Thứ Hai, 18 tháng 10, 2010

Đây thôn Vĩ Dạ ...................HÀN MẠC TỬ

Đây thôn Vĩ Dạ

HÀN MẠC TỬ

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay ...
Thuyền ai đậu bến Sông Trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay ?

Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhận không ra ...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà?

Áo Lụa Hà Đông ..........NGUYÊN SA

Áo lụa Hà Đông

NGUYÊN SA

Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng.

Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh
Linh hồn anh vội vã v ẽ chân dung
Bày vội vã vào trong hồn mở cửa

Gặp một bữa anh đã mừng một bữa
Gặp hai hôm thành nhị hỉ của tâm hồn
Thơ học trò anh chất lại thành non
Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu.

Em không nói đã nghe lừng giai điệu
Em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh
Anh đã trông lên bằng đôi mắt chung tình
Với tay trắng em vào thơ diễm tuyệt

Em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết
Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng vì đâu
Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau
Để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại.

Để anh giận mắt anh nhìn vụng dại
Giận thơ anh đã nói chẳng nên lời
Em đi rồi, sám hối chạy trên môi
Những ngày thắng trên vai buồn bỗng nặng.

Em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn
Giữa hộ anh màu áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng.

Có khi nào ............ BÙI MINH QUỐC

Có khi nào

BÙI MINH QUỐC

Có khi nào trên đường đời tấp nập
Ta vô tình đi lướt qua nhau
Bước lơ đãng chẳng ngờ đang để mất
Một tâm hồn ta đã đợi từ lâu...

Hai Sắc Hoa Ti-Gôn

Hai Sắc Hoa Ti-Gôn

T.T.KH

30-10-1937

Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,
Tôi chờ người đến với yêu đương

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong
Và phương trời thẳm mờ sương, cát,
Tay vít dây hoa trắng cạnh lòng.

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài những lúc thấy tôi vui
Bảo rằng: "Hoa, dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!"

Thuở đó, nào tôi đã biết gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp: "Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy"

Đâu biết lần đi một lỡ làng,
Dưới trời đau khổ, chết yêu đương.
Người xa xăm quá! Tôi buồn lắm,
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường...

Từ đấy thu rồi, thu, lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ?
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ...
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn dấu trong tim bóng "một người"

Buồn quá! Hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Sắc hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm pha!

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi...
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu, hoa đỏ rụng. Chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy sang sông đứng ngóng đò.

Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi! Người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa... vỡ?
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?

Nguyệt cầm ............... XUÂN DIỆU

Nguyệt cầm

XUÂN DIỆU

Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.

Mây vắng trời trong đêm thủy tinh
Lung linh bóng sáng bỗng run mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh.

Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,
Đàn ghê như nước, lạnh trời ơi...
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người...

Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rộn bốn bề...
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.

Sư tập những bài thơ tứ tuyệt hay

Sư tập những bài thơ tứ tuyệt hay… xin chia sẽ cùng quí bạn
TỪ TÂM

Ta ngồi nhặt lại mãnh đời
nghe thu réo rắc đôi lời từ tâm
van xin một thoáng âm thầm
cho thơ trở lại kề nằm bên ta

ngông_usa
09/27/2009
CÓ VÀ KHÔNG

Có một chiều người rẽ qua ngõ cũ
Lòng ngổn ngang thơ thẩn bóng một chiều
Một chiều có tay em và sách vở
Phố bỗng buồn một chiều có và không

NỖI LÒNG

Thao thức canh khuya với nỗi buồn
Nhớ người yêu cũ lệ trào tuôn
Người đi giết chết con tim vỡ
Kẻ ở đau buồn khóc tình xuông
• TRÁCH

Trách trời xanh sao gây ngang trái
Ngăn đôi tim dệt mộng uyên ương
Trách ngày xưa sao em lại đến
Nhẹ nhàng trao tôi một vết thương!!
Tơ Vương


Thu nay tôi nhớ thu xưa
Vàng cây úa lá lưa thưa bên đường
Về đây tìm lại nhớ thương
Nhưng còn đâu nữa tơ vương năm nào

Thu Chờ

Anh đi mấy độ thu tàn
Mấy thu chiếc lá vẫn vàng chờ anh
Thế rồi ngày tháng qua nhanh
Mùa thu lại đến thâu canh thu chờ

CƠN LỐC XOÁY

hồn đau dâng bão tố
thơ xám dâng nấm mồ
tay đau thương chợt mỡ
cánh cữa buồn hư vô

LẠC BƯỚC

Mưa rơi lạnh giá bên thềm
Hồn yêu lạc bước sang hiên nhà người
Mộng thôi nay đã nửa vời
Tiếng yêu vướng lại ngực bồi hồi khuya


THĂM LẠI VƯỜN XƯA

Ta về thăm lại vườn xưa
Chỗ hoa đã nở , chỗ tay đã cầm
Người xưa giờ tóc hoa râm
Mà sao tình vẫn ầm ầm bão going


Nhớ người!

Người đi bỏ ngỏ đã mòn
Còn tôi ở lại vẫn còn lòng vương
Chiều nay nỗi nhớ niềm thương
Lâng lâng con sóng trùng dương đượm màu

NỢ

Nợ người một mảnh tình son
Nợ công danh bước vai mòn từ lâu
Nợ ta trả đến bạc đầu
Vẫn còn nặng khối cơ cầu trong tay

VỀ

Về qua tình đã ngang chiều
Đem câu hò hẹn đổ liều vào mơ
Ngấm ngầm chải chuốt câu thơ
Nằm nghe chân buốt bên bờ hoàng hôn .

SƯƠNG PHAI

Sương phai thấp thoáng giọt lê
Từ trong phượng úa tiếng ve gọi mùa
Bỗng dưng như thật như đùa
Về đâu tìm chút xuân xưa gọi mình

KHẼ NGHE HẠ VỀ

Khe khẽ nhé hạ về nghe rất chậm
Bên góc trường ngồi nhặt tiếng ve rơi
Phượng loang đỏ cả chùm me con gái
Thả hương em bỗng chốc lại thơm đời

CHỊ TÔI

Nửa mùa rau Đắng ... hè xưa
Nửa mùa tóc bạc chị chưa lấy chồng ...
Nửa đời vẫn nhịp long đong
Nửa sau xót dạ tấc lòng chị tôi .

Lạc

Anh lạc vào đời em
Mai vàng khoe sắc thắm
Ta lạc khỏi đời nhau
Hai tâm hồn đơn lạnh

Nợ

Nợ nhau, ta chẳng chung đường
Chỉ chung lối rẽ...yêu thương ngày nào.
Em đi , niềm nhớ hư hao
Anh về ... gió lại lao đao ru tình .

Một Nữa

Đêm qua hy vọng đã vỡ đôi
Còn lại bên tôi nữa nụ cười
Trăng buồn cũng giấu che nữa mặt
Chị Hằng khóc ngất , nữa hồn rơi

Hỏi

Trăm năm không hẹn cuộc chờ
Để ta ra ngẩn vào ngơ một mình
Hỏi người , người chỉ lặng thinh
Ta tự hỏi mình , mình lại ...thở ra

ANH ĐI .

Từ độ anh đi đời ta đã
Mất cả hồn mình bao ý thơ
Đêm mi trĩu nặng buồn thương nhớ
Tách bến thuyền xa mộng vẫn chờ ...

GIỮA

Giữa trần gian ta réo đời hiu quạnh
giữa linh hồn một thóang nhớ qua nhanh
thơ rụng xuống linh hồn tan từng mảnh
giọt lệ sầu hay mảnh vỡ long lanh ?

EM ĐẾN

Em đến hồn nhiên từ khúc nhạc
nắng đổ dịu dàng, nắng ôm ta
em đến ru mình nghe biển hát
thơ chạm cung sầu trỗ đơm hoa

ĐÁ TẢNG

ngã đời rồi cũng chia phân
tình bao nhiêu lớn cũng tàn phai thôi
anh đam mê __ chết khô đời
nào hay đá tảng dìm lời thơ đau

EM

Em ưu tư lúc ban đầu
nhân sinh là một dòng sầu trôi qua
em vô tư rất lụa là
nên rung cánh nguyệt ngọc ngà đêm thâu

NỖI NIỀM THƠ
Mưa nắng cùng chung tháng năm dài
hồn thơ ngày cũ mãi xa bay
thơ đau chất ngất từ sương khói
buồn bám trên vai đọng tháng ngày

LIỀU

Anh cầu tựong đá thành thơ
trả em ngày tháng mong chờ lúc yêu
anh mong tượng đá thành chiều
trả em cái nụ hôn liều ngày xưa

HÓA HƯ KHÔNG

anh mong tượng đá đừng gầy
trả em một chút vơi đầy con sông
tượng buồn hóa đá chờ mong
bài thơ anh hóa hư không mất rồi....

NHẶT BÓNG

Tàn phai chưa hỡi nụ cười
em xa như bóng cầu vồng hư hao
mưa về ướt lại niềm đau
anh đi nhặt bóng thương đau .......cầu vồng

GIỌT TƯƠNG TƯ

Giọt tương tư trổ xuống đời mấy nhánh
Phút liêu trai mộng mị đổ nghiêng mành
Vẫn gối mỏng từng đêm nghe mi lạnh
Mưa biến thành từng giọt lệ khô nhanh


--------------@---------------


Nguoi Phu Quet Duong


Người phu quét lá vàng xưa
ngừng tay đừng quét cơn mưa vội vàng
trong mưa ẩn hiện thiên đàng
xin đừng quét mất trăng vàng cũa thơ
ngông_usa[/quote]



Phu chỉ quét lá vàng rơi trước ngõ
Chừa búp xanh vì có một thiên đường
Trên mặt đường trơn trợt vết đau thương
Người phu đứng dấu mình vào sương khói ...

(Tháng năm qua đường thơ đã mỏi
Giấc phong trần cúi nhặt bút ta rơi ... )


Thu


Trung thu chú cuội đi đâu?
Gốc đa chỉ mỗi con trâu gật gờ
Thềm trăng tiên nữ thẫn thờ
Đêm thu văng vẳng cung tơ khóc dồn


Tri Am

Hoàng hôn hiu hắt ráng chiều
Nghìn thu huyền thoại phiêu diêu cõi nào
Buông thơ câu tự ngọt ngào
Tri âm sao mãi ngàn xa chẳng về


Niềm Riêng

Có những niềm riêng không thể nói
Đành thôi gói lại kín vùi chôn
Một ngày nào đó tâm thanh thản
Chuyện cũ ngày xưa tự vấn lòng ......

Im lặng giúp người tròn ước mộng
Vô tình cuộc sống kiếp nhân sinh
Bao nhiêu năm nữa xa trần thế
Cố gắn vén vun trọn nghĩa tình !


Tình Thơ ...

Mỗi ngày em ngắm trăng sao
Tìm trong tinh tú ngôi nào là anh
Đã từng gieo giấc mơ xanh
Ru em mộng mị tình thành bài thơ


• ĐỪNG GIẬN

Chẳng phải thu buồn, trời không nắng
Mà mình buồn vì thiếu vắng nhau
Em đừng giận tình anh hờ hửng
Chỉ vì ta chưa hiểu lòng nhau!!

• RÊU PHONG

Ngàn năm đợi một lần hội ngộ
Trăm năm say một kiếp đa tình
Nhưng một cõi không em đời tôi cũng
Thành rêu phong sỏi đá mấy triệu năm


Viết 14/10/2009
---------- Xuân Hoà ---------
DUYÊN PHẬN

Giữa dòng đã giữa dòng chưa
Lênh đênh bèo dạt bao giờ bên nhau
Ai ngờ chẳng phận trước sau
Cau trầu không quyện khổ đau thân tằm


Mưa Tháng Bảy


Ai về tháng bảy mưa dầm
Đường đê trơn trượt áo thâm lấm bùn
Sao em đỏ má thẹn thùng
Để anh đêm mộng ngượng ngùng ... ngỏ yêu

• Mưa cuối ngày

Cuối ngày mưa cứ lả lơi
Buông lời trêu chọc ai cười ai đau
Giọt mưa thấm đất nông sâu
Mà sao ai cứ gieo sầu trong tim


LẠC



Nửa vầng trăng khuyết, tình ta khuyết
Đời lạc nhau rồi ,lạc cả thơ
Đêm nghe tiếng gió chao cành nhớ
Lại giận ai về trong cõi mơ


Thơ lãng du

Thơ chỉ là thơ mộng lãng du
Trái tim xao xuyến giữa mùa thu
Một làn gió nhẹ mơn cành lá
Mà ngỡ như tình ngọt tiếng ru

MÙA THU NHỚ HƯƠNG XƯA

Mời người cạn chén hoàng hoa
Để ta say khướt đậm đà mùa thu
Cúc vàng xưa ấy nở chưa
Mà sao thơm mãi hương thừa năm nao

Lòng mẹ .......... Tác giả: Nguyễn Bính

Lòng mẹ
Tác giả: Nguyễn Bính




Gái lớn ai không phải lấy chồng
Can gì mà khóc, nín đi không!
Nín đi, mặc áo ra chào họ
Rõ quý con tôi, các chị trông!

Ương ương dở dở quá đi thôi!
Cô có còn thương đến chúng tôi
Thì đứng lên nào! Lau nước mắt
Mình cô làm bận mấy mươi người.

Này áo đồng lầm, quần lĩnh tía
Này gương, này lược, này hoa tai
Muốn gì tôi sắm cho cô đủ
Nào đã thua ai, đã kém ai?

Ruộng tôi cày cấy, dâu tôi hái
Nuôi dạy em cô tôi đảm đương
Nhà cửa tôi coi, nợ tôi giả
Tôi còn mạnh chán! Khiến cô thương!

Ðưa con ra đến cửa buồng thôi,
Mẹ phải xa con, khổ mấy mươi!
Con ạ! đêm nay mình mẹ khóc
Ðêm đêm mình mẹ lại đưa thoi.

Chân quê ......... Tác giả: Nguyễn Bính

Chân quê
Tác giả: Nguyễn Bính


Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi!

Nào đâu cái yếm lụa sồi?
Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?
Nào đâu cái áo tứ thân?
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?

Nói ra sợ mất lòng em
Van em em hãy giữ nguyên quê mùa
Như hôm em đi lễ chùa
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh!

Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.

Hoa trắng thôi cài trên áo tím .........Tác giả: Kiên Giang

Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Tác giả: Kiên Giang


I.
Lâu quá không về thăm xóm đạo
Từ ngày binh lửa xoá không gian
Khói bom che lấp chân trời cũ
Che cả người thương, nóc giáo đường

Mười năm trước, em còn đi học
Áo tím điểm tô đời nữ sinh
Hoa trắng cài duyên trên áo tím
Em là cô gái tuổi băng trinh

Trường anh ngó mặt giáo đường
Gác chuông thương nhớ lầu chuông
U buồn thay! Chuông nhạc đạo
Rộn rã thay! Chuông nhà trường

II.
Lần kia anh ghiền nghe tiếng chuông
Làm thơ sầu mộng dệt tình thương
Để nghe khe khẽ lời em nguyện
Thơ thẩn chờ em trước thánh đường

Mỗi lần tan lễ, chuông ngừng đổ
Hai bóng cùng đi một lối về
E lệ, em cầu kinh nho nhỏ
Thẹn thùng, anh đứng lại, không đi

III.
Sau mười năm lẻ anh thôi học
Nức nở chuông trường buổi biệt ly
Rộn rã từng hồi chuông xóm đạo
Tiễn nàng áo tím bước vu quy

Anh nhìn áo cưới mà anh ngỡ
Chiếc áo tang liệm khối tuyệt tình
- Hoa trắng thôi cài lên áo tím
Thôi còn đâu nữa tuổi băng trinh

Em lên xe cưới về quê chồng
Dù cách đò ngang, cách mấy sông
Anh vẫn yêu em người áo tím
Nên tình thơ ủ kín trong lòng

IV.
Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương
Giữ tà áo tím, người yêu cũ
Giữ cả lầu chuông, nóc giáo đường

Mặc dù em chẳng còn xem lễ
Ở giáo đường u tịch chốn xưa
Anh vẫn giữ lầu chuông gác thánh
Nghe chuông truy niệm mối tình thơ

Màu gạch nhà thờ còn đỏ thẫm
Như tình nồng thắm thuở ban đầu
Nhưng rồi sau chuyến vu quy ấy
Áo tím tình thơ đã nhạt màu

V.
Ba năm sau chiếc xe hoa cũ
Chở áo tím về trong áo quan
Chuông đạo ngân vang hồi vĩnh biệt
Khi anh ngồi kết vòng hoa tang

Anh kết vòng hoa màu trắng lạnh
Từng cài trên áo tím ngây thơ
Hôm nay vẫn đoá hoa màu trắng
Anh kết tình chung gởi xuống mồ

VI.
Lâu quá không về thăm xóm đạo
Không còn đứng nép ở lầu chuông
Những khi chuông đổ anh liên tưởng
Người cũ cầu kinh giữa thánh đường

“Lạy Chúa con là người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa ở trên cao
Trong lòng còn giữ màu hoa trắng
Cứu rỗi linh hồn con, Chúa ơi !”

