Trần Hưng Đạo
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tượng Quốc công tiết chế Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn ở Nam Định
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (chữ Hán: 興道大王陳國峻, 1232?[1] - 1300) là danh tướng thời nhà Trần và cũng là danh tướng trong lịch sử Việt Nam, có công lớn trong hai lần kháng chiến chống Nguyên Mông. Ông là tác giả của bộ Binh thư yếu lược (hay Binh gia diệu lý yếu lược) và Vạn Kiếp tông bí truyền thư (đã thất lạc). Ông còn được người dân Việt tôn sùng như bậc thánh, nên còn được gọi là Đức thánh Trần.
Mục lục [ẩn]
1 Thân thế
2 Các điển tích
2.1 Thiếu thời
2.2 Cướp ngôi hay không
2.3 Quan hệ với Trần Quang Khải
2.4 Quyền phong tước
2.5 Lấy dân làm gốc
3 Nhân dân sùng kính phong thánh
4 Tác phẩm
5 Gia đình
5.1 Cha mẹ
5.2 Anh em
5.3 Vợ
5.4 Con
6 Câu nói nổi tiếng
7 Chú thích
8 Xem thêm
9 Liên kết ngoài
[sửa]Thân thế
Ông tên thật là Trần Quốc Tuấn (陳國峻), là con trai của An Sinh vương Trần Liễu, cháu gọi vua Trần Thái Tông bằng chú, sinh ra tại Kiếp Bạc, xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, nguyên quán ở làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Năm sinh của ông là năm 1231.
Ông vốn có tài quân sự, lại là tôn thất nhà Trần, do đó trong cả 3 lần quân Nguyên - Mông tấn công Đại Việt, ông đều được vua Trần cử làm tướng chống trận. Đặc biệt ở kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 2 và thứ 3, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Tiết chế các đạo quân thủy bộ. Dưới tài lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt chiến thắng ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, đuổi quân Nguyên - Mông ra khỏi đất nước.
Sau khi kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 3 thành công. Đất nước thanh bình Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lui về sống ở Vạn Kiếp. Ông đã dựa vào địa thế vùng Vạn Kiếp mà Kiếp Bạc là trung tâm để lập phủ đệ và quân doanh làm phòng tuyến chiến lược giữ mặt Đông Bắc của Tổ Quốc. Ông còn cho trồng các loại cây thuốc để chữa bệnh cho binh sĩ và nhân dân trong vùng. Muà thu tháng 8, ngày 20 năm Canh tý, Hưng Long thứ 8, tức ngày 5-9-1300 trái tim người anh hùng đã ngừng đập. Theo lời dặn, thi hài ông được hoả táng thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng An Sinh miền Đông Bắc, không xây lăng mộ. Sau khi ông mất triều đình phong tặng là Thái sư Thượng Phụ quốc công Tiết chế Nhân Võ Hưng Đạo Vương. Nhân dân vô cùng thương tiếc người anh hùng dân tộc đã có công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và độc lập dân tộc nên lập đền thờ Ông trên nền Vương phủ gọi là đền Kiếp Bạc. Dân ta kính trọng vinh danh Ông là Đức thánh Hưng Đạo Đại Vương lập đền thờ Đức Thánh Trần ở nhiều nơi.
[sửa]Các điển tích
Miếu thờ Hưng Đạo Vương tại thành phố Hồ Chí Minh
[sửa]Thiếu thời
Đại Việt Sử ký Toàn thư có chép: "Lúc mới sinh ra, có một thầy tướng xem cho và bảo: 'Người này ngày sau có thể cứu n ước giúp đời'."[2]
Khi lớn lên, ông có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, đọc thông hiểu rộng, có tài văn võ. An Sinh vương Trần Liễu trước đây vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng (tức vua Trần Thái Tông - Trần Cảnh), mang lòng hậm hực, tìm khắp những người tài nghệ để dạy Trần Quốc Tuấn. Lúc sắp mất, An Sinh Vương cầm tay Trần Quốc Tuấn, trăng trối rằng: "Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được"[2]. Do An Sinh vương Trần Liễu lấy người chị của công chúa Lý Chiêu Hoàng là Thuận Thiên công chúa, còn Trần Cảnh cưới Lý Chiêu Hoàng khi bà mới 7 tuổi. Sau này Lý Chiêu Hoàng không có con nên năm 1237, Trần Thủ Độ bắt vợ của Trần Liễu lúc ấy có thai ba tháng về làm vợ Trần Cảnh (chị thay cho em). Chính vì lẽ đó mà Trần Liễu oán giận Trần Cảnh. Quốc Tuấn ghi điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải[2].
Năm 4-5 tuổi, Trần Hưng Đạo theo cha là Khâm Minh Thái vương (tức Trần Liễu) đi Ái Châu, nơi giam cầm trọng tội[cần dẫn nguồn]. Trưởng công chúa Thụy Bà thương anh cả vô tội bị đầy, bèn năn nỉ anh kế[cần dẫn nguồn] là Thái Tông, xin nhận Trần Hưng Đạo làm con đem về Thăng Long nuôi dạy. Để tránh sự xoi mói ghẻ lạnh của triều đình, Trần Hưng Đạo được trưởng công chúa Thụy Bà gửi tại chùa Phật Quang (làng Khúc Thủy, Cự Khê, Thanh Oai, Hà Nội) nhờ trụ trì chùa dạy dỗ cho tới năm lên 10[cần dẫn nguồn].
[sửa]Cướp ngôi hay không
Tượng Trần Hưng Đạo của điêu khắc gia Phạm Thông[3] dựng vào giữa thập niên 1960 tại bến Bạch Đằng, Thành phố Hồ Chí Minh
Đến khi vận nước lung lay, quyền quân quyền nước đều do ở mình, ông đem lời cha trăng trối để dò ý hai gia nô thân tín là Dã Tượng và Yết Kiêu. Hai người gia nô bẩm rằng: "Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay Đại Vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu, chỉ xin lấy người làm thịt dê là Duyệt làm thầy mà thôi".[2]
(Lấy từ tích cũ: Sở Chiêu Vương chạy loạn ra nước ngoài, có người làm thịt dê tên là Duyệt đi theo. Sau Sở Chiêu Vương trở về nước, ban thưởng cho Duyệt. Duyệt từ chối và nói: "Nhà vua mất nước, tôi không được giết dê, nay vua về nước, tôi lại được làm nghề giết dê, tước lộc thế là đủ còn thưởng gì nữa"[4].)
Quốc Tuấn cảm phục đến khóc, khen ngợi hai người. Một hôm Quốc Tuấn vờ hỏi con ông là Hưng Vũ vương Trần Quốc Hiến: "Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào?"[2]
Hưng Vũ vương Trần Quốc Hiến thưa: "Dẫu khác họ cũng không nên, huống chi là cùng một họ!"[2]
Trần Quốc Tuấn ngẫm cho là phải. Lại một hôm Trần Quốc Tuấn đem chuyện ấy hỏi người con thứ là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng. Trần Quốc Tảng tiến lên thưa: "Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ."[2]
Trần Quốc Tuấn rút gươm mắng: "Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra" và định giết Quốc Tảng, Hưng Vũ vương hay tin, vội chạy tới khóc lóc xin chịu tội thay, Quốc Tuấn mới tha.
Sau đó, ông dặn Hưng Vũ vương: "Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng."[2]
Năm Thiệu Bảo thứ 7, Ất Dậu, 1285, thế giặc bức bách, hai vua ngầm đi chiếc thuyền nhỏ đến Tam Trĩ nguyên (sông Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh ngày nay), sai người đưa thuyền ngự ra Ngọc Sơn (mũi biển thuộc châu Vạn Ninh, gần Móng Cái, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) để đánh lừa giặc.
Lúc ấy, xa giá nhà vua phiêu giạt, mà Trần Quốc Tuấn vốn có kỳ tài, lại còn mối hiềm cũ của An Sinh vương, nên có nhiều người nghi ngại. Trần Quốc Tuấn theo vua, tay cầm chiếc gậy có bịt sắt nhọn. Mọi người đều gườm mắt nhìn. Trần Quốc Tuấn liền rút đầu sắt nhọn vứt đi chỉ chống gậy không mà đi. Còn nhiều việc nữa, đại loại như thế[5].
Sử gia Ngô Sĩ Liên viết: "Bậc đại thần ở vào hoàn cảnh bị hiềm nghi nguy hiểm, tất phải thành thực tin nhau, sáng suốt khéo xử, như hào cửu tứ của quẻ Tùy (xem Kinh Dịch) thì mới có thể giữ tròn danh dự, làm nên sự nghiệp. Nếu không thế thì nhất định sẽ mang tai họa. Quách Tử Nghi nhà Đường, Trần Quốc Tuấn nhà Trần đã làm được như vậy."[5]
[sửa]Quan hệ với Trần Quang Khải
Trước kia, Trần Thánh Tông thân đi đánh giặc, Trần Quang Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương bắc đến. Trần Thái Tông gọi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tới bảo: "Thượng tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc."[2]
Trần Quốc Tuấn thưa: "Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Thái sư theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Thượng tướng. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn."[2]
Một hôm, Trần Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp tới, Trần Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Trần Quang Khải vốn sợ tắm gội, Trần Quốc Tuấn thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Trần Quang Khải: "Mình mẩy cáu bẩn, xin tắm giùm", rồi cởi áo Trần Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói: "Hôm nay được tắm cho Thượng tướng." Trần Quang Khải cũng nói: "Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho."[2]
Trước đây, hai ông tuy một là Quốc công tiết chế, một là Thượng tướng thái sư nhưng do lo lắng về mối thù của Trần Liễu để lại mà có mối hiềm nghi xa cách. Sau khi được Trần Quốc Tuấn tắm cho, hai ông trở nên thân tình, tin tưởng nhau, tình nghĩa qua lại giữa hai ông ngày càng thêm mặn mà[2]. Trong việc giúp đỡ nhà vua, hai ông đều đứng hàng đầu.
[sửa]Quyền phong tước
Vì có công lao lớn trong cả 3 lần chống nhà Nguyên nên vua gia phong ông là Thượng quốc công, cho phép ông được quyền phong tước cho người khác, từ minh tự trở xuống, chỉ có tước hầu thì phong tước rồi tâu sau. Nhưng Quốc Tuấn chưa bao giờ phong tước cho một người nào[2]. Khi quân Nguyên vào cướp, Quốc Tuấn lệnh cho nhà giàu bỏ thóc ra cấp lương quân, mà cũng chỉ cho họ làm lang tướng giả chứ không cho họ tước lang thực, ông rất kính cẩn giữ tiết làm tôi[2].
Ông lại khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông, có dự công dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Các người nổi tiếng khác như Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự, bởi vì ông có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn trung nghĩa vậy. Xem như khi Trần Thánh Tông vờ bảo Trần Quốc Tuấn rằng: "Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi". Trần Quốc Tuấn trả lời: "Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng". Vì thế, đời Trùng Hưng, lập nên công nghiệp hiếm có. Tiếng vang đến phương bắc, chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi thẳng tên. Sau khi mất rồi, các châu huyện ở Lạng Giang hễ có tai nạn bệnh dịch, nhiều người cầu đảo ông. Còn có lời đồn rằng, mỗi khi đất nước có giặc vào cướp, đến lễ ở đền ông, hễ tráp đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lớn[2]. Trần Quốc Tuấn từng soạn các sách như Binh gia diệu lý yếu lược (quen gọi là Binh thư yếu lược) và Vạn Kiếp tông bí truyền thư để dạy các tỳ tướng, dụ họ bằng bài Hịch tướng sĩ.Trần Quốc Tuấn từng soạn sách để khích lệ tướng sĩ dưới quyền, dẫn chuyện Kỷ Tín chết thay để cứu thoát Hán Cao Tổ, Do Vu giơ lưng chịu giáo để cứu Sở Tử. Ông dạy đạo trung như vậy.Nhân dân Việt Nam vô cùng kính trọng ông do công lao hai lần lãnh đạo đất nước chống lại được họa Thát Đát (Mông Cổ). Dưới vó ngựa của Mông Cổ, các nước Hồi giáo hiếu chiến ở Trung Á, các công quốc Moskva, Novogrod (nước Nga ngày nay) cũng không thể nào bảo vệ được nền độc lập của mình. Lãnh thổ của Đế quốc Mông Cổ, theo chiều ngang, kéo dài từ Viễn Đông (gồm cả Triều Tiên) đến tận Moskva, Muhi (Hungary), Tehran, Damascus; chiều dọc từ Bắc Á xuống tới cả biên giới Ấn Độ, Miến Điện. Trong cơn lốc chinh phục của họ, chỉ có Thái Lan (Sukhothai) thoát khỏi họa diệt vong nhờ sách lược cầu hòa, Nhật Bản may mắn nhờ một trận bão biển làm thiệt hại bớt tàu của Mông Cổ, và Đại Việt nhờ khả năng lãnh đạo của Hưng Đạo Đại Vương mà giữ được bờ cõi.Mông Cổ không xâm chiếm được Ấn Độ, họ chỉ tiến được đến biên giới miền bắc Ấn ngày nay và bị chặn lại. Họ cũng chỉ vào được miền bắc Miến Điện trong một thời gian ngắn rồi phải rút lui. Ngoài Đại Việt đánh bại được đế chế Mông Cổ còn có Java (Indonesia), Ai Cập, Ấn Độ.
Năm thuộc hạ tài giỏi và trung thành của Trần Hưng Đạo
Yết Kiêu | Dã Tượng | Cao Mang | Đại Hành | Nguyễn Địa Lô
[sửa]Lấy dân làm gốc
Tháng 6 năm 1300, Hưng Đạo Vương ốm. Vua ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: "Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?"[2]
Hưng Đạo Vương trả lời: "Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy."[2]
Khi sắp mất, ông dặn con rằng: "Ta chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải làm sao cho mau phục".[2]
Trần Quốc Tuấn giữ Lạng Giang, quân Nguyên hai lần vào cướp, ông liên tiếp đánh bại chúng, sợ sau này có thể xảy ra tai họa đào mả chăng. Ông lo nghĩ tới việc sau khi mất lại là vì vậy.
Mùa thu, tháng 8, ngày 20 (5 - 9 - 1300), Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn mất ở phủ đệ Vạn Kiếp Đạo Đại Vương.
Vua Trần Thánh Tông có soạn bài văn bia ở sinh từ của Trần Quốc Tuấn, ví ông với Thượng phụ (Lã Vọng ngày xưa bên Trung Quốc).
[sửa]Nhân dân sùng kính phong thánh
Chân dung Trần Quốc Tuấn trên tờ tiền 500 đồng của chính quyền Việt Nam Cộng hòa
Sau khi mất, Trần Hưng Đạo được thờ phụng ở nhiều nơi, trong đó lễ hội lớn nhất ở đền Kiếp Bạc thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay, nơi ngày xưa là phủ đệ của ông. Ông được người dân nhiều đời sùng kính phong Thánh tức là Đức thánh Trần, đây là điều hiếm hoi trong lịch sử chỉ dành riêng cho vị danh tướng nhà Trần. Ngày lễ chính thức được tổ chức vào ngày ông mất (20 tháng 8 âm lịch hàng năm). Nhân dân không gọi trực tiếp tên của ông mà gọi là Hưng Đạo Vương, Hưng Đạo Đại Vương, Đức thánh Trần, hoặc gọi là Cha (Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ).
Cách gọi danh hiệu của ông cũng khác các vị vương. Các vương đều được gọi theo Tước và Tên, như Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, còn riêng ông được gọi bằng Họ và Tước là Trần Hưng Đạo. Đây là cách gọi vốn chỉ dành riêng cho các vị vua là Họ và Miếu hiệu (như Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông), qua đó có thể thấy dân gian coi ông ngang với các vua Trần.
Các đền thờ Hưng Đạo Đại Vương có thể thấy ở khắp nước Việt Nam.
[sửa]Tác phẩm
Hịch tướng sĩ
Binh gia diệu lý yếu lược (hay Binh thư yếu lược)
Vạn Kiếp tông bí truyền thư
[sửa]Gia đình
[sửa]Cha mẹ
An Sinh vương Trần Liễu
Mẹ: Thiện Đạo quốc mẫu húy Nguyệt?
[sửa]Anh em
Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung (anh trai)
Vũ Thành vương Trần Doãn (anh trai)
Trần Quốc Khang (em trai). Năm 1237, khi công chúa Thuận Thiên - vợ Trần Liễu - có mang Quốc Khang 3 tháng thì bị Trần Thủ Độ ép lấy Trần Thái Tông.
Trần Thị Thiều (em gái). Làm hoàng hậu của Trần Thánh Tông, mẹ đẻ của Trần Nhân Tông, được phong là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng thái hậu.
[sửa]Vợ
Công chúa Thiên Thành tức Nguyên Từ quốc mẫu (?-1288), lấy tháng 2 năm 1251[6].
[sửa]Con
Trần Hưng Đạo có 4 người con trai và 2 người con gái.
Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn[5](Hiến, Nghiện[7]): võ tướng.
Minh Hiến vương Trần Quốc Uất[5]: võ tướng.
Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng[5]: võ tướng, cha vợ của Trần Anh Tông, ông nội của Tư đồ Văn Huệ Vương Trần Quốc Triều (trọng thần của Trần Minh Tông).
Hưng Trí vương Trần Quốc Hiện[5] (Nghiễn)[7]: võ tướng, nhà khai khẩn đất đai.
Khâm Từ hoàng hậu: vợ vua Trần Nhân Tông
Anh Nguyên quận chúa: vợ của Phạm Ngũ Lão.
[sửa]Câu nói nổi tiếng
“ Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng[8] ”
—Trần Hưng Đạo
“ Vua tôi đồng lòng, anh em đoàn kết, cả nước góp sức, nên bọn giặc phải chịu bị bắt ”
—Trần Hưng Đạo
“ Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm. ”
—Hịch tướng sĩ
Tìm kiếm Blog này
Thứ Sáu, 22 tháng 10, 2010
Nguyễn Trãi .........Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Trãi
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Trãi
Chân dung Nguyễn Trãi
Công việc Nhà văn, Nhà thơ, Chính trị gia
Quốc gia Việt Nam
Giai đoạn sáng tác Nhà Lê
Chủ đề Văn học
Nguyễn Trãi (chữ Hán: 阮廌), hiệu là Ức Trai (抑齋), 1380–1442, là đại thần nhà Hậu Lê, một nhân vật vĩ đại về nhiều mặt, rất hiếm có trong lịch sử. Công lao sự nghiệp của ông rất lớn. Đạo đức phong cách của ông rất cao đẹp. Ông là một anh hùng dân tộc vĩ đại, là nhà chính trị lỗi lạc, nhà chiến lược thiên tài, nhà ngoại giao kiệt xuất, đồng thời là một nhà văn lớn, nhà thơ lớn, nhà sử học, nhà địa lý học, nhà làm luật pháp và âm nhạc xuất sắc. Năm 1980, ông được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới nhân dịp kỉ niệm 600 năm ngày sinh của ông.
Ngay từ khi còn sống, Nguyễn Trãi đã được những người đương thời khen ngợi là:
Kinh bang hoa quốc, cổ vô tiền [1]
Nghĩa là:
Dựng nước và làm vẻ vang tổ quốc, từ xưa chưa ai được như ông.
Mục lục [ẩn]
1 Thân thế
2 Thời trẻ
3 Thời Hồ
4 Tướng văn trong khởi nghĩa Lam Sơn
5 Công thần bị tội
5.1 Bị vạ với người trong họ
5.2 Vụ án Lệ Chi Viên
5.3 Gia quyến lưu tán
6 Được minh oan
7 Những đánh giá
8 Dòng dõi Nguyễn Bặc và tổ tiên chúa Nguyễn?
8.1 Con cháu Nguyễn Bặc?
8.2 Tổ họ Nguyễn Gia Miêu?
8.2.1 Nguyễn Công Duẩn
8.2.2 Nguyễn Đức Trung
8.2.3 Trường Lạc hoàng hậu
8.3 Kết luận
9 Các tác phẩm văn thơ
10 Chú thích
11 Xem thêm
12 Liên kết ngoài
[sửa]Thân thế
Chân dung khác của Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi (1380 - 1442), tên tự là Ức Trai, sống vào một giai đoạn lịch sử sôi động, từ cuối đời Trần, trải qua đời Hồ thời đấu tranh chống ách Minh thuộc (của nhà hậu Trần, của các phong trào nhân dân khắp nước, của nghĩa quân Lam Sơn) cho tới đầu đời Lê. Cha Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long tức Nguyễn Phi Khanh, tên hiệu là Nhị Khê, vốn gốc làng Chi Ngại, huyện Phượng Nhãn (nay thuộc Chí Linh Hải Dương), nhưng đã di cư sang làng Ngọc Ổi (sau đổi tên thành Nhị Khê) huyện Thượng Phúc (nay là huyện Thường Tín Hà Tây cũ).
Lúc còn là thư sinh, Nguyễn Ứng Long vì nổi tiếng hay chữ cho nên được Trần Nguyên Đán, tể tướng và là tông thất nhà Trần gả con gái cho. Năm 1374, Nguyễn Ứng Long đi thi, đậu Bảng Nhãn. Nhưng vì là con nhà thứ dân mà dám lấy con gái nhà hoàng tộc cho nên không được Trần Nghệ Tông cho làm quan và đành trở về quê dạy học.
[sửa]Thời trẻ
Lúc ông lên 5 tuổi mẹ ông mất.
Nguyễn Trãi lúc nhỏ ở với ông ngoại là Trần Nguyên Đán. Năm 1385, Trần Nguyên Đán về trí sĩ ở Côn Sơn, đem theo cả Nguyễn Trãi về đấy. Côn Sơn lại chính là nơi quê tổ của họ Nguyễn vì cả dãy núi này thuộc vào địa phận xã Chi Ngại, huyện Phượng Nhãn. Từ năm 1390, sau khi ông ngoại mất, Nguyễn Trãi về Nhị Khê ở với cha.
[sửa]Thời Hồ
Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần. Năm đó cũng là năm mở khoa thi đầu tiên của nhà Hồ. Nguyễn Trãi đi thi và đậu thái học sinh. Năm 1401, Nguyễn Ứng Long đổi tên là Nguyễn Phi Khanh và được nhà Hồ vời ra làm quan, lĩnh chức Quốc tử giám tư nghiệp. Còn Nguyễn Trãi thì sau khi thi đỗ được nhà Hồ cử giữ chức Ngự sử đài chính chưởng. Như vậy là hai cha con Nguyễn Trãi thuộc số những người ra làm quan với nhà Hồ ngay từ đầu.
Năm 1407, nhà Minh đánh Đại Ngu. Cha con Hồ Quý Ly bị bắt đưa về Kim Lăng. Một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh cũng bị bắt đi cùng với Hồ Quý Ly. Nguyễn Trãi muốn trọn đạo hiếu bèn đi theo cha, nhưng Nguyễn Phi Khanh khuyên con nên trở về Tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha thì mới là đạo hiếu. [2]
Trên đường trở về Nguyễn Trãi bị người Minh bắt và đem giam lỏng ở thành Đông Quan (Hà Nội) và mặc dù bị đe dọa, mua chuộc, ông cũng không chịu ra làm quan với nhà Minh. Năm 1417, ông trốn khỏi Đông Quan, rồi sau đó tìm đường vào giúp Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã dâng lên Lê Lợi tập Bình Ngô sách
Theo Ngô Thế Vinh (nửa đầu thế kỉ thứ 19), viết trong tựa sách Ức Trai thi văn tập thì phương châm cơ bản nêu trong Bình Ngô sách "không nói đánh thành mà giỏi bàn về cách đánh lòng" . Tư tưởng chiến lược này chính là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của nghĩa quân. Trong thời gian kháng chiến, Nguyễn Trãi đã giúp Lê Lợi trù hoạch quân mưu. Ông lại góp phần xây dựng chính quyền dân tộc đối lập với chính quyền xâm lược. Nguyễn Trãi đã nhân danh Lê Lợi viết những thư từ giao thiệp với tướng Minh. Những bức thư đó (về sau được tập hợp dưới cái tên Quân trung từ mệnh tập) có tính chiến đấu mạnh mẽ và có tác dụng lớn trong việc đánh vào tinh thần địch quân.
[sửa]Tướng văn trong khởi nghĩa Lam Sơn
Từ xa, Nguyễn Trãi đã nhận thấy ở Lê Lợi một người anh hùng lỗi lạc có thể đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thành công, nên Nguyễn Trãi đã bỏ qua nhiều phong trào khởi nghĩa ở các địa phương gần, để lặn lội vào miền núi rừng Thanh Hoa, tìm gặp Lê Lợi và gia nhập hàng ngũ nghĩa quân Lam Sơn. Đó là những ngày ở Lỗi Giang, nhưng tên tuổi, sự nghiệp của ông ghi lại trong lịch sử của dân tộc, chỉ là từ sau khi nghĩa quân Lam Sơn rút về núi Chí Linh lần thứ ba, tức là từ năm 1423. [3]
Từ sau cuộc gặp gỡ ở Lỗi Giang, thì theo Trần Khắc Kiệm chép trong {(lời tựa Ức Trai thi tập) Ức Trai di tập quyển 5} Phàm những việc quân, việc nước quan trọng đều trao cho ông cả. Nguyễn Trãi đã vận dụng Bình Ngô sách của ông để trù tính giải quyết mọi việc quân, việc nước quan trọng. Ông đã thành công trong việc mở rộng phong trào Lam Sơn từ một cuộc khởi nghĩa địa phương, bó hẹp trong vùng rừng núi phủ Thanh Hoa thành chiến tranh cả nước đánh giặc và đưa phong trào, từ sau khi về núi Chí Linh lần thứ ba, sang một giai đoạn phát triển mới, giai đoạn tiến công liên tục, mãnh liệt càng đánh càng được, đi đến đâu đánh tan đến đấy, như phá vật nát, như bẻ cành khô [4]
Đặc biệt trong giai đoạn từ 1425, khi quân Lam Sơn trên đà thắng lợi, vây hãm nhiều thành trì của quân Minh, Nguyễn Trãi thường viết thư gửi cho tướng giặc trong thành để dụ hàng hoặc làm nản ý chí chiến đấu của tướng giặc.
Năm 1427, ông được liệt vào hàng Đại phu, coi sóc các việc chính trị và quản công việc ở Viện Khu mật. Quân Lam Sơn giải phóng vùng Bắc Bộ, đánh tan viện binh của Vương Thông. Thông rút vào cố thủ trong thành Đông Quan. Vua Minh sai Liễu Thăng và Mộc Thạnh chia làm 2 đường, cầm hơn 10 vạn quân sang cứu viện. Lúc đó quân Lam Sơn đứng trước hai chọn lựa vì sắp phải đối phó với địch bên ngoài vào và địch đánh ở trong thành ra. Lực lượng của Vương Thông hợp với quân Minh sang từ trước đã có khoảng 10 vạn người, quân Lam Sơn vây hãm có chút lơi lỏng đã bị địch ra đánh úp, phải trả giá cao bằng việc mất 4 tướng giỏi: Lê Triện, Đinh Lễ bị tử trận, Đỗ Bí và Nguyễn Xí bị bắt. Chỉ có Nguyễn Xí sau đó nhờ mưu trí và nhanh nhẹn đã trốn thoát về.
Số đông các tướng nóng lòng muốn hạ gấp thành Đông Quan để hết lực lượng làm nội ứng cho Liễu Thăng và Mộc Thạnh. Riêng Nguyễn Trãi không đồng tình với quan điểm đó. Ông kiến nghị với Lê Lợi ý kiến của mình và được chấp thuận. Và Lê Lợi đã theo kế của ông nói với các tướng rằng:
"Đánh Đông Quan là hạ sách. Nếu ta đánh thành kiên cố đó, phải mất mấy tháng hoặc hàng năm, chưa chắc đã hạ nổi, binh sĩ ta phải mệt mỏi chán nản. Đang khi đó, viện binh của địch kéo dến, thế là ta bị địch đánh cả đằng trước, đằng sau, đó là rất nguy. Chi bằng ta hãy nuôi sức khoẻ, chứa dũng khí chờ đánh viện binh. Khi viện binh đã bị phá, tất nhiên quân trong thành phải hàng, thế là ta chỉ khó nhọc một phen mà thu lợi gấp hai."
Diễn biến chiến sự sau đó quả như Nguyễn Trãi tiên đoán. Lê Lợi điều các tướng giỏi lên đánh chặn hai đạo viện binh, giết được Liễu Thăng, Mộc Thạnh bỏ chạy về nước. Vương Thông trong thành tuyệt vọng không còn cứu binh phải mở cửa thành ra hàng, cùng Lê Lợi thực hiện "hội thề Đông Quan", xin rút quân về nước và cam kết không sang xâm phạm nữa.
Bài chi tiết: Khởi nghĩa Lam Sơn
Theo lệnh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngô đại cáo để bá cáo cho thiên hạ biết về việc đánh giặc Minh, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam (sau bài thơ Nam quốc sơn hà).
Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, ban thưởng cho 227 công thần, Nguyễn Trãi được phong là Triều đại phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ thượng thư, tước Quan phục hầu. Trong công cuộc xây dựng đất nước vừa được giải phóng, Nguyễn Trãi đã có nhiều đóng góp lớn, tuy chức vụ của ông chưa phải là chức vụ chủ chốt nhất trong triều để có thể làm cho ông thi thố hết tài năng. Ông đã khuyên Lê Lợi kêu gọi những người "hiền tài" ra giúp nước, và năm 1429 thay nhà vua viết tờ Chiếu cầu hiền. Năm 1430, ông thay nhà vua viết Chiếu cấm các đại thần, tổng quản cùng các quan ở viện, sảnh, cục tham lam lười biếng. Năm 1431, ông thay nhà vua viết tờ Chiếu cho Tư Tề quyền nhiếp quốc chính. Năm 1433, Tư Tề vì cuồng dại, ngớ ngẩn không đương nổi việc nước, bị giáng xuống làm quận vương, ông thay nhà vua viết tờ Chiếu giáng Tư Tề làm quận vương, đặt con thứ là Nguyên Long nối nghiệp. Ông cũng lại thay nhà vua làm tờ Chiếu về việc làm bài Hậu tự huấn để răn bảo thái tử và Chiếu bàn về phép tiền tệ, v.v... [5]
[sửa]Công thần bị tội
[sửa]Bị vạ với người trong họ
Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, phong ông tước Quan Phục hầu và cho theo họ Lê của vua.
Sau thắng lợi 1 năm, đầu năm 1429, Lê Lợi nghi ngờ Trần Nguyên Hãn, một tướng giỏi vốn là dòng dõi nhà Trần định mưu phản, nên sai người đi bắt hỏi tội. Trần Nguyên Hãn nhảy xuống sông tự vẫn. Vì Nguyên Hãn là anh em họ của Nguyễn Trãi nên ông cũng bị bắt giam vì nghi ngờ có liên quan tới tội mưu phản. Sau đó vì không có chứng cứ buộc tội, vua Lê lại thả ông ra. Tuy nhiên cũng từ đó ông không còn được trọng dụng như trước nữa.
Thực chất, cuộc thanh trừng công thần của Lê Thái Tổ có động cơ từ việc muốn thiên hạ hết mong nhớ nhà Trần; đồng thời cũng là cuộc tranh chấp quyền lực thời bình giữa các tướng có xuất thân họ hàng hoặc cùng quê với vua Lê - do Lê Sát đứng đầu - và các tướng xuất thân vùng khác, tiêu biểu là Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo. Hơn nữa đó lại còn là cuộc tranh chấp ngôi thái tử giữa con cả của vua là Lê Tư Tề (người từng tham gia khởi nghĩa Lam Sơn và được Nguyên Hãn ủng hộ) với con thứ Lê Nguyên Long (được Lê Sát ủng hộ).
Bị oan khuất, sau khi ra khỏi ngục, ông làm bài Oan thán bày tỏ nỗi bi phẫn, trong đó có câu:
Hư danh thực họa thù kham tiếu,
Chúng báng cô trung tuyệt khả liên.
Dịch:
Danh hư thực họa nên cười quá,
Bao kẻ dèm pha xót người trung
[sửa]Vụ án Lệ Chi Viên
Xem chi tiết: Vụ án Lệ Chi Viên
Năm 1433, Thái Tổ mất, thái tử Nguyên Long lên nối ngôi, tức là Lê Thái Tông. Những năm đầu, Tư đồ Lê Sát làm phụ chính điều hành triều chính. Nguyễn Trãi tham gia giúp vua mới. Nhân bàn về soạn lễ nhạc, Nguyễn Trãi khuyên nhà vua:
"Nguyện xin bệ hạ yêu thương và nuôi dưỡng dân chúng để nơi thôn cùng xóm vắng không có tiếng oán hận sầu than".
Năm 1435, ông soạn sách Dư địa chí để vua xem nhằm nâng cao sự hiểu biết, niềm tự hào và ý thức trách nhiệm của nhà vua đối với non sông đất nước.
Bị các quyền thần đứng đầu là Lê Sát chèn ép, Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Chí Linh, thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay.
Tuy nhiên, trái với dự tính của Lê Sát, Thái Tông còn ít tuổi nhưng không dễ trở thành vua bù nhìn để Sát khống chế mãi. Năm 1437, nhà vua anh minh nhanh chóng chấn chỉnh triều đình, cách chức và giết các quyền thần Lê Sát, Lê Ngân; các lương thần được trọng dụng trở lại, trong đó có Nguyễn Trãi. Lúc đó ông đã gần 60 tuổi, lại đảm nhiệm chức vụ cũ, kiêm thêm chức Hàn lâm viện Thừa chỉ và trông coi việc quân dân hai đạo Đông, Bắc (cả nước chia làm 5 đạo). Thời gian phò vua Thái Tông, Nguyễn Trãi tiếp tục phát huy được tài năng của ông. Tuy nhiên khi triều chính khá yên ổn thì cung đình lại xảy ra tranh chấp.
Vua Thái Tông ham sắc, có nhiều vợ, chỉ trong 2 năm sinh liền 4 hoàng tử. Các bà vợ tranh chấp ngôi thái tử cho con mình nên trong triều xảy ra xung đột. Vua truất hoàng hậu Dương Thị Bí và ngôi thái tử của con bà là Lê Nghi Dân lên 2 tuổi, lập Nguyễn Thị Anh làm hoàng hậu và cho con của bà này là Lê Bang Cơ chưa đầy 1 tuổi làm thái tử. Cùng lúc đó một bà vợ khác của vua là Ngô Thị Ngọc Dao lại sắp sinh, hoàng hậu Nguyễn Thị Anh sợ đến lượt mẹ con mình bị phế nên tìm cách hại bà Ngọc Dao. Nguyễn Trãi cùng một người vợ thứ là Nguyễn Thị Lộ tìm cách cứu bà Ngọc Dao đem nuôi giấu, sau bà sinh được hoàng tử Tư Thành (tức vua Lê Thánh Tông sau này).
Tháng 7 năm 1442, vua Lê Thái Tông về qua nhà Nguyễn Trãi tại Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương ngày nay), vợ Nguyễn Trãi là bà Nguyễn Thị Lộ theo "hầu" vua. Trên đường về kinh Vua đột ngột qua đời tại vườn hoa Lệ Chi Viên nay thuộc Gia Bình, Bắc Ninh. Nguyễn Trãi bị triều đình do hoàng hậu Nguyễn Thị Anh cầm đầu khép tội giết vua và bị giết cả 3 họ (tru di tam tộc) ngày 16 tháng 8 năm 1442. "Tru di tam tộc" là giết người trong họ của người bị tội, họ bên vợ và họ bên mẹ của người đó. Theo gia phả họ Nguyễn, ngoài những người họ Nguyễn cùng họ với ông, còn có những người họ Trần cùng họ với bà Trần Thị Thái mẹ ông, người trong họ bà Nhữ thị vợ thứ của Nguyễn Phi Khanh, những người trong họ của các bà vợ Nguyễn Trãi (kể cả vợ lẽ), tất cả đều bị xử tử.
Thái tử Bang Cơ mới 1 tuổi, con trai Nguyễn Thị Anh được lập làm vua, tức là Lê Nhân Tông.
[sửa]Gia quyến lưu tán
Theo gia phả họ Nguyễn, Nguyễn Trãi có năm người vợ:
Bà họ Trần: Sinh ra Nguyễn Khuê, Nguyễn Ứng, Nguyễn Phù.
Bà họ Phùng: Sinh ra Thị Trà, Nguyễn Bảng, Nguyễn Tích.
Bà Thị Lộ: Không có con.
Bà Phạm Thị Mẫn: Sinh ra Nguyễn Anh Vũ (sau vụ án Lệ Chi Viên).
Bà họ Lê: Sinh ra con cháu ở chi Quế Lĩnh, Phương Quất - huyện Kim Môn, Hải Dương.
Sau vụ án Lệ Chi Viên, dòng họ Nguyễn Trãi ở Chi Ngại, Nhị Khê gần như bị thảm sát hết. Trong các phả hệ ghi lại số ít thoát nạn là:
Nguyễn Phi Hùng, em thứ ba của Nguyễn Trãi chạy về Phù Khê, Từ Sơn, Bắc Ninh;
Nguyễn Phù con Nguyễn Trãi chạy lên Cao Bằng, đổi họ sang họ Bế Nguyễn.
Bà họ Lê vợ thứ năm của Nguyễn Trãi mang thai chạy về Phương Quất, huyện Kim Môn, Hải Dương.
Bà Phạm Thị Mẫn vợ thứ tư của Nguyễn Trãi có mang ba tháng, được người học trò cũ của Nguyễn Trãi là Lê Đạt đưa bà chạy trốn vào xứ Bồn Man (phía Tây Thanh Hóa); sau lại về thôn Dự Quần, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Tại đây, bà sinh ra Nguyễn Anh Vũ. Để tránh sự truy sát của triều đình, Nguyễn Anh Vũ đổi sang họ mẹ là Phạm Anh Vũ.
[sửa]Được minh oan
Theo một số nghiên cứu gần đây, thủ phạm gây ra cái chết của vua Thái Tông chính là hoàng hậu Nguyễn Thị Anh và bà đã đổ tội cho Nguyễn Trãi.
Tuy nhiên, ngay đương thời đã có nhiều người biết việc oan khuất của Nguyễn Trãi. Hơn 10 năm sau, mẹ con vua Nhân Tông bị người con cả Thái Tông là Nghi Dân giết chết để giành lại ngôi vua. Nhưng rồi Nghi Dân nhanh chóng bị lật đổ. Người con thứ của Thái Tông là Khắc Xương từ chối ngôi báu nên người con út là Tư Thành được vợ chồng Nguyễn Trãi cứu thoát trước kia, nay được Nguyễn Xí rước lên ngôi, tức là Lê Thánh Tông.
Năm 1464, Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi. Con cháu ông được tìm lại và bổ dụng. Người con út sinh ra sau khi ông qua đời là Nguyễn Anh Vũ được Lê Thánh Tông phong cho chức Đồng Tri Phủ huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa), cấp cho 100 mẫu ruộng gọi là "Miễn hoàn điền" (ruộng không phải trả lại) con cháu đời đời được hưởng. Nguyễn Anh Vũ xây dựng mộ chí của Nguyễn Trãi tại xứ đồng Tai Hà, làng Dự Quần, lấy sọ dừa, cành dâu táng làm cốt; lấy ngày mất của Nguyễn Trãi - 16 tháng 8 là ngày giỗ họ [6]
Năm 1464, Lê Thánh Tông đã chính thức minh oan cho Nguyễn Trãi. Ông ca ngợi Nguyễn Trãi là Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo, truy tặng tước Tán Trù Bá, ban cho con là Anh Vũ chức huyện quan. Năm 1467, Lê Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi. Việc làm này có thể đã góp phần bảo tồn một phần quan trọng các di sản văn hóa mà Nguyễn Trãi đã để lại.
Nhiều người hiểu sai khi dịch nghĩa "Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo" là "Lòng Ức Trai sáng tựa sao khuê", dịch chính xác phải là "Ức Trai lòng soi sáng văn chương"
Nguyên ăn bài thơ
“ Cao Đế anh hùng cái thế danh
Văn Hoàng trí dũng phủ doanh thành
Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo
Vũ Mục hung trung liệt giáp binh
Thập Trịnh đệ huynh liên quý hiển
Nhị Thân phụ tử bội ân vinh
Hiếu tôn Hồng Đức thừa phi tự
Bát bách Cơ Chu lạc thái bình
”
Dịch nghĩa
“ Đức Cao Đế (Lê Thái Tổ) là bậc anh hùng đệ nhất thiên hạ
Đức Văn Hoàng (Lê Thái Tông) trí dũng kế thừa cơ nghiệp
Ức Trai (Nguyễn Trãi) lòng soi sáng văn chương
Vũ Mục (Lê Khôi) bụng chứa đầy binh giáp
Mười anh em họ Trịnh (con thái uý Trịnh Khả) tất thảy đều vẻ vang phú quý
Hai cha con họ Thân (Thân Nhân Trung và Thân Nhân Tín) đều hưởng ân vinh lớn
Cháu hiếu là Hồng Đức (Lê Thánh Tông) nay kế thừa nghiệp lớn
Vui hưởng thái bình như nhà Chu tám trăm năm
”
Dù vậy, các nhà nghiên cứu vẫn băn khoăn chưa rõ vì sao một vị vua được coi là anh minh và quyết đoán như Lê Thánh Tông, đã minh oan cho Nguyễn Trãi, một đại công thần sáng lập vương triều Lê, người đã cùng với vợ là Nguyễn Thị Lộ ra sức che chở cho mẹ con nhà vua lúc gian nan, mà chỉ truy tặng tước bá, thấp hơn cả tước hầu vốn được Lê Thái Tổ ban phong khi ông còn sống. Các công thần khác của nhà Hậu Lê thường được các vua đời sau truy tặng tước cao hơn, như công và sau nữa lên vương.
Năm 1512, vua Lê Tương Dực sai làm chế văn truy tặng ông tước Tế Văn hầu, trong đó có câu [7]:
"Long hổ phong vân chi hội, do tưởng tiền duyên;
"Văn chương sự nghiệp chi truyền, vĩnh thùy hậu thế"
Dịch là:
"Gặp gỡ long hổ phong vân, còn ghi duyên cũ"
"Truyền tụng văn chương sự nghiệp, để mãi đời sau"
Năm 1980 nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, UNESCO đã công nhận ông là danh nhân văn hóa thế giới.
[sửa]Những đánh giá
Lê Thánh Tông trong bài Minh lương viết trong Quỳnh uyển cửu ca có câu: Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo (Tâm hồn Úc Trai trong sáng như sao Khuê buổi sớm), và Lê Thánh Tông đánh giá ông trên tất cả các văn thần võ tướng có danh vọng nhất của thời Lê.
Người thế Kỉ 16, như Hà Nhậm Đại, đã nói về công lao sự nghiệp của ông:
Công giúp hồng đồ cao nữa (tựa) núi
Danh ghi thanh sử sáng bằng gương [8]
Người thế kỉ 17 còn đánh giá ông cao hơn nữa. Đỗ Nghi cũng là người triều Lê, nhưng ông đã nói thẳng: Nhà Lê sở dĩ lấy được thiên hạ đều do sức ông cả và Đỗ Nghi tiếc rằng: Tiếc thay trời chưa muốn bình trị thiên hạ, cho nên cuối cùng ông vẫn chỉ làm chức hành khiển Đông đạo, không được giở hết hoài bão của mình; việc đó không phải là không may cho ông, mà chính là không may cho sinh dân đời Lê vậy. [9]
Sang thế kỉ 18 Dương Bá Cung cũng phải thừa nhận công lao của ông trùm khắp trên đời [10]
Lê Quý Đôn trong Kiến Văn tiểu lục nhận định về ông: "đứng vào bậc nhất một đời, chức vị Thượng thư, cấp bậc công thần. Cứ xem ông giúp chính trị hai triều vua hết lòng trung thành, tuy dâng lời khuyên răn thường bị đè nén mà không từng chịu khuất... nhưng vì tối nghĩa về "chỉ, túc" thành ra cuối cùng không giữ được tốt lành, thật đáng thương xót!... Người có công lao đứng đầu về việc giúp rập vua, thì ngàn năm cũng không thể mai một được"[11].
Cho tới 400 năm sau khi Nguyễn Trãi chết, người Việt Nam ở thế kỷ 19 vẫn rất mực tôn quý ông và khẳng định: Nước Việt ta, từ Đinh, Lê, Lý, Trần, đời nào sáng lập cơ nghiệp đế vương, tất cũng đều phải có các tướng tá giúp sức, nhưng tìm được người toàn tài toàn đức như Ức Trai tiên sinh, thật là ít lắm [12]
Ở thế kỉ 20, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đánh giá: Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc, văn võ song toàn; văn là chính trị: chính trị cứu nước, cứu dân, nội trị ngoại giao "mở nền thái bình muôn thủa, rửa nỗi thẹn nghìn thu"; võ là quân sự: chiến lược và chiến thuật, "yếu đánh mạnh ít địch nhiều ... thắng hung tàn bằng đại nghĩa"; văn và võ đều là võ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm đao: "viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời" (Lê Quý Đôn), "văn chương mưu lược gắn liền với sự nghiệp kinh bang tế thế" (Phan Huy Chú). Thật là một con người vĩ đại về nhiều mặt trong lịch sử nước ta. [13]
Công lao, sự nghiệp của Nguyễn Trãi rõ ràng là huy hoàng, vĩ đại, Nguyễn Trãi quả thật là anh hùng, là khí phách, là tinh hoa của dân tộc. Công lao quý giá nhất và sự nghiệp vĩ đại nhất của Nguyễn Trãi là tấm lòng yêu nước yêu dân tha thiết và sự nghiệp đánh giặc cứu nước vô cùng vẻ vang của ông. Ông đã đem hết tâm hồn, trí tuệ, tài năng phục vụ lợi ích của dân tộc trong phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng chính trị quân sự ưu tú và tài ngoại giao kiệt xuất của ông đã dẫn đường cho phong trào khởi nghĩa Lam Sơn đi tới thắng lợi. [14]Thiên tài của Nguyễn Trãi là sản phẩm của phong trào đấu tranh anh dũng của dân tộc trong một cao điểm của lịch sử. Thiên tài ấy đã để lại một sự nghiệp lớn về nhiều mặt mà chúng ta còn phải tiếp tục tìm hiểu thêm mới có thể đánh giá đầy đủ và chính xác được. Dầu sao, nếu chỉ xét về mặt văn hóa thì cũng có thể khẳng định rằng Nguyễn Trãi đã cắm một cột mốc quan trọng trên con đường tiến lên của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực văn học.
[sửa]Dòng dõi Nguyễn Bặc và tổ tiên chúa Nguyễn?
Theo một số gia phả họ Nguyễn, tổ tiên của Nguyễn Trãi chính là Định Quốc công Nguyễn Bặc thời nhà Đinh và con cháu ông có một chi trở thành các Chúa Nguyễn.
Tác giả Đinh Công Vĩ dẫn trong sách Nhìn lại lịch sử 7 cuốn gia phả, ngọc phả về họ Nguyễn bằng chữ Hán và chữ Nôm, theo đó các nguồn tài liệu này cũng không thống nhất.
Tác giả Nguyễn Khắc Minh trong bài Tìm hiểu phả hệ dòng họ Nguyễn Trãi nêu ra 14 cuốn gia phả viết bằng Hán, Nôm của các chi họ Nguyễn.
Nhìn chung, thông tin từ các gia phả không thống nhất với nhau, nhưng tựu chung từng nhóm đưa ra các thông tin riêng lẻ:
Nguyễn Trãi là dòng dõi Nguyễn Bặc
Nguyễn Trãi là tổ tiên chúa Nguyễn
Nguyễn Bặc là tổ tiên họ Nguyễn Gia Miêu của Chúa Nguyễn
Nguyễn Bặc là tổ tiên Nguyễn Trãi và Nguyễn Trãi cũng là tổ tiên các Chúa Nguyễn.
[sửa]Con cháu Nguyễn Bặc?
Theo tài liệu của tác giả Nguyễn Khắc Minh với 14 cuốn gia phả viết bằng Hán, Nôm của các chi họ, trong đó cũ nhất là thời: Hồng Thuận Tứ Niên (Lê Tương Dực - năm 1513), Cảnh Hưng nguyên niên (năm 1740), gần đây nhất là cuốn gia phả sao lại năm 1962.
Theo đó, về nguồn gốc của các chi họ, gia phả đều thống nhất ghi: Nguyên quán tổ tiên đời trước của họ ta ở xã Chi Ngại, huyện Phượng Nhỡn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Chi Ngãi, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Sau dời về làng Hạ, xã Nhị Khê, huyện Thượng Phúc; phủ Thường Tín, đạo Sơn Nam.
Về gốc tích cội nguồn họ Nguyễn ở thôn Chi Ngại, truyền thuyết của dòng họ kể rằng: Tổ tiên dòng họ Thái Tể triều Đinh - Đinh Quốc Công Nguyễn Bặc (924 - 979) người Hoằng Hóa - Thanh Hóa, có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân để lập ra triều Đinh. Khi Nguyễn Bặc kéo quân về Côn Sơn dẹp sứ quân của Phạm Phòng Át (Phạm Bạch Hổ), ông để lại con cháu của mình cùng năm vị tướng quân họ Phí ở lại Chi Ngại cai quản vùng đất này. Khi năm anh em họ Phí mất, người dân Chi Ngại tôn họ làm Thành Hoàng, lập đền thờ cúng. Đình làng Chi Ngại bị phá hủy trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nhưng bài vị, ngai thờ và thần tích của năm vị tướng họ Phí vẫn được lưu giữ thờ phụng đến ngày nay (nay bài vị của năm vị Thành Hoàng thờ ở chùa Ngái của thôn Chi Ngại). Từ đó dòng họ Nguyễn sinh ra hai con trai. Vì nhà nghèo, hai anh em họ Nguyễn từ Chi Ngại đến Trại Ổi (tức làng Nhị Khê - Thường Tín, Hà Đông) sinh sống và trở thành tổ tiên của Nguyễn Trãi.
Tài liệu của tác giả Nguyễn Khắc Minh sau đó chỉ tập trung vào Nguyễn Trãi và người con sống sót của ông sau Vụ án Lệ Chi Viên là Nguyễn Anh Vũ mà không đề cập tới các chúa Nguyễn. Theo đó, con cháu Nguyễn Phi Khanh phân tán đi các nơi, sau này có 2 nhân vật nổi tiếng là Nguyễn Thiện Thuật và Nguyễn Văn Cừ.
Tuy nhiên, nguồn gốc của họ Nguyễn thôn Chi Ngại cũng chỉ là truyền thuyết của dòng họ và điều này không thống nhất với sử sách. Theo sử sách, Nguyễn Bặc người châu Đại Hoàng (Ninh Bình), không phải người Thanh Hóa; và sứ quân Phạm Phòng Át tự nguyện về hàng phục Đinh Bộ Lĩnh, Bộ Lĩnh không cần sai tướng (Nguyễn Bặc) đi đánh dẹp sứ quân họ Phạm. Hơn nữa, thời điểm soạn thảo gia phả này cũng khá xa thời Nguyễn Bặc (hơn 530 năm).
[sửa]Tổ họ Nguyễn Gia Miêu?
Sách Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh và công cuộc khai sáng miền nam nước Việt cuối thế kỉ XVII của Nguyễn Ngọc Hiền chép về tổ tiên của Nguyễn Hữu Cảnh, người có công mở đất Nam Bộ ghi thế thứ các đời họ Nguyễn từ Nguyễn Bặc như sau:
Nguyễn Bặc (924-979)
Nguyễn Đệ
Nguyễn Viễn
Nguyễn Phụng (?-1150)
Nguyễn Nộn (?-1229; cát cứ cuối thời nhà Lý, đầu thời nhà Trần)
Nguyễn Thế Tứ
Nguyễn Nạp Hoa (?-1377)
Nguyễn Công Luật (?-1388)
Nguyễn Công Sách
Nguyễn Ứng Long (Nguyễn Phi Khanh 1355-1428)
Nguyễn Trãi (1380-1442)
Nguyễn Công Duẩn và Nguyễn Anh Vũ
Nguyễn Đức Trung (1404-1477)
Theo gia phả họ Nguyễn, có 2 người con của Nguyễn Trãi còn sống và được bổ dụng sau này. Một người con cả là Nguyễn Công Duẩn từng tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, không có mặt ở nhà khi cả họ bị hình nên thoát nạn. Người con nhỏ là con của một người vợ thứ của Nguyễn Trãi đã có mang cũng trốn thoát khi cả nhà bị hình, sau sinh được Nguyễn Anh Vũ. Gia phả họ Nguyễn còn ghi: sau này 2 chi của Công Duẩn và Anh Vũ trở thành hai ngành nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, một ngành là các Chúa Nguyễn và một ngành là họ Nguyễn Hữu có công giúp các chúa Nguyễn khai phá Nam Bộ. (Xem chi tiết: Chúa Nguyễn, Nguyễn Hữu Cảnh.)
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã khảo cứu nhiều nguồn tài liệu, gia phả họ Nguyễn khác cũng như các sử sách để kết luận rằng: Nguyễn Trãi không phải ông tổ của các Chúa Nguyễn. Theo một số nhà nghiên cứu, gia phả này chép lẫn gia phả họ Nguyễn Gia Miêu (chúa Nguyễn - ở Thanh Hóa) vào họ Nguyễn Nhị Khê (Nguyễn Trãi - ở Hà Tây). Những người nhà Nguyễn Trãi đã lấy giả mạo là người họ Nguyễn Gia Miêu do phải trốn tránh họa tru di. Căn cứ của tác giả Nguyễn Ngọc Hiên trong sách Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (1997) và sau đó tác giả Phạm Côn Sơn trong sách Tông phả kỉ yếu tân biên (2006) dẫn lại thông tin từ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh đều từ các nguồn phả hệ không chuẩn xác.
[sửa]Nguyễn Công Duẩn
Theo một gia phả họ Nguyễn khác, Tiên nguyên toát yếu phổ của Tôn Thất Hân, Nguyễn Công Duẩn là người tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ ngày đầu (trong khi Nguyễn Trãi sau này mới gia nhập), quê ở Gia Miêu, Tống Sơn, Thanh Hóa và không phải là con Nguyễn Trãi:
Nguyễn Bặc
Nguyễn Đệ
Nguyễn Viễn
Nguyễn Phụng
Nguyễn Nộn
Nguyễn Thế Tứ
Nguyễn Minh Du
Nguyễn Biện
Nguyễn Sử
Nguyễn Công Duẩn (hay Chuẩn) - công thần khởi nghĩa Lam Sơn
Nguyễn Đức Trung - đại thần tham gia lật đổ Lê Nghi Dân năm 1460.
Các nhà nghiên cứu cho rằng, có thể do con cháu Nguyễn Trãi giả mạo, dùng lí lịch họ Nguyễn Gia Miêu để che thân phận mình. Theo nhà sử học Phan Huy Lê:
Nguyễn Biện là người Gia Miêu, là dòng dõi Nguyễn Bặc trở xuống. Sau vụ án Lệ Chi viên, con cháu Nguyễn Trãi đã lấy tên Nguyễn Biện mà thay thế tên Ứng Long ở trong gia phả. Trong họ của Bế Nguyễn (họ Nguyễn ở Cao Bằng đổi ra họ Bế - tức là con cháu của Nguyễn Phù, xem phần "Gia quyến lưu tán" phía trên) có di chúc truyền khẩu: "Phải đời đời thờ cúng phụ đạo Nguyễn Biện đã có công bảo vệ hậu duệ tổ Ứng Long".
Một số nhà nghiên cứu, do không khảo cứu hết các nguồn gia phả họ Nguyễn (vốn không thống nhất với nhau và có những nguồn tài liệu bị sai lạc) và người sau kế tục sử dụng những thành quả của những tài liệu trước, nên đã cùng lầm lẫn rằng Nguyễn Trãi là hậu tổ (Nguyễn Bặc là thủy tổ) họ Nguyễn Gia Miêu. Tác giả Nguyễn Ngọc Hiền trong Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh và sau đó là Phạm Côn Sơn trong Tông phả tân biên kỉ yếu cùng đưa ra phả hệ rất không hợp lí về dòng họ Nguyễn.
Đối với việc không có Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi trong một số gia phả họ Nguyễn, tác giả Nguyễn Ngọc Hiền lại theo ý kiến của một số chi hậu duệ họ Nguyễn ngày nay cho rằng, do cha con Phi Khanh theo nhà Hồ, mà nhà Hồ đã giết hại Nguyễn Công Luật (tổ đời thứ 8) nên bị khai trừ ra khỏi họ. Sau đó, do Nguyễn Trãi có công theo Lê Lợi bình Ngô nên lại được đưa vào. Tuy nhiên, nếu xét chi tiết tới thế thứ của giả thuyết này, sẽ có nhiều chỗ không hợp lí.
Theo đó (xem thế thứ 13 đời phần trên), từ Nguyễn Bặc mất năm 979 tới Nguyễn Nộn đời thứ 5 mất năm 1229, tức là hơn 60 năm mới có một thế hệ; sau đó từ Nguyễn Nộn mất tới Nguyễn Nạp Hoa đời thứ 7 mất tận năm 1377 (tức là gần 80 năm mới có một thế hệ); sau đó từ Nguyễn Công Luật đời thứ 8 tới Nguyễn Trãi (đời thứ 11), Công Duẩn (đời thứ 12), Đức Trung (đời thứ 13, sinh năm 1404) rồi thị Hằng (đời thứ 14, sinh con năm 1461). Như vậy 7 đời đầu cách nhau 400 năm, 7 đời sau lại dồn vào chỉ khoảng 65 năm cuối thế kỉ 14, đầu thế kỉ 15.
Vì lẽ đó, nhiều ý kiến nghiêng về khả năng họ Nguyễn Nhị Khê "mượn cửa" họ Nguyễn Gia Miêu để lánh nạn hơn.
[sửa]Nguyễn Đức Trung
Có một sự kiện sử sách đã chép lại (các sách Đại Việt thông sử và Khâm định Việt sử Thông giám cương mục) cho thấy: Nguyễn Đức Trung (cha Trường Lạc hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng) - người được giả thuyết ban đầu coi là cháu nội Nguyễn Trãi - có 2 hành trạng mâu thuẫn với giả thuyết này:
Nguyễn Đức Trung được cất nhắc làm Điện tiền chỉ huy sứ dưới ngay thời vua Lê Nhân Tông - vua thiếu niên có sự nhiếp chính của thái hậu Nguyễn Thị Anh, người vừa khép tội gia hình Nguyễn Trãi trước đó không lâu;
Nguyễn Đức Trung sau đó tham gia cùng Nguyễn Xí, Lê Lăng lật đổ Lê Nghi Dân từ năm 1460.
