Thứ Sáu, 15 tháng 10, 2010

Chiến tranh biên giới Ấn Độ - Trung Quốc 1962

Chiến tranh biên giới Ấn Độ - Trung Quốc 1962

Nhãn: lichsuchientranh



Khi con voi và con rồng đá chân nhau


Mọi quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc đều bị chi phối bởi vấn đề biên giới vẫn chưa giải quyết từ hơn 50 năm nay. Trung Quốc và Ấn Độ giáp nhau trên 3 550 cây số, được phân cách bởi dãy núi Himalaya hiểm trở và vùng cao nguyên Tây Tạng. Trong nhiều thế kỷ, Tây Tạng là vùng đệm giữa hai nước. Sau khi Trung Quốc chiếm Tây Tạng năm 1950, hai vùng đệm hiện nay là hai nước Nepal và Bhutan, nằm ở phía nam dãy Himalaya. Ba khu vực ngày nay vẫn là điểm nóng của sự xung đột giữa Ấn Độ và Trung Quốc: Aksai Chin ở tụ điểm của biên giới ba nước Pakistan, Ấn Độ và Trung Quốc, Arunachal Pradesh, ở sát biên giới Đông Bắc của Ấn Độ và Kashmir, ở Tây Bắc Ấn Độ.

Aksai Chin hiện thuộc quyền quản lý của Trung Quốc nhưng Ấn Độ coi như thuộc về mình và đòi lại. Ngược lại, Arunachal Pradesh là một tiểu bang của Ấn Độ nhưng Trung Quốc lại coi là thuộc về Tây Tạng và đòi Ấn Độ trả lại. Kashmir là vùng tranh chấp giữa Ấn Độ và Pakistan, mỗi bên chiếm một nửa và đòi bên kia phải trả phần còn lại. Mâu thuẫn giữa Ấn Độ và Trung Quốc ở Kashmir là vì Trung Quốc ủng hộ Pakistan.

Trong những thế kỷ trước Trung Quốc và Ấn Độ rất ít quan hệ vì địa lý cản trở. Khi hai nước giành độc lập và thoát khỏi ách ngoại bang vào cùng thời điểm, những đường biên giới do các nước thực dân ấn định trở thành đầu mối cho những xung đột có khi dẫn đến chiến tranh. Bản tuyên ngôn độc lập năm 1947 cũng chia cắt lãnh thổ Ấn Độ thành hai nước Pakistan và Liên bang Ấn Độ. Một sự phân chia đẫm máu: từ 300 000 đến 500 000 người bị thảm sát trong các cuộc chém giết lẫn nhau của hai cộng đồng hồi giáo và ấn độ giáo, và từ 10 đến 15 triệu người di cư từ vùng này sang vùng kia. Sự chia cắt đất nước và ba cuộc chiến tranh Ấn Độ- Pakistan tiếp nối nhau (1947-1948, 1965, 1971) để giành giựt vùng Kashmir vẫn là vết thương nhức nhối truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tại Ấn Độ. Việc Trung Quốc ngay từ đầu và cho đến ngày nay luôn là đồng minh đắc lực của Pakistan chỉ có thể thêm một ung nhọt cho quan hệ đã căng thẳng giữa hai nước. Trung Quốc cũng không ngần ngại dùng Pakistan để cảnh báo Ấn Độ ngay cả những lúc hai bên vui vẻ với nhau nhất: ngay sau khi viếng thăm Ấn Độ tháng 11.2006, chủ tịch Hồ Cẩm Đào bay sang Pakistan, như để nhắc lại một trong những điểm bất di bất dịch của đường lối ngoại giao mình. Chính sách "tay đấm tay xoa" này cũng thể hiện qua việc đại sứ Trung Quốc tại Ấn Độ Sun Yuxi , chỉ một tuần trước khi ông Hồ Cẩm Đào sang, tuyên bố: "Quan điểm của chúng tôi là toàn bộ tiểu bang Arunachal Pradesh thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Chúng tôi đòi lại tất cả." Khiến cho bộ trưởng ngoại giao Ấn Pranab Mukherjee phải đối đáp lại: " Arunachal là một bộ phận của Ấn Độ".

Mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Ấn Độ trong vùng Kashmir cũng không chỉ vì Pakistan mà còn vì một khu vực hai bên trực tiếp tranh giành nhau. Aksai Chin là một vùng đất rộng 38 000 cây số vuông, ở độ cao 5 000 thước, hoang vu và khô cằn, rất ít dân cư nhưng ở vị trí chiến lược giữa ba nước Pakistan, Ấn Độ và Trung Quốc. Aksai Chin ngày xưa thuộc về vương quốc Ladakh nhưng được sát nhập vào Ấn Độ thuộc đế quốc Anh khi Anh và Tây Tạng (lúc ấy còn độc lập) ký hiệp ước năm 1904, ấn định biên giới giữa Tây Tạng và Ấn Độ theo đường ranh giới Mac Mahon. Trung Quốc lúc ấy không công nhận Tây Tạng là nước độc lập nên cũng không công nhận đường Mac Mahon. Vì vị trí chiến lược của Aksai Chin, nằm trên quốc lộ 219 của Ấn Độ nối Tây Tạng và tỉnh Sinkiang (Tân Cương), Trung Quốc nhất định giữ quyền kiểm soát khu vực này.

Trung Quốc cũng đòi lại một khu vực rộng khoảng 82 000 cây số vuông ở Đông Bắc Ấn Độ hiện là tiểu bang Arunachal Pradesh nhưng Trung Quốc thường gọi là Zangnan (Tạng Nam). Arunachal Pradesh có hơn 1 triệu dân, đại đa số gốc Tây Tạng, Miến Điện và Thái, chỉ khoảng 15% là di dân từ các vùng khác của Ấn Độ, đặc biệt là hai tiểu bang lân cận Assam và Nagaland. Tại hội nghị Simla năm 1913-1914, thống đốc Anh Sir Henry Mac Mahon ấn định biên giới giữa Ấn Độ và Tây Tạng theo một đường ranh giới mệnh danh là "đường Mac Mahon" (Mac Mahon Line) nhằm nới rộng vùng kiểm soát của Anh và tạo ra một số vùng đệm. Các đại diện Anh và Tây Tạng tại hội nghị thông qua đường ranh giới này nhưng Trung Quốc chối từ ký hiệp định vì khẳng định Tây Tạng thuộc chủ quyền của mình và đường Mac Mahon vô giá trị. Năm 1950, thấy Trung Quốc sửa soạn chiếm Tây Tạng, Ấn Độ đơn phương ấn định biên giới theo đường Mac Mahon tuy Trung Quốc phản đối. Trong hơn 10 năm sau đó, vấn đề lắng dịu nhờ không khí hoà hoãn giữa hai nước, nhưng bùng lên trở lại với cuộc chiến tranh biên giới Ấn-Trung năm 1962. Trung Quốc kéo quân sang chiếm đa số khu vực này nhưng sau khi tuyên bố chiến thắng, rút trở lại sau đường Mac Mahon.

