "quốc tế hóa, dân tộc hóa, công khai hóa và phi nhạy cảm hóa" trong vấn đề bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông Nam Á.


Không nên ngăn cản các học giả tự do tự do nghiên cứu. Không nên định hướng các nghiên cứu, vì như thế sẽ không cho ra kết quả chính xác, trung thực.


Nên tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các học giả, trí thức trong và ngoài nước nghiên cứu, đóng góp tiếng nói chung để bảo vệ chủ quyền đất nước. Việc thạc sĩ Hoàng Việt của Đại học Luật TP.HCM không được tạo điều kiện để tham gia hội thảo hè ở Đại học Temple vừa qua là điều nên không có.


Vì sao một đất nước hơn 80 triệu dân, mà các hội thảo quan trọng liên quan đến chủ quyền quốc gia như Hội thảo hè 2010 tại Đại họcTemple vừa qua, ngoài những người đại diện cho nhà nước, không có nhiều học giả trong nước tham gia? Phải chăng giới học giả, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã không còn quan tâm tới chủ quyền quốc gia? Nếu đúng như vậy thì thật là nguy hiểm cho dân tộc.


Ngọc Trân: Thưa ông Khoa, ông có muốn góp thêm ý kiến nào vào vấn đề này không ạ?

Ông Lê Xuân Khoa: Quốc tế hóa tranh chấp ở Biển Đông Nam Á sẽ không tạo ra mâu thuẫn giữa lợi ích riêng của mỗi nước và lợi ích chung của các nước liên quan, nếu tất cả các nước liên quan đều chấp nhận rằng quốc tế hóa vấn đề Biển Đông là giải pháp tối ưu và duy nhất có thể ngăn chặn được hiểm họa Trung Quốc. Ở đây, cần phân biệt chủ quyền ở Hoàng Sa là vấn đề riêng giữa Việt Nam và Trung Quốc, với chủ quyền ở Trường Sa là vấn đề liên quan đến một số quốc gia Đông Nam Á.
Vấn đề chủ quyền ở Trường Sa rất phức tạp, đòi hỏi những bằng chứng lịch sử vững chắc và được giải quyết trên cơ sở Luật Biển của Liên Hiệp Quốc. Tôi không chuyên nghiên cứu về mặt này nhưng đã được đọc những tài liệu cho thấy rằng chính sử Trung Quốc không có bằng cớ gì chứng minh được Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc. Chính sử Trung Quốc cho đến đời nhà Thanh cũng đều ghi cương vực của Trung Quốc chấm dứt ở Đảo Hải Nam. Ngoài ra, việc Trung Quốc dùng vũ lực để chiếm đóng Hoàng Sa năm 1974 là một hành động vi phạm trắng trợn Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Tuy nhiên, vấn đề Trường Sa rắc rối hơn nhiều vì ngoài Trung Quốc và Đài Loan, mấy nước ASEAN như Mã Lai, Phi-líp-pin, Brunei, Nam Dương đều có liên quan, chưa kể đến những tuyên bố chủ quyền của Pháp và Anh trên một số đảo ở Trường Sa từ trên dưới 100 năm trước.
Lãnh đạo các nước ASEAN cần tạm ngưng tranh chấp với nhau và giao cho các chuyên gia tiếp tục nghiên cứu các để án giải quyết. Ưu tiên trước mắt là thống nhất lập trường phủ nhận đường lưỡi bò của Trung Quốc và đối thoại đa phương với Trung Quốc trên căn bản chung sống hòa bình, hợp tác và phát triển.

Về việc chính quyền cần phải làm gì để tạo được niềm tin và sự hậu thuẫn của người Việt cả ở trong lẫn ngoài nước cho những cuộc thương thuyết có lợi nhất cho Việt Nam, thì tôi đã nói đến khi trả lời câu hỏi về vấn đề thách thức và cơ hội cho chính quyền Việt Nam. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng đây là “thời cơ vàng” cho lãnh đạo Việt Nam xoay chuyển tình thế từ bất lợi sang thuận lợi, vừa có hậu thuẫn của quốc tế vừa tạo được niềm tin của nhân dân trong nước và cộng đồng hải ngoại. Muốn như vậy, chính quyền phải từ bỏ chế độ độc tài toàn trị, thực thi những quyền tự do căn bản cho nhân dân, dựa vào sức mạnh của nhân dân để thương thuyết với Trung Quốc, và đón nhận sự hợp tác của trí thức trong và ngoài nước trong các quyết định về chính sách đối nội và đối ngoại.
Trân Văn: Vừa rồi, ý kiến của ông Phúc gợi ra nơi tôi một thắc mắc, mong ông giải đáp, đó là ông có đề cập đến sự nguy hiểm do thờ ơ. Một số người không gọi sự thờ ơ ấy là nguy hiểm, họ bảo đấy là đại họa cho tương lai của dân tộc.


Là một người nghiên cứu về biển Đông Nam Á và theo dõi sát các diễn biến có liên quan đến khu vực này nói riêng cũng như chủ quyền quốc gia nói chung, theo ông, đâu là các dấu hiệu của đại họa?


Ông Đinh Kim Phúc: Theo tôi, khi người dân thờ ơ với chủ quyền quốc gia, dân tộc, và giới học giả, nghiên cứu, trí thức quay lưng lại với đất nước do các trở ngại nào đó… Một khi nhà nước lo không nổi, người dân thờ ơ, trí thức thì quay lưng, ngoảnh mặt…đấy sẽ là đại họa cho dân tộc.


Học giới cũng cần ngồi lại với nhau


Trân Văn: Trên thực tế thì những diễn biến liên quan đến biển Đông nói riêng, rồi quan hệ Việt – Trung, tương quan giữa thế và lực của Việt Nam, của Trung Quốc trong khu vực nói riêng, trên thế giới nói chung, đã cũng như đang khiến người Việt ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam thực sự lo âu.


Sự âu lo này khiến nhiều người cảm thấy cần phải làm gì đó trong việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam. Ngoài các nỗ lực cá nhân, còn có sự ra đời của nhiều nhóm. Tuy có những khác biệt nhất định về cách thức, thậm chí là về quan điểm song các cá nhân và nhóm đều cùng hướng đến mục tiêu là khơi dậy lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm, củng cố chứng cứ, luận cứ về chủ quyền.


Riêng trong lĩnh vực củng cố chứng cứ, luận cứ về chủ quyền, có một thực tế không thể không quan tâm là những nghiên cứu về chủ quyền của Việt Nam tại biển Đông của học giới người Việt ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam có vẻ còn chủ quan, phiến diện.


Ngọc Trân: Tôi thấy sự chủ quan, phiến diện này, một phần là do tâm cảm, phần khác quan trọng hơn là vì tư liệu, tài liệu phân tán. Ở hội thảo hè do giới nghiên cứu người Việt vừa tổ chức tại Philadelphia, Hoa Kỳ, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Giao cho biết, tại Pháp, hiện có nhiều tài liệu gốc liên quan đến chủ quyền của Việt Nam chưa được khai thác. Tiến sĩ Vũ Quang Việt thì đề cập đến tình trạng Việt Nam chưa nghiên cứu kỹ các châu bản triều Nguyễn...


Ai cũng biết, trong tiến trình “Quốc tế hóa tranh chấp ở biển Đông Nam Á”, Việt Nam chỉ có thể đạt được lợi ích lớn nhất nếu có chứng cứ vững chắc về mặt lịch sử và xác lập được luận cứ phù hợp về công pháp quốc tế. Tuy nhiên do tư liệu, tài liệu phân tán, học giới Việt Nam đã và hiện có những mâu thuẫn lớn trong biện giải về chủ quyèn lãnh thổ. Có lẽ chỉ có thể giải quyết được tình trạng này khi học giới Việt Nam, ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam chia sẻ cho nhau cả về tư liệu lẫn quan điểm.


Theo các ông, làm sao để học giới Việt Nam trên khắp thế giới có thể cùng thảo luận với nhau, thuyết phục được nhau trước khi thuyết phục thiên hạ?


Ông Đinh Kim Phúc: Đầu tiên cần nhấn mạnh về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa là quyền phát hiện, chiếm hữu và khai thác liên tục có hiệu quả phải thuộc về nhà nước. Vấn đề đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia là việc của nhà nước. Nhưng nhà nước có việc của nhà nước, các nhà khoa học có việc của các nhà khoa học và người dân có việc của người dân, miễn sao phải có sự đồng thuận trên - dưới, trong - ngoài.


Theo tôi, trong tình hình hiện nay, các học giả phải ngồi lại với nhau, để sang một bên vấn đề ý thức hệ để thống nhất hướng nghiên cứu, tập trung mọi khả năng tìm ra những tư liệu mới để củng cố quan điểm của Việt Nam . Để đạt được điều này chính phủ Việt Nam phải là người tổ chức và tập hợp.

Ông Lê Xuân Khoa: Quả thật, học giới Việt Nam trong và ngoài nước, dù là cá nhân hay nhóm, đều đang nỗ lực tìm kiếm chứng cứ và củng cố luận cứ về chủ quyền Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng đúng là do nguồn tài liệu khác nhau, các học giả Việt Nam đã có những luận giải khác nhau, có khi mâu thuẫn với nhau về chủ quyền trên các đảo này. Ý thức được điều này, học giới Việt Nam đã có những trao đổi cả về tư liệu lẫn quan điểm, nhưng còn giới hạn giữa những cá nhân hay nhóm quen biết nhau từ trước. Muốn đạt được sự đồng thuận về giá trị của tư liệu và sự vững chắc của quan điểm, cần có những cuộc trao đổi rộng rãi hơn qua những cuộc hội thảo trên mạng lưới điện tử, hay hội thảo trực tiếp tại hội trường.

Cuộc hội thảo của học giới Việt Nam tại Đại học Temple ở Philadelphia cuối tháng Bảy vừa qua là một thí dụ minh chứng cho những trao đổi cần thiết này. Chỉ tiếc là số học giả trong nước tham gia quá ít, vì gặp khó khăn trong việc xin phép chính quyền. Cụ thể là trường hợp thạc sĩ Hoàng Việt thuộc Đại học Luật TP.HCM được ông Phúc nói đến hồi nãy là đã “không được tạo điều kiện để tham gia”. Tôi và nhiều người khác đều nhận được tin tức là luật gia Hoàng Việt đã bị chính bà hiệu trưởng không cho phép và đe dọa mặc dù ông đâ có giấy giới thiệu của Bô Ngoại giao ở Hà Nội. Trường hợp lạm quyền này nếu xảy ra ở một nước dân chủ thì chắc chắn chính bà hiệu trưởng sẽ bị kỷ luật và có thể mất việc.

Những bài tham luận trong cuộc hội thảo Philadelphia đều là những công trình nghiên cứu có giá trị khoa học mà chính quyền cần tham khảo để hoạch định chính sách về Biển Đông Nam Á. Thí dụ nhà nghiên cứu Hồ Bạch Thảo đã phản bác tửng điểm một trong tập tài liệu đồ sộ của học giả Trung Quốc Hàn Chấn Hoa, vạch rõ những sai lầm, ngụy biện và gian trá của họ Hàn nhằm chứng minh chủ quyền của Trung Quốc ở “Nam Hải chư đảo”. Tôi được biết sau cuộc hội thảo này, Tiến sĩ Vũ Quang Việt đã bổ sung và hoàn tất bản dự thảo của ông thành một tài liệu nghiên cứu gần 100 trang về cuộc tranh chấp Biển Đông Nam Á, vừa được ông công bố trên trang mạng Thời Đại Mới. Đây là một đóng góp quan trọng cho những nỗ lực tìm kiếm giải pháp hòa bình và công lý dựa trên chứng cứ lịch sử và luật pháp quốc tế.

Đến đây thì cuộc hội luận giữa chúng tôi với các ông: Đinh Kim Phúc, Lê Xuân Khoa chuyển sang phần cuối cùng, đó là nếu như chính quyền Việt Nam thật sự muốn đạt được sự đồng thuận làm hậu thuẫn cho tiến trình “Quốc tế hóa tranh chấp ở biển Đông Nam Á”, theo hướng có lợi nhất cho Việt Nam thì họ phải làm gì trước. Nội dung phần cuối của cuộc hội luận này sẽ được giới thiệu trong lần phát thanh tới, mời qúy vị đón nghe…

(Phần 3)


Trong cuộc hội luận giữa Trân Văn và Ngọc Trân, các ông: Đinh Kim Phúc - chuyên nghiên cứu lịch sử Việt Nam, làm việc tại Khoa Đông Nam Á học, Đại học Mở TP.HCM và ông Lê Xuân Khoa – từng là Viện phó Viện Đại học Sài Gòn, sau đó nghiên cứu và giảng dạy về quan hệ quốc tế tại Đại học Johns Hopkins, đã trình bày những suy nghĩ có liên quan đến vấn đề “Quốc tế hóa các tranh chấp ở biển Đông”, các điều kiện để đạt được sự đồng thuận làm hậu thuẫn về chứng cứ, luận cứ, dư luận.


Nếu muốn tiến trình “Quốc tế hóa tranh chấp ở biển Đông Nam Á” diễn tiến theo hướng có lợi nhất cho Việt Nam, chính quyền Việt Nam cần phải làm gì trước? Mời qúy vị nghe tiếp phần cuối của cuộc hội luận này…


Hỗ trợ học giới: Chuyện cần mà chưa làm


Ngọc Trân: Vì các ông đề cập đến việc phối hợp nghiên cứu giữa học giới trong và ngoài Việt Nam nên xin nêu thêm một thắc mắc khác, đó là hình như đa số nghiên cứu của học giới người Việt ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam thường mới chỉ ngừng lại ở mức nói cho nhau nghe. Hầu hết các công trình nghiên cứu mang tính học thuật, liên quan đến chủ quyền Việt Nam của học giới người Việt chỉ nhằm giới thiệu với độc giả người Việt.


Tại sao các công trình nghiên cứu về chủ quyền của Việt Nam tại biển Đông Nam Á không được công bố với học giới nước ngoài để phản biện lại các luận cứ của Trung Quốc. Chắc ông cũng biết là Trung Quốc đầu tư rất sâu và làm rất tốt điều này?


Ông Đinh Kim Phúc: Chính phủ nên tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức trong và ngoài nước nghiên cứu, ngoài việc chủ động lập ra các tổ chức nghiên cứu mang tính quốc tế để phản biện lại các quan điểm của Trung Quốc mà phía Việt Nam cho là không đúng.


Các tổ chức tư nhân cũng như chính phủ nên đưa các nghiên cứu của mình ra áp dụng, chẳng hạn như sử dụng các kết quả nghiên cứu để phản bác lại các quan điểm phía Trung Quốc đưa ra


Nếu không làm được điều này thì rất khó phản biện lại các quan điểm không đúng của Trung Quốc. Và hệ quả cuả nó là gì? Có lẽ Tân Cương, Tây Tạng sẽ là một hình ảnh không xa với dân tộc Việt Nam .


Trân Văn: Ông Lê Xuân Khoa có muốn chia sẻ gì thêm về vấn đề này không ạ?

Ông Lê Xuân Khoa: Trong cuộc hội thảo Philadelphia, chính tôi là người phát biểu nhận xét rằng hầu hết công trình nghiên cứu và đề nghị của học giới trong và ngoài nước về chủ quyền Việt Nam chỉ là viết cho nhau đọc và nói cho nhau nghe. Nhưng mục đích của tôi qua nhận xét ấy không nhằm vào sự cần thiết phải công bố với học giới nước ngoài để phản biện lại các luận điểm của Trung Quốc mà muốn nhấn mạnh vào một mục đích khác cũng rất quan trọng là những tư liệu và ý kiến của học giới Việt Nam phải được sự chú ý của những người làm chính sách ở trong nước và các nước liên quan.