Trong khi đó, tận năm 1464 Lê Thánh Tông mới minh oan cho Nguyễn Trãi và sai tìm lại dòng dõi đang phải trốn tránh của ông. Một nhà vừa bị tru di tam tộc, ngay cả họ hàng của mẹ kế Nguyễn Trãi và họ hàng của các vợ lẽ của ông cũng không được thoát nạn, không thể có người cháu nội được cất nhắc lên làm đại thần trong triều bên cạnh các bậc "nguyên lão" như Nguyễn Xí, Lê Lăng. Vì vậy, chắc chắn Đức Trung không thể là cháu nội Nguyễn Trãi.
Các tác giả theo giả thuyết "Nguyễn Trãi là ông nội Nguyễn Đức Trung" đã không xem xét tới sự kiện này trong sử sách.
[sửa]Trường Lạc hoàng hậu
Một số giai thoại cho rằng Nguyễn Trãi không chỉ là cha Nguyễn Anh Vũ - người phải đổi sang họ mẹ là Phạm Anh Vũ trong thời gian trốn tránh - mà còn là cha Nguyễn Thị Hằng - người sau này trở thành hoàng hậu Trường Lạc của Lê Thánh Tông. Thánh Tông tìm được Anh Vũ và Thị Hằng rồi lấy luôn bà làm vợ.
Các nhà sử học đã nhất trí rằng đây chỉ là giai thoại dân gian. Nguyễn Thị Hằng đã được sử sách ghi nhận là con đại thần Nguyễn Đức Trung. Các tài liệu gia phả được nghiên cứu, chọn lọc (nêu trên) đã cho thấy Nguyễn Đức Trung là con Nguyễn Công Duẩn và Công Duẩn không phải là con Nguyễn Trãi.
Như vậy có tới hai nguồn thông tin sai lạc về quan hệ giữa Nguyễn Trãi và Trường Lạc hoàng hậu: nguồn đầu cho rằng ông là cha hoàng hậu, nguồn thứ hai cho rằng ông là cụ của hoàng hậu. Thực tế ông không có quan hệ họ hàng với Nguyễn Thị Hằng.
Có một minh chứng nữa cho việc Nguyễn Trãi không phải là cha hay cụ của hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng. Điều này tương tự như thời gian hành trạng của cha bà - Nguyễn Đức Trung. Tới tận năm 1464 Nguyễn Trãi mới được minh oan nhưng năm 1461 Nguyễn Thị Hằng đã là hoàng hậu của Lê Thánh Tông và đã sinh ra thái tử Lê Tranh, sau trở thành Lê Hiến Tông.
[sửa]Kết luận
Như vậy, do hậu quả của Vụ án Lệ Chi Viên, đã có những thông tin sai lạc cho đời sau về dòng dõi của Nguyễn Trãi. Ông không phải là cha Nguyễn Công Duẩn, không phải là ông nội của Nguyễn Đức Trung và không phải là tổ tiên của các Chúa Nguyễn. Nguyễn Trãi và dòng họ của ông không có quan hệ tới họ Nguyễn ở Gia Miêu.
Giả thuyết về họ Nguyễn Gia Miêu và họ Nguyễn Chi Ngại (hay Nhị Khê) cùng có tổ là Nguyễn Bặc vẫn còn những nghi vấn:
Truyền thuyết họ Nguyễn ở Chi Ngại quá xa, chưa hoàn toàn có tính xác thực để kết luận Nguyễn Trãi là dòng dõi Nguyễn Bặc.
Khoảng cách quá xa của các thế thứ họ Nguyễn khiến về vấn đề "dòng họ Nguyễn Gia Miêu là con cháu Nguyễn Bặc" còn những nghi vấn. Chính sử sách nhà Nguyễn không xác nhận họ Nguyễn Gia Miêu là con cháu Nguyễn Bặc. (Xem bài: Nguyễn Bặc, Nguyễn Nộn.)
[sửa]Các tác phẩm văn thơ
Nguyễn Trãi để lại rất nhiều trước tác, cả bằng Hán văn và bằng chữ Nôm, song đã bị thất lạc sau Vụ án Lệ Chi Viên. Ông là một trong những tác giả thơ Nôm lớn của Việt Nam thời phong kiến, điển hình là tác phẩm Quốc âm thi tập.
Được biết đến nhiều nhất là Bình Ngô đại cáo được viết sau khi nghĩa quân Lam Sơn giành thắng lợi trong cuộc chiến chống quân Minh kéo dài 10 năm (1418–1427). Tác phẩm này đã thể hiện rõ ý chí độc lập, tự cường của dân tộc Việt cũng như việc lấy dân làm gốc với những câu như:
Dục Thúy Sơn (Ninh Bình)-Ngọn núi trong bài thơ cùng tên của Nguyễn Trãi
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
(trích theo bản dịch của Ngô Tất Tố)
Bình Ngô đại cáo được người đương thời rất thán phục, coi là "thiên cổ hùng văn".
Ngoài ra ông còn để lại nhiều tác phẩm khác như Quốc âm thi tập, Ức Trai thi tập, Quân trung từ mệnh tập, Dư địa chí, Lam Sơn thực lục, Phú núi Chí Linh, Lam Sơn Vĩnh lăng thần đạo bi, Ngọc Đường di cảo.
Tác phẩm Gia huấn ca được người đời truyền tụng và cho là của ông, nhưng hiện vẫn chưa có chứng cứ lịch sử xác đáng. Tác phẩm Quốc âm thi tập là tác phẩm viết bằng chữ Nôm đánh dấu sự phát triển mới của văn học Việt Nam
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Trãi
Chân dung Nguyễn Trãi
Công việc Nhà văn, Nhà thơ, Chính trị gia
Quốc gia Việt Nam
Giai đoạn sáng tác Nhà Lê
Chủ đề Văn học
Nguyễn Trãi (chữ Hán: 阮廌), hiệu là Ức Trai (抑齋), 1380–1442, là đại thần nhà Hậu Lê, một nhân vật vĩ đại về nhiều mặt, rất hiếm có trong lịch sử. Công lao sự nghiệp của ông rất lớn. Đạo đức phong cách của ông rất cao đẹp. Ông là một anh hùng dân tộc vĩ đại, là nhà chính trị lỗi lạc, nhà chiến lược thiên tài, nhà ngoại giao kiệt xuất, đồng thời là một nhà văn lớn, nhà thơ lớn, nhà sử học, nhà địa lý học, nhà làm luật pháp và âm nhạc xuất sắc. Năm 1980, ông được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới nhân dịp kỉ niệm 600 năm ngày sinh của ông.
Ngay từ khi còn sống, Nguyễn Trãi đã được những người đương thời khen ngợi là:
Kinh bang hoa quốc, cổ vô tiền [1]
Nghĩa là:
Dựng nước và làm vẻ vang tổ quốc, từ xưa chưa ai được như ông.
Mục lục [ẩn]
1 Thân thế
2 Thời trẻ
3 Thời Hồ
4 Tướng văn trong khởi nghĩa Lam Sơn
5 Công thần bị tội
5.1 Bị vạ với người trong họ
5.2 Vụ án Lệ Chi Viên
5.3 Gia quyến lưu tán
6 Được minh oan
7 Những đánh giá
8 Dòng dõi Nguyễn Bặc và tổ tiên chúa Nguyễn?
8.1 Con cháu Nguyễn Bặc?
8.2 Tổ họ Nguyễn Gia Miêu?
8.2.1 Nguyễn Công Duẩn
8.2.2 Nguyễn Đức Trung
8.2.3 Trường Lạc hoàng hậu
8.3 Kết luận
9 Các tác phẩm văn thơ
10 Chú thích
11 Xem thêm
12 Liên kết ngoài
[sửa]Thân thế
Chân dung khác của Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi (1380 - 1442), tên tự là Ức Trai, sống vào một giai đoạn lịch sử sôi động, từ cuối đời Trần, trải qua đời Hồ thời đấu tranh chống ách Minh thuộc (của nhà hậu Trần, của các phong trào nhân dân khắp nước, của nghĩa quân Lam Sơn) cho tới đầu đời Lê. Cha Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long tức Nguyễn Phi Khanh, tên hiệu là Nhị Khê, vốn gốc làng Chi Ngại, huyện Phượng Nhãn (nay thuộc Chí Linh Hải Dương), nhưng đã di cư sang làng Ngọc Ổi (sau đổi tên thành Nhị Khê) huyện Thượng Phúc (nay là huyện Thường Tín Hà Tây cũ).
Lúc còn là thư sinh, Nguyễn Ứng Long vì nổi tiếng hay chữ cho nên được Trần Nguyên Đán, tể tướng và là tông thất nhà Trần gả con gái cho. Năm 1374, Nguyễn Ứng Long đi thi, đậu Bảng Nhãn. Nhưng vì là con nhà thứ dân mà dám lấy con gái nhà hoàng tộc cho nên không được Trần Nghệ Tông cho làm quan và đành trở về quê dạy học.
[sửa]Thời trẻ
Lúc ông lên 5 tuổi mẹ ông mất.
Nguyễn Trãi lúc nhỏ ở với ông ngoại là Trần Nguyên Đán. Năm 1385, Trần Nguyên Đán về trí sĩ ở Côn Sơn, đem theo cả Nguyễn Trãi về đấy. Côn Sơn lại chính là nơi quê tổ của họ Nguyễn vì cả dãy núi này thuộc vào địa phận xã Chi Ngại, huyện Phượng Nhãn. Từ năm 1390, sau khi ông ngoại mất, Nguyễn Trãi về Nhị Khê ở với cha.
[sửa]Thời Hồ
Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần. Năm đó cũng là năm mở khoa thi đầu tiên của nhà Hồ. Nguyễn Trãi đi thi và đậu thái học sinh. Năm 1401, Nguyễn Ứng Long đổi tên là Nguyễn Phi Khanh và được nhà Hồ vời ra làm quan, lĩnh chức Quốc tử giám tư nghiệp. Còn Nguyễn Trãi thì sau khi thi đỗ được nhà Hồ cử giữ chức Ngự sử đài chính chưởng. Như vậy là hai cha con Nguyễn Trãi thuộc số những người ra làm quan với nhà Hồ ngay từ đầu.
Năm 1407, nhà Minh đánh Đại Ngu. Cha con Hồ Quý Ly bị bắt đưa về Kim Lăng. Một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh cũng bị bắt đi cùng với Hồ Quý Ly. Nguyễn Trãi muốn trọn đạo hiếu bèn đi theo cha, nhưng Nguyễn Phi Khanh khuyên con nên trở về Tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha thì mới là đạo hiếu. [2]
Trên đường trở về Nguyễn Trãi bị người Minh bắt và đem giam lỏng ở thành Đông Quan (Hà Nội) và mặc dù bị đe dọa, mua chuộc, ông cũng không chịu ra làm quan với nhà Minh. Năm 1417, ông trốn khỏi Đông Quan, rồi sau đó tìm đường vào giúp Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã dâng lên Lê Lợi tập Bình Ngô sách
Theo Ngô Thế Vinh (nửa đầu thế kỉ thứ 19), viết trong tựa sách Ức Trai thi văn tập thì phương châm cơ bản nêu trong Bình Ngô sách "không nói đánh thành mà giỏi bàn về cách đánh lòng" . Tư tưởng chiến lược này chính là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của nghĩa quân. Trong thời gian kháng chiến, Nguyễn Trãi đã giúp Lê Lợi trù hoạch quân mưu. Ông lại góp phần xây dựng chính quyền dân tộc đối lập với chính quyền xâm lược. Nguyễn Trãi đã nhân danh Lê Lợi viết những thư từ giao thiệp với tướng Minh. Những bức thư đó (về sau được tập hợp dưới cái tên Quân trung từ mệnh tập) có tính chiến đấu mạnh mẽ và có tác dụng lớn trong việc đánh vào tinh thần địch quân.
[sửa]Tướng văn trong khởi nghĩa Lam Sơn
Từ xa, Nguyễn Trãi đã nhận thấy ở Lê Lợi một người anh hùng lỗi lạc có thể đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thành công, nên Nguyễn Trãi đã bỏ qua nhiều phong trào khởi nghĩa ở các địa phương gần, để lặn lội vào miền núi rừng Thanh Hoa, tìm gặp Lê Lợi và gia nhập hàng ngũ nghĩa quân Lam Sơn. Đó là những ngày ở Lỗi Giang, nhưng tên tuổi, sự nghiệp của ông ghi lại trong lịch sử của dân tộc, chỉ là từ sau khi nghĩa quân Lam Sơn rút về núi Chí Linh lần thứ ba, tức là từ năm 1423. [3]
Từ sau cuộc gặp gỡ ở Lỗi Giang, thì theo Trần Khắc Kiệm chép trong {(lời tựa Ức Trai thi tập) Ức Trai di tập quyển 5} Phàm những việc quân, việc nước quan trọng đều trao cho ông cả. Nguyễn Trãi đã vận dụng Bình Ngô sách của ông để trù tính giải quyết mọi việc quân, việc nước quan trọng. Ông đã thành công trong việc mở rộng phong trào Lam Sơn từ một cuộc khởi nghĩa địa phương, bó hẹp trong vùng rừng núi phủ Thanh Hoa thành chiến tranh cả nước đánh giặc và đưa phong trào, từ sau khi về núi Chí Linh lần thứ ba, sang một giai đoạn phát triển mới, giai đoạn tiến công liên tục, mãnh liệt càng đánh càng được, đi đến đâu đánh tan đến đấy, như phá vật nát, như bẻ cành khô [4]
Đặc biệt trong giai đoạn từ 1425, khi quân Lam Sơn trên đà thắng lợi, vây hãm nhiều thành trì của quân Minh, Nguyễn Trãi thường viết thư gửi cho tướng giặc trong thành để dụ hàng hoặc làm nản ý chí chiến đấu của tướng giặc.
Năm 1427, ông được liệt vào hàng Đại phu, coi sóc các việc chính trị và quản công việc ở Viện Khu mật. Quân Lam Sơn giải phóng vùng Bắc Bộ, đánh tan viện binh của Vương Thông. Thông rút vào cố thủ trong thành Đông Quan. Vua Minh sai Liễu Thăng và Mộc Thạnh chia làm 2 đường, cầm hơn 10 vạn quân sang cứu viện. Lúc đó quân Lam Sơn đứng trước hai chọn lựa vì sắp phải đối phó với địch bên ngoài vào và địch đánh ở trong thành ra. Lực lượng của Vương Thông hợp với quân Minh sang từ trước đã có khoảng 10 vạn người, quân Lam Sơn vây hãm có chút lơi lỏng đã bị địch ra đánh úp, phải trả giá cao bằng việc mất 4 tướng giỏi: Lê Triện, Đinh Lễ bị tử trận, Đỗ Bí và Nguyễn Xí bị bắt. Chỉ có Nguyễn Xí sau đó nhờ mưu trí và nhanh nhẹn đã trốn thoát về.
Số đông các tướng nóng lòng muốn hạ gấp thành Đông Quan để hết lực lượng làm nội ứng cho Liễu Thăng và Mộc Thạnh. Riêng Nguyễn Trãi không đồng tình với quan điểm đó. Ông kiến nghị với Lê Lợi ý kiến của mình và được chấp thuận. Và Lê Lợi đã theo kế của ông nói với các tướng rằng:
"Đánh Đông Quan là hạ sách. Nếu ta đánh thành kiên cố đó, phải mất mấy tháng hoặc hàng năm, chưa chắc đã hạ nổi, binh sĩ ta phải mệt mỏi chán nản. Đang khi đó, viện binh của địch kéo dến, thế là ta bị địch đánh cả đằng trước, đằng sau, đó là rất nguy. Chi bằng ta hãy nuôi sức khoẻ, chứa dũng khí chờ đánh viện binh. Khi viện binh đã bị phá, tất nhiên quân trong thành phải hàng, thế là ta chỉ khó nhọc một phen mà thu lợi gấp hai."
Diễn biến chiến sự sau đó quả như Nguyễn Trãi tiên đoán. Lê Lợi điều các tướng giỏi lên đánh chặn hai đạo viện binh, giết được Liễu Thăng, Mộc Thạnh bỏ chạy về nước. Vương Thông trong thành tuyệt vọng không còn cứu binh phải mở cửa thành ra hàng, cùng Lê Lợi thực hiện "hội thề Đông Quan", xin rút quân về nước và cam kết không sang xâm phạm nữa.
Bài chi tiết: Khởi nghĩa Lam Sơn
Theo lệnh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngô đại cáo để bá cáo cho thiên hạ biết về việc đánh giặc Minh, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam (sau bài thơ Nam quốc sơn hà).
Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, ban thưởng cho 227 công thần, Nguyễn Trãi được phong là Triều đại phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ thượng thư, tước Quan phục hầu. Trong công cuộc xây dựng đất nước vừa được giải phóng, Nguyễn Trãi đã có nhiều đóng góp lớn, tuy chức vụ của ông chưa phải là chức vụ chủ chốt nhất trong triều để có thể làm cho ông thi thố hết tài năng. Ông đã khuyên Lê Lợi kêu gọi những người "hiền tài" ra giúp nước, và năm 1429 thay nhà vua viết tờ Chiếu cầu hiền. Năm 1430, ông thay nhà vua viết Chiếu cấm các đại thần, tổng quản cùng các quan ở viện, sảnh, cục tham lam lười biếng. Năm 1431, ông thay nhà vua viết tờ Chiếu cho Tư Tề quyền nhiếp quốc chính. Năm 1433, Tư Tề vì cuồng dại, ngớ ngẩn không đương nổi việc nước, bị giáng xuống làm quận vương, ông thay nhà vua viết tờ Chiếu giáng Tư Tề làm quận vương, đặt con thứ là Nguyên Long nối nghiệp. Ông cũng lại thay nhà vua làm tờ Chiếu về việc làm bài Hậu tự huấn để răn bảo thái tử và Chiếu bàn về phép tiền tệ, v.v... [5]
[sửa]Công thần bị tội
[sửa]Bị vạ với người trong họ
Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, phong ông tước Quan Phục hầu và cho theo họ Lê của vua.
Sau thắng lợi 1 năm, đầu năm 1429, Lê Lợi nghi ngờ Trần Nguyên Hãn, một tướng giỏi vốn là dòng dõi nhà Trần định mưu phản, nên sai người đi bắt hỏi tội. Trần Nguyên Hãn nhảy xuống sông tự vẫn. Vì Nguyên Hãn là anh em họ của Nguyễn Trãi nên ông cũng bị bắt giam vì nghi ngờ có liên quan tới tội mưu phản. Sau đó vì không có chứng cứ buộc tội, vua Lê lại thả ông ra. Tuy nhiên cũng từ đó ông không còn được trọng dụng như trước nữa.
Thực chất, cuộc thanh trừng công thần của Lê Thái Tổ có động cơ từ việc muốn thiên hạ hết mong nhớ nhà Trần; đồng thời cũng là cuộc tranh chấp quyền lực thời bình giữa các tướng có xuất thân họ hàng hoặc cùng quê với vua Lê - do Lê Sát đứng đầu - và các tướng xuất thân vùng khác, tiêu biểu là Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo. Hơn nữa đó lại còn là cuộc tranh chấp ngôi thái tử giữa con cả của vua là Lê Tư Tề (người từng tham gia khởi nghĩa Lam Sơn và được Nguyên Hãn ủng hộ) với con thứ Lê Nguyên Long (được Lê Sát ủng hộ).
Bị oan khuất, sau khi ra khỏi ngục, ông làm bài Oan thán bày tỏ nỗi bi phẫn, trong đó có câu:
Hư danh thực họa thù kham tiếu,
Chúng báng cô trung tuyệt khả liên.
Dịch:
Danh hư thực họa nên cười quá,
Bao kẻ dèm pha xót người trung
[sửa]Vụ án Lệ Chi Viên
Xem chi tiết: Vụ án Lệ Chi Viên
Năm 1433, Thái Tổ mất, thái tử Nguyên Long lên nối ngôi, tức là Lê Thái Tông. Những năm đầu, Tư đồ Lê Sát làm phụ chính điều hành triều chính. Nguyễn Trãi tham gia giúp vua mới. Nhân bàn về soạn lễ nhạc, Nguyễn Trãi khuyên nhà vua:
"Nguyện xin bệ hạ yêu thương và nuôi dưỡng dân chúng để nơi thôn cùng xóm vắng không có tiếng oán hận sầu than".
Năm 1435, ông soạn sách Dư địa chí để vua xem nhằm nâng cao sự hiểu biết, niềm tự hào và ý thức trách nhiệm của nhà vua đối với non sông đất nước.
Bị các quyền thần đứng đầu là Lê Sát chèn ép, Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Chí Linh, thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay.
Tuy nhiên, trái với dự tính của Lê Sát, Thái Tông còn ít tuổi nhưng không dễ trở thành vua bù nhìn để Sát khống chế mãi. Năm 1437, nhà vua anh minh nhanh chóng chấn chỉnh triều đình, cách chức và giết các quyền thần Lê Sát, Lê Ngân; các lương thần được trọng dụng trở lại, trong đó có Nguyễn Trãi. Lúc đó ông đã gần 60 tuổi, lại đảm nhiệm chức vụ cũ, kiêm thêm chức Hàn lâm viện Thừa chỉ và trông coi việc quân dân hai đạo Đông, Bắc (cả nước chia làm 5 đạo). Thời gian phò vua Thái Tông, Nguyễn Trãi tiếp tục phát huy được tài năng của ông. Tuy nhiên khi triều chính khá yên ổn thì cung đình lại xảy ra tranh chấp.
Vua Thái Tông ham sắc, có nhiều vợ, chỉ trong 2 năm sinh liền 4 hoàng tử. Các bà vợ tranh chấp ngôi thái tử cho con mình nên trong triều xảy ra xung đột. Vua truất hoàng hậu Dương Thị Bí và ngôi thái tử của con bà là Lê Nghi Dân lên 2 tuổi, lập Nguyễn Thị Anh làm hoàng hậu và cho con của bà này là Lê Bang Cơ chưa đầy 1 tuổi làm thái tử. Cùng lúc đó một bà vợ khác của vua là Ngô Thị Ngọc Dao lại sắp sinh, hoàng hậu Nguyễn Thị Anh sợ đến lượt mẹ con mình bị phế nên tìm cách hại bà Ngọc Dao. Nguyễn Trãi cùng một người vợ thứ là Nguyễn Thị Lộ tìm cách cứu bà Ngọc Dao đem nuôi giấu, sau bà sinh được hoàng tử Tư Thành (tức vua Lê Thánh Tông sau này).
Tháng 7 năm 1442, vua Lê Thái Tông về qua nhà Nguyễn Trãi tại Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương ngày nay), vợ Nguyễn Trãi là bà Nguyễn Thị Lộ theo "hầu" vua. Trên đường về kinh Vua đột ngột qua đời tại vườn hoa Lệ Chi Viên nay thuộc Gia Bình, Bắc Ninh. Nguyễn Trãi bị triều đình do hoàng hậu Nguyễn Thị Anh cầm đầu khép tội giết vua và bị giết cả 3 họ (tru di tam tộc) ngày 16 tháng 8 năm 1442. "Tru di tam tộc" là giết người trong họ của người bị tội, họ bên vợ và họ bên mẹ của người đó. Theo gia phả họ Nguyễn, ngoài những người họ Nguyễn cùng họ với ông, còn có những người họ Trần cùng họ với bà Trần Thị Thái mẹ ông, người trong họ bà Nhữ thị vợ thứ của Nguyễn Phi Khanh, những người trong họ của các bà vợ Nguyễn Trãi (kể cả vợ lẽ), tất cả đều bị xử tử.
Thái tử Bang Cơ mới 1 tuổi, con trai Nguyễn Thị Anh được lập làm vua, tức là Lê Nhân Tông.
[sửa]Gia quyến lưu tán
Theo gia phả họ Nguyễn, Nguyễn Trãi có năm người vợ:
Bà họ Trần: Sinh ra Nguyễn Khuê, Nguyễn Ứng, Nguyễn Phù.
Bà họ Phùng: Sinh ra Thị Trà, Nguyễn Bảng, Nguyễn Tích.
Bà Thị Lộ: Không có con.
Bà Phạm Thị Mẫn: Sinh ra Nguyễn Anh Vũ (sau vụ án Lệ Chi Viên).
Bà họ Lê: Sinh ra con cháu ở chi Quế Lĩnh, Phương Quất - huyện Kim Môn, Hải Dương.
Sau vụ án Lệ Chi Viên, dòng họ Nguyễn Trãi ở Chi Ngại, Nhị Khê gần như bị thảm sát hết. Trong các phả hệ ghi lại số ít thoát nạn là:
Nguyễn Phi Hùng, em thứ ba của Nguyễn Trãi chạy về Phù Khê, Từ Sơn, Bắc Ninh;
Nguyễn Phù con Nguyễn Trãi chạy lên Cao Bằng, đổi họ sang họ Bế Nguyễn.
Bà họ Lê vợ thứ năm của Nguyễn Trãi mang thai chạy về Phương Quất, huyện Kim Môn, Hải Dương.
Bà Phạm Thị Mẫn vợ thứ tư của Nguyễn Trãi có mang ba tháng, được người học trò cũ của Nguyễn Trãi là Lê Đạt đưa bà chạy trốn vào xứ Bồn Man (phía Tây Thanh Hóa); sau lại về thôn Dự Quần, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Tại đây, bà sinh ra Nguyễn Anh Vũ. Để tránh sự truy sát của triều đình, Nguyễn Anh Vũ đổi sang họ mẹ là Phạm Anh Vũ.
[sửa]Được minh oan
Theo một số nghiên cứu gần đây, thủ phạm gây ra cái chết của vua Thái Tông chính là hoàng hậu Nguyễn Thị Anh và bà đã đổ tội cho Nguyễn Trãi.
Tuy nhiên, ngay đương thời đã có nhiều người biết việc oan khuất của Nguyễn Trãi. Hơn 10 năm sau, mẹ con vua Nhân Tông bị người con cả Thái Tông là Nghi Dân giết chết để giành lại ngôi vua. Nhưng rồi Nghi Dân nhanh chóng bị lật đổ. Người con thứ của Thái Tông là Khắc Xương từ chối ngôi báu nên người con út là Tư Thành được vợ chồng Nguyễn Trãi cứu thoát trước kia, nay được Nguyễn Xí rước lên ngôi, tức là Lê Thánh Tông.
Năm 1464, Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi. Con cháu ông được tìm lại và bổ dụng. Người con út sinh ra sau khi ông qua đời là Nguyễn Anh Vũ được Lê Thánh Tông phong cho chức Đồng Tri Phủ huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa), cấp cho 100 mẫu ruộng gọi là "Miễn hoàn điền" (ruộng không phải trả lại) con cháu đời đời được hưởng. Nguyễn Anh Vũ xây dựng mộ chí của Nguyễn Trãi tại xứ đồng Tai Hà, làng Dự Quần, lấy sọ dừa, cành dâu táng làm cốt; lấy ngày mất của Nguyễn Trãi - 16 tháng 8 là ngày giỗ họ [6]
Năm 1464, Lê Thánh Tông đã chính thức minh oan cho Nguyễn Trãi. Ông ca ngợi Nguyễn Trãi là Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo, truy tặng tước Tán Trù Bá, ban cho con là Anh Vũ chức huyện quan. Năm 1467, Lê Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi. Việc làm này có thể đã góp phần bảo tồn một phần quan trọng các di sản văn hóa mà Nguyễn Trãi đã để lại.
Nhiều người hiểu sai khi dịch nghĩa "Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo" là "Lòng Ức Trai sáng tựa sao khuê", dịch chính xác phải là "Ức Trai lòng soi sáng văn chương"
Nguyên ăn bài thơ
“ Cao Đế anh hùng cái thế danh
Văn Hoàng trí dũng phủ doanh thành
Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo
Vũ Mục hung trung liệt giáp binh
Thập Trịnh đệ huynh liên quý hiển
Nhị Thân phụ tử bội ân vinh
Hiếu tôn Hồng Đức thừa phi tự
Bát bách Cơ Chu lạc thái bình
”
Dịch nghĩa
“ Đức Cao Đế (Lê Thái Tổ) là bậc anh hùng đệ nhất thiên hạ
Đức Văn Hoàng (Lê Thái Tông) trí dũng kế thừa cơ nghiệp
Ức Trai (Nguyễn Trãi) lòng soi sáng văn chương
Vũ Mục (Lê Khôi) bụng chứa đầy binh giáp
Mười anh em họ Trịnh (con thái uý Trịnh Khả) tất thảy đều vẻ vang phú quý
Hai cha con họ Thân (Thân Nhân Trung và Thân Nhân Tín) đều hưởng ân vinh lớn
Cháu hiếu là Hồng Đức (Lê Thánh Tông) nay kế thừa nghiệp lớn
Vui hưởng thái bình như nhà Chu tám trăm năm
”
Dù vậy, các nhà nghiên cứu vẫn băn khoăn chưa rõ vì sao một vị vua được coi là anh minh và quyết đoán như Lê Thánh Tông, đã minh oan cho Nguyễn Trãi, một đại công thần sáng lập vương triều Lê, người đã cùng với vợ là Nguyễn Thị Lộ ra sức che chở cho mẹ con nhà vua lúc gian nan, mà chỉ truy tặng tước bá, thấp hơn cả tước hầu vốn được Lê Thái Tổ ban phong khi ông còn sống. Các công thần khác của nhà Hậu Lê thường được các vua đời sau truy tặng tước cao hơn, như công và sau nữa lên vương.
Năm 1512, vua Lê Tương Dực sai làm chế văn truy tặng ông tước Tế Văn hầu, trong đó có câu [7]:
"Long hổ phong vân chi hội, do tưởng tiền duyên;
"Văn chương sự nghiệp chi truyền, vĩnh thùy hậu thế"
Dịch là:
"Gặp gỡ long hổ phong vân, còn ghi duyên cũ"
"Truyền tụng văn chương sự nghiệp, để mãi đời sau"
Năm 1980 nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, UNESCO đã công nhận ông là danh nhân văn hóa thế giới.