Vấn đề Tây Tạng và chiến tranh biên giới năm 1962



Sau khi lên nắm chính quyền, Mao Trạch Đông tuyên bố Tây Tạng thuộc về Trung Quốc và quyết tâm đặt Tây Tạng dưới quyền kiểm soát hành chánh và quân sự của mình. Đối với Bắc Kinh, sự quan tâm của Ấn Độ đến vùng này là can thiệp vào nội bộ Trung Quốc. Tuy Ấn Độ thừa kế một số đặc quyền tại Tây Tạng từ thời còn thuộc về Anh Quốc, thủ tướng Nehru, để trấn an Trung Quốc, khẳng định Ấn Độ không có tham vọng chính trị hay đất đai gì ở Tây Tạng, và cũng không đòi hỏi đặc quyền gì ở đó, nhưng mong muốn duy trì các quyền lợi thương mại cố hữu. Trước thái độ mềm mỏng ấy, Trung Quốc yên tâm tiến hành mưu đồ của mình và tháng 10. 1950 đem 40 000 quân tấn công Tây Tạng cùng lúc ở 6 nơi. Chỉ trong hai ngày, quân đội Trung Quốc đã giết hơn một nửa quân đội nhỏ nhoi và non nớt của Tây Tạng, chỉ có 8 000 người. Ấn Độ tuy bàng hoàng và phẫn nộ cũng không làm được gì để ngăn cản bước tiến của Trung Quốc. Chính quyền Tây Tạng cầu cứu đến cộng đồng quốc tế và Liên Hiệp Quốc nhưng rồi cũng bị ép buộc ký với Bắc Kinh, tháng 5.1951, một hiệp định "17 điểm" trong đó Tây Tạng công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên lãnh thổ nhưng được duy trì hệ thống chính trị và xã hội của mình. Ngày 9.9.1951, 23 000 quân Trung Quốc tiến vào thủ đô Lhassa, mở đầu cho bi kịch của người dân Tây Tạng, còn kéo dài đến ngày nay. Chưa đầy một năm sau, Bắc Kinh bắt đầu siết chặt sự kiểm soát, áp đặt những biện pháp xoá bỏ các truyền thống văn hoá và xã hội của Tây Tạng và tăng cường đàn áp sự kháng cự. Tháng 3.1959, sau một cuộc nổi dậy thất bại ở Lhassa, Đức Đà Lai Lạt Ma và hàng ngàn người Tây Tạng phải bỏ xứ đến nương náu tại những vùng Tây Bắc của Ấn Độ, tập trung ở tiểu bang Himachal Pradesh. Giòng chảy những người từ Tây Tạng đến tị nạn ở Ấn Độ không còn ào ạt như trong những năm đầu nhưng vẫn tiếp tục. Sự hiện diện của Đức Đà Lai Lạt Ma và một cộng đồng Tây Tạng ở Ấn Độ vẫn là một điều làm Trung Quốc khó chịu, dẫu là tháng 6.2003, Ấn Độ đã chính thức công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Tây Tạng và tuyên bố không hỗ trợ những hoạt động chống lại Trung Quốc của cộng đồng Tây Tạng tại Ấn Độ.

Việc Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng bằng vũ lực cũng là một đòn nặng đối với bản thân thủ tướng Nehru và thuyết sống chung hoà bình của ông. Tuy bị chỉ trích trong nội bộ là ngây thơ và yếu hèn, ông Nehru vẫn gắng gượng dĩ hoà vi quí vì tin rằng Ấn Độ cần phải hoà hảo với Trung Quốc để rảnh tay xây dựng kinh tế.

Sau khi lập quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh tháng 4.1950, Ấn Độ ký với Trung Quốc tháng 4.1954 một hiệp định về Tây Tạng và đặt nền tảng cho quan hệ giữa hai nước, trên cơ sở 5 nguyên tắc sống chung hoà bình (Panchsheel). Câu khẩu hiệu quen thuộc thời đó là "Hindi-Chini bhai-bhai" tức "Ấn Độ và Trung Quốc là anh em". Nhưng tình huynh đệ này cũng chỉ kéo dài được vài năm trước khi vỡ tan với cuộc chiến tranh biên giới năm 1962.

Cho đến ngày nay Trung Quốc và Ấn Độ vẫn còn bất đồng ngay cả về những lý do đưa tới chiến tranh và đổ lỗi cho nhau. Một điều chắc chắn là ở đây có nhiều yếu tố: tình hình Tây Tạng, vai trò Trung Quốc gán cho Ấn Độ trong cuộc nổi dậy ở Lhassa và nhất là việc Đức Đà Lai Lạt Ma chạy sang Ấn Độ; những đụng độ liên tiếp giữa các đội biên phòng của hai nước, và chính sách "tiến tới" (Forward Policy) của Ấn Độ thực hiện qua việc xây cất khoảng 60 tiền đồn trong đó 43 là ở phía bắc đường Mac Mahon, đối với Trung Quốc là bằng chứng của một mưu đồ bành trướng. Từ tháng 6.1962, các cuộc chạm súng leo thang thành chiến tranh thực thụ ngày 10.10.1962 khi quân đội Trung Quốc tràn sang Aksai Chin và Arunachal Pradesh, đánh bại các đội phòng vệ và tiến sâu vào lãnh thổ Ấn Độ. Cuộc chiến bất quân bình giữa bên Trung Quốc, đông đảo và dạn dày hơn, và bên Ấn ít kinh nghiệm và thiếu chuẩn bị, kết thúc chớp nhoáng, chỉ hơn một tháng sau, khi Trung Quốc tuyên bố chiến thắng và đơn phương ngừng bắn. Số tử trận và tù binh phía Trung Quốc không được thông báo còn phía Ấn Độ chết 1 383 người, bị bắt làm tù binh 3 968 người và mất tích 1 696 người. Chiến tranh chính thức chấm dứt khi Trung Quốc trả tù binh rồi rút về phía bên kia đường Mac Mahon. Một lý do tại sao Trung Quốc không "thừa thắng xông lên" mà tỏ ra rộng lượng biết điều là vì cùng lúc ấy, thế giới đang rúng động về vụ khủng hoảng tên lửa ở Cuba, khiến cuộc chiến tranh Ấn-Trung bị các nước Tây phương xem như một hành động gây hấn khác của khối Cộng sản. Tuy thắng thế dễ dàng nhưng Trung Quốc khôn ngoan hiểu là nên dừng lại ở đó và nhanh chóng giải quyết tranh chấp.

Cuộc chiến tranh biên giới đánh dấu một sự chuyển hướng triệt để trong đường lối ngoại giao và quân sự của Ấn Độ. Ông Nehru bị chỉ trích nặng nề là đã không đo lường được tình thế, chính sách hoà hảo với Trung Quốc và các lý thuyết sống chung hoà bình trên cơ sở bất bạo lực do ông đề xướng bị thực tế phủ nhận phũ phàng, và giấc mơ của ông xây dựng một trục Ấn Độ-Trung Quốc cùng nhau chế ngự châu Á tan như bong bóng.

Ấn Độ rút ra cho mình bài học là phải xây dựng sức mạnh quân sự và tự bảo vệ nếu muốn có chỗ đứng trên thế giới, quay sang Liên Xô và bắt đầu ra sức trang bị vũ khí. Trung Quốc và Ấn Độ bước vào một thời kỳ lạnh nhạt và đối nghịch kéo dài cho đến cuối thập niên 1980.

Sự bại trận năm 1962 cũng là nỗi tủi hổ của người Ấn cho tới ngày nay và tiếp tục chi phối cái nhìn của Ấn Độ về Trung Quốc, nuôi dưỡng một tâm trạng phức tạp: mặc cảm, tự ái, nghi ngại và tị hiềm pha lẫn nể phục và thèm muốn. Nhiều nhà phân tích, kể cả người Ấn, nhận xét: "Trung Quốc là nỗi ám ảnh của Ấn Độ". Một ám ảnh đi đôi với một nỗi day dứt thường kỳ khác: được xem như một cường quốc, ít ra là trong khu vực, nếu không trên toàn thế giới. Đáp lại khát vọng này là thái độ kẻ cả, có khi khinh thường của Trung Quốc khiến cho Ấn Độ càng bức bối. Một thí dụ: khi ông Atal Bihari Vajpayee, lúc đó là bộ trưởng ngoại giao, đến thăm Trung Quốc tháng 2.1979, ông đã phải hấp tấp về sớm hơn một hôm vì Trung Quốc tấn công biên giới bắc của Việt Nam ngay lúc ấy và còn tuyên bố "sẽ cho Việt Nam một bài học như đã cho Ấn Độ một bài học năm 1962"! Một câu nói vừa gây căm phẫn trong dư luận Ấn Độ, vốn có nhiều cảm tình với Việt Nam và đã nhớ ngay đến kinh nghiệm của chính mình, vừa cho thấy Trung Quốc sẵn sàng "chơi cha" Ấn Độ, chả coi anh ta ra gì.

Cũng vì mong muốn xác định cương vị của mình trên thế giới nên Ấn Độ đòi hỏi tham gia Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc với tư cách thành viên thường trực. Tuy Trung Quốc tuyên bố chính thức ủng hộ nguyện vọng này nhưng cho tới nay hồ sơ của Ấn Độ bị gắn liền với yêu cầu cùng mục đích của Nhật, mà Trung Quốc thì nhất định không cho Nhật tăng cường vai trò của mình, khiến Ấn Độ rất sốt ruột và bất bình.

Do đó không ngạc nhiên khi thấy đối với Ấn Độ, Trung Quốc là một sự nhức đầu kinh niên. Ngay cả việc chọn thái độ, cách đối xử với Trung Quốc cũng là một đề tài tranh cãi trong nội bộ Ấn Độ.

Chọn thế đứng trước con rồng


Theo vài nhà phân tích, ở Ấn Độ có ba cách cảm nhận và phản ứng trước sự vươn lên và sức mạnh của Trung Quốc: một là thán phục và khiếp sợ và do đó nghĩ rằng cần phải cầu an với Trung Quốc; hai là coi Trung Quốc như mối đe doạ nhưng trong tương lai xa, cho nên phải tăng cường sức mạnh kinh tế và quân sự của để giao lưu với Trung Quốc hầu kềm chế và cân bằng ảnh hưởng (check and balance), và ba là coi Trung Quốc như mối đe dọa lớn và ngay trước mắt, và vì thế phải đối xử như Trung Quốc đã đối xử với Ấn Độ: áp dụng chính sách ngăn cản và bao vây (containment–cum-encirclement).

Trường phái thứ nhất là nhóm lobby ủng hộ Trung Quốc: các đảng viên đảng cộng sản, trí thức thiên tả, một số nhà báo, những người chống chiến tranh, chống hạt nhân, chống Mỹ và những người lý tưởng. Ngoài ra còn có một số doanh nhân làm ăn với Trung Quốc và những người cảm thấy gần gũi với Trung Quốc về chính trị hay ý thức hệ. Có lẽ tiêu biểu cho nhóm này là quốc vụ khanh đặc trách thương mại Jairam Ramesh, người đã chế ra từ "Chindia" để miêu tả viễn tượng một sự hợp tác khăng khít giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Trong dịp chủ tịch Hồ Cẩm Đào thăm Ấn Độ tháng 11.2006, ông Ramesh tuyên bố trước Hiệp hội các công nghiệp Ấn Độ: "Chúng ta có còn chạy đua gì nữa đâu. Họ đã ăn đứt chúng ta rồi".

Trường phái thứ ba là nhóm diều hâu chống Trung Quốc, qui tụ một số trí thức dân tộc chủ nghĩa cực đoan và giới lãnh đạo quân sự. Không ít người Ấn, ngay cả giới trẻ, hoặc có thành kiến hoặc không biết mấy gì về Trung Quốc. Đối với họ Trung Quốc là đồng nghĩa với chiếm đóng Tây Tạng, xâm lăng Ấn Độ năm 1962, đồng loã với kẻ thù truyền kiếp là Pakistan, mưu toan thôn tính nước họ.

Song đại đa số người Ấn thuộc vào trường phái thứ hai, họ là các viên chức nhà nước, đa số giới nhà báo và trí thức, các doanh nhân, và những người có cái nhìn thực tế và ôn hoà. Họ nhận thức được ảnh hưởng thuận lợi của các cải cách và bước tiến kinh tế của Trung Quốc trên châu Á và Ấn Độ nhưng cũng chia sẻ những quan tâm về chính sách quân sự của Trung Quốc. Họ hiểu là đối với Trung Quốc không thể cầu an mà cũng chẳng thể ngăn cản. Phần nào họ tiêu biểu cho thái độ chung của Ấn Độ trước Trung Quốc: hoan nghênh về kinh tế và băn khoăn về quốc phòng. Những thăng trầm trong quan hệ giữa hai nước là tuỳ theo khuynh hướng ngả về phía này hay phía kia, ưu tiên cho kinh tế hay ưu tiên cho quốc phòng.

nguồn : hoàng sa
Được đăng bởi coletuan vào lúc 1/24/2009 11:21:00 CH

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét