Chủ Nhật, 13 tháng 3, 2011

Cảnh báo nợ của doanh nghiệp nhà nước

Vũ Thành Tự Anh -
Theo báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tính
đến 31/12/2008, tổng dư nợ nội địa của các tập đoàn,
tổng công ty nhà nước là 287.000 tỷ đồng. Nếu tính cả nợ
nước ngoài thì đến cuối 2008, tổng nợ của khu vực doanh
nghiệp nhà nước (DNNN) xấp xỉ 23,9% GDP.

Trong năm 2009, theo báo cáo của Chính phủ gửi Quốc hội ngày
1/11/2010 thì nợ của 81/91 tập đoàn, tổng công ty nhà nước
(chưa tính Vinashin) là 813.435 tỷ đồng, tương đương với 49%
GDP.

Nếu tính cả nợ của Vinashin, theo báo cáo của Bộ Tài chính
là 86.000 tỷ, thì nợ của khu vực DNNN đến cuối năm 2009
(không kể chín tập đoàn, tổng công ty chưa có số liệu) đã
lên tới 54,2% GDP năm 2009.

Rõ ràng là nợ của cả DNNN và Chính phủ đều tăng rất nhanh
trong một thời gian rất ngắn, trong đó mức tăng nợ của khu
vực DNNN thật sự đáng lo ngại.

Nếu nhìn vào con số tuyệt đối, sau khi trừ đi các khoản nợ
nước ngoài và với những tính toán thận trọng nhất thì trong
năm 2009, khu vực DNNN chiếm không dưới 60% trong tổng tín dụng
nợ nội địa tăng thêm của toàn nền kinh tế. Đây là bằng
chứng cho thấy các DNNN là đối tượng được hưởng lợi
nhiều nhất từ chương trình hỗ trợ lãi suất và kích cầu
của Chính phủ năm 2009.

Việc nợ của DNNN và nợ của Chính phủ đang ở mức khá cao,
đồng thời tăng rất nhanh đòi hỏi phải sớm có những biện
pháp quản lý nợ công hiệu quả.

85530_91.jpg

Nội dung quan trọng nhất trong quản lý nợ công là quản lý
rủi ro. Đầu tiên là rủi ro thị trường - chủ yếu liên quan
đến sự thăng giáng thất thường của thị trường. Với
viễn cảnh phục hồi đầy bất trắc, cộng thêm sự lan tỏa
khủng hoảng nợ trên thế giới, thị trường có thể không
mặn mà với trái phiếu chính phủ, đặc biệt là đối với
những quốc gia có mức tín nhiệm tín dụng thấp và triển
vọng tiêu cực. Phương pháp chủ yếu để hạn chế rủi ro
thị trường là đảm bảo sự linh hoạt về thời điểm, cấu
trúc, và các điều khoản của việc phát hành nợ.

Thứ hai là rủi ro lãi suất. Rủi ro này chủ yếu xảy ra đối
với các khoản nợ có lãi suất thả nổi hoặc không được
phòng vệ. Vì tỷ lệ nợ chính phủ với lãi suất thả nổi
của Việt Nam còn thấp nên rủi ro lãi suất không phải là
điều lo ngại trước mắt. Tuy nhiên, vì Việt Nam đã trở
thành một nước thu nhập trung bình nên tỷ trọng các khoản
vay thương mại sẽ tăng. Vì lãi suất thương mại thường cao
và biến động mạnh hơn lãi suất ưu đãi nên trước khi phát
hành nợ, Chính phủ và các doanh nghiệp sẽ ngày càng phải cân
nhắc nhiều hơn tới rủi ro lãi suất.

Thứ ba là rủi ro về dòng tiền. Cho đến nay, nợ ngắn hạn
chiếm chưa tới 15% trong tổng nợ chính phủ của Việt Nam. Tuy
nhiên, việc tỷ lệ nợ ngắn hạn trên dự trữ ngoại tệ
đang tăng lên sẽ đòi hỏi Bộ Tài chính phải hết sức thận
trọng trong hoạt động quản lý nợ của mình.

Thứ tư là rủi ro về tỷ giá. Hiện nay khoảng một phần ba
nợ chính phủ của Việt Nam là bằng đồng yen, vì vậy nếu
đồng yen vẫn tiếp tục xu thế lên giá như hiện nay thì gánh
nặng nợ nần cũng gia tăng theo. Tương tự như vậy, với sức
ép của Mỹ và EU, xu thế đồng nhân dân tệ tăng giá là khó
tránh khỏi.

Trong khi đó, tín dụng thương mại bằng nhân dân tệ, đặc
biệt là trong các dự án cơ sở hạ tầng và công nghiệp nặng
ở Việt Nam đang tăng lên một cách nhanh chóng. Chính phủ cũng
như doanh nghiệp vì vậy cần rất thận trọng khi đi vay bằng
nhân dân tệ.

Cuối cùng, rủi ro lớn nhất có lẽ nằm ở hoạt động...
quản lý rủi ro nợ công! Cho đến nay, từ Bộ Tài chính cho
đến các DNNN đều chưa coi trọng đúng mức việc phân tích,
đánh giá, và có biện pháp hiệu quả nhằm hạn chế rủi ro
khi phát hành nợ.

Cần lưu ý rằng vì nợ của DNNN và nợ của Chính phủ có
tính chất và cấu trúc khác nhau nên cần có những biện pháp
quản lý rủi ro thích hợp. Tuy nhiên, dù nợ ở cấp độ nào
thì cũng phải tuân thủ một số nguyên lý cơ bản: không nên
chấp nhận rủi ro khi không có biện pháp hữu hiệu để thấu
hiểu và quản lý nó; không nên chấp nhận một mức độ rủi
ro vượt quá một ngưỡng an toàn; và không nên chấp nhận rủi
ro nếu không có một sự đền bù thỏa đáng.

Khi bỏ qua những nguyên lý hết sức giản dị nhưng cơ bản
này, một doanh nghiệp có thể rơi vào tình trạng khó khăn,
thậm chí mất khả năng trả nợ, từ đó ảnh hưởng tiêu
cực đến các doanh nghiệp khác cũng như toàn bộ nền kinh tế.
Trường hợp Vinashin mới đây là một ví dụ điển hình.
Tương tự như vậy, một nền kinh tế cần có chiến lược
quản lý rủi ro nợ tốt để tránh đưa đất nước rơi vào
gánh nặng nợ nần.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét