Bài 1: Hiện đại hóa quân sự
Trung Quốc ngày nay, không như thời Đặng Tiểu Bình vớiphương châm "Thao quang dưỡng hối" (Ẩn mình để không lộ
thực lực), sẵn sàng phô diễn sức mạnh quân sự và thậm
chí không che đậy tham vọng "tranh bá đồ vương" với Mỹ.
Sự phô bày những con tàu chiến mang tính đe dọa để bảo vệ
luận điểm "đường lưỡi bò" của họ tại biển Đông là
một cụ thể. Tuy nhiên, liệu quân sự Trung Quốc đã thật sự
đủ mạnh để học làm anh siêu cường như được miêu tả và
mong muốn, hay tất cả chỉ là những cường điệu thái quá,
với mục đích gì đó; và đó là mục đích gì?
"Tân thời kỳ quốc gia quân sự chiến lược phương
châm" thể hiện điều gì?
Trung Quốc đã khiến giới chức quân sự phương Tây bất ngờ
khi đem "khoe" hơn 25 mẫu máy bay không người lái (UAV) tại
cuộc triển lãm hàng không Chu Hải (Quảng Đông) giữa tháng
11-2010 (1). Một số mẫu UAV thế hệ mới có thể bắn tên lửa
và có một mẫu (WJ-600) hoạt động bằng động cơ phản lực
– có nghĩa về lý thuyết, có thể bay nhanh hơn các loại UAV
Predator và Reaper (chạy bằng cánh quạt) mà quân đội Mỹ sử
dụng tại Iraq, Afghanistan và Pakistan. Chưa hết, cuối tháng
12-2010, loạt tin "rò rỉ" cho thấy Trung Quốc đã chế tạo
thành công máy bay "tàng hình" thế hệ thứ tư J-20 (vài
nguồn khác ghi "thế hệ thứ năm"). Một tuần sau khi những
bức ảnh J-20 "lộ" lên mạng, Phó đô đốc David Dorsett
(giám đốc Cục tình báo hải quân Hoa Kỳ) dãi bày lo ngại
rằng Trung Quốc đã tiến nhanh trong khả năng hiện đại hóa
quân sự và rằng Mỹ lâu nay đã đánh giá thấp sức mạnh
Trung Quốc (năm 2009, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Robert Gates
từng nhận định, Trung Quốc không thể có máy bay thế hệ
thứ năm, tương đương Mỹ, vào trước năm 2020). Ngoài J-20,
Trung Quốc đang sửa lại một hàng không mẫu hạm hơn 50.000
tấn (chiếc Varyag mua của Ukraine với giá 20 triệu USD vào năm
1998) và lên kế hoạch đóng mới hai chiếc 50.000 tấn nữa tại
một nhà máy Thượng Hải (chiếc đầu tiên dự kiến hạ thủy
trước năm 2014 và các chiếc khác vào trước năm 2020). Về kho
vũ khí hạt nhân, giới chuyên gia đánh giá Trung Quốc có không
dưới 160 đầu đạn hạt nhân, được lắp trong tình trạng
sẵn sàng tác chiến vào các dàn phóng di động và tàu ngầm
từ năm 2008 (2).
Sự phát triển quân sự Trung Quốc đã song hành với việc
triển khai hải quân tại nhiều vùng biển chiến lược, đặc
biệt những nơi giàu tài nguyên và nằm trong khu vực tranh chấp
(hải quân Trung Quốc đã được đầu tư đáng kể, chiếm hơn
1/3 ngân sách quốc phòng). Cuối tháng 3-2010, đô đốc Robert F.
Willard, tổng tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương Hoa Kỳ, báo
cáo Quốc hội Mỹ rằng sự triển khai hải quân Trung Quốc
hiện ở mức độ "đáng ngại" (3). Trung Quốc cũng đã thử
nghiệm tên lửa đạn đạo tầm xa DF-21/CSS-5 với khả năng
triệt hạ hàng không mẫu hạm (4), và rằng "sự hiện đại
hóa quân sự Trung Quốc đã được thiết kế để thách thức
sự tự do hành động của chúng ta ở khu vực" - tướng
Willard nói. Và chuyện Vịnh Yalong (Á Long loan) tại đảo Hải
Nam, với bề ngoài là trung tâm nghỉ mát năm sao nhưng ngầm bên
dưới là một căn cứ tàu ngầm, nay đã chẳng còn là một
"bí mật quân sự". Phó tư lệnh Hạm đội biển Đông của
Trung Quốc, Trương Hoa Thần, đã chẳng dè dặt khi nói "với
chiến lược hải quân đang thay đổi, chúng ta đang đi từ
việc bảo vệ bờ biển đến bảo vệ vùng biển".
Tiến trình hiện đại hóa quân sự Trung Quốc nói chung đã
được thể hiện trong kế hoạch "Tân thời kỳ quốc gia quân
sự chiến lược phương châm", được tung ra khoảng năm 1993,
phản ánh những ảnh hưởng, tác động và khả năng thích ứng
đối phó với những sự kiện từ cuộc chiến Vùng Vịnh năm
1991 và sự sụp đổ Liên Xô, và được cập nhật liên tục
theo tình hình từng thời kỳ. Năm 2003, Bộ chính trị Trung
Quốc chuẩn y thêm khái niệm "Tam chủng chiến pháp" (Ba
loại chiến pháp) - gồm chiến tranh tâm lý, chiến tranh thông
tin và chiến tranh pháp lý (sử dụng công cụ pháp lý để tranh
chấp các vấn đề liên quan chủ quyền biển đảo), như
được kể trong Báo cáo về phát triển quân sự Trung Quốc
của Bộ quốc phòng Hoa Kỳ đệ trình Quốc hội năm 2010 (5).
Mỹ bắt đầu "rét" trước sức mạnh quân sự Trung
Quốc?
Trong nguồn (5), báo cáo Lầu năm góc cho biết,
Trung Quốc hiện có chương trình tên lửa hành trình và tên
lửa đạn đạo đất đối không hoạt động mạnh nhất thế
giới, với những nghiên cứu và thử nghiệm liên tục (chẳng
hạn tên lửa DH-10, hoặc YJ-62 được trang bị cho khu trục hạm
Luyang II, tức Lữ Dương II…). Tên lửa liên lục địa DF-31A
với tầm xa 11.200km có thể bắn đến nhiều khu vực thuộc
Mỹ. Đến tháng 12-2009, quân đội Trung Quốc đã triển khai từ
1.050-1.150 tên lửa đạn đạo tầm ngắn CSS-6 và CSS-7 hướng
đến Đài Loan. Về hải quân, Trung Quốc hiện có lực lượng
với dàn tàu chiến cùng tàu ngầm hùng hậu nhất châu Á và
đứng nhì thế giới-chỉ sau Mỹ (với khoảng 75 tàu chiến,
hơn 60 tàu ngầm, 55 thiết hạm lội nước và 85 tiêm kích cơ
được trang bị tên lửa). Về không quân, Trung Quốc có 490
chiến đấu cơ… Việc hiện đại hóa quân sự cũng thể hiện
ở việc Trung Quốc đầu tư cho đội ngũ "chiến binh ảo"
với khả năng tấn công các mạng máy tính toàn cầu (tháng
3-2009, giới nghiên cứu Canada phát hiện một hệ thống gián
điệp trực tuyến tinh vi đặt tại Hoa lục từng tổ chức các
chiến dịch thâm nhập vào hệ thống máy tính của Chính phủ
Ấn Độ cũng như nhiều chính phủ thế giới; hơn 1.300 máy
tính tại 103 quốc gia bị đột nhập đã được ghi nhận).
Ngày 4-3-2010, Bắc Kinh cho biết ngân sách cho quốc phòng Trung
Quốc tăng 7,5% - lên 78,6 tỉ USD (giới chuyên gia quốc phòng Mỹ
tin rằng con số thực có thể khoảng gấp đôi). Trong thực
tế, phân tích dữ liệu tài chính 2000-2009 cho thấy ngân sách
Trung Quốc thật ra tăng trung bình 11,8%, so với tỉ lệ tăng 9,6%
của GDP trong cùng thời gian…
Cuối năm 2010, James Kraska – nguyên cố vấn chính
sách của giám đốc Cục hoạch định chính sách chiến lược
thuộc Bộ tổng tham mưu lục quân Hoa Kỳ và hiện là giáo sư
luật Đại học Chiến tranh Hải quân Mỹ – đã hình dung
rằng, vào năm 2015, sự thống trị hàng thập niên của Mỹ về
khả năng hải chiến có thể kết thúc bằng vụ chiếc hàng
không mẫu hạm trị giá 9 tỉ USD USS George Washington (chạy bằng
hạt nhân) bị Trung Quốc đánh chìm tại biển Đông! Sự kiện
không chỉ cho thấy bức tranh thay đổi cán cân về sức mạnh
hải quân tại châu Á mà còn "đưa đến một giai đoạn mới
về trật tự quốc tế mới trong đó Bắc Kinh bắt đầu nổi
lên thay thế Mỹ" (6). Đưa ra một sự kiện khó có khả năng
xảy ra, James Kraska muốn nhấn mạnh rằng Trung Quốc hoàn toàn
có thể triệt hạ Mỹ trong các cuộc hải chiến trong tương lai
gần, bởi với nhiều thập niên đầu tư sau Chiến tranh lạnh,
Trung Quốc đã ngày càng tiến gần Mỹ về năng lực hải quân
và thậm chí qua mặt ở một số lĩnh vực chẳng hạn xây
dựng lực lượng tàu ngầm chạy điện và dầu diesel. Cần
nhắc lại, tháng 10-2006, một tàu ngầm chạy bằng diesel, Type
039 ("Song class"), của Trung Quốc đã lượn lờ gần như ngay
trước mũi hàng không mẫu hạm USS Kitty Hawk rồi trồi lên cách
chỉ bốn dặm mà đến lúc đó hải quân Mỹ "mới bắt đầu
biết"! (Lầu năm góc không xác nhận chính thức thông tin
trên).
Trong các báo cáo đệ trình Quốc hội và Nhà
trắng cũng như trên những trang nhất báo chí Mỹ, người ta
còn thấy nhiều ý kiến "báo động đỏ", liên tục, với
mật độ dày đặc, từ những gương mặt tên tuổi tương tự
James Kraska. Trong một bài viết (7), cây bút lão làng người Mỹ
gốc Do Thái Robert D. Kaplan (mà vào năm 2009 được Bộ trưởng
quốc phòng Robert Gates mời vào Hội đồng chính sách quốc
phòng Hoa Kỳ) đã nhấn mạnh việc Mỹ bỏ lỏng khu vực biển
Đông khiến Trung Quốc có cơ hội trỗi dậy, rằng "66 chiếc
tàu ngầm của Trung Quốc hiện hơn gấp đôi số tàu chiến
của toàn bộ lực lượng Hải quân Hoàng gia Anh"; và nếu kinh
tế Mỹ tiếp tục trì trệ trong khi kinh tế Trung Quốc vẫn
tăng trưởng giúp ngân sách quốc phòng nước này tăng ổn
định trung bình gần 10%/năm, cán cân sức mạnh hải quân giữa
Mỹ và Trung Quốc chắc chắn thay đổi. Kaplan nhắc lại rằng
trung tâm địa chính trị về cuộc chiến cạnh tranh "sức
mạnh cứng" với Trung Quốc sẽ là biển Đông, nơi luân
chuyển 1/3 tất cả giao dịch thương mại hàng hải thế giới.
Đó là vùng biển mà Bắc Kinh có thể tiếp cận Ấn Độ
Dương qua eo Malacca; và từ đó tiến đến toàn bộ vòng cung
Hồi giáo, từ Tây Phi đến Đông Nam Á. Viết rằng "anh bạn
đế quốc này đang được xây và phát triển ngay trên lưng
chúng ta (Mỹ)", Kaplan nói thêm, tương tự việc Mỹ thống
trị Caribê khi con kênh Panama được đào để trong suốt thời
gian dài sau đó Mỹ làm trùm khu vực Tây bán cầu, Trung Quốc
cũng đang muốn thống trị khu vực biển Đông để trong tương
lai gần họ làm trùm khu vực Đông bán cầu...
Việc Trung Quốc đầu tư hiện đại hóa quân sự,
tóm lại, đã là điều ai cũng có thể thấy và thậm chí
được nghe đi nghe lại đến mức cứ như Trung Quốc đã
nghiễm nhiên là một cường quốc quân sự thật sự. Tuy nhiên,
điều ít được đề cập là Trung Quốc đã tăng cường sức
mạnh đó bằng năng lực và thực lực của mình hay nhờ đến
ngoại lực? Nói cách khác, Trung Quốc đã có thể tự mình làm
nên một quân đội đủ mạnh với kho tiềm lực vũ khí đủ
nguy hiểm để làm bá chủ áp đảo thế giới?
(CÒN TIẾP)
Mạnh Kim - Thực lực sức mạnh quân sự Trung Quốc (2)
Bài 2: Con cọp giấy!
Vấn đề đang đặt ra là sức mạnh quân sự Trung Quốc cótương thích với khả năng phát triển kỹ thuật quân sự của
họ hay không. Nói cách khác, Trung Quốc đã "luyện công"
đủ để có một nội lực thâm hậu về công nghiệp quốc
phòng và chẳng cần bất cứ ai hỗ trợ vẫn có thể xưng hùng
một cõi?
Kỹ thuật quân sự Trung Quốc "tiến bộ" đến đâu?
Một phần trong câu trả lời có thể tìm thấy ở mẫu máy bay
tàng hình J-20 mà Trung Quốc mới tiết lộ. Trong thực tế, công
nghệ chế tạo máy bay tàng hình ngày nay chẳng là bí mật gì
ghê gớm và cũng chẳng là thứ công nghệ kỹ thuật cao mà
chỉ vài nước tiên tiến mới có thể sở hữu. Không chỉ
Mỹ, Nga, Anh, Pháp và Đức – những nước có bề dày lẫn kinh
nghiệm trong công nghiệp vũ khí, mà Hàn Quốc, Ấn Độ, Thụy
Điển và thậm chí Serbia… cũng đã chế tạo thành công từ
lâu chiến đấu cơ có khả năng tác chiến cao (8). Kỹ thuật
tàng hình cũng chẳng bí mật nốt. Yếu tố giúp máy bay "tàng
hình" – tức không bị radar phát hiện – là (kỹ thuật
thiết kế) hình dáng (giúp triệt tiêu sóng radar). Trong khi đó,
như nhà báo chuyên đề tài hàng không quân sự Bill Sweetman
(biên tập chuyên san Defense Technology International) cho biết, bất
cứ ai cũng có thể biết được "công nghệ" trên bằng cách
vào bất kỳ cửa hàng đồ chơi nào của hãng Testors (Mỹ) để
mua mô hình máy bay quân sự tàng hình được thiết kế (với
tỉ lệ thu nhỏ) giống thật 100%! (9).
Một trong những lý do khiến có ít nền công nghiệp quốc phòng
đầu tư cho máy bay tàng hình là chi phí. Việc chế tạo máy bay
tàng hình tốn kém đến mức Nga không thể đầu tư sản xuất
thế hệ T-50 mới nhất nếu không có sự hùn vốn từ Ấn
Độ. Chính yếu tố chi phí nên, năm 2009, Lầu năm góc đã rút
lại chương trình sản xuất thế hệ F-22 chỉ còn 187 chiếc sau
khi chi hơn 64 tỉ USD trong 20 năm (chương trình nghiên cứu-sản
xuất máy bay tàng hình B-2 đã ngốn ngân sách không quân Mỹ
đến gần 45 tỉ USD). Ngoài chi phí cao, vấn đề quan trọng
nhất ở đây là động cơ. Đó là thứ mà đến nay Trung Quốc
vẫn chưa tự làm được! Gần như tất cả chiến đấu cơ mà
Trung Quốc "chế tạo" đều phải lắp động cơ AL-31F của
Nga, cho dù họ từng nhiều lần cố mày mò nghiên cứu sao chép
(10). Gần đây nhất, cuối năm 2010, Trung Quốc tiếp tục đặt
mua động cơ từ hai nhà máy Salyut và Chernyshev (Nga) để lắp
cho loại máy bay chiến đấu mới "chế tạo" J-11B (phiên
bản lai từ chiếc Su-27 của Nga); dòng J-10 (được tin là có
sự giúp đỡ của Israel); và FC1 – mô phỏng theo một thiết
kế bỏ dở của Nga (11). Không chỉ chiến đấu cơ, oanh tạc
cơ H-6 của họ cũng phải sử dụng động cơ D-30KP của Nga…
Richard Aboulafia, nhà phân tích quân sự thuộc tập đoàn US Teal
Group, nói với tờ Defense Tech rằng, một chiến đấu cơ hiện
đại cần ít nhất 11 hệ thống hỗ trợ để có thể hoạt
động hiệu quả trong đó có việc hoạch định sứ mạng kỹ
lưỡng, phi công giỏi, đội ngũ kỹ sư bảo trì tốt, vũ khí
tinh vi, hệ thống radar hoàn hảo, các hệ thống điện tử
khác… Trong tất cả hệ thống cần có nói trên, Trung Quốc
chỉ mới làm được duy nhất một – theo Aboulafia – đó là
chế tạo phần thân cho máy bay. Thiếu động cơ, máy bay (hoặc
bất kỳ hệ thống nào khác) chỉ như một cái xác rỗng vô
tích sự! Nói như John Pike, nhà phân tích của trang web nổi
tiếng Globalsecurity.com, kỹ thuật quân sự Trung Quốc – dù
được ráo riết hiện đại hóa – vẫn còn thua Mỹ "khoảng
hai thập niên" (12). Những gì giới kỹ sư quân sự Trung Quốc
đạt được vài năm gần đây thật sự là một chuyển biến
đột phá, một quá trình dày công, so với chính bản thân họ,
nhưng hoàn toàn không thể so với bước tiến kinh khủng của
công nghiệp quốc phòng thế giới nói chung, bởi những gì Trung
Quốc chế tạo được trong khả năng giới hạn của họ đã
được "người ta" làm ra từ lâu (nếu không nhờ thừa
hưởng "di sản" từ các cuộc hợp tác trong quá khứ với
Liên Xô, công nghiệp không gian Trung Quốc chắc còn lâu mới có
được những chiếc Thần Châu!). Thời điểm hiện tại, Trung
Quốc là nước duy nhất trong các thành viên thường trực Hội
đồng bảo an là không có hàng không mẫu hạm (trong khi các
nước nhỏ hơn như Thái Lan, Ấn Độ, Brazil đều có!). Cần
nhắc lại, trước khi bước vào Thế chiến thứ hai, Hải quân
Hoàng gia Nhật đã sở hữu một hạm đội "khủng" với 10
hàng không mẫu hạm (so với 7 của Mỹ và 8 của Anh). Điều
đó cho thấy kỹ thuật hàng hải nói riêng và kỹ thuật quân
sự nói chung của Nhật, nước từng đóng được hàng không
mẫu hạm từ Thế chiến thứ nhất, đã phát triển cỡ nào!