[sửa]Những đánh giá
Lê Thánh Tông trong bài Minh lương viết trong Quỳnh uyển cửu ca có câu: Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo (Tâm hồn Úc Trai trong sáng như sao Khuê buổi sớm), và Lê Thánh Tông đánh giá ông trên tất cả các văn thần võ tướng có danh vọng nhất của thời Lê.
Người thế Kỉ 16, như Hà Nhậm Đại, đã nói về công lao sự nghiệp của ông:
Công giúp hồng đồ cao nữa (tựa) núi
Danh ghi thanh sử sáng bằng gương [8]
Người thế kỉ 17 còn đánh giá ông cao hơn nữa. Đỗ Nghi cũng là người triều Lê, nhưng ông đã nói thẳng: Nhà Lê sở dĩ lấy được thiên hạ đều do sức ông cả và Đỗ Nghi tiếc rằng: Tiếc thay trời chưa muốn bình trị thiên hạ, cho nên cuối cùng ông vẫn chỉ làm chức hành khiển Đông đạo, không được giở hết hoài bão của mình; việc đó không phải là không may cho ông, mà chính là không may cho sinh dân đời Lê vậy. [9]
Sang thế kỉ 18 Dương Bá Cung cũng phải thừa nhận công lao của ông trùm khắp trên đời [10]
Lê Quý Đôn trong Kiến Văn tiểu lục nhận định về ông: "đứng vào bậc nhất một đời, chức vị Thượng thư, cấp bậc công thần. Cứ xem ông giúp chính trị hai triều vua hết lòng trung thành, tuy dâng lời khuyên răn thường bị đè nén mà không từng chịu khuất... nhưng vì tối nghĩa về "chỉ, túc" thành ra cuối cùng không giữ được tốt lành, thật đáng thương xót!... Người có công lao đứng đầu về việc giúp rập vua, thì ngàn năm cũng không thể mai một được"[11].
Cho tới 400 năm sau khi Nguyễn Trãi chết, người Việt Nam ở thế kỷ 19 vẫn rất mực tôn quý ông và khẳng định: Nước Việt ta, từ Đinh, Lê, Lý, Trần, đời nào sáng lập cơ nghiệp đế vương, tất cũng đều phải có các tướng tá giúp sức, nhưng tìm được người toàn tài toàn đức như Ức Trai tiên sinh, thật là ít lắm [12]
Ở thế kỉ 20, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đánh giá: Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc, văn võ song toàn; văn là chính trị: chính trị cứu nước, cứu dân, nội trị ngoại giao "mở nền thái bình muôn thủa, rửa nỗi thẹn nghìn thu"; võ là quân sự: chiến lược và chiến thuật, "yếu đánh mạnh ít địch nhiều ... thắng hung tàn bằng đại nghĩa"; văn và võ đều là võ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm đao: "viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời" (Lê Quý Đôn), "văn chương mưu lược gắn liền với sự nghiệp kinh bang tế thế" (Phan Huy Chú). Thật là một con người vĩ đại về nhiều mặt trong lịch sử nước ta. [13]
Công lao, sự nghiệp của Nguyễn Trãi rõ ràng là huy hoàng, vĩ đại, Nguyễn Trãi quả thật là anh hùng, là khí phách, là tinh hoa của dân tộc. Công lao quý giá nhất và sự nghiệp vĩ đại nhất của Nguyễn Trãi là tấm lòng yêu nước yêu dân tha thiết và sự nghiệp đánh giặc cứu nước vô cùng vẻ vang của ông. Ông đã đem hết tâm hồn, trí tuệ, tài năng phục vụ lợi ích của dân tộc trong phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng chính trị quân sự ưu tú và tài ngoại giao kiệt xuất của ông đã dẫn đường cho phong trào khởi nghĩa Lam Sơn đi tới thắng lợi. [14]Thiên tài của Nguyễn Trãi là sản phẩm của phong trào đấu tranh anh dũng của dân tộc trong một cao điểm của lịch sử. Thiên tài ấy đã để lại một sự nghiệp lớn về nhiều mặt mà chúng ta còn phải tiếp tục tìm hiểu thêm mới có thể đánh giá đầy đủ và chính xác được. Dầu sao, nếu chỉ xét về mặt văn hóa thì cũng có thể khẳng định rằng Nguyễn Trãi đã cắm một cột mốc quan trọng trên con đường tiến lên của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực văn học.
[sửa]Dòng dõi Nguyễn Bặc và tổ tiên chúa Nguyễn?
Theo một số gia phả họ Nguyễn, tổ tiên của Nguyễn Trãi chính là Định Quốc công Nguyễn Bặc thời nhà Đinh và con cháu ông có một chi trở thành các Chúa Nguyễn.
Tác giả Đinh Công Vĩ dẫn trong sách Nhìn lại lịch sử 7 cuốn gia phả, ngọc phả về họ Nguyễn bằng chữ Hán và chữ Nôm, theo đó các nguồn tài liệu này cũng không thống nhất.
Tác giả Nguyễn Khắc Minh trong bài Tìm hiểu phả hệ dòng họ Nguyễn Trãi nêu ra 14 cuốn gia phả viết bằng Hán, Nôm của các chi họ Nguyễn.
Nhìn chung, thông tin từ các gia phả không thống nhất với nhau, nhưng tựu chung từng nhóm đưa ra các thông tin riêng lẻ:
Nguyễn Trãi là dòng dõi Nguyễn Bặc
Nguyễn Trãi là tổ tiên chúa Nguyễn
Nguyễn Bặc là tổ tiên họ Nguyễn Gia Miêu của Chúa Nguyễn
Nguyễn Bặc là tổ tiên Nguyễn Trãi và Nguyễn Trãi cũng là tổ tiên các Chúa Nguyễn.
[sửa]Con cháu Nguyễn Bặc?
Theo tài liệu của tác giả Nguyễn Khắc Minh với 14 cuốn gia phả viết bằng Hán, Nôm của các chi họ, trong đó cũ nhất là thời: Hồng Thuận Tứ Niên (Lê Tương Dực - năm 1513), Cảnh Hưng nguyên niên (năm 1740), gần đây nhất là cuốn gia phả sao lại năm 1962.
Theo đó, về nguồn gốc của các chi họ, gia phả đều thống nhất ghi: Nguyên quán tổ tiên đời trước của họ ta ở xã Chi Ngại, huyện Phượng Nhỡn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Chi Ngãi, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Sau dời về làng Hạ, xã Nhị Khê, huyện Thượng Phúc; phủ Thường Tín, đạo Sơn Nam.
Về gốc tích cội nguồn họ Nguyễn ở thôn Chi Ngại, truyền thuyết của dòng họ kể rằng: Tổ tiên dòng họ Thái Tể triều Đinh - Đinh Quốc Công Nguyễn Bặc (924 - 979) người Hoằng Hóa - Thanh Hóa, có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân để lập ra triều Đinh. Khi Nguyễn Bặc kéo quân về Côn Sơn dẹp sứ quân của Phạm Phòng Át (Phạm Bạch Hổ), ông để lại con cháu của mình cùng năm vị tướng quân họ Phí ở lại Chi Ngại cai quản vùng đất này. Khi năm anh em họ Phí mất, người dân Chi Ngại tôn họ làm Thành Hoàng, lập đền thờ cúng. Đình làng Chi Ngại bị phá hủy trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nhưng bài vị, ngai thờ và thần tích của năm vị tướng họ Phí vẫn được lưu giữ thờ phụng đến ngày nay (nay bài vị của năm vị Thành Hoàng thờ ở chùa Ngái của thôn Chi Ngại). Từ đó dòng họ Nguyễn sinh ra hai con trai. Vì nhà nghèo, hai anh em họ Nguyễn từ Chi Ngại đến Trại Ổi (tức làng Nhị Khê - Thường Tín, Hà Đông) sinh sống và trở thành tổ tiên của Nguyễn Trãi.
Tài liệu của tác giả Nguyễn Khắc Minh sau đó chỉ tập trung vào Nguyễn Trãi và người con sống sót của ông sau Vụ án Lệ Chi Viên là Nguyễn Anh Vũ mà không đề cập tới các chúa Nguyễn. Theo đó, con cháu Nguyễn Phi Khanh phân tán đi các nơi, sau này có 2 nhân vật nổi tiếng là Nguyễn Thiện Thuật và Nguyễn Văn Cừ.
Tuy nhiên, nguồn gốc của họ Nguyễn thôn Chi Ngại cũng chỉ là truyền thuyết của dòng họ và điều này không thống nhất với sử sách. Theo sử sách, Nguyễn Bặc người châu Đại Hoàng (Ninh Bình), không phải người Thanh Hóa; và sứ quân Phạm Phòng Át tự nguyện về hàng phục Đinh Bộ Lĩnh, Bộ Lĩnh không cần sai tướng (Nguyễn Bặc) đi đánh dẹp sứ quân họ Phạm. Hơn nữa, thời điểm soạn thảo gia phả này cũng khá xa thời Nguyễn Bặc (hơn 530 năm).
[sửa]Tổ họ Nguyễn Gia Miêu?
Sách Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh và công cuộc khai sáng miền nam nước Việt cuối thế kỉ XVII của Nguyễn Ngọc Hiền chép về tổ tiên của Nguyễn Hữu Cảnh, người có công mở đất Nam Bộ ghi thế thứ các đời họ Nguyễn từ Nguyễn Bặc như sau:
Nguyễn Bặc (924-979)
Nguyễn Đệ
Nguyễn Viễn
Nguyễn Phụng (?-1150)
Nguyễn Nộn (?-1229; cát cứ cuối thời nhà Lý, đầu thời nhà Trần)
Nguyễn Thế Tứ
Nguyễn Nạp Hoa (?-1377)
Nguyễn Công Luật (?-1388)
Nguyễn Công Sách
Nguyễn Ứng Long (Nguyễn Phi Khanh 1355-1428)
Nguyễn Trãi (1380-1442)
Nguyễn Công Duẩn và Nguyễn Anh Vũ
Nguyễn Đức Trung (1404-1477)
Theo gia phả họ Nguyễn, có 2 người con của Nguyễn Trãi còn sống và được bổ dụng sau này. Một người con cả là Nguyễn Công Duẩn từng tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, không có mặt ở nhà khi cả họ bị hình nên thoát nạn. Người con nhỏ là con của một người vợ thứ của Nguyễn Trãi đã có mang cũng trốn thoát khi cả nhà bị hình, sau sinh được Nguyễn Anh Vũ. Gia phả họ Nguyễn còn ghi: sau này 2 chi của Công Duẩn và Anh Vũ trở thành hai ngành nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, một ngành là các Chúa Nguyễn và một ngành là họ Nguyễn Hữu có công giúp các chúa Nguyễn khai phá Nam Bộ. (Xem chi tiết: Chúa Nguyễn, Nguyễn Hữu Cảnh.)
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã khảo cứu nhiều nguồn tài liệu, gia phả họ Nguyễn khác cũng như các sử sách để kết luận rằng: Nguyễn Trãi không phải ông tổ của các Chúa Nguyễn. Theo một số nhà nghiên cứu, gia phả này chép lẫn gia phả họ Nguyễn Gia Miêu (chúa Nguyễn - ở Thanh Hóa) vào họ Nguyễn Nhị Khê (Nguyễn Trãi - ở Hà Tây). Những người nhà Nguyễn Trãi đã lấy giả mạo là người họ Nguyễn Gia Miêu do phải trốn tránh họa tru di. Căn cứ của tác giả Nguyễn Ngọc Hiên trong sách Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (1997) và sau đó tác giả Phạm Côn Sơn trong sách Tông phả kỉ yếu tân biên (2006) dẫn lại thông tin từ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh đều từ các nguồn phả hệ không chuẩn xác.
[sửa]Nguyễn Công Duẩn
Theo một gia phả họ Nguyễn khác, Tiên nguyên toát yếu phổ của Tôn Thất Hân, Nguyễn Công Duẩn là người tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ ngày đầu (trong khi Nguyễn Trãi sau này mới gia nhập), quê ở Gia Miêu, Tống Sơn, Thanh Hóa và không phải là con Nguyễn Trãi:
Nguyễn Bặc
Nguyễn Đệ
Nguyễn Viễn
Nguyễn Phụng
Nguyễn Nộn
Nguyễn Thế Tứ
Nguyễn Minh Du
Nguyễn Biện
Nguyễn Sử
Nguyễn Công Duẩn (hay Chuẩn) - công thần khởi nghĩa Lam Sơn
Nguyễn Đức Trung - đại thần tham gia lật đổ Lê Nghi Dân năm 1460.
Các nhà nghiên cứu cho rằng, có thể do con cháu Nguyễn Trãi giả mạo, dùng lí lịch họ Nguyễn Gia Miêu để che thân phận mình. Theo nhà sử học Phan Huy Lê:
Nguyễn Biện là người Gia Miêu, là dòng dõi Nguyễn Bặc trở xuống. Sau vụ án Lệ Chi viên, con cháu Nguyễn Trãi đã lấy tên Nguyễn Biện mà thay thế tên Ứng Long ở trong gia phả. Trong họ của Bế Nguyễn (họ Nguyễn ở Cao Bằng đổi ra họ Bế - tức là con cháu của Nguyễn Phù, xem phần "Gia quyến lưu tán" phía trên) có di chúc truyền khẩu: "Phải đời đời thờ cúng phụ đạo Nguyễn Biện đã có công bảo vệ hậu duệ tổ Ứng Long".
Một số nhà nghiên cứu, do không khảo cứu hết các nguồn gia phả họ Nguyễn (vốn không thống nhất với nhau và có những nguồn tài liệu bị sai lạc) và người sau kế tục sử dụng những thành quả của những tài liệu trước, nên đã cùng lầm lẫn rằng Nguyễn Trãi là hậu tổ (Nguyễn Bặc là thủy tổ) họ Nguyễn Gia Miêu. Tác giả Nguyễn Ngọc Hiền trong Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh và sau đó là Phạm Côn Sơn trong Tông phả tân biên kỉ yếu cùng đưa ra phả hệ rất không hợp lí về dòng họ Nguyễn.
Đối với việc không có Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi trong một số gia phả họ Nguyễn, tác giả Nguyễn Ngọc Hiền lại theo ý kiến của một số chi hậu duệ họ Nguyễn ngày nay cho rằng, do cha con Phi Khanh theo nhà Hồ, mà nhà Hồ đã giết hại Nguyễn Công Luật (tổ đời thứ 8) nên bị khai trừ ra khỏi họ. Sau đó, do Nguyễn Trãi có công theo Lê Lợi bình Ngô nên lại được đưa vào. Tuy nhiên, nếu xét chi tiết tới thế thứ của giả thuyết này, sẽ có nhiều chỗ không hợp lí.
Theo đó (xem thế thứ 13 đời phần trên), từ Nguyễn Bặc mất năm 979 tới Nguyễn Nộn đời thứ 5 mất năm 1229, tức là hơn 60 năm mới có một thế hệ; sau đó từ Nguyễn Nộn mất tới Nguyễn Nạp Hoa đời thứ 7 mất tận năm 1377 (tức là gần 80 năm mới có một thế hệ); sau đó từ Nguyễn Công Luật đời thứ 8 tới Nguyễn Trãi (đời thứ 11), Công Duẩn (đời thứ 12), Đức Trung (đời thứ 13, sinh năm 1404) rồi thị Hằng (đời thứ 14, sinh con năm 1461). Như vậy 7 đời đầu cách nhau 400 năm, 7 đời sau lại dồn vào chỉ khoảng 65 năm cuối thế kỉ 14, đầu thế kỉ 15.
Vì lẽ đó, nhiều ý kiến nghiêng về khả năng họ Nguyễn Nhị Khê "mượn cửa" họ Nguyễn Gia Miêu để lánh nạn hơn.
[sửa]Nguyễn Đức Trung
Có một sự kiện sử sách đã chép lại (các sách Đại Việt thông sử và Khâm định Việt sử Thông giám cương mục) cho thấy: Nguyễn Đức Trung (cha Trường Lạc hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng) - người được giả thuyết ban đầu coi là cháu nội Nguyễn Trãi - có 2 hành trạng mâu thuẫn với giả thuyết này:
Nguyễn Đức Trung được cất nhắc làm Điện tiền chỉ huy sứ dưới ngay thời vua Lê Nhân Tông - vua thiếu niên có sự nhiếp chính của thái hậu Nguyễn Thị Anh, người vừa khép tội gia hình Nguyễn Trãi trước đó không lâu;
Nguyễn Đức Trung sau đó tham gia cùng Nguyễn Xí, Lê Lăng lật đổ Lê Nghi Dân từ năm 1460.
Trong khi đó, tận năm 1464 Lê Thánh Tông mới minh oan cho Nguyễn Trãi và sai tìm lại dòng dõi đang phải trốn tránh của ông. Một nhà vừa bị tru di tam tộc, ngay cả họ hàng của mẹ kế Nguyễn Trãi và họ hàng của các vợ lẽ của ông cũng không được thoát nạn, không thể có người cháu nội được cất nhắc lên làm đại thần trong triều bên cạnh các bậc "nguyên lão" như Nguyễn Xí, Lê Lăng. Vì vậy, chắc chắn Đức Trung không thể là cháu nội Nguyễn Trãi.
Các tác giả theo giả thuyết "Nguyễn Trãi là ông nội Nguyễn Đức Trung" đã không xem xét tới sự kiện này trong sử sách.
[sửa]Trường Lạc hoàng hậu
Một số giai thoại cho rằng Nguyễn Trãi không chỉ là cha Nguyễn Anh Vũ - người phải đổi sang họ mẹ là Phạm Anh Vũ trong thời gian trốn tránh - mà còn là cha Nguyễn Thị Hằng - người sau này trở thành hoàng hậu Trường Lạc của Lê Thánh Tông. Thánh Tông tìm được Anh Vũ và Thị Hằng rồi lấy luôn bà làm vợ.
Các nhà sử học đã nhất trí rằng đây chỉ là giai thoại dân gian. Nguyễn Thị Hằng đã được sử sách ghi nhận là con đại thần Nguyễn Đức Trung. Các tài liệu gia phả được nghiên cứu, chọn lọc (nêu trên) đã cho thấy Nguyễn Đức Trung là con Nguyễn Công Duẩn và Công Duẩn không phải là con Nguyễn Trãi.
Như vậy có tới hai nguồn thông tin sai lạc về quan hệ giữa Nguyễn Trãi và Trường Lạc hoàng hậu: nguồn đầu cho rằng ông là cha hoàng hậu, nguồn thứ hai cho rằng ông là cụ của hoàng hậu. Thực tế ông không có quan hệ họ hàng với Nguyễn Thị Hằng.
Có một minh chứng nữa cho việc Nguyễn Trãi không phải là cha hay cụ của hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng. Điều này tương tự như thời gian hành trạng của cha bà - Nguyễn Đức Trung. Tới tận năm 1464 Nguyễn Trãi mới được minh oan nhưng năm 1461 Nguyễn Thị Hằng đã là hoàng hậu của Lê Thánh Tông và đã sinh ra thái tử Lê Tranh, sau trở thành Lê Hiến Tông.
[sửa]Kết luận
Như vậy, do hậu quả của Vụ án Lệ Chi Viên, đã có những thông tin sai lạc cho đời sau về dòng dõi của Nguyễn Trãi. Ông không phải là cha Nguyễn Công Duẩn, không phải là ông nội của Nguyễn Đức Trung và không phải là tổ tiên của các Chúa Nguyễn. Nguyễn Trãi và dòng họ của ông không có quan hệ tới họ Nguyễn ở Gia Miêu.
Giả thuyết về họ Nguyễn Gia Miêu và họ Nguyễn Chi Ngại (hay Nhị Khê) cùng có tổ là Nguyễn Bặc vẫn còn những nghi vấn:
Truyền thuyết họ Nguyễn ở Chi Ngại quá xa, chưa hoàn toàn có tính xác thực để kết luận Nguyễn Trãi là dòng dõi Nguyễn Bặc.
Khoảng cách quá xa của các thế thứ họ Nguyễn khiến về vấn đề "dòng họ Nguyễn Gia Miêu là con cháu Nguyễn Bặc" còn những nghi vấn. Chính sử sách nhà Nguyễn không xác nhận họ Nguyễn Gia Miêu là con cháu Nguyễn Bặc. (Xem bài: Nguyễn Bặc, Nguyễn Nộn.)
[sửa]Các tác phẩm văn thơ
Nguyễn Trãi để lại rất nhiều trước tác, cả bằng Hán văn và bằng chữ Nôm, song đã bị thất lạc sau Vụ án Lệ Chi Viên. Ông là một trong những tác giả thơ Nôm lớn của Việt Nam thời phong kiến, điển hình là tác phẩm Quốc âm thi tập.
Được biết đến nhiều nhất là Bình Ngô đại cáo được viết sau khi nghĩa quân Lam Sơn giành thắng lợi trong cuộc chiến chống quân Minh kéo dài 10 năm (1418–1427). Tác phẩm này đã thể hiện rõ ý chí độc lập, tự cường của dân tộc Việt cũng như việc lấy dân làm gốc với những câu như:
Dục Thúy Sơn (Ninh Bình)-Ngọn núi trong bài thơ cùng tên của Nguyễn Trãi
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
(trích theo bản dịch của Ngô Tất Tố)
Bình Ngô đại cáo được người đương thời rất thán phục, coi là "thiên cổ hùng văn".
Ngoài ra ông còn để lại nhiều tác phẩm khác như Quốc âm thi tập, Ức Trai thi tập, Quân trung từ mệnh tập, Dư địa chí, Lam Sơn thực lục, Phú núi Chí Linh, Lam Sơn Vĩnh lăng thần đạo bi, Ngọc Đường di cảo.
Tác phẩm Gia huấn ca được người đời truyền tụng và cho là của ông, nhưng hiện vẫn chưa có chứng cứ lịch sử xác đáng. Tác phẩm Quốc âm thi tập là tác phẩm viết bằng chữ Nôm đánh dấu sự phát triển mới của văn học Việt Nam
Cổ thư Bình Ngô Đại Cáo - Nguyễn Trãi
Cổ thư Bình Ngô Đại Cáo - Nguyễn Trãi
Bình Ngô đại cáo: nếu dịch sát nghĩa thì là Báo cáo rộng khắp về việc dẹp yên giặc Ngô. Tháng giêng năm 1428, nước Việt đã hoàn toàn chiến thắng giặc Minh. Lê Lợi lên ngôi vua và cử Nguyễn Trãi viết bài cáo này để báo cho toàn dân biết về sự nghiệp kháng chiến thành công của nghĩa quân Lam Sơn và nêu cao khát vọng xây dựng đất nước ḥa binh thịnh trị. Bài đại cáo này đã được người xưa mệnh danh là "thiên cổ hùng văn" (hùng văn muôn thuở ), người nay coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai (sau bài thơ Nam Quốc Sơn Hà) của dân tộc.
Bài đại cáo được viết theo thể cáo là một thể văn hành chính thường dùng cho nhà vua để phổ biến những điều quan trọng trước toàn dân. Ở đây, Nguyễn Trãi đã viết bài cáo theo lối văn biền ngẫu, tức mỗi câu thường có hai vè đối nhau theo phép đối nhưng không có vần.
Bình Ngô Đại Cáo
Nguyễn Trãi
Ngô Tất Tố dịch
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cứ còn ghi.
Vưà rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa ?
Nặng nề những nổi phu phen tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi !
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha;
Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng,
Miịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng,
Vội vã hơn cứu người chết đói.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà,
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạọ
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng quuân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong,
Giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất,
Ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn
Nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính
Lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay ! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê Hoa,
Quân Vân Nam nghi ngờ
Khiếp vía mà vỡ mật
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm,
Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau
Chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông,
Nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành đan Xá, thây chất thành núi,
Cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi ! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
Bình Ngô đại cáo: nếu dịch sát nghĩa thì là Báo cáo rộng khắp về việc dẹp yên giặc Ngô. Tháng giêng năm 1428, nước Việt đã hoàn toàn chiến thắng giặc Minh. Lê Lợi lên ngôi vua và cử Nguyễn Trãi viết bài cáo này để báo cho toàn dân biết về sự nghiệp kháng chiến thành công của nghĩa quân Lam Sơn và nêu cao khát vọng xây dựng đất nước ḥa binh thịnh trị. Bài đại cáo này đã được người xưa mệnh danh là "thiên cổ hùng văn" (hùng văn muôn thuở ), người nay coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai (sau bài thơ Nam Quốc Sơn Hà) của dân tộc.
Bài đại cáo được viết theo thể cáo là một thể văn hành chính thường dùng cho nhà vua để phổ biến những điều quan trọng trước toàn dân. Ở đây, Nguyễn Trãi đã viết bài cáo theo lối văn biền ngẫu, tức mỗi câu thường có hai vè đối nhau theo phép đối nhưng không có vần.
Bình Ngô Đại Cáo
Nguyễn Trãi
Ngô Tất Tố dịch
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cứ còn ghi.
Vưà rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa ?
Nặng nề những nổi phu phen tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi !
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha;
Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng,
Miịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng,
Vội vã hơn cứu người chết đói.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà,
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạọ
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng quuân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong,
Giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất,
Ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn
Nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính
Lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay ! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê Hoa,
Quân Vân Nam nghi ngờ
Khiếp vía mà vỡ mật
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm,
Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau
Chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông,
Nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành đan Xá, thây chất thành núi,
Cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi ! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
Ghi lại trên bia đá Văn Miếu Trấn Biên
Ghi lại trên bia đá Văn Miếu Trấn Biên
KS Doãn Mạnh Dũng
Tôi được sinh ra ở chiến khu Đ khi ba theo Việt Minh, còn má theo ba vì phận gái phải theo chồng. Dân chiến khu Đ xưa giúp má tôi cái lều giữa rừng ven bờ sông Đồng Nai để sinh nở và cho tôi ra đời. Thi thoảng tôi quay về chiến khu Đ thăm lại bà con đã giúp nuôi sống tôi qua những ngày khói lửa. Ông Ba năm nay đã trên 90 tuổi, ở huyện Vĩnh Cửu, xưa gọi là huyện Tân Uyên. Cứ gặp tôi, ông Ba lại kể về những ngày đi bảo vệ cho ba tôi. Ông Ba vẫn sống giản dị và khó khăn. Bà con thì còn nhiều lận đận lắm. Thôi chuyện làm ăn thì cần có thời. Ta miễn nói. Nhưng cứ nghĩ đến cái Nhà máy luyện nhôm Tân Rai và Nhơn Cơ lại buồn cho số phận dân quê mình.
Dù mấy chả có xây dựng kiểu gì thì hố bùn đỏ cứ ngày càng lớn. Rồi một ngày nào đó tất yếu sẽ đến. Có thể do thiên tai, có thể cái thằng khùng mắc dịch nào đó nó phá thì bà con mình chắc chắn là tiêu. Các tỉnh miền Đông Nam Bộ đều ăn nước dòng Đồng Nai thì lấy đường nào mà sống!
Hôm họp các đại biểu của đất Sài Gòn xưa, chờ mãi không thấy ai lên tiếng chuyện hai cái Nhà máy đó. Rồi hôm nay 20/10/2010, Quốc hội họp. Nghe cái giọng Nam Bộ trình với Quốc hội nguyện vọng của dân. Ngồi chờ mãi cũng không thấy nhắc một lần đến hai cái Nhà máy sản xuất bùn đỏ trên thượng nguồn sông Đồng Nai.
Thôi hết hy vọng rồi. Bây giờ chỉ còn mỗi cách là về Văn Miếu Trấn Biên ghi rõ vào bia đá:
“Năm Canh Dần, 2010, mấy quan có quyền nhưng vì cái ăn, cái mặc của bản thân, gia đình và dòng họ, nên đã im lặng chấp nhận cho việc sản xuất bùn đỏ trên đầu nguồn sông Đồng Nai. Dù rằng họ biết khi bùn đỏ tràn xuống hạ lưu, Văn miếu Trấn Biên sẽ hoang tàn vì người người phải di tản. Xin tổ tiên thứ lỗi cho dân đen bất tài, bất lực không thể can ngăn!”
D. M. D.
Nguồn: Kinhtebien
KS Doãn Mạnh Dũng
Tôi được sinh ra ở chiến khu Đ khi ba theo Việt Minh, còn má theo ba vì phận gái phải theo chồng. Dân chiến khu Đ xưa giúp má tôi cái lều giữa rừng ven bờ sông Đồng Nai để sinh nở và cho tôi ra đời. Thi thoảng tôi quay về chiến khu Đ thăm lại bà con đã giúp nuôi sống tôi qua những ngày khói lửa. Ông Ba năm nay đã trên 90 tuổi, ở huyện Vĩnh Cửu, xưa gọi là huyện Tân Uyên. Cứ gặp tôi, ông Ba lại kể về những ngày đi bảo vệ cho ba tôi. Ông Ba vẫn sống giản dị và khó khăn. Bà con thì còn nhiều lận đận lắm. Thôi chuyện làm ăn thì cần có thời. Ta miễn nói. Nhưng cứ nghĩ đến cái Nhà máy luyện nhôm Tân Rai và Nhơn Cơ lại buồn cho số phận dân quê mình.
Dù mấy chả có xây dựng kiểu gì thì hố bùn đỏ cứ ngày càng lớn. Rồi một ngày nào đó tất yếu sẽ đến. Có thể do thiên tai, có thể cái thằng khùng mắc dịch nào đó nó phá thì bà con mình chắc chắn là tiêu. Các tỉnh miền Đông Nam Bộ đều ăn nước dòng Đồng Nai thì lấy đường nào mà sống!
Hôm họp các đại biểu của đất Sài Gòn xưa, chờ mãi không thấy ai lên tiếng chuyện hai cái Nhà máy đó. Rồi hôm nay 20/10/2010, Quốc hội họp. Nghe cái giọng Nam Bộ trình với Quốc hội nguyện vọng của dân. Ngồi chờ mãi cũng không thấy nhắc một lần đến hai cái Nhà máy sản xuất bùn đỏ trên thượng nguồn sông Đồng Nai.
Thôi hết hy vọng rồi. Bây giờ chỉ còn mỗi cách là về Văn Miếu Trấn Biên ghi rõ vào bia đá:
“Năm Canh Dần, 2010, mấy quan có quyền nhưng vì cái ăn, cái mặc của bản thân, gia đình và dòng họ, nên đã im lặng chấp nhận cho việc sản xuất bùn đỏ trên đầu nguồn sông Đồng Nai. Dù rằng họ biết khi bùn đỏ tràn xuống hạ lưu, Văn miếu Trấn Biên sẽ hoang tàn vì người người phải di tản. Xin tổ tiên thứ lỗi cho dân đen bất tài, bất lực không thể can ngăn!”
D. M. D.
Nguồn: Kinhtebien
Vụ Vinashin: Không lẽ không dám kỷ luật ai?
“Vụ Vinashin: Không lẽ không dám kỷ luật ai?”
Lê Nhung - Lan Anh - Thủy Chung
inashin nợ không phải 86 ngàn tỷ, mà là 120 ngàn tỷ! Đó có phải là con số cuối cùng hay không? Đến mức này mà đại biểu Quốc hội có người vẫn dè dặt nói “Không lẽ không dám kỷ luật ai?”, vẫn dè dặt khuyên như một vấn đề đạo đức: "Tôi cho rằng những cá nhân liên quan đến vụ việc này phải từ chức. Đây có lẽ là một cơ hội để thể hiện văn hoá từ chức". Không! Trước hết phải nhìn nhận vấn đề ở góc độ pháp lý. Lẽ ra, là cơ quan quyền lực cao nhất, Quốc hội phải ngay tức khắc nhóm họp để thảo luận về việc bất tín nhiệm Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng. Ở Đan Mạch, một lô dâu tây tung ra thị trường làm người dân ngộ độc, đã đủ buộc Bộ trưởng Thực phẩm phải từ chức cơ mà!
Bauxite Việt Nam
Thảo luận tại tổ về kinh tế - xã hội sáng nay (22/10), Phó Ban Tuyên giáo Trung ương Trần Văn Hằng đặt câu hỏi: "Quan trọng nhất là tiếp sau Vinashin sẽ là ai?". Một số ĐBQH khác cho đây là cơ hội "thể hiện văn hóa từ chức".
Sai phạm ở Vinashin đã được một số đại biểu Quốc hội ở nhiều tổ nêu ra như một dẫn chứng cho những tồn tại trong quản lý kinh tế, yếu kém ở khu vực DNNN mà các báo cáo lâu nay mới chỉ nói theo kiểu chung chung "có nơi, có chỗ".
"Việc gì cũng giao hết lên Thủ tướng thì vất vả quá"
Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng - An ninh Lê Quang Bình nhẹ nhàng dẫn bài học về thể chế dân chủ và bầu cử ở Đan Mạch mà vừa rồi QH cử cán bộ sang nghiên cứu.
Đại biểu QH tổ Thái Bình, Bà Rịa – Vũng Tàu tiếp tục thảo luận thêm ở hành lang. Ảnh: Lê Nhung
Rằng, mỗi việc đều được giao cho một người chịu trách nhiệm.
Ông Bình kể, có 1 lô dâu tây tung ra thị trường. Người dân ăn và bị ngộ độc. Chuyện được cử tri phản ánh đến tai đại biểu và họ đã đem chất vấn Bộ trưởng Thực phẩm về trách nhiệm quản lý.
Phiên chất vấn dẫn đến một tình huống là Quốc hội ngày hôm sau có thể sẽ bỏ phiếu bất tín nhiệm ông bộ trưởng.
Để giữ uy tín cho đảng cầm quyền và cho QH nên ngay đêm hôm đó, ông Bộ trưởng đã làm đơn xin từ chức trước.
Cầm trên tay báo cáo Chính phủ về Vinashin, Viện trưởng VKSND tỉnh Nguyễn Bá Thuyền cũng nói thẳng: "Tôi cho rằng những cá nhân liên quan đến vụ việc này phải từ chức. Đây có lẽ là một cơ hội để thể hiện văn hoá từ chức".
Chính những thông tin trong báo cáo về việc "Chính phủ nhiều lần thanh tra", rằng "mọi quyền lực tập trung vào lãnh đạo tập đoàn, đang ngày càng trở nên gia trưởng, độc đoán" cũng đã dấy lên tranh luận trong nhiều tổ QH về xác định trách nhiệm cá nhân để ngăn ngừa những "Vinashin" tương tự.
Nói như Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Lê Quốc Dung: "Vinashin phá sản rồi. Chẳng qua không ai thừa nhận". Đáng quan ngại là không rõ ai chịu trách nhiệm quản lý chính.
Nói như Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản Tạ Ngọc Tấn, nếu việc gì cũng giao hết quyền lên cho Thủ tướng thì "vất vả cho Thủ tướng quá".
ĐBQH Hà Minh Huệ bổ sung: "Những cá nhân sai phạm phải được xử lý trách nhiệm rõ, như các nước vẫn có văn hoá từ chức. Còn ở ta, có nhiều vụ việc đụng đến rồi cũng chưa chắc đã nhận trách nhiệm ngay".
Không lẽ không dám kỷ luật ai?
Tính nghiêm trọng của câu chuyện được làm rõ thêm khi nguyên Bí thư Nghệ An Trần Văn Hằng đưa ra con số, trận lũ lụt chưa từng có trong lịch sử Hà Tĩnh và Quảng Bình đã xóa sổ 20 xã, thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng. Tương đương với "xóa sổ" cả một tỉnh.
Vậy nhưng, so với thiệt hại 86 nghìn tỷ đồng mà Vinashin gây ra thì chưa thấm vào đâu.
Bộ trưởng Võ Hồng Phúc: Ủy ban Kiểm tra TƯ đã kiểm điểm trách nhiệm của chúng tôi là không kiên trì bảo vệ quan điểm đến cùng. Ảnh: LAD
Đáng lo ngại là dù Chính phủ lập nhiều đoàn thanh tra mà rồi "chỉ mỗi báo cáo của Bộ KH&ĐT là lên đến Ủy ban Kiểm tra TƯ", còn lại báo cáo của thanh tra các bộ ngành đều nằm gọn trong ngăn bàn các bộ chứ không lên được đến "trên".
Ông Hằng đặt câu hỏi: "Quan trọng nhất là sau đây xử lý thế nào? Tiếp sau Vinashin sẽ là ai?".
Ở tổ Thanh Hóa, ông Lê Quang Bình nêu vấn đề, với các bộ được cho là "phát hiện sai phạm" và đã gửi ý kiến, nhưng lại không chịu bảo vệ đến cùng những cảnh báo nhìn thấy trước thì cũng phải chịu trách nhiệm.
Bộ trưởng Kế hoạch - Đầu tư Võ Hồng Phúc "thanh minh" ngay: "Bộ Kế hoạch - Đầu tư có chức năng tham mưu Chính phủ về quy hoạch, kế hoạch phát triển. Ủy ban Kiểm tra TƯ cũng đã kiểm điểm trách nhiệm của chúng tôi là không kiên trì bảo vệ quan điểm đến cùng". Câu trả lời của ông Phúc tiếp tục được các ĐBQH trong tổ bình luận.
Quốc hội cũng có phần trách nhiệm
Ở đoàn Thanh Hoá, sau khi chia sẻ những quan ngại về chuyện bùn đỏ, về biển đảo, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng An ninh Lê Quang Bình day dứt: "Từ lâu, ĐBQH chất vấn nhiều, cũng quyết liệt, rồi dư luận nói không phải ít nhưng hầu như những người có trách nhiệm bỏ ngoài tai. 11 cuộc thanh tra kiểm toán giám sát nhưng chỉ phát hiện cái "râu ria" nhẹ nhàng".
Đặt câu hỏi đầu tiên là về trách nhiệm Quốc hội, vì theo ông Bình, khi Quốc hội đi giám sát sử dụng vốn ở doanh nghiệp mà vẫn kết luận là không có gì, chỉ đưa lên để chất vấn.
Ông Bình băn khoăn, chính Thủ tướng phát hiện nhiều vấn đề, nêu ý kiến chấn chỉnh, thậm chí không cho mua tàu Hoa sen nhưng dưới tổng công ty cứ thực hiện. Nhưng kết quả cuối cùng, không ai bị xử lý cả.
"Pháp lệnh cán bộ, công chức cũ quy định rằng người nào, cấp nào có thẩm quyền đề bạt bổ nhiệm cũng có quyền cho thôi chức, kỉ luật. Thủ tướng đã có quyền đề bạt bổ nhiệm Tổng giám đốc, Chủ tịch Hội đồng quản trị thì tại sao ra lệnh, họ không chấp hành mà cũng không kỷ luật?", ông Bình nói.
Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng - An ninh trăn trở, trong quân đội, không chấp hành mệnh lệnh là chỉ huy cách chức ngay.
Theo ông Bình, những việc trên đã gây bức xúc lo lắng trong nhân dân.
Chính phủ cũng thừa nhận, tồn tại lớn nhất hiện nay là tổ chức sắp xếp lại DNNN, đặc biệt là cổ phẩn hóa DNNN là triển khai chậm. Từ chuyện Vinashin, mong Chính phủ tổng kết sâu sắc rút kinh nghiệm, điều gì thuộc về chính sách, cơ chế, Quốc hội thì Chính phủ phải đề nghị Quốc hội lấp lỗ hổng bằng pháp luật. Điều nào thuộc cầm quyền của Chính phủ thì phải tự bịt lỗ hổng.
Theo báo cáo của Chính phủ, thất thoát, nợ nần của Vinashin là 86 ngàn tỉ nhưng tôi được biết sau khi Ủy ban Kiểm tra TƯ tuyên bố kết quả kiểm tra thì các ngân hàng cho Tập đoàn vay đã gửi phiếu đòi tập hợp lại khoảng 120 ngàn tỉ. Tôi muốn hỏi Chính phủ con số đó chính xác không?" (Ông Lê Quang Bình)
L. N. – L. A. – T. C.
Nguồn: Vietnamnet
Lê Nhung - Lan Anh - Thủy Chung
inashin nợ không phải 86 ngàn tỷ, mà là 120 ngàn tỷ! Đó có phải là con số cuối cùng hay không? Đến mức này mà đại biểu Quốc hội có người vẫn dè dặt nói “Không lẽ không dám kỷ luật ai?”, vẫn dè dặt khuyên như một vấn đề đạo đức: "Tôi cho rằng những cá nhân liên quan đến vụ việc này phải từ chức. Đây có lẽ là một cơ hội để thể hiện văn hoá từ chức". Không! Trước hết phải nhìn nhận vấn đề ở góc độ pháp lý. Lẽ ra, là cơ quan quyền lực cao nhất, Quốc hội phải ngay tức khắc nhóm họp để thảo luận về việc bất tín nhiệm Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng. Ở Đan Mạch, một lô dâu tây tung ra thị trường làm người dân ngộ độc, đã đủ buộc Bộ trưởng Thực phẩm phải từ chức cơ mà!
Bauxite Việt Nam
Thảo luận tại tổ về kinh tế - xã hội sáng nay (22/10), Phó Ban Tuyên giáo Trung ương Trần Văn Hằng đặt câu hỏi: "Quan trọng nhất là tiếp sau Vinashin sẽ là ai?". Một số ĐBQH khác cho đây là cơ hội "thể hiện văn hóa từ chức".
Sai phạm ở Vinashin đã được một số đại biểu Quốc hội ở nhiều tổ nêu ra như một dẫn chứng cho những tồn tại trong quản lý kinh tế, yếu kém ở khu vực DNNN mà các báo cáo lâu nay mới chỉ nói theo kiểu chung chung "có nơi, có chỗ".
"Việc gì cũng giao hết lên Thủ tướng thì vất vả quá"
Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng - An ninh Lê Quang Bình nhẹ nhàng dẫn bài học về thể chế dân chủ và bầu cử ở Đan Mạch mà vừa rồi QH cử cán bộ sang nghiên cứu.
Đại biểu QH tổ Thái Bình, Bà Rịa – Vũng Tàu tiếp tục thảo luận thêm ở hành lang. Ảnh: Lê Nhung
Rằng, mỗi việc đều được giao cho một người chịu trách nhiệm.
Ông Bình kể, có 1 lô dâu tây tung ra thị trường. Người dân ăn và bị ngộ độc. Chuyện được cử tri phản ánh đến tai đại biểu và họ đã đem chất vấn Bộ trưởng Thực phẩm về trách nhiệm quản lý.
Phiên chất vấn dẫn đến một tình huống là Quốc hội ngày hôm sau có thể sẽ bỏ phiếu bất tín nhiệm ông bộ trưởng.
Để giữ uy tín cho đảng cầm quyền và cho QH nên ngay đêm hôm đó, ông Bộ trưởng đã làm đơn xin từ chức trước.
Cầm trên tay báo cáo Chính phủ về Vinashin, Viện trưởng VKSND tỉnh Nguyễn Bá Thuyền cũng nói thẳng: "Tôi cho rằng những cá nhân liên quan đến vụ việc này phải từ chức. Đây có lẽ là một cơ hội để thể hiện văn hoá từ chức".
Chính những thông tin trong báo cáo về việc "Chính phủ nhiều lần thanh tra", rằng "mọi quyền lực tập trung vào lãnh đạo tập đoàn, đang ngày càng trở nên gia trưởng, độc đoán" cũng đã dấy lên tranh luận trong nhiều tổ QH về xác định trách nhiệm cá nhân để ngăn ngừa những "Vinashin" tương tự.
Nói như Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Lê Quốc Dung: "Vinashin phá sản rồi. Chẳng qua không ai thừa nhận". Đáng quan ngại là không rõ ai chịu trách nhiệm quản lý chính.
Nói như Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản Tạ Ngọc Tấn, nếu việc gì cũng giao hết quyền lên cho Thủ tướng thì "vất vả cho Thủ tướng quá".
ĐBQH Hà Minh Huệ bổ sung: "Những cá nhân sai phạm phải được xử lý trách nhiệm rõ, như các nước vẫn có văn hoá từ chức. Còn ở ta, có nhiều vụ việc đụng đến rồi cũng chưa chắc đã nhận trách nhiệm ngay".
Không lẽ không dám kỷ luật ai?
Tính nghiêm trọng của câu chuyện được làm rõ thêm khi nguyên Bí thư Nghệ An Trần Văn Hằng đưa ra con số, trận lũ lụt chưa từng có trong lịch sử Hà Tĩnh và Quảng Bình đã xóa sổ 20 xã, thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng. Tương đương với "xóa sổ" cả một tỉnh.
Vậy nhưng, so với thiệt hại 86 nghìn tỷ đồng mà Vinashin gây ra thì chưa thấm vào đâu.
Bộ trưởng Võ Hồng Phúc: Ủy ban Kiểm tra TƯ đã kiểm điểm trách nhiệm của chúng tôi là không kiên trì bảo vệ quan điểm đến cùng. Ảnh: LAD
Đáng lo ngại là dù Chính phủ lập nhiều đoàn thanh tra mà rồi "chỉ mỗi báo cáo của Bộ KH&ĐT là lên đến Ủy ban Kiểm tra TƯ", còn lại báo cáo của thanh tra các bộ ngành đều nằm gọn trong ngăn bàn các bộ chứ không lên được đến "trên".
Ông Hằng đặt câu hỏi: "Quan trọng nhất là sau đây xử lý thế nào? Tiếp sau Vinashin sẽ là ai?".
Ở tổ Thanh Hóa, ông Lê Quang Bình nêu vấn đề, với các bộ được cho là "phát hiện sai phạm" và đã gửi ý kiến, nhưng lại không chịu bảo vệ đến cùng những cảnh báo nhìn thấy trước thì cũng phải chịu trách nhiệm.
Bộ trưởng Kế hoạch - Đầu tư Võ Hồng Phúc "thanh minh" ngay: "Bộ Kế hoạch - Đầu tư có chức năng tham mưu Chính phủ về quy hoạch, kế hoạch phát triển. Ủy ban Kiểm tra TƯ cũng đã kiểm điểm trách nhiệm của chúng tôi là không kiên trì bảo vệ quan điểm đến cùng". Câu trả lời của ông Phúc tiếp tục được các ĐBQH trong tổ bình luận.
Quốc hội cũng có phần trách nhiệm
Ở đoàn Thanh Hoá, sau khi chia sẻ những quan ngại về chuyện bùn đỏ, về biển đảo, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng An ninh Lê Quang Bình day dứt: "Từ lâu, ĐBQH chất vấn nhiều, cũng quyết liệt, rồi dư luận nói không phải ít nhưng hầu như những người có trách nhiệm bỏ ngoài tai. 11 cuộc thanh tra kiểm toán giám sát nhưng chỉ phát hiện cái "râu ria" nhẹ nhàng".
Đặt câu hỏi đầu tiên là về trách nhiệm Quốc hội, vì theo ông Bình, khi Quốc hội đi giám sát sử dụng vốn ở doanh nghiệp mà vẫn kết luận là không có gì, chỉ đưa lên để chất vấn.
Ông Bình băn khoăn, chính Thủ tướng phát hiện nhiều vấn đề, nêu ý kiến chấn chỉnh, thậm chí không cho mua tàu Hoa sen nhưng dưới tổng công ty cứ thực hiện. Nhưng kết quả cuối cùng, không ai bị xử lý cả.
"Pháp lệnh cán bộ, công chức cũ quy định rằng người nào, cấp nào có thẩm quyền đề bạt bổ nhiệm cũng có quyền cho thôi chức, kỉ luật. Thủ tướng đã có quyền đề bạt bổ nhiệm Tổng giám đốc, Chủ tịch Hội đồng quản trị thì tại sao ra lệnh, họ không chấp hành mà cũng không kỷ luật?", ông Bình nói.
Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng - An ninh trăn trở, trong quân đội, không chấp hành mệnh lệnh là chỉ huy cách chức ngay.
Theo ông Bình, những việc trên đã gây bức xúc lo lắng trong nhân dân.
Chính phủ cũng thừa nhận, tồn tại lớn nhất hiện nay là tổ chức sắp xếp lại DNNN, đặc biệt là cổ phẩn hóa DNNN là triển khai chậm. Từ chuyện Vinashin, mong Chính phủ tổng kết sâu sắc rút kinh nghiệm, điều gì thuộc về chính sách, cơ chế, Quốc hội thì Chính phủ phải đề nghị Quốc hội lấp lỗ hổng bằng pháp luật. Điều nào thuộc cầm quyền của Chính phủ thì phải tự bịt lỗ hổng.
Theo báo cáo của Chính phủ, thất thoát, nợ nần của Vinashin là 86 ngàn tỉ nhưng tôi được biết sau khi Ủy ban Kiểm tra TƯ tuyên bố kết quả kiểm tra thì các ngân hàng cho Tập đoàn vay đã gửi phiếu đòi tập hợp lại khoảng 120 ngàn tỉ. Tôi muốn hỏi Chính phủ con số đó chính xác không?" (Ông Lê Quang Bình)
L. N. – L. A. – T. C.
Nguồn: Vietnamnet
Đọc lại Hịch tướng sĩ của đức thánh Trần
Đọc lại Hịch tướng sĩ của đức thánh Trần
Dương Danh Dy
Hưng Đạo đại vương Trần Hưng Đạo, người mà sau ngày Ngài mất (20 tháng tám âm lịch năm 1300) nhân dân ta từ già tới trẻ đều tôn xưng là đức thánh Trần vì những công lao bất diệt của Ngài trong việc lãnh đạo quân dân ta hai lần đánh bại giặc Nguyên Mông, trong đó có chiến công Bạch Đằng giang vĩ đại và bản Hịch tướng sĩ bất hủ.
Tôi đã được nghe mẹ tôi đọc cho nghe Hịch tướng sĩ từ khi chưa biết chữ và sau này được thầy Trần Bá Tuyền, một thày giáo dạy Văn hiếm có, giảng giải bài này. Nói hiếm có bởi vì mỗi bài giảng văn của thầy Tuyền như truyền cho lớp học sinh kháng chiến chúng tôi thời đó, không chỉ lòng yêu nước, yêu dân tộc mà còn cả lòng yêu cái đẹp, yêu những tinh hoa của nhân loại… Bài Hịch tướng sĩ mà thầy giảng dạy đã ghi trong tôi một dấu ấn không phai mờ, đến nỗi hơn sáu mươi năm rồi và đã ở độ tuổi U80 mà tôi vẫn thuộc nhiều câu trong bài hịch. Có lẽ vì lẽ đó mà tôi ít đọc lại bài này.
Thế nhưng không biết vì sao trong mấy ngày bồn chồn mong ngóng 9 ngư dân Lý Sơn bị phía Trung Quốc bắt giữ, đã phản đối, đã thả nhưng chưa về nước được với ngàn lý do càng nghe càng thấy chối tai, tôi đã giở Hịch Tướng sĩ của đức thánh Trần ra đọc lại. Và chẳng hiểu tại sao, tôi bỗng nghe ra: đó chính là tiếng nói của Ngài đối với mọi người Việt Nam ngày nay và trên hết là với những cán bộ lãnh đạo các cấp.
Ta hãy nghe Ngài phân tích tình hình thời đại và nói về thái độ quân giặc: “Huống chi ta cùng các ngươi sinh ở thời nhiễu nhương, gặp phải buổi gian nan này… thấy sứ giặc đi lại rầm rập ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà xỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ…” Xin hỏi chuyện xảy ra hơn 700 trăm năm trước mà có khác gì bây giờ không?
Xin lắng nghe những điều ngài nói với tướng sĩ dưới quyền: “Nay các ngươi thấy chủ nhục mà không biết lo, trông thấy quốc sỉ mà không biết nhục, thân làm tướng phải hầu giặc mà không biết tức; tai nghe nhạc để hiến sứ ngụy mà không biết căm; hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển hoặc vui thú về ruộng vườn hoặc quyến luyến về vợ con, hoặc nghĩ về lợi riêng mà quên việc nước, hoặc ham mê về săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát.” Và ngài cảnh báo: “Nếu có giặc đến thì cựa gà trống sao đâm thủng áo giáp giặc, mẹo cờ bạc sao sao dùng nổi cho việc quân mưu… chén rượu ngon không làm giặc say chết, tiếng hát hay không làm giặc điếc tai…” Xin hỏi tình hình đội ngũ cán bộ ta hiện nay có khác hạ thuộc của Ngài hơn 700 năm trước không?Xin hỏi nguy cơ đặt trước tổ quốc chúng ta bây giờ có khác nguy cơ hơn 700 năm trước của Ngài không?
Ngày 19 tháng 10 năm 2010
D. D. D.
Ta thường nghe: Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Ðế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước. Kính Ðức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có? Ví thử mấy người đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình thì cũng đến chết hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách cùng trời đất muôn đời bất hủ được?
Các ngươi vốn dòng võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi việc đời trước hẵng tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên mà nói: Vương Công Kiên là người thế nào? Nguyễn Văn Lập, tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà đem thành Ðiếu Ngư nhỏ tày cái đấu đương đầu với quân Mông Kha đường đường trăm vạn, khiến cho sinh linh nhà Tống đến nay còn đội ơn sâu! Cốt Ðãi Ngột Lang là người thế nào? Xích Tu Tư tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà xông vào chốn lam chướng xa xôi muôn dặm đánh quỵ quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt!
Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau.
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.
Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Ði thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá, nào có kém gì?
Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng?
Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ làm nguy; nên lấy điều kiềng canh nóng mà thổi rau nguội làm sợ. Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông, mọi người đều tài như Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhaị Như thế chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng; chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng có được không?
Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù.
Vì sao vậy? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc, để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa?
Cho nên ta viết bài hịch này để các ngươi hiểu rõ bụng ta."
Chú thích
• Kỷ Tín: tướng của Hán Cao Tổ Lưu Bang. Khi Lưu Bang bị Hạng Vũ vây ở Huỳnh Dương, Kỷ Tín giả làm Hán Cao Tổ ra hàng, bị Hạng Vũ thiêu chết. Hán Cao Tổ nhờ thế mới thoát được.
• Do Vu: tướng của Sở Chiêu Vương thời Xuân Thu. Theo Tả Truyện, Sở Chiêu Vương bị nước Ngô đánh phải lánh sang phương Ðông, một đêm bị cướp vây đánh. Do Vu đã chìa lưng ra đỡ giáo cho vua mình.
• Dự Nhượng: gia thần của Trí Bá thời Chiến Quốc. Trí Bá bị Triệu Tương Tử giết, Dự Nhượng bèn nuốt than cho khác giọng đi, giả làm hành khất, mưu giết Tương Tử để báo thù cho chủ.
• Thân Khoái: quan giữ ao cá của Tề Trang Công thời Xuân Thu. Trang Công bị Thôi Trữ giết, Thân Khoái bèn chết theo chủ.
• Kính Ðức: tức Uất Trì Cung đời Ðường. Khi Ðường Thái Tông (bấy giờ còn là Tần Vương Lý Thế Dân) bị Vương Thế Sung vây, ông đã lấy mình che chở, hộ vệ cho Thái Tông chạy thoát.
• Cảo Khanh: họ Nhan, một bề tôi trung của nhà Ðường. Khi An Lộc Sơn nổi loạn, đánh đuổi Ðường Huyền Tông và Dương Quý Phi, ông đã cả gan chưởi mắng An Lộc Sơn và bị cắt lưỡi.
• Vương Công Kiên: tướng tài nhà Tống, giữ Hợp Châu, lãnh đạo quân dân Tống cầm cự với quân Mông Cổ do Mông Kha chỉ huy ở núi Ðiếu Ngư suốt bốn tháng trời. Mông Kha cuối cùng bị loạn tên chết, quân Mông Cổ đành phải rút lui.
• Ðiếu Ngư: tên ngọn núi hiểm trở ở Tứ Xuyên, ba mặt nhìn xuống sông. Ðời Tống, Dư Giới đắp thành ở đó.
• Mông Kha: tức Mongka, anh của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, làm Ðại Hãn Mông Cổ từ năm 1251. Mông Kha trực tiếp chỉ huy cuộc viễn chinh sang Trung Quốc và các nước phía Ðông. Ông bị tử trận năm 1259 dưới chân thành Ðiếu Ngư trong cuộc vây hãm đội quân Tống do Vương Công Kiên chỉ huy.
• Cốt Ðãi Ngột Lang: tức Uriyangqadai, tướng giỏi của Mông Cổ, con của viên tướng nổi tiếng Subutai. Cốt Ðãi Ngột Lang nhận lệnh của Mông Kha, cùng Hốt Tất Liệt đánh chiếm nước Nam Chiếu. Cốt Ðãi Ngột Lang cũng là viên tướng chỉ huy đạo quân Mông Cổ xâm lược Ðại Việt lần thứ nhất (1258).
• Xích Tu Tư: chép Xích theo Hoàng Việt Văn Tuyển. Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư chép Cân. Hai chữ gần giống nhau, không biết quyển nào chép nhầm. Hiện nay, chưa có tài liệu nào nói gì về viên tướng này, và việc khôi phục lại tên Mông Cổ từ Hán tự cũng không phải là chuyện đơn giản.
• Nam Chiếu: nước nhỏ nằm ở khoảng giữa tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam ngày nay; thủ đô là Ðại Lý, thuộc Vân Nam.
• Hốt Tất Liệt: tức Qubilai, em ruột và là tướng của Mông Kha. Sau khi Mông Kha tử trận ở Ðiếu Ngư, Hốt Tất Liệt tự xưng làm Ðại Hãn ở Khai Bình, khiến xảy ra cuộc nội chiến tranh giành ngôi báu với em ruột là Ariq-Buka. Năm 1264, Ariq-Buka đầu hàng, Hốt Tất Liệt bèn dời đô về Yên Kinh (tức Bắc Kinh ngày nay), xưng Nguyên Thế Tổ, lập nên nhà Nguyên.
• Vân Nam Vương: tức Hugaci hay Thoát Hoan, con ruột Hốt Tất Liệt, được phong làm Vân Nam Vương năm 1267 với nhiệm vụ khống chế các dân tộc thiểu số vùng này cũng như mở rộng biên cương nhà Nguyên về phía Nam. Thoát Hoan là người chỉ huy quân Nguyên xâm lược Ðại Việt lần thứ hai năm 1285 và lần thứ ba năm 1287-1288.
• Nghìn thây ta bọc trong da ngựa: điển tích lấy từ câu nói của viên tướng khét tiếng Mã Viện đời Hán chép trong Hậu Hán Thư (Ðại trượng phu dương tử ư cương trường, dĩ mã cách khỏa thi nhĩ: Bậc đại trượng phu nên chết ở giữa chiến trường, lấy da ngựa mà bọc thây.)
• Thái thường: tên loại nhạc triều đình dùng trong những buổi tế lễ quan trọng ở tông miếu. Bấy giờ là thời kỳ ngoại giao căng thẳng giữa ta và quân Nguyên, trong những buổi yến tiệc tiếp sứ Nguyên, triều đình nhà Trần nhiều khi phải buộc dùng đến nhạc thái thường để mua vui cho sứ giả. Trần Quốc Tuấn xem đó là một điều nhục nhã.
• Thái ấp: phần đất vua Trần phong cho các vương hầu.
• Ðặt mồi lửa dưới đống củi nỏ: từ câu văn trong Hán Thư (phù bão hỏa, thố chi tích tân chi hạ nhi tẩm kỳ thượng, hỏa vị cập nhiên nhân vị chi an. Ôm mồi lửa, đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên, lửa chưa kịp cháy vẫn cho là yên.)
• Kiềng canh nóng mà thổi rau nguội: xuất xứ từ một câu văn trong Sở Từ trừng ư canh nhi xuy tê hề. Người bị bỏng vì canh nóng, trong lòng đã e sợ sẵn, dù gặp rau nguội đi nữa, cũng vẫn thổi như thường.
• Bàng Mông: danh tướng đời nhà Hạ, có tài bắn cung trăm phát trăm trúng.
• Hậu Nghệ: một nhân vật bắn cung giỏi nữa trong thần thoại Trung Quốc.
• Cảo Nhai: nơi trú ngụ của các vua chư hầu khi vào chầu vua Hán ở Trường An.
• Mãi mãi vững bền: nguyên văn chữ Hán là vĩnh vi thanh chiên. Sách Thế Thuyết chép chuyện Vương Tử Kính đêm nằm ngủ thấy bọn trộm vào nhà sạch sành sanh vét mọi vật. Ông từ tốn bảo chúng rằng: cái nệm xanh (thanh chiên) này là đồ cũ của nhà ta, các ngươi làm ơn để lại. Tác giả dùng điển tích này để chỉ những của cải được lưu truyền từ đời này sang đời khác.
• Binh Thư Yếu Lược: tức Binh Gia Diệu Lý Yếu Lược, nay đã thất truyền. Tác phẩm với đầu đề tương tự được lưu truyền hiện nay không phải là văn bản thực thụ, trong đó có vài đoạn chép các trận đánh thời Lê Nguyễn sau này.
• Dẹp yên nghịch tặc: nguyên văn chữ Hán là bình lỗ chi hậụ Các dịch giả Dương Quảng Hàm, Trần Trọng Kim đoán Bình Lỗ là tên đất ở đâu đó vùng Phù Lỗ thuộc tỉnh Vĩnh Phú ngày nay. Ở đây, chúng tôi theo Ngô Tất Tố và Phan Kế Bính dịch thoát là bình định nghịch tặc nói chung
Dương Danh Dy
Hưng Đạo đại vương Trần Hưng Đạo, người mà sau ngày Ngài mất (20 tháng tám âm lịch năm 1300) nhân dân ta từ già tới trẻ đều tôn xưng là đức thánh Trần vì những công lao bất diệt của Ngài trong việc lãnh đạo quân dân ta hai lần đánh bại giặc Nguyên Mông, trong đó có chiến công Bạch Đằng giang vĩ đại và bản Hịch tướng sĩ bất hủ.
Tôi đã được nghe mẹ tôi đọc cho nghe Hịch tướng sĩ từ khi chưa biết chữ và sau này được thầy Trần Bá Tuyền, một thày giáo dạy Văn hiếm có, giảng giải bài này. Nói hiếm có bởi vì mỗi bài giảng văn của thầy Tuyền như truyền cho lớp học sinh kháng chiến chúng tôi thời đó, không chỉ lòng yêu nước, yêu dân tộc mà còn cả lòng yêu cái đẹp, yêu những tinh hoa của nhân loại… Bài Hịch tướng sĩ mà thầy giảng dạy đã ghi trong tôi một dấu ấn không phai mờ, đến nỗi hơn sáu mươi năm rồi và đã ở độ tuổi U80 mà tôi vẫn thuộc nhiều câu trong bài hịch. Có lẽ vì lẽ đó mà tôi ít đọc lại bài này.
Thế nhưng không biết vì sao trong mấy ngày bồn chồn mong ngóng 9 ngư dân Lý Sơn bị phía Trung Quốc bắt giữ, đã phản đối, đã thả nhưng chưa về nước được với ngàn lý do càng nghe càng thấy chối tai, tôi đã giở Hịch Tướng sĩ của đức thánh Trần ra đọc lại. Và chẳng hiểu tại sao, tôi bỗng nghe ra: đó chính là tiếng nói của Ngài đối với mọi người Việt Nam ngày nay và trên hết là với những cán bộ lãnh đạo các cấp.
Ta hãy nghe Ngài phân tích tình hình thời đại và nói về thái độ quân giặc: “Huống chi ta cùng các ngươi sinh ở thời nhiễu nhương, gặp phải buổi gian nan này… thấy sứ giặc đi lại rầm rập ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà xỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ…” Xin hỏi chuyện xảy ra hơn 700 trăm năm trước mà có khác gì bây giờ không?
Xin lắng nghe những điều ngài nói với tướng sĩ dưới quyền: “Nay các ngươi thấy chủ nhục mà không biết lo, trông thấy quốc sỉ mà không biết nhục, thân làm tướng phải hầu giặc mà không biết tức; tai nghe nhạc để hiến sứ ngụy mà không biết căm; hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển hoặc vui thú về ruộng vườn hoặc quyến luyến về vợ con, hoặc nghĩ về lợi riêng mà quên việc nước, hoặc ham mê về săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát.” Và ngài cảnh báo: “Nếu có giặc đến thì cựa gà trống sao đâm thủng áo giáp giặc, mẹo cờ bạc sao sao dùng nổi cho việc quân mưu… chén rượu ngon không làm giặc say chết, tiếng hát hay không làm giặc điếc tai…” Xin hỏi tình hình đội ngũ cán bộ ta hiện nay có khác hạ thuộc của Ngài hơn 700 năm trước không?Xin hỏi nguy cơ đặt trước tổ quốc chúng ta bây giờ có khác nguy cơ hơn 700 năm trước của Ngài không?
Ngày 19 tháng 10 năm 2010
D. D. D.
Ta thường nghe: Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Ðế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước. Kính Ðức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có? Ví thử mấy người đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình thì cũng đến chết hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách cùng trời đất muôn đời bất hủ được?
Các ngươi vốn dòng võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi việc đời trước hẵng tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên mà nói: Vương Công Kiên là người thế nào? Nguyễn Văn Lập, tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà đem thành Ðiếu Ngư nhỏ tày cái đấu đương đầu với quân Mông Kha đường đường trăm vạn, khiến cho sinh linh nhà Tống đến nay còn đội ơn sâu! Cốt Ðãi Ngột Lang là người thế nào? Xích Tu Tư tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà xông vào chốn lam chướng xa xôi muôn dặm đánh quỵ quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt!
Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau.
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.
Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Ði thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá, nào có kém gì?
Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng?
Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ làm nguy; nên lấy điều kiềng canh nóng mà thổi rau nguội làm sợ. Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông, mọi người đều tài như Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhaị Như thế chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng; chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng có được không?
Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù.
Vì sao vậy? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc, để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa?
Cho nên ta viết bài hịch này để các ngươi hiểu rõ bụng ta."
Chú thích
• Kỷ Tín: tướng của Hán Cao Tổ Lưu Bang. Khi Lưu Bang bị Hạng Vũ vây ở Huỳnh Dương, Kỷ Tín giả làm Hán Cao Tổ ra hàng, bị Hạng Vũ thiêu chết. Hán Cao Tổ nhờ thế mới thoát được.
• Do Vu: tướng của Sở Chiêu Vương thời Xuân Thu. Theo Tả Truyện, Sở Chiêu Vương bị nước Ngô đánh phải lánh sang phương Ðông, một đêm bị cướp vây đánh. Do Vu đã chìa lưng ra đỡ giáo cho vua mình.
• Dự Nhượng: gia thần của Trí Bá thời Chiến Quốc. Trí Bá bị Triệu Tương Tử giết, Dự Nhượng bèn nuốt than cho khác giọng đi, giả làm hành khất, mưu giết Tương Tử để báo thù cho chủ.
• Thân Khoái: quan giữ ao cá của Tề Trang Công thời Xuân Thu. Trang Công bị Thôi Trữ giết, Thân Khoái bèn chết theo chủ.
• Kính Ðức: tức Uất Trì Cung đời Ðường. Khi Ðường Thái Tông (bấy giờ còn là Tần Vương Lý Thế Dân) bị Vương Thế Sung vây, ông đã lấy mình che chở, hộ vệ cho Thái Tông chạy thoát.
• Cảo Khanh: họ Nhan, một bề tôi trung của nhà Ðường. Khi An Lộc Sơn nổi loạn, đánh đuổi Ðường Huyền Tông và Dương Quý Phi, ông đã cả gan chưởi mắng An Lộc Sơn và bị cắt lưỡi.
• Vương Công Kiên: tướng tài nhà Tống, giữ Hợp Châu, lãnh đạo quân dân Tống cầm cự với quân Mông Cổ do Mông Kha chỉ huy ở núi Ðiếu Ngư suốt bốn tháng trời. Mông Kha cuối cùng bị loạn tên chết, quân Mông Cổ đành phải rút lui.
• Ðiếu Ngư: tên ngọn núi hiểm trở ở Tứ Xuyên, ba mặt nhìn xuống sông. Ðời Tống, Dư Giới đắp thành ở đó.
• Mông Kha: tức Mongka, anh của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, làm Ðại Hãn Mông Cổ từ năm 1251. Mông Kha trực tiếp chỉ huy cuộc viễn chinh sang Trung Quốc và các nước phía Ðông. Ông bị tử trận năm 1259 dưới chân thành Ðiếu Ngư trong cuộc vây hãm đội quân Tống do Vương Công Kiên chỉ huy.
• Cốt Ðãi Ngột Lang: tức Uriyangqadai, tướng giỏi của Mông Cổ, con của viên tướng nổi tiếng Subutai. Cốt Ðãi Ngột Lang nhận lệnh của Mông Kha, cùng Hốt Tất Liệt đánh chiếm nước Nam Chiếu. Cốt Ðãi Ngột Lang cũng là viên tướng chỉ huy đạo quân Mông Cổ xâm lược Ðại Việt lần thứ nhất (1258).
• Xích Tu Tư: chép Xích theo Hoàng Việt Văn Tuyển. Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư chép Cân. Hai chữ gần giống nhau, không biết quyển nào chép nhầm. Hiện nay, chưa có tài liệu nào nói gì về viên tướng này, và việc khôi phục lại tên Mông Cổ từ Hán tự cũng không phải là chuyện đơn giản.
• Nam Chiếu: nước nhỏ nằm ở khoảng giữa tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam ngày nay; thủ đô là Ðại Lý, thuộc Vân Nam.
• Hốt Tất Liệt: tức Qubilai, em ruột và là tướng của Mông Kha. Sau khi Mông Kha tử trận ở Ðiếu Ngư, Hốt Tất Liệt tự xưng làm Ðại Hãn ở Khai Bình, khiến xảy ra cuộc nội chiến tranh giành ngôi báu với em ruột là Ariq-Buka. Năm 1264, Ariq-Buka đầu hàng, Hốt Tất Liệt bèn dời đô về Yên Kinh (tức Bắc Kinh ngày nay), xưng Nguyên Thế Tổ, lập nên nhà Nguyên.
• Vân Nam Vương: tức Hugaci hay Thoát Hoan, con ruột Hốt Tất Liệt, được phong làm Vân Nam Vương năm 1267 với nhiệm vụ khống chế các dân tộc thiểu số vùng này cũng như mở rộng biên cương nhà Nguyên về phía Nam. Thoát Hoan là người chỉ huy quân Nguyên xâm lược Ðại Việt lần thứ hai năm 1285 và lần thứ ba năm 1287-1288.
• Nghìn thây ta bọc trong da ngựa: điển tích lấy từ câu nói của viên tướng khét tiếng Mã Viện đời Hán chép trong Hậu Hán Thư (Ðại trượng phu dương tử ư cương trường, dĩ mã cách khỏa thi nhĩ: Bậc đại trượng phu nên chết ở giữa chiến trường, lấy da ngựa mà bọc thây.)
• Thái thường: tên loại nhạc triều đình dùng trong những buổi tế lễ quan trọng ở tông miếu. Bấy giờ là thời kỳ ngoại giao căng thẳng giữa ta và quân Nguyên, trong những buổi yến tiệc tiếp sứ Nguyên, triều đình nhà Trần nhiều khi phải buộc dùng đến nhạc thái thường để mua vui cho sứ giả. Trần Quốc Tuấn xem đó là một điều nhục nhã.
• Thái ấp: phần đất vua Trần phong cho các vương hầu.
• Ðặt mồi lửa dưới đống củi nỏ: từ câu văn trong Hán Thư (phù bão hỏa, thố chi tích tân chi hạ nhi tẩm kỳ thượng, hỏa vị cập nhiên nhân vị chi an. Ôm mồi lửa, đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên, lửa chưa kịp cháy vẫn cho là yên.)
• Kiềng canh nóng mà thổi rau nguội: xuất xứ từ một câu văn trong Sở Từ trừng ư canh nhi xuy tê hề. Người bị bỏng vì canh nóng, trong lòng đã e sợ sẵn, dù gặp rau nguội đi nữa, cũng vẫn thổi như thường.
• Bàng Mông: danh tướng đời nhà Hạ, có tài bắn cung trăm phát trăm trúng.
• Hậu Nghệ: một nhân vật bắn cung giỏi nữa trong thần thoại Trung Quốc.
• Cảo Nhai: nơi trú ngụ của các vua chư hầu khi vào chầu vua Hán ở Trường An.
• Mãi mãi vững bền: nguyên văn chữ Hán là vĩnh vi thanh chiên. Sách Thế Thuyết chép chuyện Vương Tử Kính đêm nằm ngủ thấy bọn trộm vào nhà sạch sành sanh vét mọi vật. Ông từ tốn bảo chúng rằng: cái nệm xanh (thanh chiên) này là đồ cũ của nhà ta, các ngươi làm ơn để lại. Tác giả dùng điển tích này để chỉ những của cải được lưu truyền từ đời này sang đời khác.
• Binh Thư Yếu Lược: tức Binh Gia Diệu Lý Yếu Lược, nay đã thất truyền. Tác phẩm với đầu đề tương tự được lưu truyền hiện nay không phải là văn bản thực thụ, trong đó có vài đoạn chép các trận đánh thời Lê Nguyễn sau này.
• Dẹp yên nghịch tặc: nguyên văn chữ Hán là bình lỗ chi hậụ Các dịch giả Dương Quảng Hàm, Trần Trọng Kim đoán Bình Lỗ là tên đất ở đâu đó vùng Phù Lỗ thuộc tỉnh Vĩnh Phú ngày nay. Ở đây, chúng tôi theo Ngô Tất Tố và Phan Kế Bính dịch thoát là bình định nghịch tặc nói chung
Quốc Hội Họp Toàn Chuyện Tào Lao..............by Dân Báo
Quốc Hội Họp Toàn Chuyện Tào Lao
Posted on 23/10/2010 by Dân Báo
…Quốc hội kỳ này chỉ tòan bàn những chuyện tào lao. Còn những vấn đề bức xúc khác như an ninh của Tổ quốc, chuyện các tập đòan kinh tế nhà nước ăn hại đái nát, nguy cơ Bùn đỏ ở Tây Nguyên, quốc nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác v.v… thì không thấy ghi trong Nghị trình của Quốc hội trong kỳ họp này.
Quốc hội Việt Nam bắt đầu phiên họp thứ 8 dài 32 ngày, kể từ 20/10 (2008), nhưng xem ra họ tòan được Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng cho nghe những chuyện tào lao với những chữ vô nghĩa như :
“Tiếp tục đổi mới. hoàn thiện cơ chế chính sách, tiếp tục phát triển, triển khai đồng bộ, bảo đảm tốt, đẩy mạnh cải cách, tập trung hoàn thiện, tiếp tục cải thiện, rà soát để hoàn thiện, quyết liệt các giải pháp, đẩy mạnh ứng dụng, nâng cao hiệu lực, tiếp tục đầu tư, thực hiện đồng bộ, tập trung thực hiện, thực hiện nghiêm túc, thực hiện tốt, thực hiện có hiệu quả, đánh giá đúng, khẩn trương xây dựng, tăng cường giám sát, phối hợp hành động, nỗ lực phấn đấu tạo sự chuyển biến đồng bộ và mạnh mẽ hơn nữa….”
Những cụm từ khô như cơm nguội này này đã từng được Dũng và Nguyễn Sinh Hùng, Phó Thủ tướng thường trực thay phiên nhau nói đi,lập lại cả ngàn lần trước các Đại biểu của dân từ 5 năm qua, nhưng trong thực tế không có nghĩa gì vì càng đổi mới, càng đẩy mạnh hay càng khẩn trương bao nhiêu thì mọi việc nước, việc đảng càng ì ra, dậm chân tại chỗ bấy nhiêu.
Nguyễn Sinh Hùng : đầu tháng 11 sẽ có một Vinashin mới.
Vì vậy, trong kỳ họp của Quốc hội lần này có lập lại thêm lần nữa cũng chả được ai quan tâm vì ai cũng ” nghe rồi, khổ lắm nói mãi”.
Nội dung diễn văn của Dũng hôm khai mạc đã tập trung vào báo cáo tình hình ” thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước năm 2010; kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2011; dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương, bổ sung ngân sách địa phương năm 2011.”
So với các kỳ họp trước thì lần này có duy nhất một điểm mới, đó là việt Chính phủ gửi cho mỗi Đại biểu Quốc hội một Báo cáo dài 18 trang để phân bua vể chuyện làm ăn thua lỗ nghiêm trọng và nợ nần chống chất của Công ty đóng tầu Vinashin.
Theo tài liệu của Nhà nước thì tổng tài sản của Vinashin có khoảng trên 90.000 tỷ đồng, vốn điều lệ 9.000 tỷ đồng, nhưng tổng số tiền nợ lên tới trên 80.000 tỷ đồng. Như vậy là coi như trắng tay, đốt sạch tiền mồ hôi nước mắt của dân và hàng trăm triệu Mỹ kim vay nợ nước ngòai.
Nhà nước nói Công ty này phá sản vì đầu tư dàn trải, vay nợ nhưng chưa sử dụng mà vẫn phải trả tiền lời rồi dám cả gan báo cáo khống cả những khoản tiền lời. Trong khi các thanh tra nhà nước thì hoặc là đã bị Ban Giám đốc che mắt hay được lót tay bằng bao bì tiền hối lộ nên vẫn quay mặt làm ngơ cho Vinashin tiếp tục làm sai trái trong nhiều năm.
Trong Báo cáo gửi Đại biều Quốc Hội, nhà nước nói rằng “Các chức danh chủ chốt ở tập đoàn này đều tập trung vào một người. Trong những năm gần đây, người này đã trở nên độc đoán, gia trưởng.”
Người đó là Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam Phạm Thanh Bình. Bình và Tổng giám đốc điều hành Vinashin Trần Quang Vũ và đã bị bắt giam để điều tra.
Báo chí trong nước còn tường thuật: “Về nguyên nhân chủ quan, Chính phủ cho rằng, vì công tác dự báo còn nhiều bất cập nên việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh và kế hoạch đầu tư không chính xác. Các dự án đầu tư quá nhiều, dàn trải, có dự án đầu tư bằng 100% vốn vay, nhiều dự án chưa đưa vào sử dụng nhưng vẫn phải trả lãi. Phần lớn dự án chỉ được bố trí chưa đến 50% tổng vốn.”
Vẫn theo Báo cáo thì : ” Khi tập đoàn kiến nghị được mua tàu cũ vận chuyển hành khách Bắc – Nam, Thủ tướng Chính phủ không đồng ý và chỉ cho chủ trương thực hiện đóng mới. Việc tập đoàn mua tàu cũ (tàu Hoa Sen) là cố ý làm trái với sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và pháp luật về đầu tư…”.
“…Trong khi đó, Đảng ủy, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, các phó tổng giám đốc yếu kém, không thực hiện được chức năng, nhiệm vụ được giao về lãnh đạo, quản lý, kiểm tra, giám sát, ngược lại còn đồng tình với những việc làm sai trái của người đứng đầu tập đoàn.”
Báo cáo còn viết thêm rằng: ” Dù trong 3 năm có 11 cuộc thanh tra, kiểm toán, giám sát, nhưng lãnh đạo tập đoàn đã không nghiêm túc chấp hành. Các bộ chức năng được giao trách nhiệm đã không phát hiện được tập đoàn báo cáo không trung thực. Nhiều năm liền Vinashin báo cáo không trung thực về sử dụng vốn, về đầu tư và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh. Năm 2009 lỗ 1.600 tỷ đồng nhưng lại báo cáo lãi 750 tỷ đồng, quý 1 năm 2010 thua lỗ vẫn báo cáo lãi gần 100 tỷ đồng.”
Nếu ở một nước dân chủ thì, không chỉ có Ban Giám đốc của Vinashin bị bắt giam và cả Thủ tướng Chính phủ và Bộ trường Giao thông-Vận tải cũng phải xin lổi dân và tự ý xin từ chức nhưng chuyện này đã không xẩy ra với Nguyễn Tấn Dũng và Bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng.
Chuyện ngược đời không biết ngượng mặt này cũng chỉ thấy viết trơ trẽn trong Báo cáo gừi các Đại biều Quốc hội, theo như tường thuật của báo chí tronmg nước rằng: “Báo cáo của Chính phủ đã đánh giá khá đầy đủ những hạn chế, yếu kém. Chính phủ khẳng định đang chỉ đạo thực hiện nhiều giải pháp để tái cơ cấu tập đoàn. Liên quan đến những sai phạm vừa qua, Chính phủ cho biết, đã yêu cầu kiểm điểm trách nhiệm và xử lý nghiêm minh những người vi phạm.”
Riêng trong Diễn văn trước Quốc hội thì Dũng chỉ nói một đọan ngắn về sự cố Vinashin như thế này : “Về Tập đoàn Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam (VINASHIN), theo chương trình của Kỳ họp, Chính phủ đã có báo cáo gửi đến các vị đại biểu Quốc hội. Tình trạng nghiêm trọng hiện nay của VINASHIN chủ yếu là do sự yếu kém trong quản lý, thiếu tinh thần trách nhiệm, cố ý làm trái, báo cáo không trung thực của lãnh đạo Tập đoàn. Thực trạng này có trách nhiệm của Chính phủ, của các Bộ liên quan trong việc quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu. Chính phủ đã nghiêm túc kiểm điểm, xác định nguyên nhân và đề ra kế hoạch cụ thể để xử lý, chấn chỉnh các hoạt động của Tập đoàn. Bộ Chính trị đã nghe Chính phủ báo cáo và đã có kết luận chỉ đạo. Chính phủ đang triển khai thực hiện và đến nay đã có một số kết quả bước đầu. Chính phủ cũng đang chỉ đạo rà soát, hoàn thiện thể chế để nâng cao hiệu lực quản lý và hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước. “
Đây là thứ lập luận trốn trách nhiệm và để đánh bùn sang ao vì Nhà nước đã “tái cơ cấu Vianshin” để san sẻ nợ của Vinashin cho Tập đoàn Dầu khí (PVN), Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) và các công ty khác của Nhà nước để trả nợ thay.
Theo lời Ông Phạm Viết Muôn, Phó trưởng ban đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp Trung ương thì “Sau tái cơ cấu các khoản nợ liên quan vẫn phải chuyển về các đơn vị tiếp nhận. Số nợ chuyển sang PVN và Vinalines khoảng 20.000 tỷ đồng.”
Trước những lấn cấn cố tình nuôi nợ để ăn theo của Nhà nước khi không chịu giải tán Vinashin, Tác gỉa Nguyên Hà đặt nghi trên báo Điện tử ViệtNamNet ngày 20 tháng 10 (2010) vấn về quyết định tiếp tục duy trì các công ty của nhà nước dù biết đã làm ăn thua lỗ trong nhiều năm.
Nguyên Hà viết: ” Ví dụ về tập đoàn Vinashin thua lỗ, nợ lên tới gần 100 ngàn tỷ đồng, có nguy cơ phá sản và tình trạng kinh doanh kém hiệu quả của nhiều tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước khác đã báo hiệu những hậu quả tệ hại khôn lường nếu khu vực kinh tế này tiếp tục được coi trọng, độc quyền, được ưu đãi, sử dụng phần lớn nguồn lực quốc gia: vốn, đất đai, khoáng sản…”
“Không chỉ có vậy, còn rất nhiều vấn đề lớn, dài hạn quyết định sự phát triển lâu dài của đất nước, mà đông đảo cử tri băn khoăn lo lắng về khả năng điều hành, xử lý của Chính phủ cần được đặt lên bàn nghị sự Quốc hội. Đó là việc xây dựng một môi trường kinh doanh bình đẳng, huy động sức dân đầu tư phát triển thế nào một khi khu vực kinh tế nhà nước vẫn làm ăn kém hiệu quả lại tiếp tục được giữ vai trò “chủ đạo” trong nền kinh tế?”
Cử tri cả nước cũng thắc mắc việc làm của Nhà nước, theo Báo cáo trước Quốc hội của Huỳnh Đảm, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Đảm nói: “Đối với vụ việc tiêu cực của Tập đoàn Vinashin, cử tri và nhân dân cho rằng trong thời gian qua, công tác quản lý nhà nước đối với Tập đoàn này có nhiều bất cập, yếu kém; việc kiểm tra, kiểm soát của nhà nước còn kém hiệu quả nên chưa phát hiện được đầy đủ và ngăn chặn kịp thời những quyết định sai trái về đầu tư, sử dụng vốn không đúng mục đích… dẫn đến hiệu quả vốn đầu tư của nhà nước đạt hiệu quả thấp, thậm chí bị thất thoát rất nghiêm trọng. Cử tri và nhân dân kiến nghị Chính phủ làm rõ những sai phạm của lãnh đạo Tập đoàn Vinashin và trách nhiệm quản lý nhà nước của Chính phủ, các bộ có liên quan và xử lý nghiêm đối với tập thể, cá nhân vi phạm; đồng thời kiến nghị Chính phủ chỉ đạo tiến hành các hoạt động kiểm tra, đánh giá đúng thực trạng về tình hình tài chính cũng như hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước khác.”
Nhưng liệu Quốc hội có cơ hội để đặt vần đề với Đảng là dù các tập đòan kinh tế của Chính phủ tiếp tục làm ăn thua lỗ hết năm này qua năm khác mà Nhà nước vẫn muốn giữ vai “chủ đạo” không ?
Chuyện này khó xẩy ra vì Chương trình nghị sự do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định và được Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Quốc hội công bố thì trong kỳ họp này thì các Đại biểu cũng chỉ được “ghé mắt” vào việc : “xem xét về hoạt động của Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin); về cho nước ngoài thuê, liên doanh trồng rừng ở khu vực biên giới và một số báo cáo chuyên đề khác” .
Nhưng từ việc “xem xét” đến đặt vấn đề cần thay đổi hay bỏ vai trò chủ đạo nền kinh tế của các tập đòan kinh tế của nhà nước còn xa vời vợi. Bởi vì Cương lĩnh 1991 (bổ sung năm 2011) sẽ đem ra biểu quyềt tại Đại hội đảng XI vào tháng 1/2011 vẫn kiên định: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo…. Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất.”
Như thế là nhà nước chưa muốn bỏ quyền kiểm soát dạ dầy của dân nên đã tìm mọi cách bám lấy các Tập đòan kinh tế như Vinashin để độc quyền thao túng thị trường, miễn sao có lợi cho một số cấp lãnh đạo đảng và nhà nước.
Còn chuyện 10 Tỉnh đầu nguồn cho người Tầu Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan thuê rừng dài hạn 50 năm để trồng cây công nghiệp thì cũng là chuyện đã rồi, vì trước đây chính Quốc hội đã chấp thuận một Đạo luật cho phép các Tỉnh quyền cho người nước ngòai thuê đất.
Nhưng vụ ngừời Tầu vào làm chủ đất ở 10 tỉnh đầu nguồn đã gây hoang mang và bất bình trong dân chúng vì vùng đất cho thuê là khu vực chiến lược Quốc phòng của Việt Nam. Do đó, kỳ này mà Quốc hội có thảo luận thì cũng chỉ hạn chế được từ nay về sau mà thôi chứ không thay đổi được tình hình.
Mặc dù, theo lời Hùynh Đảm thì các cử tri đã Quốc hội và Chính phủ phải : ” Xử lý trách nhiệm của các tập thể và cá nhân cho doanh nghiệp nước ngoài thuê đất rừng dài hạn, trong đó có cả rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn, rừng tại các vị trí xung yếu về an ninh quốc phòng.”
NGUY CƠ BÙN ĐỎ-BAUXITE
Ngòai ra, cả Dũng và Trọng đều không nói gì đến yêu cầu của nhiều Đại biểu Quốc hội đòi phải thảo luận nguy cơ vỡ hồ chứa bùn đỏ của hai dự án khai thác Bauxite ở Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắk Nông), như đã xẩy ra tại Hung Gia Lợi ngày 4/10(2010) .
Sự cố Bùn đỏ ở Hung Gia Lợi không chỉ hủy họai con người, sinh vật của Thị trấn Ajka mà còn có nguy cơ gây thảm họa cho hàng triệu dân ở 12 nước Châu Âu có liện hệ với dòng nước của sông Danube, lớn thứ hai ở Châu Âu. Sông này chảy từ miền Nam Hung Gia Lợi qua Coatia, Serbia, Romania, Bulgaria, Ukraine and Moldova trước khi đến Hắc Hải.
Quét dọn bùn đỏ tại khu làng Devecser, cách Budaest 150 km về phía đông, ngày 13/10/2010 Ảnh: Reuters
Tuy nhiên nguy cơ vỡ hồ chứa chất độc bùn đỏ phế thải từ hai nhà máy Tân Rai và Nhân Cơ do Công ty Kỹ thuật Nhôm Quốc tế Trung Hoa (China Aluminum International Engineering Corporation (CHALIECO)) xây dựng theo hợp đồng với Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam (TKV), sẽ không được thảo luận tại Quốc hội.
Người dân sẽ được nghe có một số nhỏ Đại biểu Quốc hội lo âu lên tiếng nhưng chỉ khác một điều là các cuộc thảo luận này sẽ không đi đến đâu vì vấn đề này “không có trong nghị trình” thảo luận và biểu quyết của Quốc hội. Có chăng thì may ra ai có ý kiến thì cứ nói hay viết gửi Chính phủ còn chuyện có làm hay không và bào giờ làm là chuyện khác, bởi vì Nông Đức Mạnh, đã bí mật ký giấy đồng ý cho Tầu vào khai thác Bauxite ngay sau khi lên làm Tổng Bí thư năm 2001 mà không cho Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất nước biết.
Nhưng đe dọa vỡ hồ Bùn đỏ ở Tây Nguyên đã lan đến các cựu Lãnh đạo đảng và nhà nước ờ các cấp cao nhất.
Theo tin của các Nhà trí thức điểu hành trang Báo điện tử Bauxite Việt Nam thì Nguyên Phó Chủ tịch nước, Bà Nguyễn Thị Bình và Giám mục Địa Phận Vinh, Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Chủ tịch Ủy ban Công lý và Hòa Bình của Hội đồng Giám mục Việt Nam đã để tên vào Kiến nghị yêu cầu Nhà nước đình chỉ ngay lập tức dự án khai thác Bauxite để tránh hiểm họa về sau.
Ngòai ra Bauxite Việt Nam cũng cho biết còn có một số người nổi tiềng khác đã tham gia chiến dịch này như Giáo sư Viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu, Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Chủ tịch tỉnh An Giang Nguyễn Minh Nhị, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Giáo sư, giải thưởng Fields Ngô Bảo Châu, Trung tướng Nguyễn Xuân Mậu, các Thiếu tướng Nguyễn Hữu Anh, Trần Kinh Chi, Huỳnh Đắc Hương, Trần Minh Đức, Tô Thuận, Bùi Văn Quỳ; các vị lão thành cách mạng: Lê Hữu Hà (64 tuổi Đảng), Hồ Sĩ Bằng (63 năm tuổi Đảng), Lê Hữu Đức (65 tuổi Đảng), Lê Kim Toàn (65 tuổi Đảng), Đại tá Trần Thế Dương (58 tuổi Đảng), Đại tá Nguyễn Ngọc Tất (61 tuổi Đảng), Đại tá Lê Văn Trọng (65 tuổi Đảng), ông Bùi Đức Lại, cựu Chuyên gia cao cấp Ban Tổ chức Trung ương đảng, Nguyên Thứ trường Bộ Tài Nguyên và Môi trường Đặng Hùng Võ và hàng trăm Nhà trí thức, chuyên viên trong và ngòai nước khác.
Nhưng phía đảng và nhà nước thì vẫn “im lặng là vàng” vì chiến còng khóa miệng nhiều vòng sản xuất từ Bắc Kinh nặng qúa và khó tháo qúa.
Chuyện này cũng giống như chuyện Tầu phá rối tại Biển Đông, nghiêm trọng nhất là các vụ tấn công, bắt tù và đâm thuyền đánh cá của ngư dân Việt Nam quanh hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa từ mấy năm nay cần được Quốc hội cởi bỏ tính “bù nhìn” của mình để đối thọai với Trung Quốc, nhưng chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng lại bảo Quốc hội không cần phải bàn chuyện Biển Đông vì tình hình “không có gì mới” ?
Như vậy là Quốc hội kỳ này chỉ tòan bàn những chuyện tào lao. Còn những vấn đề bức xúc khác như an ninh của Tổ quốc, chuyện các tập đòan kinh tế nhà nước ăn hại đái nát, nguy cơ Bùn đỏ ở Tây Nguyên, quốc nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác như cướp của , giết người, ma túy, tai nạn lưu thông chết người như ngóe hàng ngày, nạn môi trường bị nhiễm độc khắp nước, nạn lạm phát đang có cơ lên cao hơn 8%, vấn đề cán bộ hà hiếp dân tiếp tục và nạn hành chính hành dân nhiều hơn giúp dân v.v… thì không thấy ghi trong Nghị trình của Quốc hội trong kỳ họp này.
Xem đảng làm ăn như thế thì Quốc hội có còn xứng đáng là một thành phần của cái gọi là “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền” của dân, do dân và vì dân không, hay các Đại biểu của dân chỉ biết ăn cây nào rào cấy ấy của một đảng cầm quyền độc tài vô tích sự ?
Phạm Trần- Việt Báo
Posted on 23/10/2010 by Dân Báo
…Quốc hội kỳ này chỉ tòan bàn những chuyện tào lao. Còn những vấn đề bức xúc khác như an ninh của Tổ quốc, chuyện các tập đòan kinh tế nhà nước ăn hại đái nát, nguy cơ Bùn đỏ ở Tây Nguyên, quốc nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác v.v… thì không thấy ghi trong Nghị trình của Quốc hội trong kỳ họp này.
Quốc hội Việt Nam bắt đầu phiên họp thứ 8 dài 32 ngày, kể từ 20/10 (2008), nhưng xem ra họ tòan được Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng cho nghe những chuyện tào lao với những chữ vô nghĩa như :
“Tiếp tục đổi mới. hoàn thiện cơ chế chính sách, tiếp tục phát triển, triển khai đồng bộ, bảo đảm tốt, đẩy mạnh cải cách, tập trung hoàn thiện, tiếp tục cải thiện, rà soát để hoàn thiện, quyết liệt các giải pháp, đẩy mạnh ứng dụng, nâng cao hiệu lực, tiếp tục đầu tư, thực hiện đồng bộ, tập trung thực hiện, thực hiện nghiêm túc, thực hiện tốt, thực hiện có hiệu quả, đánh giá đúng, khẩn trương xây dựng, tăng cường giám sát, phối hợp hành động, nỗ lực phấn đấu tạo sự chuyển biến đồng bộ và mạnh mẽ hơn nữa….”
Những cụm từ khô như cơm nguội này này đã từng được Dũng và Nguyễn Sinh Hùng, Phó Thủ tướng thường trực thay phiên nhau nói đi,lập lại cả ngàn lần trước các Đại biểu của dân từ 5 năm qua, nhưng trong thực tế không có nghĩa gì vì càng đổi mới, càng đẩy mạnh hay càng khẩn trương bao nhiêu thì mọi việc nước, việc đảng càng ì ra, dậm chân tại chỗ bấy nhiêu.
Nguyễn Sinh Hùng : đầu tháng 11 sẽ có một Vinashin mới.
Vì vậy, trong kỳ họp của Quốc hội lần này có lập lại thêm lần nữa cũng chả được ai quan tâm vì ai cũng ” nghe rồi, khổ lắm nói mãi”.
Nội dung diễn văn của Dũng hôm khai mạc đã tập trung vào báo cáo tình hình ” thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước năm 2010; kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2011; dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương, bổ sung ngân sách địa phương năm 2011.”
So với các kỳ họp trước thì lần này có duy nhất một điểm mới, đó là việt Chính phủ gửi cho mỗi Đại biểu Quốc hội một Báo cáo dài 18 trang để phân bua vể chuyện làm ăn thua lỗ nghiêm trọng và nợ nần chống chất của Công ty đóng tầu Vinashin.
Theo tài liệu của Nhà nước thì tổng tài sản của Vinashin có khoảng trên 90.000 tỷ đồng, vốn điều lệ 9.000 tỷ đồng, nhưng tổng số tiền nợ lên tới trên 80.000 tỷ đồng. Như vậy là coi như trắng tay, đốt sạch tiền mồ hôi nước mắt của dân và hàng trăm triệu Mỹ kim vay nợ nước ngòai.
Nhà nước nói Công ty này phá sản vì đầu tư dàn trải, vay nợ nhưng chưa sử dụng mà vẫn phải trả tiền lời rồi dám cả gan báo cáo khống cả những khoản tiền lời. Trong khi các thanh tra nhà nước thì hoặc là đã bị Ban Giám đốc che mắt hay được lót tay bằng bao bì tiền hối lộ nên vẫn quay mặt làm ngơ cho Vinashin tiếp tục làm sai trái trong nhiều năm.
Trong Báo cáo gửi Đại biều Quốc Hội, nhà nước nói rằng “Các chức danh chủ chốt ở tập đoàn này đều tập trung vào một người. Trong những năm gần đây, người này đã trở nên độc đoán, gia trưởng.”
Người đó là Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam Phạm Thanh Bình. Bình và Tổng giám đốc điều hành Vinashin Trần Quang Vũ và đã bị bắt giam để điều tra.
Báo chí trong nước còn tường thuật: “Về nguyên nhân chủ quan, Chính phủ cho rằng, vì công tác dự báo còn nhiều bất cập nên việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh và kế hoạch đầu tư không chính xác. Các dự án đầu tư quá nhiều, dàn trải, có dự án đầu tư bằng 100% vốn vay, nhiều dự án chưa đưa vào sử dụng nhưng vẫn phải trả lãi. Phần lớn dự án chỉ được bố trí chưa đến 50% tổng vốn.”
Vẫn theo Báo cáo thì : ” Khi tập đoàn kiến nghị được mua tàu cũ vận chuyển hành khách Bắc – Nam, Thủ tướng Chính phủ không đồng ý và chỉ cho chủ trương thực hiện đóng mới. Việc tập đoàn mua tàu cũ (tàu Hoa Sen) là cố ý làm trái với sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và pháp luật về đầu tư…”.
“…Trong khi đó, Đảng ủy, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, các phó tổng giám đốc yếu kém, không thực hiện được chức năng, nhiệm vụ được giao về lãnh đạo, quản lý, kiểm tra, giám sát, ngược lại còn đồng tình với những việc làm sai trái của người đứng đầu tập đoàn.”
Báo cáo còn viết thêm rằng: ” Dù trong 3 năm có 11 cuộc thanh tra, kiểm toán, giám sát, nhưng lãnh đạo tập đoàn đã không nghiêm túc chấp hành. Các bộ chức năng được giao trách nhiệm đã không phát hiện được tập đoàn báo cáo không trung thực. Nhiều năm liền Vinashin báo cáo không trung thực về sử dụng vốn, về đầu tư và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh. Năm 2009 lỗ 1.600 tỷ đồng nhưng lại báo cáo lãi 750 tỷ đồng, quý 1 năm 2010 thua lỗ vẫn báo cáo lãi gần 100 tỷ đồng.”
Nếu ở một nước dân chủ thì, không chỉ có Ban Giám đốc của Vinashin bị bắt giam và cả Thủ tướng Chính phủ và Bộ trường Giao thông-Vận tải cũng phải xin lổi dân và tự ý xin từ chức nhưng chuyện này đã không xẩy ra với Nguyễn Tấn Dũng và Bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng.
Chuyện ngược đời không biết ngượng mặt này cũng chỉ thấy viết trơ trẽn trong Báo cáo gừi các Đại biều Quốc hội, theo như tường thuật của báo chí tronmg nước rằng: “Báo cáo của Chính phủ đã đánh giá khá đầy đủ những hạn chế, yếu kém. Chính phủ khẳng định đang chỉ đạo thực hiện nhiều giải pháp để tái cơ cấu tập đoàn. Liên quan đến những sai phạm vừa qua, Chính phủ cho biết, đã yêu cầu kiểm điểm trách nhiệm và xử lý nghiêm minh những người vi phạm.”
Riêng trong Diễn văn trước Quốc hội thì Dũng chỉ nói một đọan ngắn về sự cố Vinashin như thế này : “Về Tập đoàn Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam (VINASHIN), theo chương trình của Kỳ họp, Chính phủ đã có báo cáo gửi đến các vị đại biểu Quốc hội. Tình trạng nghiêm trọng hiện nay của VINASHIN chủ yếu là do sự yếu kém trong quản lý, thiếu tinh thần trách nhiệm, cố ý làm trái, báo cáo không trung thực của lãnh đạo Tập đoàn. Thực trạng này có trách nhiệm của Chính phủ, của các Bộ liên quan trong việc quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu. Chính phủ đã nghiêm túc kiểm điểm, xác định nguyên nhân và đề ra kế hoạch cụ thể để xử lý, chấn chỉnh các hoạt động của Tập đoàn. Bộ Chính trị đã nghe Chính phủ báo cáo và đã có kết luận chỉ đạo. Chính phủ đang triển khai thực hiện và đến nay đã có một số kết quả bước đầu. Chính phủ cũng đang chỉ đạo rà soát, hoàn thiện thể chế để nâng cao hiệu lực quản lý và hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước. “
Đây là thứ lập luận trốn trách nhiệm và để đánh bùn sang ao vì Nhà nước đã “tái cơ cấu Vianshin” để san sẻ nợ của Vinashin cho Tập đoàn Dầu khí (PVN), Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) và các công ty khác của Nhà nước để trả nợ thay.
Theo lời Ông Phạm Viết Muôn, Phó trưởng ban đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp Trung ương thì “Sau tái cơ cấu các khoản nợ liên quan vẫn phải chuyển về các đơn vị tiếp nhận. Số nợ chuyển sang PVN và Vinalines khoảng 20.000 tỷ đồng.”
Trước những lấn cấn cố tình nuôi nợ để ăn theo của Nhà nước khi không chịu giải tán Vinashin, Tác gỉa Nguyên Hà đặt nghi trên báo Điện tử ViệtNamNet ngày 20 tháng 10 (2010) vấn về quyết định tiếp tục duy trì các công ty của nhà nước dù biết đã làm ăn thua lỗ trong nhiều năm.
Nguyên Hà viết: ” Ví dụ về tập đoàn Vinashin thua lỗ, nợ lên tới gần 100 ngàn tỷ đồng, có nguy cơ phá sản và tình trạng kinh doanh kém hiệu quả của nhiều tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước khác đã báo hiệu những hậu quả tệ hại khôn lường nếu khu vực kinh tế này tiếp tục được coi trọng, độc quyền, được ưu đãi, sử dụng phần lớn nguồn lực quốc gia: vốn, đất đai, khoáng sản…”
“Không chỉ có vậy, còn rất nhiều vấn đề lớn, dài hạn quyết định sự phát triển lâu dài của đất nước, mà đông đảo cử tri băn khoăn lo lắng về khả năng điều hành, xử lý của Chính phủ cần được đặt lên bàn nghị sự Quốc hội. Đó là việc xây dựng một môi trường kinh doanh bình đẳng, huy động sức dân đầu tư phát triển thế nào một khi khu vực kinh tế nhà nước vẫn làm ăn kém hiệu quả lại tiếp tục được giữ vai trò “chủ đạo” trong nền kinh tế?”
Cử tri cả nước cũng thắc mắc việc làm của Nhà nước, theo Báo cáo trước Quốc hội của Huỳnh Đảm, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Đảm nói: “Đối với vụ việc tiêu cực của Tập đoàn Vinashin, cử tri và nhân dân cho rằng trong thời gian qua, công tác quản lý nhà nước đối với Tập đoàn này có nhiều bất cập, yếu kém; việc kiểm tra, kiểm soát của nhà nước còn kém hiệu quả nên chưa phát hiện được đầy đủ và ngăn chặn kịp thời những quyết định sai trái về đầu tư, sử dụng vốn không đúng mục đích… dẫn đến hiệu quả vốn đầu tư của nhà nước đạt hiệu quả thấp, thậm chí bị thất thoát rất nghiêm trọng. Cử tri và nhân dân kiến nghị Chính phủ làm rõ những sai phạm của lãnh đạo Tập đoàn Vinashin và trách nhiệm quản lý nhà nước của Chính phủ, các bộ có liên quan và xử lý nghiêm đối với tập thể, cá nhân vi phạm; đồng thời kiến nghị Chính phủ chỉ đạo tiến hành các hoạt động kiểm tra, đánh giá đúng thực trạng về tình hình tài chính cũng như hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước khác.”
Nhưng liệu Quốc hội có cơ hội để đặt vần đề với Đảng là dù các tập đòan kinh tế của Chính phủ tiếp tục làm ăn thua lỗ hết năm này qua năm khác mà Nhà nước vẫn muốn giữ vai “chủ đạo” không ?
Chuyện này khó xẩy ra vì Chương trình nghị sự do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định và được Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Quốc hội công bố thì trong kỳ họp này thì các Đại biểu cũng chỉ được “ghé mắt” vào việc : “xem xét về hoạt động của Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin); về cho nước ngoài thuê, liên doanh trồng rừng ở khu vực biên giới và một số báo cáo chuyên đề khác” .
Nhưng từ việc “xem xét” đến đặt vấn đề cần thay đổi hay bỏ vai trò chủ đạo nền kinh tế của các tập đòan kinh tế của nhà nước còn xa vời vợi. Bởi vì Cương lĩnh 1991 (bổ sung năm 2011) sẽ đem ra biểu quyềt tại Đại hội đảng XI vào tháng 1/2011 vẫn kiên định: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo…. Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất.”
Như thế là nhà nước chưa muốn bỏ quyền kiểm soát dạ dầy của dân nên đã tìm mọi cách bám lấy các Tập đòan kinh tế như Vinashin để độc quyền thao túng thị trường, miễn sao có lợi cho một số cấp lãnh đạo đảng và nhà nước.
Còn chuyện 10 Tỉnh đầu nguồn cho người Tầu Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan thuê rừng dài hạn 50 năm để trồng cây công nghiệp thì cũng là chuyện đã rồi, vì trước đây chính Quốc hội đã chấp thuận một Đạo luật cho phép các Tỉnh quyền cho người nước ngòai thuê đất.
Nhưng vụ ngừời Tầu vào làm chủ đất ở 10 tỉnh đầu nguồn đã gây hoang mang và bất bình trong dân chúng vì vùng đất cho thuê là khu vực chiến lược Quốc phòng của Việt Nam. Do đó, kỳ này mà Quốc hội có thảo luận thì cũng chỉ hạn chế được từ nay về sau mà thôi chứ không thay đổi được tình hình.
Mặc dù, theo lời Hùynh Đảm thì các cử tri đã Quốc hội và Chính phủ phải : ” Xử lý trách nhiệm của các tập thể và cá nhân cho doanh nghiệp nước ngoài thuê đất rừng dài hạn, trong đó có cả rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn, rừng tại các vị trí xung yếu về an ninh quốc phòng.”
NGUY CƠ BÙN ĐỎ-BAUXITE
Ngòai ra, cả Dũng và Trọng đều không nói gì đến yêu cầu của nhiều Đại biểu Quốc hội đòi phải thảo luận nguy cơ vỡ hồ chứa bùn đỏ của hai dự án khai thác Bauxite ở Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắk Nông), như đã xẩy ra tại Hung Gia Lợi ngày 4/10(2010) .
Sự cố Bùn đỏ ở Hung Gia Lợi không chỉ hủy họai con người, sinh vật của Thị trấn Ajka mà còn có nguy cơ gây thảm họa cho hàng triệu dân ở 12 nước Châu Âu có liện hệ với dòng nước của sông Danube, lớn thứ hai ở Châu Âu. Sông này chảy từ miền Nam Hung Gia Lợi qua Coatia, Serbia, Romania, Bulgaria, Ukraine and Moldova trước khi đến Hắc Hải.
Quét dọn bùn đỏ tại khu làng Devecser, cách Budaest 150 km về phía đông, ngày 13/10/2010 Ảnh: Reuters
Tuy nhiên nguy cơ vỡ hồ chứa chất độc bùn đỏ phế thải từ hai nhà máy Tân Rai và Nhân Cơ do Công ty Kỹ thuật Nhôm Quốc tế Trung Hoa (China Aluminum International Engineering Corporation (CHALIECO)) xây dựng theo hợp đồng với Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam (TKV), sẽ không được thảo luận tại Quốc hội.
Người dân sẽ được nghe có một số nhỏ Đại biểu Quốc hội lo âu lên tiếng nhưng chỉ khác một điều là các cuộc thảo luận này sẽ không đi đến đâu vì vấn đề này “không có trong nghị trình” thảo luận và biểu quyết của Quốc hội. Có chăng thì may ra ai có ý kiến thì cứ nói hay viết gửi Chính phủ còn chuyện có làm hay không và bào giờ làm là chuyện khác, bởi vì Nông Đức Mạnh, đã bí mật ký giấy đồng ý cho Tầu vào khai thác Bauxite ngay sau khi lên làm Tổng Bí thư năm 2001 mà không cho Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất nước biết.
Nhưng đe dọa vỡ hồ Bùn đỏ ở Tây Nguyên đã lan đến các cựu Lãnh đạo đảng và nhà nước ờ các cấp cao nhất.
Theo tin của các Nhà trí thức điểu hành trang Báo điện tử Bauxite Việt Nam thì Nguyên Phó Chủ tịch nước, Bà Nguyễn Thị Bình và Giám mục Địa Phận Vinh, Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Chủ tịch Ủy ban Công lý và Hòa Bình của Hội đồng Giám mục Việt Nam đã để tên vào Kiến nghị yêu cầu Nhà nước đình chỉ ngay lập tức dự án khai thác Bauxite để tránh hiểm họa về sau.
Ngòai ra Bauxite Việt Nam cũng cho biết còn có một số người nổi tiềng khác đã tham gia chiến dịch này như Giáo sư Viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu, Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Chủ tịch tỉnh An Giang Nguyễn Minh Nhị, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Giáo sư, giải thưởng Fields Ngô Bảo Châu, Trung tướng Nguyễn Xuân Mậu, các Thiếu tướng Nguyễn Hữu Anh, Trần Kinh Chi, Huỳnh Đắc Hương, Trần Minh Đức, Tô Thuận, Bùi Văn Quỳ; các vị lão thành cách mạng: Lê Hữu Hà (64 tuổi Đảng), Hồ Sĩ Bằng (63 năm tuổi Đảng), Lê Hữu Đức (65 tuổi Đảng), Lê Kim Toàn (65 tuổi Đảng), Đại tá Trần Thế Dương (58 tuổi Đảng), Đại tá Nguyễn Ngọc Tất (61 tuổi Đảng), Đại tá Lê Văn Trọng (65 tuổi Đảng), ông Bùi Đức Lại, cựu Chuyên gia cao cấp Ban Tổ chức Trung ương đảng, Nguyên Thứ trường Bộ Tài Nguyên và Môi trường Đặng Hùng Võ và hàng trăm Nhà trí thức, chuyên viên trong và ngòai nước khác.
Nhưng phía đảng và nhà nước thì vẫn “im lặng là vàng” vì chiến còng khóa miệng nhiều vòng sản xuất từ Bắc Kinh nặng qúa và khó tháo qúa.
Chuyện này cũng giống như chuyện Tầu phá rối tại Biển Đông, nghiêm trọng nhất là các vụ tấn công, bắt tù và đâm thuyền đánh cá của ngư dân Việt Nam quanh hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa từ mấy năm nay cần được Quốc hội cởi bỏ tính “bù nhìn” của mình để đối thọai với Trung Quốc, nhưng chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng lại bảo Quốc hội không cần phải bàn chuyện Biển Đông vì tình hình “không có gì mới” ?
Như vậy là Quốc hội kỳ này chỉ tòan bàn những chuyện tào lao. Còn những vấn đề bức xúc khác như an ninh của Tổ quốc, chuyện các tập đòan kinh tế nhà nước ăn hại đái nát, nguy cơ Bùn đỏ ở Tây Nguyên, quốc nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác như cướp của , giết người, ma túy, tai nạn lưu thông chết người như ngóe hàng ngày, nạn môi trường bị nhiễm độc khắp nước, nạn lạm phát đang có cơ lên cao hơn 8%, vấn đề cán bộ hà hiếp dân tiếp tục và nạn hành chính hành dân nhiều hơn giúp dân v.v… thì không thấy ghi trong Nghị trình của Quốc hội trong kỳ họp này.
Xem đảng làm ăn như thế thì Quốc hội có còn xứng đáng là một thành phần của cái gọi là “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền” của dân, do dân và vì dân không, hay các Đại biểu của dân chỉ biết ăn cây nào rào cấy ấy của một đảng cầm quyền độc tài vô tích sự ?
Phạm Trần- Việt Báo
TIỀN HẢI, “ CÁI NÔI “ CỦA NGÀNH DẦU KHÍ VIỆT NAM ĐANG “ HỤT HƠI “ ?!
TIỀN HẢI, “ CÁI NÔI “ CỦA NGÀNH DẦU KHÍ VIỆT NAM ĐANG “ HỤT HƠI “ ?!
Giếng khoan thứ 2 khoan 1976 đã phun dầu
Ghi chép của Phạm Viết Đào
Chủ nhật, Nguyễn Xuân Dĩnh nguyên Vụ phó Vụ Dầu khí của Bộ Công thương, Bỳ Văn Tứ nguyên Trưởng Ban Dự án Đầu tư Đạm Phũ Mỹ, vốn là 2 anh bạn cùng học với tôi hồi ở Romania; 2 anh học ngành dầu, còn tôi theo nghiệp văn chương, kéo tôi đi cùng với 2 nhà doanh nghiệp trẻ Nguyễn Văn Năng, Phó Giám đốc Công ty Citygas và Hải-Đồngminhgas về thăm Tiền Hải, Thái Bình thăm một cái nôi của ngành dầu khí Việt Nam.
Phó Giám đốc Sở Công thương Thái Bình Nguyễn Tuấn chủ trì buổi hội thảo
Các anh rủ tôi về Tiền Hải bởi theo các anh đây nơi đích thực cắt “ cái rốn” đầu tiên cho những bước đi chào đời của ngành dầu khí, cái ngành gắn bó, duyên nợ với cả cuộc đời của các anh; cái duyên cái nợ này có thể khiến cho một kẻ luôn máu mê viết những chuyện “ phù suy “ như tôi có đất mà múa bút...
Theo anh Bỳ Văn Tứ, các chuyên gia Liên Xô đã khảo sát và dự đoán từ những năm sáu mươi: vùng Tiền Hải, Thái Bình có khả năng có dầu và khí; thế nhưng công việc khoan thăm dò, một công việc bắt buộc đối với công nghiệp khai thác dầu khí chính thức bắt đầu từ năm 1974 và năm 1975, hai giếng khoan đầu tiên tại đây đã phun dầu. Hình ảnh này được Tivi nhiều lần đưa và coi nó như “ chiếc rốn “ đầu tiên của ngành dầu khí Việt Nam…
Trên đường về Tiền Hải, chúng tôi ghé nhà anh Nguyễn Xuân Nhữ ở thành phố Thái Bình, một kỹ sư địa chất đã lăn lộn từ những ngày đầu ở Tiền Hải, để rủ anh đưa đường đến thăm cái rốn dầu đầu tiên khoan sâu 1700 m và đã có dầu phun lên năm 1975.
Chúng tôi tìm đến vị trí của 2 giếng khoan hiện đang nằm trong khuôn viên của Công ty Dầu khí sông Hồng, cái giếng khoan đầu tiên, theo anh Nhữ cho biết được đặt tên là Giếng khoan 61, khởi công khoan năm 1974, năm 1975 đã có dầu phun lên, hiện giờ được rào vây quanh bằng lưới B 40.
Giếng khoan đầu tiên phun dầu năm 1975...
Cái giếng này bây giờ không còn dầu và khí nữa, Xý nghiệp khai thác nước khoáng Tiền Hải đang sử dụng giếng này để khai thác nước khoáng. Chúng tôi đành đứng ngoài để chụp mấy kiểu ảnh làm tư liệu. Chúng tôi chỉ có thể tiếp cận cái giếng khoan thứ 2 được khoan năm 1976, cũng trong khuôn viên hiện nay được giữ lại như một thứ di tích.
Theo anh Nhữ cho biết: Công ty Sông Hồng trong năm 2010 có khả năng chỉ khai thác được cỡ 4 triệu tấn m3 khí; thời điểm thịnh vượng ở đây hút lên được 50 triệu m3/năm; năm 2009 còn hút lên được 10 triệu tấn…Đây là một điều đáng báo động đối với khu Công nghiệp Gốm sứ, gạch men Tiền Hải được xây dựng lên ồ ạt để đón khí Tiền Hải.
Tiền Hải được coi là thủ phủ của ngành gốm sứ Việt Nam, hiện có hàng chục xý nghiệp đầu tư vào đây với số lượng công nhân ngót nghét vạn người, có xý nghiệp có tới cả ngàn công nhân… Nếu không có nguồn năng lượng thay thế cho khí Tiền Hải thì khả năng khu công nghiệp Tiền Hải sẽ sập tiệm.
Hiện nay nhiều doanh nghiệp sản xuất gốm sứ ở đây đang tích cực tìm nguồn năng lượng thay thế, một giải pháp đã được triển khai là dùng than hóa khí để cung cấp cho lò nung nhưng xem chừng tiền đồ không mấy sáng sủa. Dùng than hóa khí vừa có giá thành cao, gây ô nhiễm và chất lượng của sứ ra lò không đạt chất lượng bằng sử dụng khí gas thiên nhiên.