Bến Tre, 14-11-1958

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Anh Bằng phổ nhạc thành nhạc phẩm cùng tên.

Đừng bỏ em một mình Tác giả: Minh Đức Hoài Trinh

Đừng bỏ em một mình
Tác giả: Minh Đức Hoài Trinh


Đừng bỏ em một mình
Khi trăng về lạnh lẽo
Khi chuông chùa u minh
Chậm rãi tiếng cầu kinh

Đừng bỏ em một mình
Khi mưa chiều rào rạt
Lũ chim buồn xơ xác
Tìm nhau gục vào mình

Đừng bỏ em một mình
Trời đất đang làm kinh
Rừng xa quằn quại gió
Thu buốt vết hồ tinh

Đừng bỏ em một mình
Đừng bắt em làm thinh
Cho em gào nức nở
Hòa đại dương mông mênh

Đừng bỏ em một mình
Biển đêm vời vợi quá
Bước chân đời nghiêng ngả
Vũ trụ vàng thênh thênh

Đừng bỏ em một mình
Môi vệ thần không linh
Tiếng thời gian rền rĩ
Đường nghĩa trang gập ghềnh

Đừng bỏ em một mình
Bắt em nghe tiếng búa
Tiếng búa nện vào đinh
Hòa trong tiếng u minh

Đừng bỏ em một mình
Bóng thuyền ma lênh đênh
Vòng hoa tang héo úa
Yêu quái vẫn vô tình

Đừng bỏ em một mình
Cho côn trùng rúc rỉa
Cỏ dại phủ mộ trinh
Cho bão tố bấp bênh

Đừng bỏ em một mình
Mấy ngàn năm sau nữa
Ai mái tóc còn xinh
Đừng bỏ em một mình

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành nhạc phẩm cùng tên.

Ngậm ngùi ..............Tác giả: Huy Cận

Ngậm ngùi
Tác giả: Huy Cận



Nắng chia nửa bãi, chiều rồi…
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu.
Sợi buồn con nhện giăng mau,
Em ơi! Hãy ngủ, anh hầu quạt đây.
Lòng anh mở với quạt này,
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ đi em, mộng bình thường!
Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ…
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ…
- Hồn em đã chín mấy mùa thương đau ?
Tay anh em hãy tựa đầu,
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi…

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành nhạc phẩm cùng tên.

Mẹ đi chọn mặt gửi vàng ...........Tác giả: Bùi Minh Quốc

Mẹ đi chọn mặt gửi vàng
Tác giả: Bùi Minh Quốc



Suốt một đời bạc tóc dưới mưa bom,
Mẹ lầm lũi đào hầm nuôi cách mạng.
Đào cho thủng đêm đen, cho đến ngày hực sáng,
Mẹ chống gậy đi chọn mặt gởi vàng.

Mẹ đâu còn vàng! Còn một chút lòng tin,
Chọn mặt nào mà gửi ?
Này có phải mặt này từ hầm mẹ trồi lên ?
Mẹ nhìn mãi nét mờ nét tỏ.

Mẹ nhìn suốt những mặt con đầy tớ,
Mặt đứa nào cũng béo tốt phương phi,
Cầm cuốc một đời, cầm bút bỗng vân vi.
Chọn mặt nào mà gửi ?
Chọn mặt nào cho máu mình đỡ tủi ?

Đà Lạt, 7-7-1992

Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây ..........Tác giả: Phạm Tiến Duật

Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây
Tác giả: Phạm Tiến Duật




Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Ðường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Ðông nhớ Trường Sơn Tây.

Một dãy núi mà hai màu mây
Nơi nắng nơi mưa, khí trời cũng khác
Như anh với em, như Nam với Bắc
Như Ðông với Tây một dải rừng liền.

Trường Sơn Tây anh đi, thương em
Bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo
Muỗi bay rừng già cho dài tay áo
Rau hết rồi, em có lấy măng không.

Em thương anh bên Tây mùa đông
Nước khe cạn bướm bay lèn đá
Biết lòng anh say miền đất lạ
Chắc em lo đường chắn bom thù

Anh lên xe, trời đổ cơn mưa
Cái gạt nước xua tan nỗi nhớ
Em xuống núi nắng về rực rỡ
Cái nhành cây gạt nỗi riêng tư.

Ðông sang Tây không phải đường như
Ðường chuyển đạn và đường chuyển gạo
Ðông Trường Sơn, cô gái “ba sẵn sàng” xanh áo
Tây Trường Sơn bộ đội áo màu xanh.

Từ nơi em gửi đến nơi anh
Những đoàn quân, trùng trùng ra trận
Như tình yêu nối lời vô tận
Ðông Trường Sơn, nối Tây Trường Sơn.

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc thành nhạc phẩm cùng tên.

Bài ca Trường Sơn ....... Tác giả: Gia Dũng

Bài ca Trường Sơn
Tác giả: Gia Dũng


Trường Sơn! Đường ta qua chưa một dấu chân người
Chú nai vàng nghiêng đôi tai ngơ ngác
Dừng ở lưng đèo nghe suốt hát
Ngắt đóa hoa rừng gài lên mũ, ta đi!

Trường Sơn! Đèo vút cao vượt trên bây gió
Đạp nát đá tai mèo bằng sức pháo ngàn cân
Đi ta đi những trai làng Phù Đổng
- Gì vui hơn đường ra trận mùa xuân!

Ôi những vì sao thức cùng ta đêm đêm không mỏi
Như mắt em mang trọn niềm tin yêu chờ đợi
Như ngọn hải đăng vời vợi nghìn trùng
Giục lòng ta vượt Trường Sơn
đi luyện chí anh hùng

Miền Nam gọi ta bằng tiếng pháo xé trời Đà Nẵng
Bằng đường lê ngang dọc Sài Gòn
Bằng Huế hiên ngang tung bay cờ Giải Phóng
Từng phút từng giờ thôi thúc, Trường Sơn!

Trường Sơn ơi! Ta biết người còn mang gánh nặng
Nhức nhối nửa đầu đòn gánh: miền Nam!
Nhớ má Năm Căn, thương em Cửa Việt
Mười bốn năm – một giấc ngủ chưa tròn!

Miền Nam! Miền Nam! Lửa đốt lòng ta
Hỡi Trường Sơn hãy biến thành con ngựa sắt
Và rừng xanh thành vạn khóm tre ngà
Cho con cháu Bác Hồ làm Thiên Vương đuổi giặc

Đêm nay ta đi, Trường Sơn lộng gió
Trời vắng trăng sao nhưng trong tim rực lửa
- Đi ta làm ngọn sóng giữa trùng dương
Quật xuống đầu thù bằng sức mạnh Trường Sơn!

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Trần Chung phổ nhạc thành nhạc phẩm cùng tên.

Bài thơ bên suối ........... Tác giả: Văn Cao

Bài thơ bên suối
Tác giả: Văn Cao


Suối mơ bên rừng thu vắng
Dòng nước trôi lững lờ ngoài nắng
Ngày chưa đi sao gió vương?
Bờ xanh ngát bóng đôi cây thùy dương

Suối ơi ôi nguồn yêu mến
Còn ghi khi bóng ai tìm đến
Đàn ai ngân buông lưu luyến
Suối hát theo đôi chim uyên

Từng hẹn mùa xưa
Cùng xây nhà bên suối
Nghe suối róc rách trôi
Hoa lừng hương gió ngát
Đàn ai đùa trong khóm lá vàng tươi

Tơ đàn chùng nhớ tháng năm
Rừng còn nhớ tới người
Trong chiều nào giữa chốn đây
Hồn cầm lắng tiếng đời

Suối ơi nghe rừng ca hát
Dòng êm đưa lá khô vàng trôi
Còn như dư hương yêu dấu
Với suối xưa trôi nơi đâu?…

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Văn Cao phổ nhạc thành nhạc phẩm Suối mơ.

Thơ tình người lính biển ...........Tác giả: Trần Đăng Khoa

Thơ tình người lính biển
Tác giả: Trần Đăng Khoa


Anh ra khơi
Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng
Phút chia tay, anh dạo trên bến cảng
Biển một bên và em một bên

Biển ồn ào, em lại dịu êm
Em vừa nói câu chi rồi mỉm cười lặng lẽ
Anh như con tàu, lắng sóng từ hai phía
Biển một bên và em một bên

Ngày mai, ngày mai khi thành phố lên đèn
Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc
Thăm thẳm nước trời, nhưng anh không cô độc
Biển một bên và em một bên

Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên
Bão thổi chưa ngừng trong những vành tang trắng
Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng
Biển một bên và em một bên.

Vòm trời kia có thể sẽ không em
Không biển nữa. Chỉ còn anh với cỏ
Cho dù thế thì anh vẫn nhớ
Biển một bên và em một bên

Đưa em tìm động hoa vàng ------Tác giả: Phạm Thiên Thư

Đưa em tìm động hoa vàng
Tác giả: Phạm Thiên Thư



1
Mười con nhạn trắng về tha
Như Lai thường trụ trên tà áo xuân
Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền
Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm

2
Xe lên bụi quán hoa đường
Qua sương trắng dậm phố phường úa thu
Tiếng chim ướt sũng hai mùa
Hạt rơi thêm lạnh hững hờ mây qua

3
Dế buồn dỗ giấc mù sa
Âm nao lãng đãng tơ ngà sương bay
Người về sao nở trên tay
Với hài đẫm nguyệt thêm dài gót mơ

4
Con khuyên nó hót trên bờ
Em thay áo tím thờ ơ giang đầu
Tưởng xưa có kẻ trên lầu
Ngày xuân gieo nhẹ trái cầu gấm hoa

5
Tóc dài cuối nội mây xa
Vàng con bướm nhụy lẫn tà huy bay
Dùng dằng tay lại cầm tay
Trao nhau khăn lụa nhớ ngày sầu đưa

6
Từ chim thủa núi xa xưa
Về đây rớt lại hạt mơ cuối rừng
Từ em khép nép hài xanh
Về qua dục nở hồn anh đóa sầu

7
Ừ thì mình ngại mưa mau
Cũng đưa anh đến bên cầu nước xuôi
Sông này chảy một dòng thôi
Mây đầu sông thẫm tóc người cuối sông

8
Ngày xưa em chửa theo chồng
Mùa xuân em mặc áo hồng đào rơi
Mùa thu áo biếc da trời
Sang đông em lại đổi dời áo hoa

9
Đường về hái nụ mù sa
Đưa theo dài một nương cà tím thôi
Thôi thì em chẳng yêu tôi
Leo lên cành bưởi nhớ người rưng rưng

10
Sao em bước nhỏ ngập ngừng
Bên cầu sương rụng mấy từng mai mơ
Đêm về thắp nến làm thơ
Tiếng chân còn vọng nửa tờ thơ tôi

11
Đôi uyên ương trắng bay rồi
Tiếng nghe tha thiết bên trời chớm đông
Nửa đêm đắp mảnh chăn hồng
Lại nghe hoa lạnh ngoài đồng thiết tha

12
Con chim chết dưới cội hoa
Tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao
Mai anh chết dưới cội đào
Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu

13
Tường thành cũ phiến bia xưa
Hồn dâu biển gọi trong cờ lau bay
Chiều xanh vòng ngọc trao tay
Tặng nhau khăn lụa cuối ngày ráng pha

14
Đêm dài ươm ngát nhụy hoa
Chim kêu cửa mộ trăng tà gõ bia
Em ơi rủ tóc mây về
Nhìn trăng nỡ để lời thề gió bay

15
Đợi nhau tàn cuộc hoa này
Đành như cánh bướm đồi tây hững hờ
Tìm trang lệ ố hàng thơ
Chữ xưa quyên dục bây giờ chim di

16
Mây xưa cũng bỏ non về
Em xưa cũng giã câu thề đó đây
Nhớ đành biết mấy tầm tay
Lông chim biển bắc hoa gầy bãi đông

17
Đợi ai trăng rõi hoa buồn
Vắng em từ thủa theo buồm gió xuôi
Chiều chiều mở cổng mây trôi
Chênh vênh núi biếc mắt ngời sao hôm

18
Thế thôi phố bụi xe hồng
Hồ ngăn ngắt đục đôi dòng nhạn bay
Đưa nhau đấu rượu hoa này
Mai đi dã hạc thành ngoài cuồng ngâm

19
Xuống non nhớ suối hoa rừng
Vào non nhớ kẻ lưng chừng phố mây
Về thành nhớ cánh chim bay
Xa thành thương vóc em gầy rạc hoa

20
Hạc xưa về khép cánh tà
Tiếng rơi thành hạt mưa sa tần ngần
Em về hong tóc mùa xuân
Trăng trầm hương tỏa dưới chân một vành

21
Em nằm ngó cội thu xanh
Môi ươm đào lý một nhành đôi mươi
Về em vàng phố mây trời
Tay đơm nụ hạ hoa dời gót xuân

22
Thì thôi tóc ấy phù vân
Thì thôi lệ ấy còn ngần dáng sương
Thì thôi mù phố xe đường
Thôi thì thôi nhé đoạn trường thế thôi

23
Gầy em vóc cỏ mây dời
Tay em mai nở chân trời tuyết pha
Ngày dài ngựa soải cầm ca
Trán cao ngần nửa trăng tà ngậm sương

24
Xe lăn bánh nhỏ bụi hường
Lao xao vó rụng trên đường phố mây
Mưa giăng ráng đỏ hao gầy
Đôi con ngựa bạch ném dài tuyết sa

25
Chim nào hát giữa thôn hoa
Tay nào hong giữa chiều tà tóc bay
Lụa nào phơi nắng sông tây
Áo xuân hạ nọ xanh hoài thu đông

26
Con chim mùa nọ chưa chồng
Cũng bay rời rã trong dòng xuân thu
Từ em giặt áo đông tơ
Nay nghe lòng suối hững hờ còn ngâm

27
Thuyền ai buông lái đêm rằm
Sông thu ngân thoảng chuông trăng rì rào
Cửa sương nhẹ mở âm vào
Lay nghiêng bầu nậm rượu đào trầm ca

28
Lên non cuốc sỏi trồng hoa
Xuôi thuyền lá trúc la đà câu sương
Vớt con cá nhỏ lòng đòng
Mải vui lại thả xuống dòng suối tơ

29
Vào non soi nguyệt tầm rùa
Đọc trên mai nhỏ xanh tờ lạc thư
Thả rùa lại đứng ưu tư
Muốn qua hang động sống như nguyệt rùa

30
Em nghiêng nón hạ cầu mưa
Sông ngâm mây trắng nước chưa buồn về
Hoa sầu cỏ cũng sầu chia
Lơ thơ xanh tụ đầm đìa vàng pha

31
Đất nam có lão trồng hoa
Mùa hoàng cúc nở ướp trà uống đông
Lại đem bầu ngọc ra trồng
Bầu khô cất nậm rượu hồng uống xuân

32
Người vui ngựa chợ xe thành
Ta leo cầu trúc bên ghềnh thác rơi
Theo chân chim gặp mây trời
Lại qua khói động hỏi người tu non

33
Bông hoa trắng rụng bên đường
Cánh thơm thông điệp vô thường tuyết băng
Con ong nhỏ mới ra giàng
Cũng nghiêng đôi cánh nhụy vàng rụng rơi

34
Mùa xuân bỏ vào suối chơi
Nghe chim hát núi gọi trời xuống hoa
Múc bình nước mát về qua
Ghé thôn mai nọ hỏi trà mạn xưa

35
Chim từ bỏ động hoa thưa
Người từ tóc biếc đôi bờ hạ đông
Lên non kiếm hạt tơ hồng
Đập ra chợt thấy đôi dòng hạc bay

36
Người về đỉnh núi sương tây
Ta riêng nằm lại đợi ngày mướp hoa
Bến nam có phố giang hà
Nghiêng nghiêng nậm ngọc dốc tà huy say

37
Tình cờ anh gặp nàng đây
Chênh chênh gót nguyệt vóc gầy liễu dương
Qua sông có kẻ chợt buồn
Ngó hoa vàng rụng bên đường chớm thu

38
Mốt mai em nhớ bao giờ
Bãi dâu vãn mộ cho dù sắc không
Chân chim nào đậu bên cồn
Ngựa xuôi có kẻ lại buồn dấu chim

39
Đợi người cuộc mộng thâu đêm
Sông Ngân trở lệ dài thêm dòng nhòa
Anh nằm gối cỏ chờ hoa
Áo em bạch hạc la đà thái hư

40
Em từ rửa mặt chân như
Nghiêng soi hạt nước mời hư không về
Thâu hương hiện kính bồ đề
Phấn son chìm lắng hạt mê luân hồi

41
Ta về rũ áo mây trôi
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say

42
Ngựa xưa qua ải sương này
Còn nghe nhạn lạc kêu hoài bãi sông
Nước xuôi gờn gợn mây hồng
Tiếng ca lạnh thấu hoàng hôn giục đò

43
Hoa đào tưởng bóng đào xưa
Thuyền sang bến nọ dòng mờ khói vơi
Hoa dương vàng nhạt sầu người
Ta về uống nước sông khuây khỏa lòng

44
Đưa nhau đổ chén rượu hồng
Mai sau em có theo chồng đất xa
Qua đò gõ nhịp chèo ca
Nước xuôi làm rượu quan hà chuốc say

45
Khăn trăng từ độ trao tay
Nửa tan cát suối nửa mài nghiên sương
Mốt mai lòng có nghe buồn
Mảnh trăng hiện hóa thiên đường cõi chơi

46
Nhện cheo leo mắc tơ trời
Dòng chim qua hỏi mộ người tà dương
Đánh rơi hạt mận bên đường
Xuân sau mọc giữa chân thường cội hoa

47
Nụ vàng hương rộ tháng ba
Nửa đêm dậy ngó trăng tà tiêu tương
Chẳng như cội liễu bờ dương
Tóc xanh mướt giữa vô thường sắc không

48
Mai nào thơm ngát thu đông
Lược em chải rụng đôi dòng tơ xanh
Đôi chim hồng yến trên cành
Ngẩn ngơ quên rỉa lông mình điểm trang

49
Mùa xuân mặc lá trên ngàn
Mùa thu mặc chú bướm vàng tương tư
Động nam hoa có thiền sư
Đổi kinh lấy rượu tâm hư uống tràn

50
Nến khuya lửa hắt hiu vàng
Trang kinh lác đác đôi hàng nhạn sa
Ý nào hóa hiện ngàn hoa
Chữ nào cẩn nguyệt trên tà áo ni

51
Dỗ non suối giọng thầm thì
Độ tam thế mộng xá gì vóc hoa
Ni cô hiện giữa ta bà
Búp tay hồng ngọc nâng tà áo trăng

52
Tiếng chim trong cõi vô cùng
Nở ra bát ngát trên rừng quế hương
Tiếng em hát giữa giáo đường
Chúa về trong những thánh chương bàng hoàng

53
Đố ai nhớ hết hoa vàng
Đố ai uống cạn sương tàng trăng thâu
Đố ai tát cạn mạch sầu
Thì ta để tóc lên cầu đón ai

54
Em về sương đẫm hai vai
Dấu chân là cánh lan dài nở đêm
Từ em hé nụ cười huyền
Mùa thu đi mất trên miền cỏ hoa

55
Guốc mòn lẫn tiếng sơn ca
Sư về chống gậy trúc qua cầu này
Ngó bờ suối lạnh hoa bay
Thương sao giòng nước trôi hoài thiên thanh

56
Có con cá mại cờ xanh
Bơi lên nguồn cội tắm nhành suối xuân
Nửa dòng cá gặp phù vân
Hỏi sao mây bỏ non thần xuống chơi

57
Dù mai lều cỏ chân trời
Khơi hương lò cũ khóc người trong thơ
Em còn ửng má đào tơ
Tóc xưa dù có bây giờ sương bay

58
Lên non ngắt đóa hoa này
Soi nghiêng đáy suối bóng ai nhạt nhòa
Nom hoài chẳng rõ là ta
Tắm xong khoác áo hát ca về làng

59
Tay đeo vòng ngọc xênh xang
Áo em bay giải tơ vàng thiết tha
Bước chân tìm chán ta bà
Ngừng đây nó hỏi: đâu là vô minh

60
Hỏi con vạc đậu bờ kinh
Cớ sao lận đận cái hình không hư
Vạc rằng: thưa bác thiên thư
Mặc chi cái áo thiền sư ỡm ờ

61
Nước đi từ thủa bao giờ
Dòng xuôi người đứng trên bờ ngó xuôi
Chừng đâu dưới bến hoa tươi
Buộc thuyền xưa đã có người ngó sông

62
Từ hôm em bỏ theo chồng
Áo trắng em cất áo hồng em mang
Chiều nay giở lại bàng hoàng
Mười năm áo cũ hoe vàng lệ xanh

63
Đôi chim nho nhỏ trên cành
Giục nhau đan tổ cỏ xanh bên đường
Nửa đời mây nước du phương
Thiền sư ngắt cỏ cúng dường phật thân

64
Gò chiều ùn bụi sương lên
Hỏi ra mới biết nơi yên cành vàng
Bên mồ chồn cáo đùn hang
Chim kêu như lảnh tiếng nàng ngân nga

65
Cuối xuân ta lại tìm qua
Tiểu thư chi mộ thềm hoa dại tàn
Sớm thu ta đánh đò sang
Bên đường cỏ mộ lại vàng cúc hoa

66
Trúc thưa cổng gió ơ hờ
Em ra tựa cửa nghĩ chưa lấy chồng
Sông ơi xanh nhé một dòng
Mùa xuân cắp rổ ra đồng vớt hoa

67
Đường dài xao xác chim ca
Người còn khoác nón theo tà dương nao
Ván cờ bày trắng bông đào
Sao lên núi thẫm trăng vào chén không

68
Đồi thu vắt suối mây hồng
Chim xanh lác đác ngược dòng hoa tiên
Bấc sầu lửa lụn chờ em
Lệ xưa ai đã đổ nên dầu này

69
Đón em như ngóng chim trời
Bãi xuân sớm đậu chiều dời khói thu
Em còn áo trắng ngày xưa
Trong anh muôn thủa bao giờ lệ hoen

70
Khơi trầm thơm tụng kinh hiền
Máu xuân mạch lạnh trong miền xương da
Vườn chùa có nụ hàm ca
Sương khuya: pháp bảo trăng tà: vô môn

71
Mai tươi cánh nở bên cồn
Mưa bay lấm tấm cành hương trắng ngời
Thu đông tàng ẩn kho trời
Hạt rơi rụng ngọc cánh rời rã hoa

72
Cổng làng mở cánh sao sa
Nhã lan loáng thoáng tiếng gà xóm mai
Lên chùa dâng dĩa hoa nhài
Chợt viền trăng lạnh trên hài tổ sư

73
Chuông ngân chiều lặng trầm tư
Tiếng lơi đẫm hạt thiên thư bềnh bồng
Điệu về tay giấu chùm bông
Gót chân đất phật trổ hồng hằng sa

74
Bóng trăng tịch mặc hiên nhà
Thành đàn nẩy hạt tỳ bà quyện hương
Gió thu từ độ tha phương
Về trên hốc gỗ bên đường lặng im

75
Áo em vạt tím ngàn sim
Nửa nao nức gọi nửa im lặng chờ
Yêu nhau từ độ bao giờ
Gặp đây giả bộ hững hờ khói bay

76
Tình cờ như núi gặp mây
Như sương đậu cánh hoa gầy tiêu dao
Tỉnh ra thì giấc chim bao
Chuyện mười năm cũ lại nao nao lòng

77
Cành sen lá chĩu sương trong
Áo ni xám vạt trời hong buồn về
Tay nào nghiêng nón thơ che
Tay nào lần chuỗi bồ đề xanh xao

78
Đôi mày là phượng cất cao
Đôi môi chín ửng khoé đào rừng mơ
Tiếng nàng vỡ bạc thành thơ
Tụng dòng kinh tuệ trên tờ khói mây

79
Tóc em rừng ngát hương say
Tay em dài nụ hoa lay dáng ngà
Mắt xanh bản nguyện di đà
Bước trầm hương nhẹ lẫn tà dương chim

80
Mắt nàng ru chiếc nôi êm
Ru hồn tôi ngủ ngàn đêm tuyệt vời
Em là hoa hiện dáng người
Tôi là cánh bướm cung trời về say

81
Một đêm nằm ngủ trong mây
Nhớ đâu tiền kiếp có cây hương trời
Cây bưởi trắng ngát hương đời
Nụ là tay phật chỉ người qua sông

82
Non xanh khoác áo sương hồng
Con chim điểm tuyết ngoài đồng vụt bay
Tiếng kêu lạnh buốt lòng tay
Ngón buông lại chợt tuôn đầy lòng hoa

83
Em bên cửa chuốt tay ngà
Cội lan đông mặc nở qua mấy nhành
Ngày em ướp áo hồ xanh
Con uyên tha thiết trên cành gọi thu

84
Ni về khép cửa chùa tu
Sớm mai mở cổng quét thu vườn hồng
Thu vương ngọn chổi đôi bông
Thoảng dâng hương lạ bướm vòng cánh duyên

85
Sư lên chót đỉnh rừng thiền
Trong tim chợt thắp một viền tà dương
Ngón tay nở nụ đào hương
Cầm nghiêng tịnh độ một phương diệu vời

86
Một dòng hoa nổi trên trời
Một dòng hoa nở trong người trầm tư
Cánh nào mở cõi không hư
Phiến băng tuyết khảm một tờ kim cang

87
Thư em ướp nụ lan vàng
Lời em gió núi chiên đàn thoảng xa
Áo em phất cõi di đà
Ngón chân em nở cánh hoa đại từ

88
Chênh vênh đầu trượng thiền sư
Cửa non khép ải sương mù bóng ai
Non xanh ướm hỏi trang đài
Trăm năm còn lại dấu hài động hoa

89
Ngày xưa bên dậu vàng hoa
Chiều chiều kê chõng nằm ra ngó trời
Năm sau em bỏ đi rồi
Ta về ngồi lắng mưa rơi giậu buồn

90
Trên nền gạch nẻ rêu phong
Xưa phơi nhã điệu giờ hong đóa quì
Trẻ đào bãi cỏ xanh rì
Được thanh kiếm quỉ bao kỳ thu han

91
Non đem nhạn nhốt trong thành
Cho sông chưa trở yếm xanh dưới cầu
Người còn dệt lụa tằm dâu
Đêm nghe mưa rụng thiên thâu ngoài giàn

92
Núi nghiêng suối vắt tơ đàn
Nhìn ngoài thạch động mưa vàng lưa thưa
Nghiêng bình trà nhớ hương xưa
Từ vàng hoa nọ bây giờ vàng hoa

93
Sáng nghe lan rụng mái nhà
Chừng như mưa nhẹ núi xa mùa này
Đường về mù mịt ngàn mây
Về nam đôi cánh chim bay xạc xào

94
Mây dù chẳng chất non cao
Đường về dù chẳng sông đào nông sâu
Đêm đêm lòng dục nẻo sầu
Thềm trăng ngỡ tưởng hoa cau rụng thầm

95
Nhớ cha giọt lệ khôn cầm
Dưới trăng lấp lánh như trâm vân quỳnh
Nghiêng ly mình cạn bóng mình
Tay ôm vò nguyệt một bình mây bay

96
Gối tay nệm cỏ nằm say
Gõ vào đá tụng một vài biển kinh
Mai sau trời đất thái bình
Về lưng núi phượng một mình cuồng ca

97
Gây giàn thiên lý vàng hoa
Lên non cắt cỏ lợp nhà tụ mây
Xuống đầm tát cá xâu cây
Bới khoai vùi lửa nằm dài nghe chim

98
Khách xa nhớ đến nhau tìm
Lên đồi trẩy một giỏ sim làm quà
Hứng nước suối thết bình trà
Hái bầu nấu bát canh hoa cười khàn

99
Vào hang núi nhập niết bàn
Tinh anh nở đóa hoa vàng cửa khe
Mai sau thí chủ nào nghe
Tìm lên xin hỏi một bè mây xanh

100
Hoa vàng ta để chờ anh
Hiện thân ta hát trên cành tâm mai
Trần gian chào cõi mộng này
Sông Ngân tìm một bến ngoài hóa duyên

Hoa tím ngày xưa ...........Tác giả: Cao Vũ Huy Miên

Hoa tím ngày xưa
Tác giả: Cao Vũ Huy Miên

Tháng Mười Hai
9
Con đường em về ban trưa
Hoa tím nghiêng nghiêng đợi chờ
Tuổi em vừa tròn mười bảy
Tóc em vừa chớm ngang vai

Con đường em về mưa bay
Ta đứng trông theo bao ngày
Từ bao giờ lòng cứ ngỡ
Yêu người mà nào có hay!

Con đường em về thơm hương
Ngọc lan khuya rụng trong vườn
Tiếng dương cầm đâu lặng lẽ
Đưa ta về phía cuối đường

Con đường em về năm xưa
Có biết hay chăng bây giờ
Hoa tím thôi không chờ nữa
Chỉ còn ta đứng dưới mưa…


Con đường em về ban trưa
Hoa tím nghiêng nghiêng đợi chờ
Tuổi em vừa tròn mười bảy
Tóc em vừa chớm ngang vai

Con đường em về mưa bay
Ta đứng trông theo bao ngày
Từ bao giờ lòng cứ ngỡ
Yêu người mà nào có hay!

Con đường em về thơm hương
Ngọc lan khuya rụng trong vườn
Tiếng dương cầm đâu lặng lẽ
Đưa ta về phía cuối đường

Con đường em về năm xưa
Có biết hay chăng bây giờ
Hoa tím thôi không chờ nữa
Chỉ còn ta đứng dưới mưa…

Ngày xưa Hoàng Thị .............Tác giả: Phạm Thiên Thư

Ngày xưa Hoàng Thị
Tác giả: Phạm Thiên Thư



Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ
Chim non dấu mỏ
Dưới cội hoa vàng

Bước em thênh thang
Áo tà nguyệt bạch
Ôm nghiêng cặp sách
Vai nhỏ tóc dài

Anh đi theo hoài
Gót giầy thầm lặng
Đường chiều úa nắng
Mưa nhẹ bâng khuâng

Em tan trường về
Cuối đường mây đỏ
Anh tìm theo Ngọ
Dấu lau lách buồn

Tay nụ hoa thuôn
Vương bờ tóc suối
Tìm lời mở nói
Lòng sao ngập ngừng

Lòng sao rưng rưng
Như trời mây ngợp
Hôm sau vào lớp
Nhìn em ngại ngần

Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ
Trao vội chùm hoa
Ép vào cuối vở

Thương ơi vạn thuở
Biết nói chi nguôi!

Em mỉm môi cười
Anh mang nỗi nhớ
Hè sang phượng nở
Rồi chẳng gặp nhau

Ôi mối tình đầu
Như đi trên cát
Bước nhẹ mà sâu
Mà cũng nhoà mau

Tưởng đã phai màu
Đường chiều hoa cỏ
Mười năm rồi Ngọ
Tình cờ qua đây

Cây xưa vẫn gầy
Phơi nghiêng ráng đỏ
Áo em ngày nọ
Phai nhạt mấy màu?

Chân tìm theo nhau
Còn là vang vọng
Đời như biển động
Xoá dấu ngày qua

Tay ngắt chùm hoa
Mà thương mà nhớ
Phố ơi muôn thủa
Giữ vết chân tình

Tìm xưa quẩn quanh
Ai mang bụi đỏ
Dáng em nho nhỏ
Trong cõi xa vời

Tình ơi! Tình ơi!

Hương thầm .................Tác giả: Phan Thị Thanh Nhàn

Hương thầm
Tác giả: Phan Thị Thanh Nhàn



Cửa sổ hai nhà cuối phố
Chẳng hiểu vì sao không khép bao giờ
Đôi bạn ngày xưa học chung một lớp
Cây bưởi sau nhà ngan ngát hương đưa

Giấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay
Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm
Bên ấy có người ngày mai ra trận
Bên ấy có người ngày mai đi xa

Họ ngồi im chẳng biết nói chi
Mắt chợt tìm nhau rồi lại quay đi
Nào ai đã một lần dám nói!
Hoa bưởi thơm cho lòng bối rối
Anh chẳng dám xin, cô gái chẳng dám trao
Chỉ mùi hương đầm ấm, thanh tao
Không giấu được cứ bay dịu nhẹ

Cô gái như chùm hoa lặng lẽ
Nhờ hương thầm nói hộ tình yêu
Anh vô tình, anh chẳng biết điều!
Tôi đã đến với anh rồi đấy…

Và theo từng hơi thở của anh
Hương thơm ấy thấm sâu vào lồng ngực
Anh lên đường hương sẽ theo đi khắp
Họ chia tay, vẫn chẳng nói điều chi
Mà hương thầm theo mãi bước người đi.

Giấc mơ anh lái đò ......................Tác giả: Nguyễn Bính

Giấc mơ anh lái đò
Tác giả: Nguyễn Bính


Năm xưa chở chiếc thuyền này,
Cho cô sang bãi tước đay chiều chiều.
Để tôi mơ mãi, mơ nhiều:
“Tước đay se võng nhuộm điều ta đi.
Tưng bừng vua mở khoa thi,
Tôi đỗ quan Trạng, vinh quy về làng.
Võng anh đi trước võng nàng…
Cả hai chiếc võng cùng sang một đò.”