Tôi không biết người ở trong nước có thể làm cách nào để ảnh hưởng tới các quyết định của nhà cầm quyền, nhưng ở nước ngoài như ở Mỹ thì tiếng nói của người dân, đặc biệt là của giới trí thức thì có thể đạt tới nhà cầm quyền, ngay cả Tổng thống bằng nhiều ngả, trực tiếp bằng thư tín hoặc gián tiếp qua báo chí và quốc hội. Những đóng góp của học giới Việt Nam cần phải được viết bằng tiếng Anh hay dịch sang tiếng Anh thì mới có thể lôi cuốn được sự chú ý của học giới và báo giới ngoại quốc, và của những nhà làm chính sách ở Mỹ và các nước khác.

Chính quyền phải “dễ hiểu” hơn


Trân Văn: Tôi lại có một câu hỏi nữa mong ông Phúc giải đáp. Đó là ở phần trước của cuộc trò chuyện này, ông cho rằng, trong những vấn đề có liên quan đến biển Đông Nam Á, chính sách đối ngoại của Việt Nam không đơn thuần chỉ phục vụ cho lợi ích của đảng cầm quyền.


Chúng tôi cũng thấy rằng, vì thế và lực của Việt Nam như thế, đồng thời vì biển Đông Nam Á là khu vực có sự đan xen quyền lợi của các nước lớn nên mọi bước đi đúng là cần phải thận trọng. Tuy nhiên, thận trọng tới mức phải gọi Trung Quốc là “nước ngoài” một cách chung chung, gọi tàu Trung Quốc là “tàu lạ”, chỉ trích những hành vi ngang ngược của Trung Quốc, kêu gọi minh định chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa, Trường Sa lại bị xem là “bị các thế lực thù địch, phản động kích động” thì sự thận trọng đó trở thành khó hiểu.


Ông có thể giải thích vì sao sự thận trọng lẽ ra rất cần thiết lại trở thành khó hiểu như vậy hay không?


Ông Đinh Kim Phúc: Tôi hiểu những vấn đề mà anh đặt ra, điều đó đúng là tâm trạng của nhiều người. Nhưng tôi cũng hiểu được những khó khăn của nhà nước Việt Nam hiện nay trong việc ứng xử đối với những vấn đề liên quan đến biển Đông Nam Á. Dù sao cũng phải giữ mối quan hệ hữu nghị với Trung Quốc vì Việt Nam là một nước nhỏ mà lịch sử đã chỉ ra nhiều bài học kinh nghiệm trong quan hệ với Trung Quốc.


Mặt khác, việc nghiên cứu về mối quan hệ đa chiều trong vấn đề biển Đông Nam Á không phải ai cũng biết tường tận, nhưng quan điểm của tôi là phải tôn trọng sự thật lịch sử, bên cạnh đó, tôi nghĩ những người có trách nhiệm phải thấy được những gì đang diễn ra và người dân phải được quyền biết sự thật trong mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc hiện nay.

Với tôi, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và toàn vẹn lãnh thổ là trên hết. Tôi tin nhà nước Việt Nam cũng nghĩ như thế. Tại sao các anh không trực tiếp nêu những câu hỏi này với nhà nước? Không có thông tin rõ ràng, không có thái độ đúng mực thì không thể có niềm tin. Thiếu tin cậy thì khó đồng thuận, mà không đồng thuận thì chắc chắn khó đoàn kết. Tôi nghĩ nhà nước Việt Nam đã thấy được điều đó.

Ngọc Trân: Còn ông, thưa ông Lê Xuân Khoa, ông nghĩ thế nào ạ?

Ông Lê Xuân Khoa: Để bảo vệ độc lập, chủ quyền và duy trì sự tồn tại của nòi giống Lạc Hồng, tổ tiên người Việt Nam đã áp dụng nhu đạo vào cả hai lãnh vực quân sự và ngoại giao để đối phó với láng giềng khổng lồ phương Bắc. Nói cách khác, các vua chúa đời trước chống sức mạnh của giặc ngoại xâm không bằng sự đối đầu mà bằng mưu trí, khi thắng trận thì dùng lời lẽ khôn khéo để không làm cho kẻ địch bị mất mặt.

Trong thế giới ngày nay, nếu chính quyền Việt Nam muốn giao hảo thân thiện với các nước lớn và tránh đụng độ về quân sự thì cũng đúng với truyền thống dân tộc sinh tồn bằng nhu đạo của tổ tiên. Nhưng như vậy thì phải giữ được sự cân bằng trong cách đối xử, không được thiên vị chỉ vì muốn duy trì độc quyền cai trị nhân dân và bảo vệ đặc quyền đặc lợi. Trong 20 năm qua, chính quyền Việt Nam đã thiên về phía Trung Quốc vì lợi ích riêng tư ấy. Tuy nhiên, trước thái độ lấn át trắng trợn của Trung Quốc đưa đến nguy cơ mất nước, lãnh đạo Việt Nam có vẻ muốn dựa vào thế quốc tế để lấy lại thế quân bình với Trung Quốc.

Ông Đinh Kim Phúc tin là nhà nước Việt Nam cũng đặt độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ lên trên hết. Ông nhắc nhở Đài Á châu Tự do nên trực tiếp đặt câu hỏi với nhà nước để có được thông tin rõ ràng và từ đó có thể có niềm tin và đồng thuận dân tộc. Tôi đề nghị Đài Á châu Tự do nên tìm cách phỏng vấn các nhà lãnh đạo Việt Nam trong những ngày tháng sắp tới.

Links: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Which-ways-that-vietnam-can-perform-to-internationalize-the-disputes-in-south-china-sea-part1-ntran-tvan-08152010103303.html?searchterm=None

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Which-ways-that-Vietnam-can-perform-to-internationalize-the-disputes-in-South-China-sea-part-2-08162010063951.html?searchterm=None

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Which-ways-that-Vietnam-can-perform-to-internationalize-the-disputes-in-South-China-sea-part3-TV-NT-08162010113023.html?searchterm=None

Tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc tăng tốc

Tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc tăng tốc


Tàu ngầm và chiến hạm Trung Quốc tham gia cuộc thao diễn hải quân quốc tế ngày 24/04/2009 ngoài khơi Thanh Đảo, nhân kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Hải quân Trung Quốc.
REUTERS/Guang Niu
Mai Vân
Quyết định của Bắc Kinh đặt Biển Đông vào diện "quyền lợi quốc gia thiết yếu", thể hiện một tham vọng độc chiếm khu vực được mệnh danh là « Vịnh Ba Tư của Châu Á ». Hành động này trực tiếp xâm phạm lợi ích quốc gia của nhiều nước Đông Nam Á, và thách thức Hoa Kỳ nhưng Trung Quốc vẫn tiến hành vì Biển Đông đã trở thành cần thiết và Bắc Kinh tự cho rằng đã đủ khả năng khống chế.

Trong bài phân tich ngày 13/07/2010 mang tựa đề ‘’Full steam ahead for China’s territorial ambitions’’, Peter Hartcher, biên tập viên quốc tế của nhật báo Úc Sydney Morning Herald phân tích các yếu tố thúc đẩy tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc. Quyết định về Biển Đông là yếu tố mới nhất trong một loạt những hành động gần đây nhằm thực hiện chủ thuyết mới về Hải quân của Bắc Kinh. Điều được tác giả nêu bật là thái độ của Trung Quốc coi thường phản ứng quá yếu ớt của các nước Đông Nam Á, và trong tình hình quyền lợi của Mỹ cũng bị đụng chạm, Hoa Kỳ sẽ phải gánh vác trách nhiệm tìm ra giải pháp. RFI xin hân hạnh được chuyển dịch bài viết này để quý vị độc giả tham khảo.

Trong một câu châm ngôn nổi tiếng, cố lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình kêu gọi đồng hương của mình "che giấu vẻ hào nhoáng để chờ thời". Đó là cách đây hơn 20 năm. Giờ đây, dường như giới lãnh đạo Trung Quốc đã hoàn tất việc chờ thời.

Với chủ trương định nghĩa lại một cách quyết đoán vị trí của mình trên thế giới, Trung Quốc đã đặt biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) vào diện "quyền lợi quốc gia thiết yếu", tức là nơi mà không ai khác có thể đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ - tương tự như Đài Loan và Tây Tạng. Trung Quốc đã vạch một đường màu đỏ trên bản đồ châu Á và thách thức bất cứ ai vượt qua.

Điều này đã đẩy Trung Quốc vào thế xung đột trực tiếp với các đòi hỏi của năm nước láng giềng, và thách thức vai trò thống trị của Hải quân Mỹ trên vùng biển. Một phần ba của tất cả hàng hóa chuyển vận bằng đường thủy đều đi qua vùng biển mà giờ đây Trung Quốc tuyên bố độc quyền, giáp Đài Loan ở phía bắc, Việt Nam ở phía tây, Philippines ở phía đông, Malaysia và Brunei ở phía nam.

Vùng này chứa các mỏ dầu khí; một số nhà phân tích Trung Quốc đã gọi nơi này là "vịnh Ba Tư ở châu Á" do tiềm năng dầu hỏa dồi dào và trải rộng của khu vực. Chủ trương của Trung Quốc đặc biệt khiêu khích, vì như vậy họ đã bác bỏ thỏa thuận không ràng buộc năm 2002 với các nước láng giềng Đông Nam Á để giải quyết tranh chấp lãnh thổ thông qua thương lượng hòa bình.

Đây là một cuộc khủng hoảng, nhưng là một cuộc khủng hoảng thầm lặng. Lý do chủ yếu là vì các nước bị đụng chạm đang phản ứng một cách dè dặt đầy lo âu trước người láng giềng đang vươn lên của họ. Việt Nam đã minh thị yêu cầu Trung Quốc thực hiện thỏa thuận, nhưng những nước khác đã gần như im hơi lặng tiếng.

Còn Hoa Kỳ thì sao ? Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương, Kurt Campbell, đã nói với nhật báo Úc Herald: "Tôi nghĩ rằng Mỹ và Trung Quốc có một cuộc đối thoại phong phú ở cấp nhà nước trên một loạt vấn đề. Trong bối cảnh bao quát đó, luôn luôn có các vấn đề mà Mỹ và Trung Quốc bất đồng với nhau, và chúng tôi hiểu rằng những khác biệt đó liên quan không chỉ đến vấn đề quyền của Đài Loan hoặc các vấn đề như Tây Tạng, nhưng cũng liên quan đến các vấn đề như biển Nam Trung Hoa (Biển Đông).

"Chúng tôi đã tìm cách hợp tác chặt chẽ để thiết lập một cuộc đối thoại, không chỉ với Trung Quốc mà với cả những bạn bè của chúng tôi ở Đông Nam Á, sao cho chúng tôi có thể hoàn toàn hỗ trợ tiến trình năm 2002 giữa Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á nhằm giải quyết mọi vấn đề nổi cộm thông qua ngoại giao.''

Nói cách khác, Mỹ cũng muốn Trung Quốc trở lại nguyên trạng trước đây, đàm phán thay vì đơn phương đòi hỏi. Như thường lệ, Hiệp hội các nước Đông Nam Á lại vô dụng khi phải đối mặt với rắc rối. Vai trò tìm kiếm một giải pháp một lần nữa lại phải do Mỹ gánh vác.

Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN (ARF), có thêm Trung Quốc, Mỹ, Úc và một loạt các nước khác, họp lại tại Hà Nội ngày 23 tháng bảy. Biển Đông là một chủ đề nóng.

Tại sao Trung Quốc nhòm ngó Biển Đông ? Bởi vì đó là điều cần phải làm, theo như lời một quan chức hàng đầu của hải quân Trung Quốc. Chuẩn Đô đốc Trương Hoa Trần, Phó Tư lệnh Đông Hải Hạm đội, đã nói với nhật báo Singapore The Straits Times: "Với việc mở rộng quyền lợi kinh tế của Trung Quốc, lực lượng hải quân muốn bảo vệ tốt hơn các tuyến giao thông vận tải, và đảm bảo an toàn cho các tuyến hàng hải chủ chốt của mình."

Walter Russell Mead, chuyên gia thuộc Hội đồng Đối ngoại (Council on Foreign Relations) không tán đồng : "Giải thích này rất nghèo nàn nếu xét đến những tham vọng thương mại của Trung Quốc; họ bảo vệ loại thương mại nào? Trung Quốc đang cần đến nguồn năng lượng và nguyên liệu từ khắp nơi trên thế giới."

Trung Quốc đẩy mạnh tham vọng ở Biển Đông vì đã có khả năng làm việc này, theo Tô Quang Vũ, một viên tướng Trung Quốc đã về hưu. Ông nói với nhật báo Hồng Kông South China Morning Post: "Sự vắng mặt lâu dài của Trung Quốc tại vùng biển đặc quyền kinh tế trong các thập kỷ qua là một điều bất thường trong lịch sử, và bây giờ mới bắt đầu trở lại hoạt động bình thường. Sở dĩ chúng tôi lặng yên trong việc tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng trong quá khứ , đó là vì hải quân của chúng tôi chưa đủ sức bảo vệ các khu kinh tế của mình, nhưng bây giờ thì hải quân đã có khả năng thực hiện nhiệm vụ."

Vào lúc này, Trung Quốc nghĩ rằng họ có thể điềm nhiên thúc đẩy tham vọng lãnh thổ mà vẫn vô sự. Theo Vương Hàn Linh, một chuyên gia về các vấn đề hàng hải tại Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc : "Trên thực tế, tranh chấp đã nẩy sinh từ khi dầu mỏ và các nguồn tài nguyên đại dương khác được phát hiện dưới quần đảo Điếu Ngư [mà Nhật Bản tuyên bố chủ quyền dưới tên gọi Senkaku] ở vùng biển Hoa Đông , và quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa ở khu vực biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) trong thập niên 1970.''

Vào thời đó, đã từng có suy nghĩ là các quốc gia Đông Nam Á có thể hình thành một mặt trận chung chống lại Trung Quốc, một khả năng “từng làm Bắc Kinh lo ngại", theo lời ông Vương, nhưng mối quan ngại này ngày nay đã tan biến sau ba thập kỷ bất động từ phía các nước Đông Nam Á. "Chúng tôi thấy rằng bản thân các nước láng giềng còn tranh chấp lãnh thổ với nhau, và có lợi ích quốc gia để bảo vệ, cho nên khó mà xây dựng một mặt trận thống nhất chống lại Trung Quốc. Ngay cả khi họ thành công trong việc liên kết với nhau, thì họ vẫn không đủ mạnh để đánh bại Trung Quốc ".

Xác định Biển Đông là vùng quyền lợi quốc gia thiết thân là một trong nhiều động thái Bắc Kinh tiến hành trong năm nay để mở rộng phạm vi thống trị của Hải quân Trung Quốc. Đầu tiên hết, họ đã loan báo một chủ thuyết hải quân mới mang tính bành trướng. Cho đến nay, khu vực hoạt động của Hải quân Trung Quốc được giới hạn ở cái gọi là Chuỗi đảo thứ nhất, trải dài từ Nhật Bản đến Philippines. Nhưng bây giờ Bắc Kinh tuyên bố chính sách “phòng ngự viễn dương”, vươn tới Chuỗi đảo thứ hai, một khu vực trải dài và vươn ra mọi hưóng xuống đến tận đảo Guam, Indonesia và Úc.

Kế đến, Trung Quốc đã tung ra những chiến dịch tuần tra hung hãn hơn và những cuộc tập trận hải quân để bổ sung hiệu năng tác chiến cho học thuyết mới. Trong tháng tư 2010 chằng hạn, một hạm đội gồm 10 chiếc tàu đã vượt qua Chuỗi đảo thứ nhất, một cuộc diễn tập có quy mô chưa từng thấy đối với Trung Quốc.

Động thái thứ ba là Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh việc tăng cường năng lực cho hải quân, trong đó việc xây dựng một căn cứ tàu ngầm dưới mặt đất trên đảo Hải Nam, và một hàng không mẫu hạm chiến đấu, dự trù triển khai trong vài năm tới.

Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ, Đô đốc Robert Willard, cho biết trong tháng tư : "Đặc biệt đáng quan ngại là các yếu tố hiện đại hóa quân sự đó của Trung Quốc lại có dấu hiệu là nhằm thách thức quyền tự do hành động của chúng ta trong khu vực."

Với nền kinh tế thịnh vượng và năng lực ngày càng gia tăng, Bắc Kinh không còn chờ thời nữa mà đang hành động để khẳng định bản thân.

Nguồn RFI: http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20100725-tham-vong-lanh-tho-cua-trung-quoc-tang-toc
CHỦ NHẬT, 01 THÁNG 8 2010 20:41

Tàu ngầm và chiến hạm Trung Quốc tham gia cuộc thao diễn hải quân quốc tế ngày 24/04/2009 ngoài khơi Thanh Đảo, nhân kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Hải quân Trung Quốc.
REUTERS/Guang Niu
Mai Vân
Quyết định của Bắc Kinh đặt Biển Đông vào diện "quyền lợi quốc gia thiết yếu", thể hiện một tham vọng độc chiếm khu vực được mệnh danh là « Vịnh Ba Tư của Châu Á ». Hành động này trực tiếp xâm phạm lợi ích quốc gia của nhiều nước Đông Nam Á, và thách thức Hoa Kỳ nhưng Trung Quốc vẫn tiến hành vì Biển Đông đã trở thành cần thiết và Bắc Kinh tự cho rằng đã đủ khả năng khống chế.

Trong bài phân tich ngày 13/07/2010 mang tựa đề ‘’Full steam ahead for China’s territorial ambitions’’, Peter Hartcher, biên tập viên quốc tế của nhật báo Úc Sydney Morning Herald phân tích các yếu tố thúc đẩy tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc. Quyết định về Biển Đông là yếu tố mới nhất trong một loạt những hành động gần đây nhằm thực hiện chủ thuyết mới về Hải quân của Bắc Kinh. Điều được tác giả nêu bật là thái độ của Trung Quốc coi thường phản ứng quá yếu ớt của các nước Đông Nam Á, và trong tình hình quyền lợi của Mỹ cũng bị đụng chạm, Hoa Kỳ sẽ phải gánh vác trách nhiệm tìm ra giải pháp. RFI xin hân hạnh được chuyển dịch bài viết này để quý vị độc giả tham khảo.

Trong một câu châm ngôn nổi tiếng, cố lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình kêu gọi đồng hương của mình "che giấu vẻ hào nhoáng để chờ thời". Đó là cách đây hơn 20 năm. Giờ đây, dường như giới lãnh đạo Trung Quốc đã hoàn tất việc chờ thời.

Với chủ trương định nghĩa lại một cách quyết đoán vị trí của mình trên thế giới, Trung Quốc đã đặt biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) vào diện "quyền lợi quốc gia thiết yếu", tức là nơi mà không ai khác có thể đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ - tương tự như Đài Loan và Tây Tạng. Trung Quốc đã vạch một đường màu đỏ trên bản đồ châu Á và thách thức bất cứ ai vượt qua.

Điều này đã đẩy Trung Quốc vào thế xung đột trực tiếp với các đòi hỏi của năm nước láng giềng, và thách thức vai trò thống trị của Hải quân Mỹ trên vùng biển. Một phần ba của tất cả hàng hóa chuyển vận bằng đường thủy đều đi qua vùng biển mà giờ đây Trung Quốc tuyên bố độc quyền, giáp Đài Loan ở phía bắc, Việt Nam ở phía tây, Philippines ở phía đông, Malaysia và Brunei ở phía nam.

Vùng này chứa các mỏ dầu khí; một số nhà phân tích Trung Quốc đã gọi nơi này là "vịnh Ba Tư ở châu Á" do tiềm năng dầu hỏa dồi dào và trải rộng của khu vực. Chủ trương của Trung Quốc đặc biệt khiêu khích, vì như vậy họ đã bác bỏ thỏa thuận không ràng buộc năm 2002 với các nước láng giềng Đông Nam Á để giải quyết tranh chấp lãnh thổ thông qua thương lượng hòa bình.

Đây là một cuộc khủng hoảng, nhưng là một cuộc khủng hoảng thầm lặng. Lý do chủ yếu là vì các nước bị đụng chạm đang phản ứng một cách dè dặt đầy lo âu trước người láng giềng đang vươn lên của họ. Việt Nam đã minh thị yêu cầu Trung Quốc thực hiện thỏa thuận, nhưng những nước khác đã gần như im hơi lặng tiếng.

Còn Hoa Kỳ thì sao ? Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương, Kurt Campbell, đã nói với nhật báo Úc Herald: "Tôi nghĩ rằng Mỹ và Trung Quốc có một cuộc đối thoại phong phú ở cấp nhà nước trên một loạt vấn đề. Trong bối cảnh bao quát đó, luôn luôn có các vấn đề mà Mỹ và Trung Quốc bất đồng với nhau, và chúng tôi hiểu rằng những khác biệt đó liên quan không chỉ đến vấn đề quyền của Đài Loan hoặc các vấn đề như Tây Tạng, nhưng cũng liên quan đến các vấn đề như biển Nam Trung Hoa (Biển Đông).

"Chúng tôi đã tìm cách hợp tác chặt chẽ để thiết lập một cuộc đối thoại, không chỉ với Trung Quốc mà với cả những bạn bè của chúng tôi ở Đông Nam Á, sao cho chúng tôi có thể hoàn toàn hỗ trợ tiến trình năm 2002 giữa Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á nhằm giải quyết mọi vấn đề nổi cộm thông qua ngoại giao.''

Nói cách khác, Mỹ cũng muốn Trung Quốc trở lại nguyên trạng trước đây, đàm phán thay vì đơn phương đòi hỏi. Như thường lệ, Hiệp hội các nước Đông Nam Á lại vô dụng khi phải đối mặt với rắc rối. Vai trò tìm kiếm một giải pháp một lần nữa lại phải do Mỹ gánh vác.

Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN (ARF), có thêm Trung Quốc, Mỹ, Úc và một loạt các nước khác, họp lại tại Hà Nội ngày 23 tháng bảy. Biển Đông là một chủ đề nóng.

Tại sao Trung Quốc nhòm ngó Biển Đông ? Bởi vì đó là điều cần phải làm, theo như lời một quan chức hàng đầu của hải quân Trung Quốc. Chuẩn Đô đốc Trương Hoa Trần, Phó Tư lệnh Đông Hải Hạm đội, đã nói với nhật báo Singapore The Straits Times: "Với việc mở rộng quyền lợi kinh tế của Trung Quốc, lực lượng hải quân muốn bảo vệ tốt hơn các tuyến giao thông vận tải, và đảm bảo an toàn cho các tuyến hàng hải chủ chốt của mình."

Walter Russell Mead, chuyên gia thuộc Hội đồng Đối ngoại (Council on Foreign Relations) không tán đồng : "Giải thích này rất nghèo nàn nếu xét đến những tham vọng thương mại của Trung Quốc; họ bảo vệ loại thương mại nào? Trung Quốc đang cần đến nguồn năng lượng và nguyên liệu từ khắp nơi trên thế giới."

Trung Quốc đẩy mạnh tham vọng ở Biển Đông vì đã có khả năng làm việc này, theo Tô Quang Vũ, một viên tướng Trung Quốc đã về hưu. Ông nói với nhật báo Hồng Kông South China Morning Post: "Sự vắng mặt lâu dài của Trung Quốc tại vùng biển đặc quyền kinh tế trong các thập kỷ qua là một điều bất thường trong lịch sử, và bây giờ mới bắt đầu trở lại hoạt động bình thường. Sở dĩ chúng tôi lặng yên trong việc tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng trong quá khứ , đó là vì hải quân của chúng tôi chưa đủ sức bảo vệ các khu kinh tế của mình, nhưng bây giờ thì hải quân đã có khả năng thực hiện nhiệm vụ."

Vào lúc này, Trung Quốc nghĩ rằng họ có thể điềm nhiên thúc đẩy tham vọng lãnh thổ mà vẫn vô sự. Theo Vương Hàn Linh, một chuyên gia về các vấn đề hàng hải tại Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc : "Trên thực tế, tranh chấp đã nẩy sinh từ khi dầu mỏ và các nguồn tài nguyên đại dương khác được phát hiện dưới quần đảo Điếu Ngư [mà Nhật Bản tuyên bố chủ quyền dưới tên gọi Senkaku] ở vùng biển Hoa Đông , và quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa ở khu vực biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) trong thập niên 1970.''

Vào thời đó, đã từng có suy nghĩ là các quốc gia Đông Nam Á có thể hình thành một mặt trận chung chống lại Trung Quốc, một khả năng “từng làm Bắc Kinh lo ngại", theo lời ông Vương, nhưng mối quan ngại này ngày nay đã tan biến sau ba thập kỷ bất động từ phía các nước Đông Nam Á. "Chúng tôi thấy rằng bản thân các nước láng giềng còn tranh chấp lãnh thổ với nhau, và có lợi ích quốc gia để bảo vệ, cho nên khó mà xây dựng một mặt trận thống nhất chống lại Trung Quốc. Ngay cả khi họ thành công trong việc liên kết với nhau, thì họ vẫn không đủ mạnh để đánh bại Trung Quốc ".

Xác định Biển Đông là vùng quyền lợi quốc gia thiết thân là một trong nhiều động thái Bắc Kinh tiến hành trong năm nay để mở rộng phạm vi thống trị của Hải quân Trung Quốc. Đầu tiên hết, họ đã loan báo một chủ thuyết hải quân mới mang tính bành trướng. Cho đến nay, khu vực hoạt động của Hải quân Trung Quốc được giới hạn ở cái gọi là Chuỗi đảo thứ nhất, trải dài từ Nhật Bản đến Philippines. Nhưng bây giờ Bắc Kinh tuyên bố chính sách “phòng ngự viễn dương”, vươn tới Chuỗi đảo thứ hai, một khu vực trải dài và vươn ra mọi hưóng xuống đến tận đảo Guam, Indonesia và Úc.

Kế đến, Trung Quốc đã tung ra những chiến dịch tuần tra hung hãn hơn và những cuộc tập trận hải quân để bổ sung hiệu năng tác chiến cho học thuyết mới. Trong tháng tư 2010 chằng hạn, một hạm đội gồm 10 chiếc tàu đã vượt qua Chuỗi đảo thứ nhất, một cuộc diễn tập có quy mô chưa từng thấy đối với Trung Quốc.

Động thái thứ ba là Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh việc tăng cường năng lực cho hải quân, trong đó việc xây dựng một căn cứ tàu ngầm dưới mặt đất trên đảo Hải Nam, và một hàng không mẫu hạm chiến đấu, dự trù triển khai trong vài năm tới.

Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ, Đô đốc Robert Willard, cho biết trong tháng tư : "Đặc biệt đáng quan ngại là các yếu tố hiện đại hóa quân sự đó của Trung Quốc lại có dấu hiệu là nhằm thách thức quyền tự do hành động của chúng ta trong khu vực."

Với nền kinh tế thịnh vượng và năng lực ngày càng gia tăng, Bắc Kinh không còn chờ thời nữa mà đang hành động để khẳng định bản thân.

Nguồn RFI: http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20100725-tham-vong-lanh-tho-cua-trung-quoc-tang-toc

Bài viết về tranh chấp trên biển Đông đăng trên báo Asia Sentinel

Bài viết về tranh chấp trên biển Đông đăng trên báo Asia Sentinel
THỨ BA, 12 THÁNG 10 2010 22:57
Bài này do 2 thành viên của Quỹ là Dương Danh Huy và Lê Trung Tĩnh viết cùng với sự đóng góp quý báu của các bạn Hoàng Anh Tuấn Kiệt, Phạm Quang Tuấn, Lê Thị Vân Trình, Lê Minh Phiếu. Bài viết về tuyên bố của Clinton tại AFR và phản ứng của TQ. Bài này viết bằng tiếng Anh và được đăng trên tờ báo điện tử châu Á, Asia Sentinel. Mời các bạn đọc bài viết ở link sau:

http://www.asiasentinel.com/index.php?option=com_content&task=view&id=2750&Itemid=171

Dưới đây là bản dịch tiếng Việt.

Tuyến bố chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông

Thứ hai 11/10/2010

Dương Danh Huy, Lê Trung Tĩnh (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông)

Lê Vĩnh Trương dịch sang tiếng Việt

Song phương hay đa phương ? Quốc tế hóa hay phi quốc tế hóa?

Những tháng ngày gần đây (2010), quan ngại đã ngày càng gia tăng đối với sự hung hãn của Trung Quốc khi họ tuyên bố chủ quyền đối với phần lớn Biển Đông như thể đó là ao nhà của họ. Gần đây nhất, sự quan ngại lại nóng hơn lên liên quan đến việc triển khai một đoàn tàu chiến hiện đại nhất của Trung Quốc tại quần đảo Trường Sa trong khuôn khổ một cuộc tập trận kéo dài ba tuần.

Trung Quốc đã vẽ một đường hình chữ U vươn khắp phần lớn Biển Đông một cách bất chấp để biểu hiện một yêu sách mà Trung Quốc không hề xác định bản chất hay cơ sở. Đó là một đường không phù hợp với bất kỳ luật lệ quốc tế nào, kể cả Công ước quốc tế về Luật Biển 1982. Trung Quốc luôn lẩn tránh cho biết đường tự vẽ đó dựa vào đâu để tuyên bố chủ quyền.

Trước một Trung Quốc ngày càng gia tăng áp lực, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Hilary Clinton đã phát biểu tại diễn đàn ASEAN Hà Nội tháng bảy 2010 vừa qua rằng Hoa Kỳ “chống lại việc sử dụng hay đe dọa sử dụng võ lực từ bất cứ phía tranh chấp nào. Trong khi Hoa Kỳ không đứng về phía nào trong các tranh cãi về lãnh thổ trên Biển Đông, chúng tôi cho rằng các bên tranh chấp cần theo đuổi các tuyên bố về chủ quyền và những bước kế tiếp cũng như quyền sử dụng không gian biển trên tinh thần nghiêm tuân Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Trung thành với luật quốc tế thông thường, các tuyên bố hợp pháp về không gian biển tại Biển Đông cần phải hoàn toàn dựa vào những tuyên bố hợp pháp về chủ quyền đất liền."

Tuyên bố của bà Clinton phù hợp với luật quốc tế, cấm sử dụng hay đe dọa sử dụng võ lực để giải quyết tranh chấp. Tuyên bố này cũng song hành với Luật Biển và với chính sách trước nay của Mỹ là trung lập trong các tranh chấp đối với Hoàng Sa, Trường Sa và bãi cạn Scarborough. Hơn nữa, sự việc này đáng khích lệ ở chỗ có một quốc gia đưa ra đề nghị tạo điều kiện cho các nước tranh chấp thảo luận với nhau.

Tuy vậy, Trung Quốc đã phản ứng lại một cách giận dữ. Nhà đương cục nước này luôn khăng khăng rằng các tranh chấp Biển Đông phải được giải quyết bằng đàm phán song phương và họ đã phát triển chính sách “hai không” khi đề cập đến Biển Đông: không đàm phán đa phương, không “quốc tế hóa." Do vậy, đáp lại tuyên bố của bà Clinton, Trung Quốc đã công kích việc mà họ cho là “quốc tế hóa” vần đề Biển Đông và lý luận rằng các tranh chấp cần phải được giải quyết thông qua bàn đàm phán tay đôi.

Giải pháp song phương hay đa phương?

Vấn đề Biển Đông bao gồm một số các tranh chấp riêng rẽ. Trung Quốc và Việt Nam tranh chấp quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc và Philippin tranh chấp bãi ngầm Scarborough và quần đảo Trường Sa được tuyên bố chủ quyền toàn bộ hay một phần bởi các nước Brunei, Trung Quốc, Malaysia và Việt Nam. Có những tranh cãi trên các vùng biển, như vùng đặc quyền kinh tế và vùng kéo dài thềm lục địa.

Cuối cùng và có lẽ quan trọng hơn cả là “đường chữ U” đang bao trùm một cách vô lối hầu hết Biển Đông, đã tạo ra tranh chấp biển giữa Trung Quốc với Brunei, Malaysia, Philippines, Việt Nam, Indonesia và tiềm ẩn tranh chấp giữa Trung Quốc với tất cả mọi nước trên thế giới,vốn cùng có quyền lợi tại Biển Đông, như công ước Liên Hiệp Quốc đã định.

Hiển nhiên, vấn đề Hoàng Sa là tranh chấp song phương giữa Trung Quốc và Việt Nam và nên được giải quyết tay đôi giữa hai nước Việt Trung. Nếu hai bên không đạt được thỏa thuận, Trung Quốc và Việt Nam nên tìm kiếm trung gian phán quyết, như Indonesia và Malaysia đã từng đưa tranh biện các đảo Ligitan và Sipadan ra Tòa án Công Lý Quốc Tế (TACLQT-IJC), hay như Malaysia và Singapore đã làm tương tự đối với các bất đồng tại Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Ledge và South Rock.

Tương tự như vậy, tranh chấp bãi cạn Scarborough cũng là vấn đề song phương giữa Trung Quốc và Philippin và cũng nên được giải quyết cùng cách thức.

Tranh chấp toàn bộ hay từng phần đối với Trường Sa giữa Brunei, Trung quốc, Malaysia, Philippin và Việt Nam là một tranh chấp đa phương, theo đúng định nghĩa của từ “đa phương” ́. Dị biệt quan điểm giữa nhiều bên cần có cách giải quyết đa phương. Bàn đàm phán song phương không phải là cơ chế phù hợp để xử lý các khác biệt quan điểm giữa nhiều bên. Việc giải quyết chỉ giữa hai bên trong khi còn nhiều bên khác cùng tuyên bố chủ quyền sẽ khó mà chấp nhận được cho các bên còn lại. Chẳng hạn, nếu như Philippin và Việt Nam tiến hành đàm phán song phương và tiến tới hướng giải quyết cho chỉ riêng hai nước này đối với chủ quyền Trường Sa thì liệu Bắc Kinh có chấp nhận cách đó hay không?

Những bất đồng đối với vùng biển có khả năng thuộc về Trường Sa cũng đều là các tranh chấp đa phương và đều cần những giải pháp đa phương liên quan đến tất cả các bên tuyên bố chủ quyền. Bàn đàm phán tay đôi sẽ không thể cho ra một đường hướng nào khả dĩ. Thế thì vì lẽ gì mà Bắc Kinh luôn khăng khăng rằng các thảo luận song phương phải là cơ chế duy nhất để tháo gỡ vấn đề, mặc cho sự thực là phương cách này không thể cho ra đáp án?

Rõ ràng đây là một phần của chiến lược chia để trị. Trung Quốc hy vọng rằng các bên tranh chấp sẽ nhượng bộ từng bên từng bên một và sẽ chấp nhận những cách xử lý ít công bằng hơn.

Cũng vậy, bằng cách bám chặt vào cách tiếp cận không phù hợp, Trung Quốc đang cố khóa chặt các khả năng tiến triển cho những giải pháp thảo luận. Là nước mạnh nhất trong các bên tranh chấp trước nay, cùng với tình hình thiếu vắng những đường hướng ôn hòa đã tạo thuận lợi ngày càng gia tăng cho Trung Quốc củng cố vị thế của mình và làm suy yếu các bên có ý kiến khác biệt khác. Cho nên, việc khăng khăng đòi hỏi một cơ chế đàm phán không phù hợp để làm đóng băng các khả năng hướng đến sự tháo gỡ thông qua đàm phán sẽ làm Bắc Kinh có thêm ưu thế.

Luật Biển và đường “chữ U” của Trung Quốc

Có những điểm trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển khiến cho các tranh nghị về vùng biển trong Biển Đông trở nên quan trọng không chỉ đối với các bên tuyên bố chủ quyền mà còn có tính huyết mạch đối với tất cả các nước khác trên thế giới.



Đường “chữ U” của Trung Quốc nằm xa hẳn khoảng cách 12 hải lý trong phạm vi chủ quyền, xa hẳn những giới hạn có thể là khu vực kinh tế đặc quyền và xa hẳn cả những đường trung tuyến giữa Trường Sa, Hoàng Sa và các bờ biển đối diện.

Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển đã được 160 quốc gia, bao gồm cả Trung Quốc, phê chuẩn đã nêu rõ rằng một nước ven biển chỉ có chủ quyền trong vùng lãnh hải rộng tối đa là 12 hải lý (22 km) nằm giáp ngoài đường cơ sở. Trong vùng lãnh hải này, quốc gia ven biển sẽ có toàn quyền hành xử; những nước khác không có quyền gì khác ngoài quyền "đi qua không gây hại", chủ yếu là đi ngang qua các vùng nước liên quan để đến một nơi nào khác.

Ngoài 12 hải lý, nước ven biển sẽ không có chủ quyền, họ chỉ có những quyền cụ thể do luật biển minh định như là độc quyền kinh tế đối với khu vực đặc quyền kinh tế, và độc quyền khai thác đáy biển và lòng đất trong khu vực thềm lục địa mở rộng.

Nói nôm na, điều đó có nghĩa là chỉ có một dải biển có diện tích rộng 12 hải lý ra bên ngoài các đường cơ sở ven biển và xung quanh các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và bãi cạn Scarborough là có tiềm năng nằm trong vùng chủ quyền của một nước nào đó.

Nếu một quốc gia tuyên bố có chủ quyền, thay vì chỉ có độc quyền kinh tế, ngoài các giới hạn này, quốc gia đó thật ra đã có ý đồ áp đặt quyền định đoạt toàn bộ của họ trên những vùng nước vốn phải chịu sự tài phán tối thượng của luật quốc tế. Do vậy cộng đồng quốc tế có quyền quan tâm, và thế giới sẽ có quyền đưa ra lý lẽ để kháng nghị một cách rõ ràng.

Cũng vậy, khi một nước có yêu sách quá đáng về ranh giới vùng đặc quyền kinh tế, sự tuyên bố đó là một sự xâm phạm đối với vùng biển của các láng giềng hoặc xâm hại vào vùng biển quốc tế, nơi cột nước và một phần đáy biển là của chung của cộng đồng thế giới. Quốc tế cần phải cảnh giác về điều này và phản bác lại các yêu sách quá đáng về ranh giới vùng đặc quyền kinh tế vi phạm vùng biển quốc tê.

Đường “chữ U” có thể là một yêu sách hợp lý cho vùng đặc quyền kinh tế thuộc quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa hay không?

Theo những phán quyết trong quá khứ của Tòa án Công lý Quốc tế và các hiệp định biên giới giữa các nước với nhau, ngay cả cả các đảo có diện tích lớn hơn các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa cũng chỉ̃ được ban các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) hay vùng thềm lục địa nhỉnh hơn 12 hải lý theo bề rộng. Cách tính như vậy sẽ để lại một khu vực ở giữa Biển Đông xem như vùng biển quốc tế. Tuy nhiên, đường “chữ U” nằm tràn ra bên ngoài 12 hải lý tính từ Hoàng Sa và Trường Sa và vi phạm toàn bộ khu vực này.

Ngoài ra, luật quốc tế và thông lệ quốc gia không bao giờ đồng ý cho một đảo có được vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) nằm vươn qua phía bên kia đường trung tuyến giữa quốc gia đó và các bờ biển đối diện, thuộc về những đảo lớn hơn hay thuộc về những vùng đất lục địa. Tuy nhiên, đường “chữ U” của Trung Quốc không chỉ bao trùm ra ngoài 12 hải lý mà nó còn khuất lấp bất kỳ đường trung tuyến nào mà ta có thể hình dung ra.

Do vậy, nếu như đường chữ U là biểu thị cho tuyên bố chủ quyền của một vùng đặc quyền kinh tế nào đó phát xuất từ Hoàng Sa và Trường Sa, thì tuyên bố chủ quyền đó là một tuyên bố quá trớn, vi phạm hoàn toàn một khu vực có thể thuộc vùng biển quốc tế- chưa kể đến sự việc không có gì để nói chắc rằng Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc Trung Quốc.

Thêm nữa, quan điểm hạn hẹp của Trung Quốc về tự do thông thương trong vùng đặc quyền kinh tế, ví dụ tiêu biểu là sự cố tàu Trung Quốc quấy phá tàu khảo sát Impeccable của Mỹ, lại càng làm cho tuyên bố của họ về vùng đặc quyền kinh tế dôi dư ấy càng thêm phức tạp cho cộng đồng quốc tế nói chung và cho các láng giềng Đông Nam Á nói riêng.

Liệu đường chữ U có hợp lý không nếu như nó nhằm biểu thị cho thềm lục địa dựa trên sự kéo dài tự nhiên của thềm lục địa từ đất vươn thoai thoải ra đáy biển?

Do Việt Nam có đường bờ biển dài và thềm lục địa Sunda kéo dài từ phía nam Biển Đông, việc áp dụng nguyên tắc kéo dài tự nhiên của thềm lục địa và Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) sẽ dành cho Việt Nam, Malaysia và Philippin hầu hết các thểm lục địa trong Biển Đông.

Vì lẽ đó, không thể biện luận cho đường chữ U bằng cách áp dụng nguyên tắc kéo dài tự nhiên của đất lục địa xuống đáy biển.

Cũng nên lưu ý rằng trong khi tại Biển Hoa Đông, Bắc Kinh đã dùng nguyên tắc kéo dài tự nhiên để đòi hỏi toàn bộ thềm lục địa kéo dài từ bờ biển lục địa của họ cho đến mép lục địa tại Rãnh Okinawa, bỏ qua các đảo Lưu Cầu của Nhật, thì tại Biển Đông, Bắc Kinh lại chống Việt Nam và Malaysia áp dụng nguyên tắc này.

Một điểm bất nhất nữa trong yêu sách của Trung Quốc là trong khi tuyên bố chủ quyền về thềm lục địa tại Biển Hoa Đông sẽ chỉ để lại cho quần đảo Lưu Cầu của Nhật các vùng biển lùi sâu vào trong đường trung tuyến, còn với đường chữ U thì Bắc Kinh lại cho quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đang trong tình trạng tranh chấp chủ quyền, một vùng biển vươn ra bên ngoài đường trung tuyến!

Thế nên Trung Quốc đang đối diện với một lựa chọn phải từ bỏ đường chữ U để tuân thủ Luật Biển Quốc Tế hoặc bảo lưu đường này chống lại tất cả các quy tắc và các tiền lệ đã được chấp nhận toàn thế giới. Đáng tiếc là Trung Quốc có vẻ đang sa đà vào con đường thứ hai. Trong những năm gần đây, họ đã thông qua một đạo luật cấm các bản đồ không vẽ các đường chũ U trên đó. Năm 2009, lần đầu tiên họ đã đệ nạp một bản đồ có đường chữ U lên Liên Hiệp Quốc. Tất cả các biểu hiện này có nghĩa là Trung Quốc đang cố gắng leo thang về tuyên bố đường chữ U trong khi cố ý lòa lòa chớp chớp về bản chất và cơ sở của tuyên bố này.

Bởi đường chữ U không thể biện giải như là vùng kinh tế đặc quyền hay thềm lục địa phát xuất từ quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, một số học giả Trung Quốc đã cố biện bạch cho nó bằng cách dùng các lập luận mà họ gọi là danh nghĩa chủ quyền lịch sử đối với vùng biển này. Tuy nhiên, một tuyên bố phát xuất từ lý giải “danh nghĩa lịch sử” đối vùng biển hoàn toàn không phải là một tuyên bố về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phát xuất từ địa lý, và do vậy không phù hợp vời Luật Biển quốc tế. Đó là một phần lý do tại sao Trung Quốc cảm thấy mình bị phê bình khi bà Clinton tuyên bố rằng các bên tranh chấp cần phải theo đuổi các tuyên bố chủ quyền của mình phù hợp với Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS).

Quan ngại nghiêm trọng hơn là, các tuyên bố chủ quyền đối với biển dựa trên lập luận “danh nghĩa lịch sử” và “vùng nước lịch sử” có thể là tuyên bố chủ quyền đối với biển vượt quá 12 hải lý – một điều rất phương hại cho khu vực và thế giới. Và, xét thái độ mập mờ của Trung Quốc trong vấn đề này, không ai có thể biết được Trung Quốc có đòi chủ quyền đối với biển vượt quá 12 hải lý, hoặc trong tương lai họ có sẽ làm điều đó hay không.

Tựu trung, đường chữ U của Trung Quốc hoặc là một yêu cầu quá lố về vùng đặc quyền kinh tế, hoặc là một yêu sách quá mức về thềm lục địa, hoặc là một đòi hỏi quá đáng về chủ quyền đối với biển, tất cả đều không biện luận được dẫu vẻ như có xuất phát từ quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa-vẫn trong vòng tranh chấp- trong khuôn khổ Luật Biển quốc tế.

Quốc tế hóa hay phi-quốc tế hóa?

Trên cơ sở Luật Biển định nghĩa quyền hạn của tất cả các nước đối với biển và đại dương và đã được

160 nước phê chuần, trong đó có Trung Quốc, cộng đồng quốc tế cần kháng nghị đường chữ U dưới mọi hình thức. Trong khi cộng đồng thế giới có thể đứng trung lập trong vấn đề chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa và bãi cạn Scarborough, thế giới không thể bàng quan đối với đường chữ U.

Trong suốt chiều dài lịch sử, Biển Đông đã luôn là một biển quốc tế cũng như Địa Trung Hải. Theo Luật Biển, các quốc gia ven biển có chủ quyền trong lãnh hải 12 hải lý. Phần còn lại, chiếm phần lớn Biển Đông, sẽ phải nằm trong vùng định đoạt của Luật Biển. Điều này có nghĩa hầu hết Biển Đông là một biển quốc tế như Địa Trung Hải, và cộng đồng quốc tế có quyền quan tâm đến các tuyên bố chủ quyền tại đây.

Sự kiện Trung Quốc chống lại việc “quốc tế hóa” Biển Đông thực chất là một nỗ lực để phi–quốc tế hóa một biển quốc tế. Một khi Biển Đông đã bị phi-quốc tế hóa, Trung Quốc sẽ có thể áp đặt sức mạnh của họ trên các nước Đông Nam Á và buộc các nước này phải theo luật chơi của họ, thay cho luật lệ đã được chấp nhận trên toàn thế giới đối với các vùng biển này. Việc này sẽ biến Biển Đông thành một ao nhà của Trung Quốc, kéo theo những hậu quả nghiêm trọng cho vùng Đông Nam Á và cho cả thế giới.

TS Dương Danh Huy là một chuyên viên IT tại Anh. Ông đã có bài viết về Biển Đông trên BBC và VietNamNet. TS Lê Trung Tĩnh là một chuyên gia về khoa học hạt nhân tại Pháp.