Đây cũng chính là đầu đề bài toán nan giải của khu công nghiệp này; đây cũng chính là lý do, đề tài để 2 anh Nguyễn Xuân Dĩnh và Bỳ Văn Tứ kéo tôi đi theo để chứng kiến một cuộc “xe duyên” giữa các doanh nghiệp gốm sứ Tiền Hải, Thái Bình với 2 doanh nghiệp cung cấp khí đó là Citygas và Đồngminhgas…
Hai doanh nghiệp này có tham vọng sẽ là nhà đầu tư tham gia cung cấp khí gas thay thế cho khí gas đang “ hụt hơi” của khu công nghiệp Tiền Hải Thái Bình. Cuộc gặp gỡ, tiếp xúc này để các doanh nghiệp cung cấp khí gas trình bày phương án đầu tư, trình bày phương án đầu tư bằng một giải pháp công nghệ kỹ thuật mới, được tổ chức vào sáng thứ 2 ngày 18/10/2010 do Phó Giám đốc Sở Công thương Nguyễn Tuấn chủ trì. Tham dự có khoảng một chục các các doanh nghiệp gốm sứ, gạch men, thiết bị vệ sinh Tiền Hải.
Theo anh Dũng, Giám đốc Công ty Đonglamcera thì hàng năm khu công nghiệp Tiền Hải Thái Bình đang cần một lượng khí gas khoảng 70-80 triệu m3; nếu nhà đầu tư có giải pháp kỹ thuật để đưa được khí gas từ miền nam ra với giá bán không cáo hơn giá của than hóa khí, các doanh nghiệp sẽ hết sức hoan nghênh, sẵn sàng tham gia đầu tư để dự án này nhanh chóng được triển khai…
Anh Hải, Giám đốc Đồngminhgas, một người từng học ở Nga, nhà cung cấp giải pháp kỹ thuật đã lên trình bày giải pháp kỹ thuật biến gas từ thể khí chuyển sang thể lỏng. Với giải pháp và giây chuyền công nghệ này, khi hạ nhiệu độ của gas xuống 162 độ bách phân thì thể tích của gas sẽ giảm xuống 600 lần…Như vậy, nếu đầu tư cho công nghệ này thì trước mắt mỗi ngày bình quân chỉ cần 3-4 xe chuyên dụng chở tù miền nam ra là đủ cung cấp khí đốt cho khu công nghiệp Tiền Hải. Với giải pháp kỹ thuật này, nếu các bên quyết tâm đầu tư thì trong vòng 6 tới 9 tháng, Citygas và Đồngminhgas có thể mang khí hóa lỏng cung cấp cho Tiền Hải thay thế công nghệ than hóa khí…
Theo anh Hải thì giải pháp kỹ thuật này là một phát minh của người Nga và đã được ngành công nghiệp Trung Quốc áp dụng rộng rãi. Hiện nay Trung Quốc đã sử dụng công nghệ này để chở khí gas từ vùng Tân Cương, về cung cấp cho vũng Đông Bắc Trung Quốc với một cung đường đúng bằng từ Tiền Hải đến miền Đông Nam Bộ.
Đó là giải pháp chữa cháy trước mắt, còn sau khi thành công, ổn định thì Đongminhgas có thể thay thế phương tiện vận tải bằng ôtô bằng tàu biển thì giá thành sẽ hạ hơn…
Các nhà doanh doanh nghiệp Tiền Hải đang chăm chú nghe giải pháp
Ngồi nghe thuyết trình và sự trao đi đổi lại thì thấy cuộc xe duyên này có vẻ có nhiều triển vọng thành công vì cả hai bên đều thật sự cần đến nhau; nhưng để có thể tác thành được thì lại phải có một điều kiện cần và đủ: giá thành, điều kiện và giải pháp kỹ thuật đáp ứng và môi trường sử dụng và cung cấp khí gas ổn định trong một thời gian nhất định; có như thế nhà đầu tư mới thu hồi được vốn đầu tư, nhà sản xuất được hưởng nguồn nhiên liệu mới với giá hợp lý…
Về giải pháp kỹ thuật của giây chuyền công nghệ thì: đây là một công nghệ mới hoàn toàn đối với Việt Nam nhưng không mới với thế giới; nhiều nước đã áp dụng công nghệ này. Vấn đề để công nghệ này áp dụng được môi trường Tiền Hải nói riêng và trong ngành dầu khí nói chung thì cần phải có sự xác lập một trường ổn định ở các nhân tố sau:
- Nhà đầu tư và các cố đông sẵn sàng góp vốn với điều kiện Petrovietnam cam kết cung cấp đủ nhu cầu khí cho khu công nghiệp Thái Bình theo giá bán giành cho ngành điện và ngành phân bón;
- Nhà đầu tư và nhà cung cấp kỹ thuật giây chuyền công nghệ đảm bảo cung ứng, cung cấp nhiêu liệu tới cổng nhà máy an toán, đầy đủ và đúng tiến độ với giá bán hợp lý được 2 bên thỏa thuận…
Hai điều kiện này rõ ràng cần sự bảo lãnh, bảo hiểm từ cả phía nhà nước địa phương: Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình phải làm việc được với Petrovietnam, để được Petrovietnam cam kết cung cấp nguồn khí ổn định trong khoảng 10 năm vì ngành dầu khí là ngành do nhà nước thống nhất quản lý. Có sử dụng ổn định trong thời gian đó thì mới đảm bảo cho vốn đầu tư được thu hồi…
Đây là một bài toán, đối với kẻ ngoại đạo về kinh doanh như tôi cũng thấy là không khó, cái khó là những người chơi có thật lòng, có thiện chí, có sòng phẳng, minh bạch với nhau không, cùng nhau chia mọi khó khăn thuận lợi với nhau. Nếu dự án này thành công thì mở ra một chân mới cho các khu công nghiệp phía bắc đang thiếu khí, trong khi lượng khí chủ yếu vẫn nằm ở khu vực phía nam…
Anh Nguyễn Tuấn, người chủ trì cuộc hội thảo đã kết luận: UBND tỉnh Thái Bình sẽ vào cuộc, sẽ là đầu mối chắp nối để các doanh nghiệp gắn kết với nhau vì sự nghiệp nhiên liệu cho công nghiệp Thái Bình. Muốn tỉnh ra tay, các doanh nghiệp phải thỏa thuận được với nhau, phải đồng thuận được với nhau thì tỉnh mới vào cuộc được; tức phải có được sự liên kết của “ ba nhà “.
Cuộc họp kết thúc gần 12 giờ trưa, khá mệt vì cả một buổi đầu tôi ong lên bởi những thuật ngữa kỹ thuật, kinh tế cả tiếng Anh pha tiếng Việt…Trên đường về, không chỉ tôi mà cả Bỳ Văn Tứ cũng đăm chiêu suy nghĩ. Tôi hiểu, đối với Bỳ Văn Tứ là người lăn lộn với ngành dầu khí Việt Nam từ những ngày đầu tiên. Anh tốt nghiệp trường dầu năm 1971, chuyện dầu đã gần như ngấm vào trong máu, vào trong nhịp thở của các anh giống như tôi chữ nghĩa đối với tôi. Đã mang lấy nghiệp vào thân, đối với những kẻ như tôi, hàng ngày làm cái việc “dở khôn dở dại” tìm cách chuyển tải những điều suy nghĩ, cảm xúc của mình về nhân tình thế thái, về chuyện đời vào blog, để tung lên trời thì đối với những con người như Bỳ Văn Tứ, bao năm lăn lộn với nghề, nếu không bàn đến chuyện dầu khí, không trăn trở về chuyện dầu khí có khi ăn không ngon, ngủ không yên…
Bỳ Văn Tứ nguyên là Trưởng ban Dự án Đạm Phú Mỹ, anh đã bị bắt bỏ tù vào đúng ngày dự án mà anh là Trưởng Ban khánh thành. Ban quản lý được khen thưởng vì đã hoàn thành đúng tiến độ, được thưởng huân chương còn Trưởng ban thì bị tống vào nhà giam để rồi ngồi bóc lịch 16 tháng. Bỳ Văn Tứ cho biết, những ngày đó nếu không nghị lực lắm thì cũng đã tìm cách tự tử trong tù vì uất ức.
Từ phải sang trái: Anh Nguyễn Xuân Nhữ, Nguyễn Xuân Dĩnh, Bỳ Văn Tứ...
Theo bạn bè ngành dầu khí của tôi cho biết, hiện nay Dự án Nhà máy Đạm Phú Mỹ vẫn là dự thành công nhất của ngành dầu khí. Dự án được Chính phủ duyệt 450 triệu USD như khi quyết toán chi tiêu hết 385 triệu USD. Hiện nay hàng năm thu lãi khoảng 1000 tỷ đồng nộp ngân sách. Thế nhưng Bỳ Văn Tứ và một số anh em đã bị ông Lương Cao Khải và bộ sậu của Thanh tra Chính phủ vào thanh tra kết cho những tội tài đình và bị tống giam vì đã gây thiệt hại cho nhà nước. Nhưng rồi trời cũng có mắt, sau 16 tháng, Bỳ Văn Tứ được ra và kẻ thay thế anh lại là Lương Cao Khải…Bỳ Văn Tứ vẫn hứa với tôi sẽ có ngày kể cho tôi nghe về những duyên nợ của anh với cái nghề, cái nghiệp mà anh đã chọn.
Nguyễn Xuân Dĩnh, Bỳ Văn Tứ những người đã về hưu kéo tôi về Tiền Hải lần này cũng để cho tôi hình dung ra được phần nào cái sự gian truân, khốc liệt, đen bạc của cái ngành dầu khí, một ngành thu được nhiều tiền và thời thượng hiện nay.
Tôi biết, Bỳ Văn Tứ được các công ty mời làm tư vấn cho dự án này vì tin vào tiếng nói và uy tín của anh. Dự án làm ăn lớn nào mà không phải có những khó khăn, phải chấp nhận phiêu lưu và trả giá; ngoài trí tuệ, tiền của đôi khi cả sinh mạng chính trị của cả một đời người. Tóc đã bạc vì phong sương, Bỳ Văn Tứ và Nguyễn Xuân Dĩnh lao vào dự án đầu tư khí cho Tiền Hải như một thứ trách nhiệm bảo trì, bão dưỡng một biểu tượng của ngành, nơi mà các anh đã dốc một phần tâm sức của tuổi trẻ cho công trình này.
Do ngành dầu khí lên tiếng là có dầu, có khí, thế là các xý nghiệp đổ xô vào đầu tư…Thế nhưng ở đời ai dám chắc chữ ngờ; chỉ được hơn 30 năm, nguồn khí đã cạn dần, còn dầu thì không đủ trữ lượng khai thác. Nhà văn Văn Chinh quê ở Tiền Hải kể với tôi: cũng có lúc do người Thái Bình ta vung phí khí gas, dùng nó để nung vôi. Do kỹ thuật không giải quyết được nên khí thì mất mà vôi thì khộng đạt chất lượng. Còn giờ đây sự lay lắt của khu công nghiệp gốm sứ này bắt đầu le lói. Có những lô hàng xuất phải xuống hạng vị chất lượng không đạt. Giá thành bắt đầu đội lên? Tất cả những cái đó đều không thể trách ai. Phải làm cách nào cứu nó; ngành dầu khí không thể để cho những bạn hàng ruột của mình tự vật lộn với rủi ro. Thế là bài toán tìm công nghệ khí hỏa lỏng cung cấp cho Tiền Hải được đặt ra và Nguyễn Xuân Dĩnh và Bỳ Văn Tứ lao vào…
Trạm thu khí của Công ty Sông Hồng
Tôi tin Petrovietnam sẽ không bỏ mặc cho Tiền Hải, Thái Bình tự xoay xở mà sẽ chung tay để cứu một biểu tượng liên kết làm ăn của ngành dầu khí không bị sụp đổ. Cách đây hơn một năm ông Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch nước đã dắt một đàn trâu tương đương 5 tỷ đồng để tặng cho đồng bào vùng Bắc Bó- Cao Băng, nơi được coi là một trong những cái nôi của cách mạng. Cách mạng đã thành công hơn 60 năm nhưng bà con ở đây có đổi đời được bao nhiêu.
Tôi tin ý chí của Bỳ Văn Tứ, Nguyễn Xuân Dĩnh, của Citygas, Đồngminhgas của Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình sẽ được Petrovietnam hỗ trợ, đáp ứng tối đa. Vấn đề còn lại đó là bài toán công nghệ, bài toán kỹ thuật không mới với thế giới nhưng là lần đầu đối với Việt Nam. Các nhà kỹ thuật có khả năng đảm bảo khí gas mang được về Tiền Hải an toàn và hợp lý giá? Đây là câu hỏi, bài toán giành cho các nhà kỹ thuật…
Con đường ngổn ngang cho thấy sự khó khăn đã xuất hiện của khu công nghiệp Tiền Hải hôm nay
P.V.Đ
Giếng khoan thứ 2 khoan 1976 đã phun dầu
Ghi chép của Phạm Viết Đào
Chủ nhật, Nguyễn Xuân Dĩnh nguyên Vụ phó Vụ Dầu khí của Bộ Công thương, Bỳ Văn Tứ nguyên Trưởng Ban Dự án Đầu tư Đạm Phũ Mỹ, vốn là 2 anh bạn cùng học với tôi hồi ở Romania; 2 anh học ngành dầu, còn tôi theo nghiệp văn chương, kéo tôi đi cùng với 2 nhà doanh nghiệp trẻ Nguyễn Văn Năng, Phó Giám đốc Công ty Citygas và Hải-Đồngminhgas về thăm Tiền Hải, Thái Bình thăm một cái nôi của ngành dầu khí Việt Nam.
Phó Giám đốc Sở Công thương Thái Bình Nguyễn Tuấn chủ trì buổi hội thảo
Các anh rủ tôi về Tiền Hải bởi theo các anh đây nơi đích thực cắt “ cái rốn” đầu tiên cho những bước đi chào đời của ngành dầu khí, cái ngành gắn bó, duyên nợ với cả cuộc đời của các anh; cái duyên cái nợ này có thể khiến cho một kẻ luôn máu mê viết những chuyện “ phù suy “ như tôi có đất mà múa bút...
Theo anh Bỳ Văn Tứ, các chuyên gia Liên Xô đã khảo sát và dự đoán từ những năm sáu mươi: vùng Tiền Hải, Thái Bình có khả năng có dầu và khí; thế nhưng công việc khoan thăm dò, một công việc bắt buộc đối với công nghiệp khai thác dầu khí chính thức bắt đầu từ năm 1974 và năm 1975, hai giếng khoan đầu tiên tại đây đã phun dầu. Hình ảnh này được Tivi nhiều lần đưa và coi nó như “ chiếc rốn “ đầu tiên của ngành dầu khí Việt Nam…
Trên đường về Tiền Hải, chúng tôi ghé nhà anh Nguyễn Xuân Nhữ ở thành phố Thái Bình, một kỹ sư địa chất đã lăn lộn từ những ngày đầu ở Tiền Hải, để rủ anh đưa đường đến thăm cái rốn dầu đầu tiên khoan sâu 1700 m và đã có dầu phun lên năm 1975.
Chúng tôi tìm đến vị trí của 2 giếng khoan hiện đang nằm trong khuôn viên của Công ty Dầu khí sông Hồng, cái giếng khoan đầu tiên, theo anh Nhữ cho biết được đặt tên là Giếng khoan 61, khởi công khoan năm 1974, năm 1975 đã có dầu phun lên, hiện giờ được rào vây quanh bằng lưới B 40.
Giếng khoan đầu tiên phun dầu năm 1975...
Cái giếng này bây giờ không còn dầu và khí nữa, Xý nghiệp khai thác nước khoáng Tiền Hải đang sử dụng giếng này để khai thác nước khoáng. Chúng tôi đành đứng ngoài để chụp mấy kiểu ảnh làm tư liệu. Chúng tôi chỉ có thể tiếp cận cái giếng khoan thứ 2 được khoan năm 1976, cũng trong khuôn viên hiện nay được giữ lại như một thứ di tích.
Theo anh Nhữ cho biết: Công ty Sông Hồng trong năm 2010 có khả năng chỉ khai thác được cỡ 4 triệu tấn m3 khí; thời điểm thịnh vượng ở đây hút lên được 50 triệu m3/năm; năm 2009 còn hút lên được 10 triệu tấn…Đây là một điều đáng báo động đối với khu Công nghiệp Gốm sứ, gạch men Tiền Hải được xây dựng lên ồ ạt để đón khí Tiền Hải.
Tiền Hải được coi là thủ phủ của ngành gốm sứ Việt Nam, hiện có hàng chục xý nghiệp đầu tư vào đây với số lượng công nhân ngót nghét vạn người, có xý nghiệp có tới cả ngàn công nhân… Nếu không có nguồn năng lượng thay thế cho khí Tiền Hải thì khả năng khu công nghiệp Tiền Hải sẽ sập tiệm.
Hiện nay nhiều doanh nghiệp sản xuất gốm sứ ở đây đang tích cực tìm nguồn năng lượng thay thế, một giải pháp đã được triển khai là dùng than hóa khí để cung cấp cho lò nung nhưng xem chừng tiền đồ không mấy sáng sủa. Dùng than hóa khí vừa có giá thành cao, gây ô nhiễm và chất lượng của sứ ra lò không đạt chất lượng bằng sử dụng khí gas thiên nhiên.
Đây cũng chính là đầu đề bài toán nan giải của khu công nghiệp này; đây cũng chính là lý do, đề tài để 2 anh Nguyễn Xuân Dĩnh và Bỳ Văn Tứ kéo tôi đi theo để chứng kiến một cuộc “xe duyên” giữa các doanh nghiệp gốm sứ Tiền Hải, Thái Bình với 2 doanh nghiệp cung cấp khí đó là Citygas và Đồngminhgas…
Hai doanh nghiệp này có tham vọng sẽ là nhà đầu tư tham gia cung cấp khí gas thay thế cho khí gas đang “ hụt hơi” của khu công nghiệp Tiền Hải Thái Bình. Cuộc gặp gỡ, tiếp xúc này để các doanh nghiệp cung cấp khí gas trình bày phương án đầu tư, trình bày phương án đầu tư bằng một giải pháp công nghệ kỹ thuật mới, được tổ chức vào sáng thứ 2 ngày 18/10/2010 do Phó Giám đốc Sở Công thương Nguyễn Tuấn chủ trì. Tham dự có khoảng một chục các các doanh nghiệp gốm sứ, gạch men, thiết bị vệ sinh Tiền Hải.
Theo anh Dũng, Giám đốc Công ty Đonglamcera thì hàng năm khu công nghiệp Tiền Hải Thái Bình đang cần một lượng khí gas khoảng 70-80 triệu m3; nếu nhà đầu tư có giải pháp kỹ thuật để đưa được khí gas từ miền nam ra với giá bán không cáo hơn giá của than hóa khí, các doanh nghiệp sẽ hết sức hoan nghênh, sẵn sàng tham gia đầu tư để dự án này nhanh chóng được triển khai…
Anh Hải, Giám đốc Đồngminhgas, một người từng học ở Nga, nhà cung cấp giải pháp kỹ thuật đã lên trình bày giải pháp kỹ thuật biến gas từ thể khí chuyển sang thể lỏng. Với giải pháp và giây chuyền công nghệ này, khi hạ nhiệu độ của gas xuống 162 độ bách phân thì thể tích của gas sẽ giảm xuống 600 lần…Như vậy, nếu đầu tư cho công nghệ này thì trước mắt mỗi ngày bình quân chỉ cần 3-4 xe chuyên dụng chở tù miền nam ra là đủ cung cấp khí đốt cho khu công nghiệp Tiền Hải. Với giải pháp kỹ thuật này, nếu các bên quyết tâm đầu tư thì trong vòng 6 tới 9 tháng, Citygas và Đồngminhgas có thể mang khí hóa lỏng cung cấp cho Tiền Hải thay thế công nghệ than hóa khí…
Theo anh Hải thì giải pháp kỹ thuật này là một phát minh của người Nga và đã được ngành công nghiệp Trung Quốc áp dụng rộng rãi. Hiện nay Trung Quốc đã sử dụng công nghệ này để chở khí gas từ vùng Tân Cương, về cung cấp cho vũng Đông Bắc Trung Quốc với một cung đường đúng bằng từ Tiền Hải đến miền Đông Nam Bộ.
Đó là giải pháp chữa cháy trước mắt, còn sau khi thành công, ổn định thì Đongminhgas có thể thay thế phương tiện vận tải bằng ôtô bằng tàu biển thì giá thành sẽ hạ hơn…
Các nhà doanh doanh nghiệp Tiền Hải đang chăm chú nghe giải pháp
Ngồi nghe thuyết trình và sự trao đi đổi lại thì thấy cuộc xe duyên này có vẻ có nhiều triển vọng thành công vì cả hai bên đều thật sự cần đến nhau; nhưng để có thể tác thành được thì lại phải có một điều kiện cần và đủ: giá thành, điều kiện và giải pháp kỹ thuật đáp ứng và môi trường sử dụng và cung cấp khí gas ổn định trong một thời gian nhất định; có như thế nhà đầu tư mới thu hồi được vốn đầu tư, nhà sản xuất được hưởng nguồn nhiên liệu mới với giá hợp lý…
Về giải pháp kỹ thuật của giây chuyền công nghệ thì: đây là một công nghệ mới hoàn toàn đối với Việt Nam nhưng không mới với thế giới; nhiều nước đã áp dụng công nghệ này. Vấn đề để công nghệ này áp dụng được môi trường Tiền Hải nói riêng và trong ngành dầu khí nói chung thì cần phải có sự xác lập một trường ổn định ở các nhân tố sau:
- Nhà đầu tư và các cố đông sẵn sàng góp vốn với điều kiện Petrovietnam cam kết cung cấp đủ nhu cầu khí cho khu công nghiệp Thái Bình theo giá bán giành cho ngành điện và ngành phân bón;
- Nhà đầu tư và nhà cung cấp kỹ thuật giây chuyền công nghệ đảm bảo cung ứng, cung cấp nhiêu liệu tới cổng nhà máy an toán, đầy đủ và đúng tiến độ với giá bán hợp lý được 2 bên thỏa thuận…
Hai điều kiện này rõ ràng cần sự bảo lãnh, bảo hiểm từ cả phía nhà nước địa phương: Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình phải làm việc được với Petrovietnam, để được Petrovietnam cam kết cung cấp nguồn khí ổn định trong khoảng 10 năm vì ngành dầu khí là ngành do nhà nước thống nhất quản lý. Có sử dụng ổn định trong thời gian đó thì mới đảm bảo cho vốn đầu tư được thu hồi…
Đây là một bài toán, đối với kẻ ngoại đạo về kinh doanh như tôi cũng thấy là không khó, cái khó là những người chơi có thật lòng, có thiện chí, có sòng phẳng, minh bạch với nhau không, cùng nhau chia mọi khó khăn thuận lợi với nhau. Nếu dự án này thành công thì mở ra một chân mới cho các khu công nghiệp phía bắc đang thiếu khí, trong khi lượng khí chủ yếu vẫn nằm ở khu vực phía nam…
Anh Nguyễn Tuấn, người chủ trì cuộc hội thảo đã kết luận: UBND tỉnh Thái Bình sẽ vào cuộc, sẽ là đầu mối chắp nối để các doanh nghiệp gắn kết với nhau vì sự nghiệp nhiên liệu cho công nghiệp Thái Bình. Muốn tỉnh ra tay, các doanh nghiệp phải thỏa thuận được với nhau, phải đồng thuận được với nhau thì tỉnh mới vào cuộc được; tức phải có được sự liên kết của “ ba nhà “.
Cuộc họp kết thúc gần 12 giờ trưa, khá mệt vì cả một buổi đầu tôi ong lên bởi những thuật ngữa kỹ thuật, kinh tế cả tiếng Anh pha tiếng Việt…Trên đường về, không chỉ tôi mà cả Bỳ Văn Tứ cũng đăm chiêu suy nghĩ. Tôi hiểu, đối với Bỳ Văn Tứ là người lăn lộn với ngành dầu khí Việt Nam từ những ngày đầu tiên. Anh tốt nghiệp trường dầu năm 1971, chuyện dầu đã gần như ngấm vào trong máu, vào trong nhịp thở của các anh giống như tôi chữ nghĩa đối với tôi. Đã mang lấy nghiệp vào thân, đối với những kẻ như tôi, hàng ngày làm cái việc “dở khôn dở dại” tìm cách chuyển tải những điều suy nghĩ, cảm xúc của mình về nhân tình thế thái, về chuyện đời vào blog, để tung lên trời thì đối với những con người như Bỳ Văn Tứ, bao năm lăn lộn với nghề, nếu không bàn đến chuyện dầu khí, không trăn trở về chuyện dầu khí có khi ăn không ngon, ngủ không yên…
Bỳ Văn Tứ nguyên là Trưởng ban Dự án Đạm Phú Mỹ, anh đã bị bắt bỏ tù vào đúng ngày dự án mà anh là Trưởng Ban khánh thành. Ban quản lý được khen thưởng vì đã hoàn thành đúng tiến độ, được thưởng huân chương còn Trưởng ban thì bị tống vào nhà giam để rồi ngồi bóc lịch 16 tháng. Bỳ Văn Tứ cho biết, những ngày đó nếu không nghị lực lắm thì cũng đã tìm cách tự tử trong tù vì uất ức.
Từ phải sang trái: Anh Nguyễn Xuân Nhữ, Nguyễn Xuân Dĩnh, Bỳ Văn Tứ...
Theo bạn bè ngành dầu khí của tôi cho biết, hiện nay Dự án Nhà máy Đạm Phú Mỹ vẫn là dự thành công nhất của ngành dầu khí. Dự án được Chính phủ duyệt 450 triệu USD như khi quyết toán chi tiêu hết 385 triệu USD. Hiện nay hàng năm thu lãi khoảng 1000 tỷ đồng nộp ngân sách. Thế nhưng Bỳ Văn Tứ và một số anh em đã bị ông Lương Cao Khải và bộ sậu của Thanh tra Chính phủ vào thanh tra kết cho những tội tài đình và bị tống giam vì đã gây thiệt hại cho nhà nước. Nhưng rồi trời cũng có mắt, sau 16 tháng, Bỳ Văn Tứ được ra và kẻ thay thế anh lại là Lương Cao Khải…Bỳ Văn Tứ vẫn hứa với tôi sẽ có ngày kể cho tôi nghe về những duyên nợ của anh với cái nghề, cái nghiệp mà anh đã chọn.
Nguyễn Xuân Dĩnh, Bỳ Văn Tứ những người đã về hưu kéo tôi về Tiền Hải lần này cũng để cho tôi hình dung ra được phần nào cái sự gian truân, khốc liệt, đen bạc của cái ngành dầu khí, một ngành thu được nhiều tiền và thời thượng hiện nay.
Tôi biết, Bỳ Văn Tứ được các công ty mời làm tư vấn cho dự án này vì tin vào tiếng nói và uy tín của anh. Dự án làm ăn lớn nào mà không phải có những khó khăn, phải chấp nhận phiêu lưu và trả giá; ngoài trí tuệ, tiền của đôi khi cả sinh mạng chính trị của cả một đời người. Tóc đã bạc vì phong sương, Bỳ Văn Tứ và Nguyễn Xuân Dĩnh lao vào dự án đầu tư khí cho Tiền Hải như một thứ trách nhiệm bảo trì, bão dưỡng một biểu tượng của ngành, nơi mà các anh đã dốc một phần tâm sức của tuổi trẻ cho công trình này.
Do ngành dầu khí lên tiếng là có dầu, có khí, thế là các xý nghiệp đổ xô vào đầu tư…Thế nhưng ở đời ai dám chắc chữ ngờ; chỉ được hơn 30 năm, nguồn khí đã cạn dần, còn dầu thì không đủ trữ lượng khai thác. Nhà văn Văn Chinh quê ở Tiền Hải kể với tôi: cũng có lúc do người Thái Bình ta vung phí khí gas, dùng nó để nung vôi. Do kỹ thuật không giải quyết được nên khí thì mất mà vôi thì khộng đạt chất lượng. Còn giờ đây sự lay lắt của khu công nghiệp gốm sứ này bắt đầu le lói. Có những lô hàng xuất phải xuống hạng vị chất lượng không đạt. Giá thành bắt đầu đội lên? Tất cả những cái đó đều không thể trách ai. Phải làm cách nào cứu nó; ngành dầu khí không thể để cho những bạn hàng ruột của mình tự vật lộn với rủi ro. Thế là bài toán tìm công nghệ khí hỏa lỏng cung cấp cho Tiền Hải được đặt ra và Nguyễn Xuân Dĩnh và Bỳ Văn Tứ lao vào…
Trạm thu khí của Công ty Sông Hồng
Tôi tin Petrovietnam sẽ không bỏ mặc cho Tiền Hải, Thái Bình tự xoay xở mà sẽ chung tay để cứu một biểu tượng liên kết làm ăn của ngành dầu khí không bị sụp đổ. Cách đây hơn một năm ông Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch nước đã dắt một đàn trâu tương đương 5 tỷ đồng để tặng cho đồng bào vùng Bắc Bó- Cao Băng, nơi được coi là một trong những cái nôi của cách mạng. Cách mạng đã thành công hơn 60 năm nhưng bà con ở đây có đổi đời được bao nhiêu.
Tôi tin ý chí của Bỳ Văn Tứ, Nguyễn Xuân Dĩnh, của Citygas, Đồngminhgas của Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình sẽ được Petrovietnam hỗ trợ, đáp ứng tối đa. Vấn đề còn lại đó là bài toán công nghệ, bài toán kỹ thuật không mới với thế giới nhưng là lần đầu đối với Việt Nam. Các nhà kỹ thuật có khả năng đảm bảo khí gas mang được về Tiền Hải an toàn và hợp lý giá? Đây là câu hỏi, bài toán giành cho các nhà kỹ thuật…
Con đường ngổn ngang cho thấy sự khó khăn đã xuất hiện của khu công nghiệp Tiền Hải hôm nay
P.V.Đ
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)