Đồn rằng đám cưới cô to,
Nhà trai thuê chín chiếc đò đón dâu.
Nhà gái ăn chín nghìn cau,
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn…
Lang thang tôi dạm bán thuyền,
Có người trả chín quan tiền, lại thôi!

Buông sào cho nước sông trôi,
Bãi đay thấp thoáng, tôi ngồi tôi mơ.
Có người con gái đang tơ,
Vẫy tay ý muốn sang nhờ bãi đay.
Sao cô không gọi sáng ngày,
Giờ thuyền tôi đã chở đầy thuyền mơ.

Con sông nó có hai bờ,
Tôi chưa đỗ trạng, thôi cô lại nhà.

Cô lái đò ..........Tác giả: Nguyễn Bính

Cô lái đò
Tác giả: Nguyễn Bính


Xuân đã đem mong nhớ trở về
Lòng cô lái ở bên sông kia.
Cô hồi tưởng lại ba xuân trước,
Trên bến cùng ai đã nặng thề.

Nhưng rồi người khách tình xuân ấy,
Đi biệt không về với bến sông.
Đã mấy lần xuân trôi chảy mãi
Mấy lần cô lái mỏi mòn trông.

Xuân này đến nữa, đã ba xuân
Đốm lửa tình duyên tắt nguội dần.
Chẳng lẽ ôm lòng chờ đợi mãi
Cô đành lỗi bước với tình quân.

Bỏ thuyền, bỏ lái bỏ dòng sông,
Cô lái đò kia đi lấy chồng.
Vắng bóng cô em từ dạo ấy,
Để buồn cho những khách sang sông

Chiều trên phá Tam Giang ...........Tác giả: Tô Thùy Yên

Chiều trên phá Tam Giang
Tác giả: Tô Thùy Yên


Phá Tam Giang ngày rày đã cạn
(Ca dao)

1.
Chiếc trực thăng bay là mặt nước
Như cơn mộng nhanh
Phá Tam Giang, phá Tam Giang
Bờ bãi hỗn mang, dòng bát ngát
Cát hôn mê, nước miệt mài trôi
Ngó xuống cảm thương người lỡ bước
Trời nước mông mênh, thân nhỏ nhoi
Phá Tam Giang, phá Tam Giang
Nhớ câu ca dao sầu vạn cổ
Chiều dòn tan, nắng đọng nứt ran ran
Trời thơm nước, thơm cây, thơm xác rạ
Thơm cả thiết tha đời
Rào rào trận gió nhám mặt mũi
Rào rào trận buồn ngây chân tay

Ta ngó thấy ghe thuyền quần tụ
Từng đoàn như trẻ nhỏ ghê ma
Ta ngó thấy thùy dương gãy rủ
Từng cây như nỗi bất an già
Ta ngó thấy rào chà cản nước
Từng hàng như nỗ lực lao đao
Ta ngó thấy nhà cửa trốc nóc
Từng ngôi như mặt đất đang gào
Vì sao ngươi tới đây?
Hỡi gã cộng quân sốt rét, đói
Xích lời nguyền sinh Bắc, tử Nam
Vì sao ta tới đây?
Lòng xót xa, thân xác mỏi mòn
Dưới mắt người làm tên lính ngụy

Ví dầu ngươi bắn rụng ta
Như tiếng hét
Xé hư không bặt im
Chuyện cũng thành vô ích
Ví dầu ngươi gục
Vì bom đạn bất dung
Thi thể chẳng ai thâu
Nào có chi đáng kể
Nghĩ cho cùng, nghĩ cho cùng
Ví dầu các việc ngươi làm, các việc ta làm
Có cùng gom góp lại
Mặt đất này đổi khác được bao nhiêu?
Ngươi há chẳng thấy sao
Phá Tam Giang, phá Tam Giang ngày rày đâu đã cạn?

Ta phá lên cười, ta phá lên cười
Khi tưởng tượng ngươi cùng ta gặp gỡ
Ở cõi âm nào ngươi vốn không tin
Hỏi nhau chơi thỏa chút tính bông đùa:
Ngươi cùng ta ai thật sự hy sinh
Cho tổ quốc Việt Nam – một tổ quốc…?
Các việc ngươi làm
Ngươi tưởng chừng ghê gớm lắm
Các việc ta làm
Ta xét thấy chẳng ra chi
Nên ngươi hăng điên, còn ta ảm đạm
Khi cùng làm những việc như nhau

Ta tự hỏi vì sao
(Còn ngươi, có bao giờ ngươi tự hỏi?)
Và ta tự trả lời
(Có bao giờ ngươi tự trả lời?)
Chúng ta khác nào cánh quạt phi cơ
Phải quạt, phải quạt
Chỉ vì nó phải quạt
Ta thương ta yếu hèn
Ta thương ngươi khờ khạo
Nên cả hai cùng cam phận quay cuồng
Nên cả hai cùng mắc đường Lịch Sử
Cùng mê sa một con đĩ thập thành

Chiều trên phá Tam Giang rộn ràng tiếng chiến trận
Chiều trên phá Tam Giang im lìm âm cảm thông

2.
Chiều trên phá Tam Giang
Anh sực nhớ em
Nhớ bất tận

Giờ này thương xá sắp đóng cửa
Người lao công quét dọn hành lang
Những tủ kính tối om
Giờ này thành phố chợt bùng lên
Để rồi tắt nghỉ sớm
(Sài Gòn nới rộng giờ giới nghiêm
Sài Gòn không còn buổi tối nữa)
Giờ này có thể trời đang nắng
Em rời thư viện đi rong chơi
Dưới đôi vòm cây ủ yên tĩnh
Viền dòng trời ngọc thạch len trôi

Nghĩ tới ngày thi tương lai thúc hối
Căn phòng cao ốc vàng võ ánh đèn
Quyển sách mở sâu đêm
Nghĩ tới người mẹ đăm chiêu, đứa em quái quỷ
Nghĩ tới đủ thứ chuyện tầm thường
Mà cô gái nào cũng nghĩ tới
Rồi nghĩ tới anh, nghĩ tới anh
Một cách tự nhiên và khốn khổ
Giờ này có thể trời đang mưa
Em đi nép hàng hiên sướt mướt
Nhìn bong bóng nước chạy trên hè
Như những đóa hoa nở gấp rút
Rồi có thể em vào một quán nước quen
Nơi chúng ta thường hẹn gặp
Buông tâm trí bập bềnh trên những đợt lao xao
Giữa những đám ghế bàn quạnh quẽ

Nghĩ tới anh, nghĩ tới anh
Cơn nghĩ tới không sao cầm giữ nổi
Như dòng lệ nào bất giác rơi tuôn
Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng
Của chiến tranh mà em không biết rõ
Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng
Một điều em sợ phải nghĩ tới
Giờ này thành phố chợt bùng lên

Chiều trên phá Tam Giang
Anh sực nhớ em
Nhớ bất tận

Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi
Rực chiếu bao nhiêu giấc mộng đua đòi
Như những mặt trời con thật dễ thương
Sẽ rơi rụng dọc đường lên dốc tuổi
Mỗi sáng trưa chiều tối đêm khuya
Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi
Coi chuyện đó như lần đi tuyệt tích
Trong nước trời lãng đãng nghìn trùng
Không nghe thấy cả tiếng mình độc thoại
Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi
Thấy trong lòng đời nở thật lẻ loi
Một cành mai nhị độ
Thấy tình yêu như vận hội tàn đời
Để xé mình khỏi ác mộng
Mà người đàn ông mê tưởng suốt thanh xuân

Ôi tình yêu, bằng chứng huy hoàng của thất bại!

3.
Chiều trên phá Tam Giang
Mày nhìn con nước xiết
Chảy băng bờ bãi ngổn ngang câm
Nghĩ tới, nghĩ tới những công trình mày có thể hoàn thành
Mà rồi mày bỏ dở
Nghĩ tới kiếp người đang lỡ độ đường
Trên mịt mùng nghi hoặc
Nghĩ tới thanh xuân mất tích tự đời nào
Còn lưu hậu chua cay hoài vọng
Nghĩ tới khu vườn ẩn cư cỏ cây khuất lấp
Căn nhà ma ám chầy ngày gió thổi miên man
Đụt tuổi già bình an vô tích sự
Như lau lách bờm xờm trên mặt sông nhăn
Cùng cái chết
Cái chết lâu như nỗi héo hon dần
Làm chính mình bực bội
Gió muôn ngàn năm thổi lẽ tuần hoàn
Cho cỏ cây thay đời đổi kiếp
Và mày kinh sợ nghe nhắc điều vượt sức bình sinh
Bởi mày không đủ dạn dày trình diễn tới lui cơn thất chí
Như gã hề cuồng mưu sinh giữa chốn đông người
Với từng ấy tấn tuồng bần tiện
Rút ra từ lịch sử u mê
Gió thổi thêm đi, gió thổi thêm đi
Cho cỏ cây mau chết, mau hồi sinh
Mày mặc kệ

Chiều trên phá Tam Giang
Có gã hề cuồng buông tiếng cười lạnh rợn
Khiến bầy ác thú mà lịch sử sanh cầm cũng chợt hãi hùng
Dớn dác ngó

6-1972

Núi Đôi ............... Tác giả: Vũ Cao

Núi Đôi
Tác giả: Vũ Cao



Bảy năm về trước, em mười bảy
Anh mới đôi mươi, trẻ nhất làng
Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa
Bữa thì em tới, bữa anh sang

Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi
Em vẫn đùa anh: sao khéo thế
Núi chồng núi vợ đứng song đôi!

Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngơ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi, đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó bặt tin nhau.

Anh vào bộ đội, lên Đông Bắc
Chiến đấu quên mình năm lại năm
Mấy bận dân công về lại hỏi
Ai người Xuân Dục, núi Đôi chăng?

Anh nghĩ, quê ta giặc chiếm rồi
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi
Mỗi tin súng nổ vành đai địch
Sương trắng người đi lại nhớ người.

Đồng đội có nhau thường nhắc nhở
Trung du làng nước vẫn chờ trông
Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông?

Náo nức bao nhiêu ngày trở lại
Lệnh trên ngừng bắn, anh về xuôi
Hành quân qua tắt đường sang huyện
Anh ghé thăm nhà, thăm núi Đôi.

Mới tới đầu ao, tin sét đánh
Giặt giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thửa
Em sống trung thành, chết thủy chung!

Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông bờ có con đường quen.
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em!

Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo:
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong;
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng?

Từ núi qua thôn, đường nghẽn lối
Xuân Dục, Đoài Đông cỏ ngút đầy
Sân biến thành ao, nhà đổ cháy
Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay

Cha mẹ đưa nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau
Nứa gianh nửa mái lều che tạm
Sương nắng khuây dần chuyện xót đau.

Anh nghe có tiếng người qua chợ:
Ta gắng: mùa sau lúa sẽ nhiều
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu!

Nhưng núi còn kia, anh vẫn nhớ.
Oán thù còn đó, anh còn đây
Ở đâu cô gái làng Xuân Dục
Đã chết vì dân giữa đất này!

Ai viết tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi em:đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.

Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.

Bên kia sông Đuống ............Tác giả: Hoàng Cầm

Bên kia sông Đuống
Tác giả: Hoàng Cầm



Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp loáng
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Tràm Chỉ người giăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa mầu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?

Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gãy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông

Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp trên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh
Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn

Đêm buông xuống bên dòng sông Đuống
- Con là ai? – Con ở đâu về?
Hé một cánh liếp
- Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng

Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo trên đống lửa
Mà cánh đồng ta còn chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa
Tiếng bà ru cháu buổi trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
“À ơi… cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù”
Tiếng em cắt cỏ hôm xưa
Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay
“Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu…”
Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau
Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm chắc tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười

Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời
Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trảy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.

(Việt Bắc, tháng 4-1948

Đất nước đàn bầu ..................Tác giả: Lưu Quang Vũ

Đất nước đàn bầu
Tác giả: Lưu Quang Vũ



Đi dọc một triền sông
Những chiếc trống đồng vùi trong cát
Những mảnh bình vỡ nát
Những mũi tên lăn lóc
Khắp đồi núi hoang vu
Những rìu đá cổ sơ những hang động khổng lồ
Những đống lửa còn tro tàn sót lại.

Đi tìm lại thời gian đã mất
Thuở biển cả điên cuồng gầm thét
Những con chim lạc mỏ dài
Bay qua vầng trăng lớn
Cánh sừng sững tắm hoàng hôn đỏ rực
Cất tiếng kêu hoang dại dưới đêm nồng.

Đi tìm lại những bông hoa xanh biếc
Những rễ cây quằn quại
Những ngà voi nhọn hoắt
Những tiếng hú dài ào ạt mưa rơi
Tôi đi tìm dòng máu của tôi
Hơi thở đầu sôi sục của tôi
Trong cuồn cuộn những ngực trần đen bóng
Những bộ lạc mình vẽ đầy rồng rắn
Quần hôn trên bờ bãi sông Hồng
Những mái tóc dài bay gió biển Đông
Những mái lá có bùi nhùi giữ lửa
Những người đàn bà tết cỏ cây che vú
Đã ngọt ngào dòng sữa
Điệu ru con đầu tiên
Bức tranh đầu tiên khắc mặt người lên đá
Điệu múa đầu tiên theo nhịp thuyền.

Buổi sáng tôi ra vườn
Hoa móng rồng thơm ngát
Lá xương xông mọc quanh vại nước
Dây trầu không quấn quít hàng cau
Đất rụng vàng hoa ngâu
Nước mưa rơi tí tách
Tôi lắng nghe như chú dế mèn con
Đi ra đồng cỏ ban đêm
Quạ đen đậu ngôi mộ cổ
Những con bướm đêm đập cánh thầm thì
Tôi trở về ngồi trong lòng bà
Bà kể chuyện thời con gái
Trốn nhà theo anh trai phường vải
Gánh hát chèo tỉnh Đông
Điệu hát con gà rừng
Cô Xuý Vân giả dại
Cô Xuý Vân không chịu sống yên
Điệu hát chập chờn
Con gà rừng mê sảng
Cô Xuý Vân nổi loạn
Đốt cháy tâm hồn tôi.

Anh con trai phường vải không về
Sông Cầu xa thăm thẳm
Vạt áo tứ thân lau nước mắt
Bà hát tôi nghe những điệu buồn
Đưa tôi về làng quan họ
Nhịp cầu ván ghép rung rình
Chẻ tre đan nón ba tầm
Đội lên quán dốc
Ngồi gốc cây đa
Thấy cô bán rượu
Ống quần cỏ may
Đồng đất thì dài
Đêm hội làng ngắn quá
Từ giã bạn ra về
Mưa bay mù mịt cả
Lòng nửa thương bên nọ
Nửa sầu bên kia
Nỗi cay cực ngàn xưa
Tôi mang suốt đời không nguôi được
Dân tộc tôi bốn ngàn năm áo rách
Những người chết đặc trong lòng đất
Những mặt vàng sốt rét
Những bộ xương đói khát vật vờ đi
Vó ngựa lao dồn dập

Giặc phương Bắc kéo về
Vung gươm dài đẫm máu
Bao đền đài bị đốt thành than
Bao cuốn sách bị quăng vào lửa
Bao đầu người bêu trên cọc gỗ
Con trai chinh chiến liên miên
Con gái mong chồng, hoá đá
Mỵ Châu chết không sao hiểu được
Vì đâu Trọng Thuỷ hoá quân thù ?

Gió mùa thu
Tiếng đàn bầu nức nở
Chiều chiều ra ngõ
Sông dài cá lội biệt tăm
Thương cha nhớ mẹ
Mênh mông chớp bể mưa nguồn
Cái nỗi buồn dân tộc
Cái nỗi buồn bị đoạ đày lăng nhục
Của người quét đường, xẩm chợ, đò ngang
Của mom sông đánh dặm, đỉnh rừng đốt than
Đập đá sườn non, đi phu đi ở
Mà mỗi tháng giêng, hoa gạo nở
Vẫn sênh tiền gõ nhịp
Giải yếm sau lưng cũng tím hoa cà
Cháu lên Kẻ Chợ cùng bà
Nón quai thao, áo màu bay rực rỡ
Những lò rèn phập phù bễ lửa
Phường chạm bạc, phường đúc đồng
Phố hàng Hài thêu những chiếc hài cong.
Những cô gái dệt the và phất quạt
Những hàng Điếu hàng Buồm hàng Bát
Rùa trao gươm, chim lạ đến Tây Hồ
Lụa làng Trúc, rượu Kẻ Mơ
Phố Tràng Thi ngựa hí
Phố Tràng Thi những thầy khóa trẻ
Giấy hồng điều phấp phới bút hoa
Bao gương mặt ngày xưa
Bây giờ ai nhớ nữa?
Trên tranh khắc trên ngàn pho tượng cổ
Còn nóng rực tay người trong gỗ đá
Lung linh chim múa hoa cười.

Vọng quanh thành tiếng trống thúc xa xôi
Muôn cờ xí trập trùng đuốc lửa
Những đề đốc, những tướng quân áo đỏ
Những Đông bộ đầu, Chương Dương độ, Hàm tử quan
Thanh gươm cũ với câu thơ giữ nước
“Ngựa đá bao phen phải lấm bùn”
Cháu đi ra cửa bể Vân Đồn
Mùa thu biển lạnh
Những chú lính thú đời Trần đã chết
Bãi lầy sú vẹt mênh mông
Đảo chênh vênh dưới mù mịt mưa phùn
Hang đá ào ào gió hú
Cửa Vạn Tài, đảo Tràn Bàn sóng dữ
Thương nỗi mình lận đận vợ chồng sam.

Đêm bão gầm cồn cát chạy lang thang
Bà kể chuyện những bờ biển lạ
Cửa Thuận, cửa Hàn, những tháp Chàm sụp đổ
Những đoàn người xoã tóc hú tìm nhau.

Phương Nam xa mây trắng xoá một màu
Xác khiên mộc của bao đời chiến trận
Những người đi mở nước
Lưỡi cuốc mòn cha gửi lại cho con
Bốn bể Cà Mâu, mũi đất Hà Tiên
Với Kinh Bắc, Tràng An chung ruột thịt
Tiếng đàn bầu réo rắt
Lý ngựa ô, Lý ngựa ô
Như gió cuộn trên bình nguyên cháy khô
Ngựa ô chạy ướt đầm thân mảnh dẻ
Thương con ngựa ô xa mẹ
Bây giờ ăn cỏ nơi đâu ?

Màu áo đen của đêm, màu của đất áo nâu
Luôn đánh vật với tai ương nước mắt
Đất chỉ sinh những bàn tay làm lụng
Không có những nhà ảo mộng đăm chiêu
Đất tả tơi trong định mệnh đói nghèo
Trong độc ác dối lừa, trong sỉ nhục
Người nô lệ da vàng bất khuất
Vươn giữa trời thơm ngát tấm lòng son
Tóc phơ phơ bạc trắng sợi đau buồn
Sao bà hát những lời da diết
Cháu nghe mãi vẫn lạ lùng tiếng Việt
Chữ “thương” liền với chữ “yêu”
Chữ “thương” đi cùng chữ “nhớ”
Dân tộc trải xót xa nhiều nỗi khổ
Phải thương nhau mới sống được trên đời
Những hoàng hôn chạng vạng cánh dơi
Tôi ra sông nằm xoài trong bãi sú
Phù sa ướt lấm lem gò má
Tôi về ngồi dưới lá úa cành xoan
Tuổi thơ buồn như một mảnh vườn hoang
Nơi ấp ủ con dế mèn cô độc
Trái sung non thì chát
Quả dọc già thì chua
Em đến cùng tôi như chùm vải đầu mùa
Tóc hoang dại loà xoà trên ngực nắng
Ngực em sáng như mặt trời sắp lặn
Tôi đầm đìa sương lạnh của bờ đê
Tôi thấm đầy nước mắt của trời khuya
Trăng đã hiện, đêm ca dao vằng vặc
Những cô Tấm thử hài trong tiếng nhạc
Những nàng Kiều hồi hộp bấm dây tơ
Đêm sử thi náo động tiếng quân hò
Sôi trong máu những bầy voi nguyên thuỷ
Sáng trong mắt những rừng gươm chớp loé
Những nỗi buồn tê dại ngón tay rung
Chim Lạc bay, cánh rợp cả sườn non
Rùa đẻ trứng nồng nàn trên cát bể
Rừng gầm thét, thác nguồn sao trắng thế
Đất mênh mông tràn ngập ánh mặt trời
Gió thổi lồng những đốm lửa không nguôi
Tôi nhận hết, tôi là người tiếp nối
Là dĩ vãng nhưng chẳng là bóng tối
Nước mắt tôi ướt đẫm những dây đàn
Quả bầu khô là tâm sự của vườn
Mặt đàn gỗ là của rừng xanh thẳm
Điệu bát ngát là của đồng của đất
Lời vụng về là tha thiết lòng tôi.

Đêm hội vui, tiếng trống giục liên hồi
Bà sống dậy, bà đừng buồn nữa nhé
Bà lại trẻ như ngày xưa hát ví
Người náu mình trong quả thị bước ra
Người hứng dừa từ giấy điệp bước ra
Người đã khuất cũng về đông đủ cả
Những tượng đá bỗng chập chờn nhẩy múa
Những cụ già say rượu hát nghêu ngao
Ngực em tròn anh chẳng dám nhìn lâu
Lời em nói có măng rừng muối bể
Hồn dân tộc dậy ta làm thi sĩ
Quá khứ nhiều mà ta chẳng già nua
Mọi tai ương khủng khiếp đã qua
Gà đã gáy xôn xao chào buổi sớm
Mai gắn lại những vết thương xé thịt
Dân tộc mình mở tới một trang vui
Hoa gạo hồng lại nở, bà ơi
Cháu đã đi từ lòng bà ấm áp
Để sống hết những vui buồn dân tộc
Những hoa bìm hoa súng nở trên ao
Những ban mai xanh biếc tiếng đàn bầu
Bà hiền hậu têm trầu bên chõng nước
Em đi gặt trên cánh đồng cổ tích
Lúa bàng hoàng chín rực những triền sông…

Trắng mây bay, ngợp gió những khu rừng
Cháu đã đi những tháng năm lửa cháy
Với trùng điệp bạn bè cùng tuổi
Áo quân trang xanh cây lá vườn bà
Đất chiến hào vẫn đồng đất quê ta
Máu đồng đội đã thấm vào đất ấy
Những đêm thức nghẹn ngào nghe đất gọi
Vây quanh mình bao gương mặt thân quen
Mặt người xưa hoà lẫn mặt anh em
Câu hát cũ lẫn vào câu hát mới
Dòng sông hét, biển gầm lên dữ dội
Những chân trời vụt mở bao la
Những chân trời chưa hề biết hôm qua
Tiếng đàn bầu, tiếng đàn bầu mong nhớ
Trong gió lộng, dưới mặt trời xứ sở
Vẫn cồn cào những cơn khát khôn nguôi
Đất phù sa vô tận dấu chân người
Những đoàn quân lại ra đi từ đất
Bà đứng đó miệng trầu cay thơm ngát
Vầng yêu thương soi sáng suốt cuộc đời
Khắp triền sông vang tiếng trẻ con cười
Đất nước đàn bầu
Đất nước ban mai…

(1972-1983)

Việt Nam quê hương ta ---------- Tác giả: Nguyễn Đình Thi

Việt Nam quê hương ta
Tác giả: Nguyễn Đình Thi


Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
Quê hương biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau
Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn
Ðất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên
Ðạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa.
Việt Nam đất nắng chan hòa
Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh
Mắt đen cô gái long lanh
Yêu ai yêu trọn tấm tình thủy chung
Ðất trăm nghề của trăm vùng
Khách phương xa tới lạ lùng tìm xem
Tay người như có phép tiên
Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ
Nước bâng khuâng những bến đò
Ðêm đêm còn vọng câu hò Trương Chi
Ðói nghèo nên phải chia ly
Xót xa lòng kẻ rời quê lên đường
Ta đi ta nhớ núi rừng
Ta đi ta nhớ dòng sông vỗ bờ
Nhớ đồng ruộng, nhớ khoai ngô
Bát cơm rau muống quả cà giòn tan…

(Trích đoạn trường ca Bài thơ Hắc Hải)

Quê hương - ---Tác giả: Giang Nam

Quê hương
Tác giả: Giang Nam


Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:
“Ai bảo chăn trâu là khổ?”[1]
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Những ngày trốn học
Đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được
Chưa đánh roi nào đã khóc
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích…

Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ tôi đi
Cô bé nhà bên (có ai ngờ!)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi)
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời…
Đơn vị đi qua tôi ngoái đầu nhìn lại
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi

Hòa bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
- Chuyện chồng con… (khó nói lắm anh ơi)!
Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn, ngậm ngùi
Em để yên trong tay tôi nóng bỏng

Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật:
Giặc bắn em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích em ơi!
Đau xé lòng anh chết nửa con người!

Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.

1960
Chú thích
Câu mở đầu bài Chăn trâu trong Quốc văn giáo khoa thư lớp Đồng ấu ngày xưa: “Ai bảo chăn trâu là khổ? Không, chăn trâu sướng lắm chứ! Đầu tôi đội nón mê như lọng che. Tay cầm cành tre như roi ngựa, ngất ngưởng ngồi trên mình trâu, tai nghe chim hót trong chòm cây, mắt trông bướm lượn trên đám cỏ. Trong khoảng trời xanh, lá biếc, tôi với con trâu thảnh thơi vui thú, tưởng không còn gì sung sướng cho bằng!” ^

Bài học đầu cho con

Bài học đầu cho con
Tác giả: Đỗ Trung Quân


Quê hương là gì hả mẹ
Mà cô giáo dạy hãy yêu?
Quê hương là gì hả mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều?

Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay

Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông

Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm hè

Quê hương là đêm trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm
Tiếng ếch râm ran bờ ruộng
Con nằm nghe giữa mưa đêm

Quê hương là bàn tay mẹ
Dịu dàng hái lá mồng tơi
Bát canh ngọt ngào tỏa khói
Sau chiều tan học mưa rơi

Quê hương là vàng hoa bí
Là hồng tím giậu mồng tơi
Là đỏ đôi bờ dâm bụt
Màu hoa sen trắng tinh khôi

Quê hương mỗi người đều có
Vừa khi mở mắt chào đời
Quê hương là dòng sữa mẹ
Thơm thơm giọt xuống bên nôi

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người.

Nhớ con sông quê hương

Nhớ con sông quê hương
Tác giả: Tế Hanh


Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Tỏa nắng xuống lòng sông lấp loáng.
Chẳng biết nước có giữ ngày, giữ tháng
Giữ bao nhiêu kỉ niệm giữa dòng trôi?
Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi!
Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ
Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ
Sông của miền Nam nước Việt thân yêu

Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu
Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy
Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy
Bầy chim non bơi lội trên sông
Tôi giơ tay ôm nước vào lòng
Sông mở nước ôm tôi vào dạ

Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả
Kẻ sớm khuya chài lưới bên sông
Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng
Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến
Nhưng lòng tôi như mưa nguồn, gió biển
Vẫn trở về lưu luyến bên sông

*

Tôi hôm nay sống trong lòng miền Bắc
Sờ lên ngực nghe trái tim thầm nhắc
Hai tiếng thiêng liêng, hai tiếng “miền Nam”
Tôi nhớ không nguôi ánh nắng màu vàng
Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc
Tôi nhớ cả những người không quen biết…
Có những trưa tôi đứng dưới hàng cây
Bỗng nghe dâng cả một nỗi tràn đầy
Hình ảnh con sông quê mát rượi
Lai láng chảy lòng tôi như suối tưới
Quê hương ơi! Lòng tôi cũng như sông
Tình Bắc Nam chung chảy một dòng
Không ghành thác nào ngăn cản được
Tôi sẽ lại nơi tôi hằng mơ ước
Tôi sẽ về sông nước của quê hương
Tôi sẽ về sông nước của tình thương…

(1956)

Quê Hương

Quê hương
Tác giả: Tế Hanh


Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

Ngày hôm nay, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
“Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe”
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng

Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!

Màu tím hoa sim

Màu tím hoa sim
Tác giả: Hữu Loan


Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê…

Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa…

Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường đông bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu…

Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu…

(1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)

Dừa ơi

Dừa ơi
Tác giả: Lê Anh Xuân


Tôi lớn lên đã thấy dừa trước ngõ
Dừa ru tôi giấc ngủ tuổi thơ
Cứ mỗi chiều nghe dừa reo trước gió
Tôi hỏi nội tôi: “Dừa có tự bao giờ?”

Nội nói: “Lúc nội còn con gái
Đã thấy bóng dừa mát rượi trước sân
Đất này xưa đầm lầy chua mặn
Đời đói nghèo cay đắng quanh năm”

Hôm nay tôi trở về quê cũ
Hai mươi năm biết mấy nắng mưa
Nội đã khuất rồi xanh rì đám cỏ
Trên thân dừa vết đạn xác xơ.

Dừa ơi dừa! Người bao nhiêu tuổi
Mà lá tươi xanh mãi đến giờ
Tôi nghe gió ngàn xưa đang gọi
Xào xạc lá dừa hay tiếng gươm khua.

Ôi có phải nhà thơ Đồ Chiểu
Từng ngâm thơ dưới rặng dừa này
Tôi tưởng thấy nghĩa quân đuổi giặc
Vừa qua đây còn lầy lội đường dây.

Tôi đứng dưới hàng dừa cao vút
Cạnh hàng dừa tơ lá mướt xanh màu
Những công sự còn thơm mùi đất
Cạnh những chiến hào chống Pháp năm nao.

Vẫn như xưa vườn dừa quê nội
Sao lòng tôi vẫn thấy yêu hơn
Ôi thân dừa đã hai lần máu chảy
Biết bao đau thương, biết mấy oán hờn.

Dừa vẫn đứng hiên ngang cao vút
Lá vẫn xanh rất mực dịu dàng
Rễ dừa bám sâu vào lòng đất
Như dân làng bám chặt quê hương.

Dừa bị thương dừa không cúi xuống
Vẫn ngẩng lên ca hát giữa trời
Nếu ngã xuống dừa ơi không uổng
Dừa lại đứng lên thân dựng pháo đài.

Lá dừa xanh long lanh ánh nắng
Theo đoàn quân thành lá nguỵ trang
Nếu rụng xuống dừa ơi không uổng
Dừa lại cháy lên ánh đuốc soi đường.

Đất quê hương nát bầm vết đạn
Đã nuôi dừa năm tháng xanh tươi
Ôi có phải dừa hút bao cay đắng
Để trổ ra những trái ngọt cho đời.

Nghe vườn dừa rì rào tiếng nhạc
Lòng nao nao tôi nhớ nội xiết bao
Tuổi thơ xưa uống nước dừa dịu ngọt
Tôi biêt đâu thuở chua xót ban đầu.

Tôi ngước nhìn mùa xuân nắng dọi
Bốn mặt quê hương giải phóng rồi
Tôi bỗng thấy nội tôi trẻ lại
Như thời con gái tuổi đôi mươi
Như hàng dừa trước ngõ nhà tôi.

(1-1966)

Nhớ cơn mưa quê hương

Nhớ cơn mưa quê hương
Tác giả: Lê Anh Xuân


Quê nội ơi
Mấy năm trời xa cách
Đêm nay, ta nằm nghe mưa rơi
Nghe tiếng trời gầm xa lắc…
Cớ sao lòng thấy nhớ thương.
Ôi cơn mưa quê hương
Đã ru hát hồn ta thuở bé,
Đã thấm nặng lòng ta những tình yêu chớm hé.
Nghe tiếng mưa rơi trên tàu chuối, bẹ dừa,
Thấy mặt trời lên khi tạnh những cơn mưa.
Ta yêu quá như lần đầu mới biết
Ta yêu mưa như yêu gì thân thiết
Như tre, dừa, như làng xóm quê hương.
Như những con người biết mấy yêu thương.
Ôi tuổi thơ, ta dầm mưa ta tắm.
Ta lội tung tăng trên mặt nước mặt sông
Ta lặn xuống, nghe vang xa tiếng sấm
Nghe mưa rơi, tiếng ấm tiếng trong.
Ôi đâu rồi những trò chơi tuổi trẻ
Những tàu chuối bẹ dừa, những mảnh chòi nhỏ bé
Những vết chân thơ ấu buổi đầu tiên
Mấy tấm mo cau là mấy chiếc thuyền
Mưa cuốn đi rồi.
Mưa chảy xuống dòng sông quê nội
Sóng nước quê hương dào dạt chảy về khơi,
Chở những kỷ niệm xưa, chìm lắng bốn phương trời.
Và ta lớn tình yêu hòa bể rộng
Cơn mưa nhỏ của quê hương ta đã sống
Nay vỗ lòng ta rung động cả trăm sông,

Ôi cơn mưa quê hương.
Mưa là khúc nhạc của bài ca êm mát.
Những đêm ta nằm nghe mưa hát mưa ơi
Nghe mưa đập cành tre, nghe mưa rơi tàu lá,
Thầm thì rào rạt vang xa…
Có lúc bỗng phong ba dữ dội
Mưa đổ ào như thác dồn trăm lối.
Giấc mơ xưa có chớp giật, sấm gầm,
Trang sử nhỏ nhà trường bỗng hóa mưa giông.
Nghe như tiếng của Cha Ông dựng nước,
Truyền con cháu phải ngẩng cao mà bước
Nghe như lời cây cỏ gió mưa.
Đang hát tiếp bài ca bất khuất ngàn xưa…
Mưa tạnh rồi, như mùa xuân nhẹ trổi
Thấy sánh xanh trên những cành xanh nắng rọi
Mưa ơi mưa, mưa gội sạch những cành non
Mang đến mùa xuân những quả ngọt tươi ngon.
Ôi vui quá không thấy chim đâu cả
Mà bờ tre nghe giọng hót trong lành.
Nhà ai đấy nhịp chày ba rộn rã,
Làm hạt mưa trên cành lá rung rinh.

* * *

Mấy cô gái bên kia sông giặt áo
Tay rẩy nước. Bỗng mưa rào nho nhỏ
Cánh tay cô hay cánh gió nhẹ đưa
Rung cành tre rơi nhỏ một cơn mưa…
Ôi yêu quá mấy hàng dừa trước ngõ
Rễ dừa nâu, muờn mượt gân tơ
Đường tạnh ráo, đất lên màu tươi mởn
Đã yêu rồi sao bổng thấy yêu hơn…

Quê hương ơi, mấy năm trời xa cách
Đêm nay ta nằm nghe mưa rơi,
Nghe tiếng trời gầm xa lắc…
Cớ sao lòng lại xót đau…
Ta muốn về quê nội
Ta muốn trở lại tuổi thơ
Ta muốn nằm trên mảnh đất ông cha
Nghe mưa đập cành tre, nghe mưa rơi tàu lá…
Ôi tiếng sấm từ xa, bỗng gầm vang rộn rã…

Mẹ - Tác giả: Đỗ Trung Quân

Mẹ
Tác giả: Đỗ Trung Quân

Xin tặng cho những ai được diễm phúc còn có Mẹ

Con sẽ không đợi một ngày kia
khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc
Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Con hốt hoảng trước thời gian khắc nghiệt
Chạy điên cuồng qua tuổi mẹ già nua
mỗi ngày qua con lại thấy bơ vơ
ai níu nổi thời gian?
ai níu nổi?
Con mỗi ngày một lớn lên
Mẹ mỗi ngày thêm già cỗi
Cuộc hành trình thầm lặng phía hoàng hôn.
Con sẽ không đợi một ngày kia
có người cài cho con lên áo một bông hồng
mới thảng thốt nhận ra mình mất mẹ
mỗi ngày đi qua đang cài cho con một bông hồng
hoa đẹp đấy – cớ sao lòng hoảng sợ?
Ta ra đi mười năm xa vòng tay của mẹ
Sống tự do như một cánh chim bằng
Ta làm thơ cho đời và biết bao người con gái
Có bao giờ thơ cho mẹ ta không?
Những bài thơ chất ngập tâm hồn
đau khổ – chia lìa – buồn vui – hạnh phúc
Có những bàn chân đã giẫm xuống trái tim ta độc ác
mà vẫn cứ đêm về thao thức làm thơ
ta quên mất thềm xưa dáng mẹ ngồi chờ
giọt nước mắt già nua không ứa nổi
ta mê mải trên bàn chân rong ruổi
mắt mẹ già thầm lặng dõi sau lưng
Khi gai đời đâm ứa máu bàn chân
mấy kẻ đi qua
mấy người dừng lại?
Sao mẹ già ở cách xa đến vậy
trái tim âu lo đã giục giã đi tìm
ta vẫn vô tình
ta vẫn thản nhiên?

Hôm nay…
anh đã bao lần dừng lại trên phố quen
ngã nón đứng chào xe tang qua phố
ai mất mẹ?
sao lòng anh hoảng sợ
tiếng khóc kia bao lâu nữa
của mình?
Bài thơ này xin thắp một bình minh
trên đời mẹ bao năm rồi tăm tối
bài thơ như một nụ hồng
Con cài sẵn cho tháng ngày
sẽ tới!

1986

Vai diễn mới của Trung Quốc?

Vai diễn mới của Trung Quốc?

Tác giả: HUỲNH PHAN
Bài đã được xuất bản.: 18/10/2010 06:00 GMT+7
In
Email
Thảo luận
Theo GS Carl Thayer, Trung Quốc đã buộc phải đánh giá lại chính sách trước đây của mình, và đi tới quyết định cần phải thể hiện một vai trò mang tính xây dựng hơn, ít nhất trong hiện tại.

Khi các nước không muốn mạo hiểm quan hệ

Biển Đông với cách tiếp cận mềm tại ADMM+

Giáo sư Carl Thayer, thuộc Học viện Quốc phòng Úc, đã kể rằng, trong cuộc nói chuyện kéo dài 2 tiếng đồng hồ ở Khách sạn Majestic Sài Gòn đầu tháng 8, bên lề Hội nghị Quan chức quốc phòng chuẩn bị cho ADMM+8, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh đã nói: "Tôi theo dõi rất kỹ những bài viết của ông về Việt Nam từ nhiều năm nay. Có những bài tích cực, và có cả những đánh giá còn tiêu cực."

Lần này, chắc hẳn cái hũ đựng "đậu trắng", dành cho vị chuyên gia hàng đầu về Đông Nam Á, sẽ được Tướng Vịnh bỏ vào ít nhất thêm một hạt nữa.

Giáo sư Thayer đã đánh giá rất cao về kết quả ADMM+8, mà Tướng Vịnh được coi là người đã bỏ nhiều công sức chuẩn bị thông qua các chuyến công du hàng tháng ròng thuyết phục các quốc gia được mời cử đại diện tham gia ở cấp cao nhất, cũng như dành một bất ngờ "thú vị" cho "người nổi tiếng" - Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc.

"Hội nghị đã cực kỳ thành công. Trung Quốc đã tham dự. Việt Nam đã khéo chuẩn bị một chương trình nghị sự khiến cho không nước nào cảm thấy bị cô lập", Giáo sư Thayer nhận xét với Tuần Việt Nam.

Ảnh: Lê Anh DũngTheo Giáo sư Thayer, tiến bộ mang tính thực tiễn, được phản ánh trong Tuyên bố chung, sẽ được triển khai trong các hội nghị ở cấp quan chức cao cấp, với hội nghị đầu tiên vào ngay tháng 12 này. "Chẳng hạn, Úc và Malaysia sẽ đồng chủ trì nhóm công tác về an ninh biển", Giáo sư Thayer dẫn chứng.
Một điểm thành công nữa, tuy gián tiếp, của ADMM+8, theo Giáo sư Thayer, là các cuộc trao đổi song phương quan trọng đã diễn ra bên lề hội nghị giữa bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc với những người đồng cấp đến từ Mỹ và Nhật Bản.

Sự "đổi vai" giữa quốc phòng và ngoại giao, hay vai diễn mới của Trung Quốc

Vấn đề an ninh ở Biển Đông được hơn một phần ba số bộ trưởng quốc phòng nêu thẳng ra trong tham luận của mình, trong đó có Mỹ, Malaysia và Nhật Bản, sau sự khơi mào khéo léo của Thủ tướng nước chủ nhà trong diễn văn khai mạc. Tuy ông Nguyễn Tấn Dũng đề cập tới an ninh biển nói chung, nhưng ai cũng ngầm hiểu rằng trong Hội nghị bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng, với ASEAN là nòng cốt, vấn đề an ninh biển không thể không bao gồm chủ yếu là vùng biển liên quan tới tranh chấp giữa một nửa thành viên ASEAN với Trung Quốc.

Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt đã nhẫn nại ngồi nghe từ đầu đến cuối, dù không phải không có lúc ông sa sầm nét mặt.

Nhưng, dù sao, rõ ràng nhà quân sự chuyên nghiệp này đã có cách hành xử khá mềm mỏng, theo phong cách của một nhà ngoại giao. Hoặc chí ít không đến nỗi "võ biền" như nhà ngoại giao chuyên nghiệp Dương Khiết Trì cách đây gần 4 tháng tại diễn đàn an ninh khu vực (ARF) tại Hà Nội. Ngoại trưởng Trung Quốc lúc đó đã bỏ ra khỏi phòng hội nghị, khi người đồng cấp phía Mỹ nêu quan ngại về nguy cơ bất ổn ở Biển Đông. Và, khi quay trở lại, Dương Tiên sinh đã "giận cá chém thớt" bằng cách hướng về phía ngoại trưởng Singapore, khi cao giọng "tràng giang, đại hải" về một âm mưu chống lại Trung Quốc.

Giáo sư Thayer nhận xét rằng Trung Quốc đã buộc phải đánh giá lại chính sách trước đây của mình, và đi tới quyết định cần phải thể hiện một vai trò mang tính xây dựng hơn, ít nhất trong hiện tại.

Truyền thông chính thống của Trung Quốc đã khẳng định điều này. Tại ADMM+4, vị đại diện phía Trung Quốc đã đưa ra 3 đề nghị hợp tác cụ thể. Đó là phối hợp nghiên cứu và xây dựng khuôn khổ cho hợp tác an ninh phi truyền thống, tăng cường trao đổi kinh nghiệm về đào tạo, trợ giúp vật chất và chia sẻ thông tin, cũng như sẵn sàng cùng Việt Nam đồng chủ trì nhóm công tác về "hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thiên tai".

Có một điều trùng hợp khá thú vị là ngay sau khi ADMM+8 nhất trí thành lập nhóm công tác này, Trung Quốc đã có cơ hội thể hiện vai trò mới mang tính xây dựng của họ. Những ngư dân Việt Nam do Trung Quốc thả như đòi hỏi kiên quyết của Bộ Ngoại giao Việt Nam, ngay trước thềm ADMM+8, sau đúng một tháng bị phía chính phía Trung Quốc bắt giữ trái phép để đòi tiền chuộc, trên đường trở về đã gặp sự cố tàu chết máy. Khác với những lần trước, tàu họ đã được tàu tuần tra phía Trung Quốc đưa về một hòn đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa để lánh nạn.

Gặp song phương với Mỹ, Trung Quốc muốn thoát khỏi sự cô lập

Cuộc gặp giữa bộ trưởng quốc phòng của hai nước Mỹ - Trung là một cơ hội thuận lợi để Trung Quốc chủ động nối lại sự gián đoạn của các cuộc tiếp xúc quân sự cấp cao giữa hai cường quốc này, do chính Trung Quốc chủ động tạo ra đầu năm nay. Theo như Trung Quốc đã tuyên bố, hành động này nhằm trả đũa việc chính quyền Obama quyết định bán 6,4 tỷ USD vũ khí cho Đài Loan.

Ảnh: Kỳ ThanhNhững diễn biến gần đây trong quan hệ quân sự giữa hai nước, theo thông tin từ Bộ Quốc phòng Mỹ, đã khẳng định điều này. Khoảng hai tuần trước khi ADMM+8 diễn ra, theo yêu cầu của Trung Quốc Phó Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Michael Schiffer đã đến Bắc Kinh trong hai ngày, để thảo luận về việc nối lại quan hệ quân sự với Trung Quốc. Cuộc thảo luận nhằm mục đích chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ giữa ông Robert Gates và Thượng tướng Lương Quang Liệt tại Hà Nội, và xa hơn nữa là chuyến viếng thăm Trung Quốc sắp tới của ông Gates, thay cho chuyến đi mà Bắc Kinh đã hủy hồi tháng Sáu vừa qua.
Cũng theo Bộ Quốc phòng Mỹ, ông Schiffer và các quan chức quân sự Trung Quốc cũng đã lên kế hoạch cho các cuộc đàm phán quân sự ở Hawaii vào giữa tháng Mười, và sau đó sẽ là cuộc gặp cấp thứ trưởng giữa hai nước, ở Washington DC vào cuối năm nay.

Giáo sư Thayer cho rằng điều quan trọng nhất là Trung Quốc đã nhận được một thông điệp hữu ích. Sau khi đã "đi quá xa", họ đã chợt giật mình thấy quá lẻ loi và bị cô lập.

"Những hành động hiếu chiến trên biển của nước này đã trở thành một mối quan ngại về an ninh của các nước trong khu vực. Và, hơn nữa, Trung Quốc đã buộc phải thích ứng với một thực tế rằng Mỹ đang sử dụng rất tốt "con bài đa phương", Giáo sư Thayer chỉ rõ.

Giáo sư Thayer đã lưu ý rằng hành động trả đũa của Trung Quốc với Mỹ không phải xuất phát từ hợp đồng mua bán vũ khí đó. Bởi, theo ông, việc Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan đã diễn ra nhiều năm nay, và nằm trong khuôn khổ một chương trình đã được cơ quan lập pháp nước này phê chuẩn.

"Đó chỉ là cái cớ. Lý do chủ chốt thực ra nằm ở chỗ các sĩ quan cao cấp của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung quốc (PLA) lúng túng không biết phản ứng ra sao trước vvụ chìm khu trục hạm của Hàn Quốc. Sự cố này đã làm hỏng mọi công sức mà PLA đã bỏ ra từ năm 1995 nhằm ngăn Hải quân Mỹ tiến gần bờ biển nước này", Giáo sư Thayer giải thích.

Theo phân tích của ông, vụ chìm tàu Cheonan đã làm khăng khít lại mối quan hệ đồng minh, đã phần nào lỏng lẻo, giữa Mỹ và Hàn Quốc. Hai quốc gia ở hai bờ Thái Bình Dương này đã tiến hành tập trận chung ở khu vực ngoài khơi Trung Quốc, và Nhật Bản đã ngay lập tức "quay trở lại vòng tay của đồng minh Mỹ".

"Trung Quốc khó có thể hòa giọng với Hàn Quốc và Mỹ trong việc chỉ trích CHDCND Triều Tiên. Vì vậy PLA đã đánh lạc hướng bằng cách tổ chức một cuộc tập trận hải quân một cách ồn ào, và bật đèn xanh cho các sĩ quan cao cấp đã nghỉ hưu nổ trên các phương tiện truyền thông", Giáo sư Thayer phân tích.

Việc ông Robert Gates vui vẻ nhận lời mời của người đồng cấp Trung Quốc, và chuyến thăm này dự kiến sẽ diễn ra vào tháng 1 năm 2011, cho thấy phía Mỹ cũng thực sự muốn tăng cường quan hệ quân sự với cường quốc Đông Bắc Á này. Nhằm đảm bảo cho không có sự cố nào xảy ra làm ảnh hưởng đến tự do hàng hải và thương mại - lý do chủ yếu khiến họ can dự trở lại Đông Á, trong đó có khu vực Đông Nam Á và Biển Đông.

Nhật muốn hữu hảo, Trung Quốc bớt làm cao

Trong khi đó, cuộc gặp giữa những người đứng đầu ngành quốc phòng của hai quốc gia Đông Bắc Á, không phải trong phòng họp chính thức mà tại quán cà phê trong khách sạn. Dường như hai bên vẫn chưa hoàn toàn sẵn sàng thảo luận giải pháp cho cuộc khủng hoảng liên quan tới "sự kiện biển Hoa Đông".

Nhà báo Greg Torode tờ nhật báo Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng (SCMP), khi đến Hà Nội đưa tin về ADMM+8, đã nói với người viết rằng nếu phải viết lại bài Chuẩn kép (đăng trên SCMP khoảng 3 tuần trước hội nghị này và Tuần Việt Nam đã đăng bản dịch với tiêu đề Trung Quốc nói một đằng làm một nẻo), ông không biết phải bổ sung thêm gì vào cái kịch bản giả định đó. Bởi, diễn biến sau đó đã vượt quá xa so với sức tưởng tượng của nhà bình luận, được coi là khá am hiểu về Biển Đông, của SCMP.

Hơn một tháng trước khi ADMM+8 diễn ra, một tàu đánh cá Trung Quốc lao vào tàu tuần tra của Nhật gần khu vực quần đảo Senkaku/Điếu Ngư do Nhật Bản đang kiểm soát. Thuyền trưởng tàu đánh cá đã bị bắt giữ để thẩm vấn về mục đích của hành động này.

Trưởng ban châu Á của SCMP đã đưa ra giả định trong bài viết:

"... Chúng ta cũng hãy "tưởng tượng" xem nếu thuyền trưởng tàu cá Trung Quốc hiện đang bị giam giữ chỉ là một trong hàng trăm ngư dân đã bị phía Nhật Bản bắt và tống giam trong suốt 18 tháng qua? Lại "tưởng tượng", nhiều người trong số đó còn bị lực lượng tuần tra Nhật Bản đánh đắm tàu thuyền, bị tịch thu phương tiện đánh bắt?

Và "tưởng tượng" tiếp, Nhật Bản ra giá hàng ngàn đô la để đổi lấy tự do cho mỗi ngư dân? Chính phủ dĩ nhiên phản đối việc trả tiền chuộc, trong cơn tuyệt vọng để được gặp lại chồng, cha, con, anh em mình, gia đình các nạn nhân đành phải cắn răng thanh toán khoản tiền chuộc "tự cứu mình". Các tin đồn còn cho rằng một số ngư dân thậm chí đã bị giết."

Người sinh viên đại lục được Torode hỏi cũng đã chỉ có thể tưởng tượng rằng "sẽ có một làn sóng căm giận đối với chính phủ Nhật" và "không thể tin rằng bất cứ thường dân Nhật Bản nào có thể được an toàn tại Trung Quốc". Nhưng, những phản ứng sau đó của giới lãnh đạo Trung Quốc cho thấy linh cảm của chàng trai này rất nhạy, khi anh dự đoán rằng "không thể tưởng tượng nổi hậu quả".

Chưa kịp chờ phía Nhật đòi tiền chuộc, như giả định được đưa ra trong bài Chuẩn kép, Trung Nam Hải đã chủ động phản ứng lại một cách cực kỳ mạnh mẽ. Và không chỉ bằng lời nói.

Phía Trung Quốc đã cho bắt 4 công dân Nhật với cáo buộc họ quay phim trái phép khu vực quân sự. Đây là một hành động trả đũa khá cứng rắn, nhưng không phải ít xảy ra theo thông lệ quốc tế. Tiếp theo là tuyên bố tạm ngừng các tiếp xúc từ cấp địa phương đến cấp cao với Nhật Bản.

Nhưng trang hảo hán đang lên cơn say đòn không chỉ dừng lại ở đó, mà tiếp tục tung ra hai cú đòn quyết định về kinh tế và chính trị về phía võ sĩ đạo xứ Phù Tang. Đòn đầu tiên là quyết định ngừng xuất khẩu đất hiếm sang Nhật, gây nguy cơ khốn đốn cho hai ngành công nghiệp ô tô và điện tử nước này. Đòn thứ hai là, sau khi viên thuyền trưởng đã được thả, chính phủ Trung Quốc đã không chỉ một lần yêu cầu chính phủ Nhật phải chính thức xin lỗi.

Đặc biệt, cảnh viên thuyền trưởng được chào đón ở sân bay, với vòng hoa được trang trọng quàng lên người, khiến những người xem truyền hình không khỏi phải suy nghĩ. Nhất là người Nhật Bản và đồng bào của hàng trăm ngư dân Việt Nam bị phía Trung Quốc bắt trong nhiều năm qua.

"Dường như ông ta không phải là một ngư dân vừa được thả nhờ sức ép mọi mặt của chính phủ Trung Quốc, mà là một vị anh hùng vừa hoàn thành xuất sắc một nhiệm vụ quốc gia quan trọng", một phóng viên của NHK (Nhật Bản), đài truyền hình đã phỏng vấn được những ngư dân ở Quảng Ngãi đã bị phía Trung Quốc bắt để đòi tiền chuộc để phát trên kênh quốc nội của đài này vào cùng thời điểm với bài báo của Greg Torode), nhận xét với người viết.

Có một chi tiết đáng lưu ý là cuộc gặp này chỉ diễn ra sau khi cuộc gặp song phương Nhật - Mỹ, khi Nhật muốn tham khảo lập trường của đồng minh số một này. Giới quan sát đều nhận xét, cuộc gặp song phương Trung - Nhật dường như chỉ mang nặng tính xã giao và thăm dò lẫn nhau, trước khi nguyên thủ hai quốc gia này có thể gặp nhau, cũng tại Hà Nội vào cuối tháng này, như phía Nhật Bản vừa công bố.

Còn nhớ, trong cuộc gặp song phương Trung - Nhật kéo dài gần nửa tiếng bên lề ASEM 8 tại Brussels (Bỉ), Thủ tướng Ôn Gia Bảo, người được săn đón nhất tại diễn đàn này, đã thẳng thừng từ chối đề cập tới "sự kiện biển Hoa Đông" trước đề nghị của người đồng cấp Naoto Kan.

Những hệ quả tất yếu

Cũng cần nói thêm rằng NHK là hãng truyền thông nước ngoài đầu tiên được tiếp xúc với các ngư dân bị Trung Quốc tịch thu tàu và ngư cụ, cũng như phải nộp tiền chuộc để được tự do. Trong đó có một ngư dân đã bị khuynh gia bại sản và hiện đang phải kiếm sống qua ngày trên đất liền với nỗi nhớ biển đến nôn nao, sau khi 4 lần bị phía Trung Quốc bắt.

Phóng sự này đã được phép thực hiện xong khoảng 10 ngày sau khi Nhật bắt tàu cá Trung Quốc và một tuần sau khi Trung Quốc bắt tàu cùng 9 ngư dân Việt Nam. Và NHK, sau đó đã phát tiếp trên kênh quốc tế của đài này thêm hai lần nữa trước khi ADMM+8 khai mạc.

Nhà quay phim của một hãng truyền thông nước ngoài, người may mắn quay được cảnh hai bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc và Nhật Bản gặp nhau tại quan cà phê khách sạn, đã nhận xét: "Có lẽ, sau những chuyện này, mối quan hệ đối tác chiến lược Việt - Nhật sẽ được mở rộng, chứ không chỉ bó gọn trong lĩnh vực kinh tế, hay sự ủng hộ lẫn nhau về ngoại giao nữa."

Còn Giáo sư Thayer cho rằng bài học cho Trung Quốc là những hành động của họ ở Biển Đông và Biển Hoa Đông không thể được coi là tách rời nhau và nhận thức về sự hiếu chiến của họ đã dẫn tới hệ quả là các quốc gia trong khu vực đang đòi hỏi Mỹ phải có vai trò mạnh mẽ hơn.

"Tóm lại, Trung Quốc hẳn đã nhận thức được rằng lối hành xử của họ từ trước đến nay đã hoàn toàn phản tác dụng", Giáo sư Thayer kết luận.

Thủ tướng Ôn Gia Bảo: "Nên tạo điều kiện để dân chỉ trích chính quyền"

Thủ tướng Ôn Gia Bảo: "Nên tạo điều kiện để dân chỉ trích chính quyền"

Tác giả: FAREED ZAKARIA
Bài đã được xuất bản.: 19/10/2010 06:00 GMT+7
In
Email
Thảo luận
Không những nên để người dân có quyền tự do ngôn luận, mà quan trọng hơn nữa là phải tạo điều kiện để họ chỉ trích hoạt động của chính quyền. Chỉ khi có được sự kiểm soát và theo dõi mang tính phê bình của người dân thì chính phủ mới có thể làm việc tốt hơn, và nhân viên các cơ quan chính phủ mới thật sự trở thành công bộc của dân -Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo.

Đảng Cộng sản Trung Quốc cam kết cải tổ chính trị

Tham nhũng và lạm phát ảnh hưởng lớn tới sự ổn định quyền lực quốc gia

Zakaria: Ông có cho rằng vào thời điểm này nền kinh tế thế giới đã vững mạnh hay ông đang rất lo lắng về mối đe doạ của cái gọi là khủng hoảng kép, đặc biệt là cơn khủng hoảng ở Hoa Kỳ có thể quay lại?

Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo (qua phiên dịch): Nói một cách khách quan, tôi cho rằng nền kinh tế thế giới đang hồi phục, mặc dù quá trình hồi phục thì đầy chậm chạp và khúc khuỷu. Mọi người chắc không có cùng một quan điểm về việc này, nhưng tôi tin rằng chúng ta sẽ học được bài học từ thực tế.

Tôi hy vọng rằng nền kinh tế Hoa Kỳ sẽ được phục hồi nhanh chóng vì nói cho cùng nó là nền kinh tế lớn nhất thế giới. Tôi đã lưu ý đến những chính sách và biện pháp gần đây của Tổng thống Obama bao gồm kế hoạch nhân đôi sản lượng xuất khẩu của Hoa Kỳ và sự đầu tư khổng lồ vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng. Tôi cho rằng những chính sách và biện pháp này đang đi đúng đường, đúng hướng. Mặc dù được đưa ra hơi trễ, chúng vẫn vừa đúng lúc.

Điều này làm tôi nhớ đến thời gian tôi đã đưa ra quyết định quan trọng về việc thông qua gói kích cầu khổng lồ tại Trung Quốc. Vào lúc đó, mọi người đã có những cái nhìn khác nhau về chính sách này, nhưng giờ đây kết quả cho thấy gói kích cầu của chúng tôi là một thành công.

- Tôi xin hỏi rằng ông đã rút ra được bài học gì từ cơn khủng hoảng tài chính? Ông có cảm thấy mất niềm tin vào sự quản lý kinh tế vĩ mô của người Mỹ không?

Một người bạn Trung Quốc của tôi nói, chúng tôi như những học sinh trong lớp học và chúng tôi luôn lắng nghe những gì người Mỹ khuyên chúng tôi, và giờ đây chúng tôi ngẩng lên và nghĩ rằng có lẽ vị thầy giáo cũng chẳng biết rằng mình đã nói gì.

- Khi đối diện với cơn khủng hoảng tài chính, bất cứ ai cảm thấy có trách nhiệm với đất nước cũng như với toàn bộ loài người đều cần rút ra những bài học từ cơn khủng hoảng tài chính.

Theo tôi, bài học lớn nhất mà tôi rút ra được từ cơn khủng hoảng tài chính là khi điều hành những công việc nhà nước, điều quan trọng là cần chú ý đến việc đề cập đến những khó khăn về cơ cấu của nền kinh tế.

Trung Quốc đã đạt được thành công to lớn và sự phát triển của nó được thế giới ca ngợi, nhưng tôi là một trong những người đầu tiên cho rằng sự phát triển kinh tế của chúng tôi vần còn thiếu tính cân đối, hợp tác và bền vững. Cơn khủng hoảng tài chính này đã củng cố quan điểm của tôi về điều này.

Một mặt, chúng tôi phải chặn đứng cơn khủng hoảng tài chính. Mặt khác, chúng tôi cũng phải giải quyết những khó khăn riêng của mình, và chúng tôi phải làm tốt cả hai việc này cùng lúc, đây là một việc rất khó khăn.

Trung Quốc có một thị trường nội địa khổng lồ và có một tiềm năng to lớn về nhu cầu nội địa. Trung Quốc hiện đang ở trong giai đoạn tăng cường tổ chức và công nghiệp hoá. Chúng tôi có thể dựa vào nhu cầu kích thích trong nước để giúp ổn định và phát triển nền kinh tế Trung Quốc đi xa hơn nữa.

Việc này bắt chúng tôi phải chớp lấy thời cơ, tăng tốc phát triển và làm ổn định nền kinh tế Trung Quốc, và trên cơ sở này, chúng tôi phải nghĩ đến tương lai lâu dài để giải quyết tất cả những trở ngại về cơ cấu trong nền kinh tế của mình.

Riêng về nền kinh tế Hoa Kỳ, tôi luôn tin tưởng rằng nền kinh tế Hoa Kỳ có nền tảng vững chắc, không chỉ về khía cạnh vật chất mà quan trọng hơn nữa là Hoa Kỳ có sức mạnh về nguồn tài năng khoa học kỹ thuật cũng như kinh nghiệm quản lý.

Nó đã thu thập được vốn liếng về kinh nghiệm phát triển kinh tế trong suốt 200 năm qua, bất chấp những thay đổi, tôi tin Hoa Kỳ sẽ vượt qua cơn khủng hoảng và những khó khăn, và chúng ta cần tin tưởng vào tương lai của nền kinh tế Hoa Kỳ.

Quá trình phục hồi và phát triển của nền kinh tế lớn nhất trên thế giới, tức là nền kinh tế Hoa Kỳ, nằm trong mối quan tâm của việc phục hồi và ổn định kinh tế thế giới.


- Nếu so sánh về tỉ lệ phần trăm GPD giữa nước ông và Hoa Kỳ thì gói kích cầu của ông lớn gấp 10 lần. Đây là một kế hoạch thật đặc biệt. Liệu có mối lo nào về việc nó đang tạo ra một bong bóng về bất động sản tại Trung Quốc không?

Và cùng có những nguy hiểm về lạm phát vì chính phủ đã chi tiêu quá nhiều và vấn đề là hiện nay ảnh hưởng kích cầu sẽ giảm dần, liệu chính phủ sẽ giảm dần việc chi tiêu?

- Từ những nhận xét của ông, tôi nghĩ rằng ông đã chưa nhìn nhận hết toàn bộ gói kích cầu của chúng tôi. Tôi muốn nói rằng gói kích cầu của chúng tôi có bốn bộ phận chủ yếu. Trước tiên là việc chi tiêu công cộng khổng lồ, cơ cấu cắt giảm thuế và phát triển cơ sở hạ tầng. Thứ hai là việc điều chỉnh và nâng cấp cơ cấu công nghiệp ở Trung Quốc. Thứ ba là phát minh khoa học kỹ thuật và việc phát triển những ngành công nghiệp mới có tầm quan trọng chiến lược. Thứ tư là phát triển mạng lưới an sinh xã hội.

Số lượng đầu tư nghiên cứu phát triển gồm 4 nghìn tỉ đôla không chỉ đến từ mỗi chính phủ. Đầu tư chính phủ chỉ chiếm khoảng 1,18 nghìn tỉ, phần còn lại đến từ khu vực phi nhà nước và việc bán trái phiếu từ những thị trường tài chính.

Việc thực thi gói kích cầu đã bảo đảm tính liên tục của sự tăng trưởng vững chắc và tương đối nhanh tại Trung Quốc. Nó đã giúp giữ nguyên mức độ tiến triển tốt của kinh tế Trung Quốc có được trong 30 năm qua, và nó đã giúp chúng tôi tránh được những thay đổi lớn trong quá trình hiện đại hoá Trung Quốc vì những cú sốc quá lớn từ bên ngoài. Cùng lúc đó, nó đã tạo ra được một nền tảng vững chắc cho việc phát triển kinh tế Trung Quốc trong tương lai.

Chúng tôi đang rất cảnh giác với thử thách được đề cập trong câu hỏi của ông. Tôi muốn nêu lên ba điểm.

Trước hết, có một khả năng lạm phát ở Trung Quốc. Đấy là vì sao chúng tôi đã đề ra nhiệm vụ phải quản lý một cách khéo léo những mối quan hệ trong việc giữ nguyên sự ổn định và phát triển tương đối nhanh của nền kinh tế, điều chỉnh cơ cấu, và kiểm soát những khả năng lạm phát. Đây là điều cốt lõi trong việc quản lý kinh tế vĩ mô ở Trung Quốc.

Tôi quan tâm về việc kiểm soát những khả năng lạm phát tại Trung Quốc, đây là điều tôi đã cố gắng rất nhiều để quản lý tốt và đúng mức, vì tôi tin rằng tham nhũng và lạm phát sẽ gây nên một ảnh hưởng rất lớn đối với sự ổn định quyền lực của một quốc gia.

Và cả hai điều này đều ảnh hưởng đến lòng tin và đồng thuận của người dân đối với chính quyền, và đây là khía cạnh mà tôi nhìn thấy trong vấn đề lạm phát ở Trung Quốc.

Thứ hai, với việc thực hiện gói kích cầu, sẽ có những đe dọa về ngân sách và tài chính ở chính quyền cấp địa phương.

Chúng tôi có những bộ máy hành chính tại các chính quyền địa phương. Họ có những món nợ nhưng chúng không phải là vấn đề vừa mới nảy sinh sau cơn khủng hoảng tài chính bộc phát mà nó đã bắt đầu tận những năm 1980.

Giờ đây, với những nền tảng tài chính của chính quyền địa phương được thiết lập, chúng đã tích luỹ thành một món nợ khoảng 7,6 nghìn tỉ Nhân Dân Tệ và tôi có thể nói rằng mức nợ cấp địa phương này vẫn còn nằm trong khuôn khổ có thể kiểm soát được, nhưng điều quan trọng là chúng tôi phải giải quyết thoả đáng vấn đề để bảo đảm những món nợ của chính quyền địa phương sẽ không đe dọa nền tài chính nhà nước cũng như khu vực tài chính.

Tỉ lệ thâm thủng ngân sách trên tổng GDP của Trung Quốc là dưới 3 phần trăm. Tổng số nợ của Trung Quốc so với tỉ lệ GDP nằm trong khoảng 20 phần trăm, điều này có nghĩa là nó vẫn nằm trong tầm mức mà chúng tôi có thể kiểm soát được.

Điểm thứ ba là điểm quan trọng hơn cả, đó là tất cả những đầu tư của chúng tôi hiện nay phải tạo lợi thế cho việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế chứ không phải ngược lại. Điều này ảnh hưởng đến tương lai phát triển lâu dài của chúng tôi, vì thế nó rất quan trọng.

- Ông đã viết trong một bài báo về thủ trưởng cũ của ông, Hồ Diệu Bang, khiến tôi rất có ấn tượng. Trong đó ông đã ca ngợi ông ấy. Nhìn lại, ông có nghĩ rằng Hồ Diệu Bang đã là một lãnh đạo tốt của Trung Quốc?

- Vâng, tôi nghĩ là tôi đã đánh giá công bình trên phương diện lịch sử đối với nhân vật này. Ông đã có những cống hiến riêng cho quá trình đổi mới và mở cửa của Trung Quốc. Tôi cũng muốn đưa ra ba điểm sau.

Trước hết, ông đã cực lực phát triển cuộc tranh luận chung quanh những tiêu chuẩn dùng để đánh giá sự thật, và qua đó ông đã đóng góp vào nỗ lực giải phóng tư tưởng con người. Thứ hai, đối với những sự phản kháng khác nhau, ông đã tiến hành những bước để trả tự do cho một số đông cán bộ bị cáo buộc trong cuộc cách mạng văn hoá và thứ ba, bản thân ông cũng ra tay hành động để thúc đẩy Trung Quốc đổi mới và mở cửa.

Tạo điều kiện để dân chỉ trích hoạt động của chính quyền

- Ông đã nói trong những bài phát biểu của mình về việc Trung Quốc vẫn chưa phải là một quốc gia hùng mạnh và sáng tạo trên phương diện kinh tế. Liệu một quốc gia có thể vừa hùng mạnh và sáng tạo với nhiều giới hạn về tự do ngôn luận với việc Internet bị kiểm duyệt? Có phải ông nên mở cửa tất cả nếu ông muốn sự sáng tạo thật sự hay sao?

- Tôi tin rằng tự do ngôn luận là điều không thể thiếu được đối với bất kỳ quốc gia nào, với một quốc gia đang trên đà phát triển và với một quốc gia đã trở nên hùng mạnh. Tự do ngôn luận đã được bao gồm trong hiến pháp Trung Quốc.

Tôi không nghĩ là ông biết hết về Trung Quốc ở điểm này. Tại Trung Quốc, có khoảng 400 triệu người sử dụng Internet và 800 triệu người sử dụng điện thoại di động. Họ có thể truy cập vào Internet để bày tỏ quan điểm của mình, kể cả những quan điểm chỉ trích.

Tôi thường truy cập vào Internet và đã đọc những chỉ trích mạnh mẽ cũng như những lời lẽ ca ngợi đối với hoạt động của chính quyền.

Tôi thường nói rằng chúng tôi không những nên để người dân có quyền tự do ngôn luận, mà quan trọng hơn nữa là chúng tôi phải tạo điều kiện để họ chỉ trích hoạt động của chính quyền. Chỉ khi có được sự kiểm soát và theo dõi mang tính phê bình của người dân thì chính phủ mới có thể làm việc tốt hơn, và nhân viên các cơ quan chính phủ mới thật sự trở thành công bộc của dân.

Những việc này phải được thực hiện trong khuôn khổ mà luật pháp và hiến pháp cho phép. Từ đó quốc gia mới có được một trật tự bình thường, và điều này vô cùng cần thiết cho một đất nước to lớn như Trung Quốc với 1,3 tỉ người.

- Thưa Thủ tướng Ôn, vì chúng ta đang thành thật, khi tôi đến Trung Quốc và tìm cách dùng Interent, có rất nhiều trang mạng bị ngăn chặn. Rất khó để tìm thông tin. Bất kỳ quan điểm nào có vẻ thách thức đối với sự thống lĩnh chính trị của đảng đều không được phép? Ví dụ như Hồ Diệu Bang không phải là cái tên được phép nhắc đến trên "Nhân dân Nhật báo" cho đến khi bài báo của chính ông xuất hiện. Dường như mọi cấm đoán với những guồng máy khổng lồ theo dõi Internet sẽ gây khó khăn cho những ai thật sự sáng tạo và thật sự làm được những gì mà ông đang mong muốn họ làm.

- Tôi tin rằng tôi và tất cả người dân Trung Quốc đều tin tưởng rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục tiến triển, và những ước muốn và nhu cầu của người dân về dân chủ và tự do thì không thể từ chối được. Tôi hy vọng là ông sẽ có thể từ từ nhận thấy sự tiến triển liên tục của Trung Quốc.

Đảng phải hành xử phù hợp với hiến pháp và luật pháp

- Ông đã có hàng loạt những phát biểu đáng quan tâm trong thời gian gần đây. Tôi đã đặc biệt ấn tượng với bài phát biểu của ông tại Thẩm Quyến, ông nói, "bên cạnh cải cách kinh tế, chúng ta phải tiếp tục cải cách chính trị."

Đây là một điểm mà ông từng nêu ra trong cuộc phỏng vấn trước, nhưng rất nhiều người Trung Quốc mà tôi biết lại nói rằng đã có cải cách kinh tế trong sáu bảy năm qua, nhưng chẳng có nhiều cải cách chính trị.

Ông muốn nói điều gì đến những người lắng nghe những bài phát biểu của ông rồi nói rằng chúng tôi thích mọi thứ Ôn Gia Bảo nói, nhưng chúng tôi chẳng thấy những hành động cải cách kinh tế.

- Đúng ra đây là quan điểm do ông Đặng Tiểu Bình thúc đẩy rất lâu trước đây và tôi nghĩ rằng những ai có tinh thần trách nhiệm đối với đất nước mình cần nên nghĩ sâu về chủ đề này, và đặt niềm tin của mình vào hành động.

Tôi cũng đã suy nghĩ sâu kỹ hơn về vấn đề này kể từ lần gặp gỡ cuối cùng của chúng ta. Quan điểm của tôi là một đảng chính trị sau khi trở thành đảng cầm quyền cần phải trở nên tương đối khác so với khi nó đang đấu tranh giành quyền lực.

Khác biệt lớn nhất là đảng chính trị này phải hành xử phù hợp với hiến pháp và luật pháp. Những chính sách và chương trình của một đảng chính trị có thể được chuyển dịch sang thành những phần của hiến pháp và luật pháp qua những tiến trình pháp lý phù hợp.

Tất cả những đảng chính trị, những tổ chức, và tất cả mọi người cần phải tuân thủ hiến pháp và pháp luật mà không có một ngoại lệ nào. Tất cả họ phải hành xử theo đúng với hiến pháp và pháp luật. Tôi cho đây là đặc điểm tối trọng của việc xây dựng hệ thống chính trị hiện đại.

Tôi đã tóm tắt những tư tưởng chính trị của tôi trong bốn câu sau: làm cho mọi người có một cuộc sống hạnh phúc và có nhân phẩm, làm cho mọi người cảm thấy bình yên và an toàn, làm cho xã hội trở nên công bằng và có công lý, và làm cho mọi người có lòng tin vào tương lai.

Bất chấp những tranh luận và quan điểm khác biệt trong xã hội, và bất chấp những phản kháng, tôi sẽ hành động đúng theo những tư tưởng này một cách kiên định, và phát triển hết khả năng của mình trong việc tái cơ cấu chính trị.

Tôi cũng muốn nói với ông hai câu để củng cố vị trí quan điểm của mình, tôi sẽ không đổ ngã trước mưa to gió cả, và tôi sẽ không chùn bước cho đến ngày cuối cùng của đời mình.

Vấn đề đồng Nhân dân tệ bị "chính trị hoá"

- Xin nêu ra đây một vấn đề khó khăn: đồng Nhân Dân Tệ. Hãy để tôi đặt vấn đề như thế này, bất chấp sự bảo đảm của Trung Quốc, đồng Nhân Dân Tệ chỉ vẫn được tăng 1,8 phần trăm trong hai năm qua.

Cho phép thêm một lần sụt giá mạnh mẽ không phải là lợi ích của Trung Quốc, bởi vì hiện nay quí vị đang bù giá cho các nhà xuất khẩu bằng cái giá của đồng lương của những người lao động Trung Quốc, quí vị đang mạo hiểm với lạm phát và điều này tạo ra sự thiếu hụt rất lớn về sự cân bằng mà ông đã đề cập. Vậy cho phép tăng giá đồng Nhân Dân Tệ không phải là tốt cho Trung Quốc hay sao?

- Cho phép tôi có một nhận định về những gì ông vừa nói. Tôi cho rằng quan điểm của ông cũng đại diện cho quan điểm của Hoa Kỳ hoặc cụ thể hơn là quan điểm của một vài thành viên trong Quốc hội Hoa Kỳ.

Hai nền kinh tế của Trung Quốc và Hoa Kỳ liên quan với nhau rất mật thiết. Trao đổi song phương đã đạt đến mức 300 tỉ Mỹ kim. Đầu tư của Hoa Kỳ vào Trung Quốc đã vượt trên 60 tỉ Mỹ kim. Trung Quốc đã mua công phiếu "T" của Hoa Kỳ trị giá khoảng 900 tỉ Mỹ kim.

Không ai tin rằng giới lãnh đạo Trung Quốc không theo sát những diễn biến của nền kinh tế Hoa Kỳ. Nhưng một số người ở Hoa Kỳ, đặc biệt là những nhân vật ở Quốc hội, lại không biết nhiều về Trung Quốc.

Họ đang chính trị hoá vấn đề trong quan hệ Trung-Mỹ, đặc biệt là trong vấn đề thiếu cân đối mậu dịch giữa hai quốc gia. Tôi rất cảm kích việc ông đã tạo điều kiện cho tôi trong cuộc phỏng vấn này, vì ông đã cho tôi cơ hội để giải thích kỹ lưỡng hơn tình trạng thật sự của vấn đề.

Có ba điểm vốn không được nhiều người biết đến trong vấn đề tỉ giá hối đoái của đồng Nhân Dân Tệ và thặng dư xuất khẩu của Trung Quốc.

Trước tiên, Trung Quốc không hề theo đuổi tình trạng thặng dư xuất khẩu. Mục tiêu của chúng tôi trong giao dịch với nước ngoài là có được sự trao đổi cân bằng và bền vững với các quốc gia khác, và chúng ti muốn có được sự công bằng cơ bản trong vấn đề cân bằng chi trả.

Đây là những gì chúng tôi đã đang nói và làm. Năm 2008, tỉ lệ thặng dư hiện có lúc đó là 9,9 phần trăm so với GDP. Năm 2009 con số này tụt xuống còn 5,8 phần trăm và vào cuối nửa năm đầu của 2010 nó tụt xuống thấp hơn nữa ở mức 2,2 phần trăm.

Thứ hai, việc tăng cường mức thặng dư mậu dịch của một quốc gia không nhất thiết liên quan đến chính sách hối đoái của quốc gia ấy. Chúng tôi bắt đầu đổi mới chính sách tỉ giá hối đoái của đồng Nhân Dân Tệ vào năm 1994, và kể từ đó, đồng tiền Trung Quốc đã tăng lên 55 phần trăm so với đồng đôla, và cũng trong cùng thời gian, những đồng tiền của những nền kinh tế chính và những đồng tiền của những quốc gia láng giềng với Trung Quốc đều đã giảm giá với mức độ lớn.

Ngành thương mại của Trung Quốc cũng đã tăng trưởng nhanh trong cùng khoảng thời gian này. Thực sự là trong lịch sử của Hoa Kỳ cũng đã có một thời kỳ như thế. Trong gần 100 năm, từ 1870 đến 1970, Hoa Kỳ đã là một quốc gia thặng dư mậu dịch, và điều này cũng đang thực sự xảy ra đối với một quốc gia đang trong giai đoạn phát triển nào đấy.

Điểm thứ ba là điểm quan trọng nhất mà ông cũng nhận thức được, đó là sự thiếu cân đối trong thương mại giữa hai quốc gia vốn đã mang bản chất chủ yếu về cơ cấu. Trung Quốc có thặng dư mậu dịch trong lĩnh vực gia công nhưng lại bị thâm thủng mậu dịch trên lĩnh vực chung. Trung Quốc có thặng dư trong lĩnh vực hàng hoá, nhưng lại bị thâm thủng trong lĩnh vực dịch vụ.

Chúng tôi có thặng dư mậu dịch với Hoa Kỳ và Liên Âu, nhưng lại bị thâm thủng với Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia châu Á khác. Nhiều mặt hàng xuất khẩu từ Trung Quốc đã không còn được sản xuất ở Hoa Kỳ, và tôi không nghĩ rằng Hoa Kỳ sẽ bắt đầu tái sản xuất các mặt hàng này, những mặt hàng vốn nằm ở đáy của loại hàng hoá kém giá trị.

Ngay cả nếu quí vị không mua những mặt hàng này từ Trung Quốc, quí vị vẫn phải mua chúng từ Ấn Độ, Sri Lanka, hoặc Bangladesh, và điều này cũng chẳng giải quyết được sự mất cân bằng thương mại giữa hai nước.

Tôi nhớ rằng ông đã đưa ra ví dụ của chiếc iPod tại Hoa Kỳ, ở Mỹ một chiếc iPod được bán với giá 299 Mỹ kim, nhưng nhà sản xuất Trung Quốc chỉ thu được 4 Mỹ kim lệ phí gia công.

Còn một điểm khác nữa mà tôi nghĩ rằng ông không nhận ra, một điểm mà nhiều thành viên của Quốc hội Hoa Kỳ cũng không nhận ra, đó là trong số 500 nghìn công ty Hoa Kỳ đăng ký tại Trung Quốc, 22 nghìn công ty là những nhà xuất khẩu, và áp đặt việc trừng phạt lên các công ty xuất khẩu tại Trung Quốc cũng tương đương với việc áp đặt việc trừng phạt lên những công ty trên.

Không ai ngăn được ý chí của quần chúng

- Lần cuối khi chúng ta trao đổi, tôi đã hỏi ông đang đọc những cuốn sách nào, cuốn nào đã làm ông thích thú. Thế thì có cuốn sách nào mà ông đã đọc trong vài tháng qua đã gây ấn tượng cho ông?

- Những cuốn sách trong kệ sách của tôi luôn là những cuốn sách về lịch sử, vì tôi tin rằng lịch sử thì giống như tấm gương và tôi thích đọc lịch sử Trung Quốc lẫn lịch sử của các quốc gia khác.

Có hai cuốn sách mà tôi thường mang theo người, một cuốn là "Lý thuyết về Tình cảm Đạo đức" của Adam Smith. Cuốn thứ hai là "Thiền định". Không phải là tôi đồng ý với những quan điểm được trình bày trong hai cuốn sách này, nhưng tôi tin rằng những quan điểm và tư tưởng của những thế hệ trước đây là món ăn tinh thần cho thế hệ hiện tại.

Hiện nay có quá nhiều sách hồi ký cá nhân. Tôi không thích đọc những cuốn sách này. Tôi cho rằng những gì con người nên để lại cho thế giới là sự thật và chúng ta phải thừa nhận rằng ngay cả những sự thật một ngày nào đó sẽ bị tan biến.

- Tôi xin đưa ra một câu hỏi cuối, thưa Thủ tướng Ôn, tôi rất ấn tượng với sự thẳng thắn của ông. Ông đã nói về quyết tâm của mình trong việc tiếp tục cải cách chính trị, bất chấp sự cản trở trong nước và trong đảng, bất chấp sự phản đối bên trong đảng.

Ông đã nói về sự quan ngại của ông về nạn tham nhũng và lạm phát sẽ xói mòn sự ổn định xã hội. Ông đã ca ngợi Hồ Diệu Bang và đề cập đến tài lãnh đạo của ông ta ngay cả khi ông ta được nhiều người xem là một nhà lãnh đạo cấp tiến nguy hiểm.

Ông có tin rằng thế hệ lãnh đạo kế tiếp của Trung Quốc, những người sẽ nắm quyền lực trong hai năm tới sẽ chia sẻ quan điểm của ông và tiếp tục xúc tiến hướng nhìn mà ông đang thúc đẩy?

- Có thể là ông nghĩ đây là câu hỏi khó nhất dành cho tôi hôm nay, nhưng thực sự tôi cho rằng đây là câu hỏi dễ trả lời nhất.

Để tôi đưa ra hai điểm liên quan đến cái tương lai mà ông vừa đề cập.

Trước hết, tôi muốn nói rằng, như câu nói của người Trung Quốc, dòng sông Dương Tử sóng phủ sóng, thế hệ mới chắc chắn sẽ vượt qua thế hệ cũ. Tôi tin tưởng rằng giới lãnh đạo tương lai của Trung Quốc sẽ trội hơn thế hệ trước.

Thứ hai là quần chúng và sức mạnh của quần chúng quyết định tương lai và lịch sử của đất nước. Nguyện vọng và ý chí của quần chúng thì không thể ngăn cản được. Những ai đi theo xu hướng này sẽ thành công và những ai chống lại nó sẽ thất bại. Cám ơn ông về buổi phỏng vấn.

- Rất hân hạnh và vui sướng. Xin cám ơn Thủ tướng.

Diên Vỹ dịch từ CNN.
Tiêu đề và tiêu đề phụ do Tuần Việt Nam đặt