Lấy thêm ví dụ máy bay không người lái (UAV). Dù trong cuộc
triển lãm Chu Hải (xin xem kỳ 1), Trung Quốc đã làm "ngạc
nhiên" và "bất ngờ" với hơn 25 mẫu UAV quân sự nhưng có
thể những chiếc UAV trên chẳng là gì so với thế hệ UAV mới
nhất của Mỹ mà điển hình là RQ-4B Global Hawk do hãng Northrop
Grumman sản xuất. So với RQ-4B, UAV Predator cũng chỉ đáng mặt
là con "cào cào", bởi RQ-4B to gần bằng máy bay dân dụng –
dài 13,45m; sải cánh 35,41m; cao 4,62m; nặng 3,8 tấn. Điều khiển
hoàn toàn từ xa, RQ-4B là thế hệ UAV mạnh nhất hiện nay,
được sử dụng chuyên do thám, có thể "khảo sát" 100km2
địa hình/ngày (ngày lẫn đêm) với hệ thống dò tín hiệu
cực nhạy và hệ thống viễn thông vệ tinh truyền dữ liệu
cho trạm chỉ huy mặt đất cũng như chiến đấu cơ. RQ-4B có
thể quan sát mọi động tĩnh của tàu chiến và tàu ngầm đối
phương…
Lầu năm góc hiện có 3.000 UAV với đủ kích cỡ, từ loại
nhỏ như chiếc Raven (AeroVironment) chỉ to bằng máy bay mô hình
đồ chơi lắp ráp đến Predator (đã được nâng cấp nhìn
"xuyên tường") và Reaper (đều của General Atomics) dài từ
8-11m. Ngoài ra còn có RQ-170 (Lockheed Martin) với khả năng "tàng
hình" và được trang bị thiết bị có thể "phóng" virus
để phá hủy và làm tê liệt bộ não điều khiển của hệ
thống điện tử đối phương. Ngoài các loại UAV thông
thường, các hãng vũ khí Mỹ cũng đã tung ra (và đang được
sử dụng) thế hệ UAV lên thẳng (trực thăng không người
lái), chẳng hạn RQ-8A Fire Scout (Northrop Grumman-Ryan Aeronautical),
A160 Hummingbird (Boeing)… Đang được nghiên cứu còn là chiếc
Phantom Eye (Boeing) với phiên bản to hơn, bay cao hơn và thậm chí
mạnh hơn RQ-4B, được thiết kế để làm chiến đấu cơ và
oanh tạc cơ không người lái (ngày 5-10-2010, Boeing đã cho trình
diễn mẫu chiến đấu cơ-do thám không người lái Phantom Ray).
Lầu năm góc cũng sở hữu hàng trăm vệ tinh quân sự trong khi
quân đội Trung Quốc chỉ mới hơn 10 chiếc (nguồn 12). Chỉ
một góc nhỏ của bức tranh, đã có thể thấy mức độ
"tương quan lực lượng" như thế nào, mà cũng chỉ mới
đề cập lĩnh vực nghiên cứu chứ chưa nói đến ứng dụng
thực tế (chiến trường). Không chỉ đối với Mỹ, nhiều
lĩnh vực công nghiệp vũ khí Trung Quốc vẫn lạc hậu so với
các nước khác, chẳng hạn Ấn Độ, Pakistan, Israel hay Thụy
Điển – nơi xuất khẩu số vũ khí trị giá 13,5 tỉ kronor (1,9
tỉ USD) năm 2009, đến các khách hàng Úc, Nam Phi, Hàn Quốc,
Singapore, Pakistan, thậm chí Anh và cả Mỹ (14).
"Lớn lên" bằng sức mạnh người khác
Trong gần hai thập niên, khách hàng Trung Quốc chiếm từ 1/4
đến 1/2 doanh số vũ khí Nga, với các thương vụ nhiều hơn
tất cả nước khác cộng lại. Thập niên 1990, giá trị số
thương vụ vũ khí Trung Quốc mua từ Nga đạt khoảng 1 tỉ
USD/năm; và tăng hơn 2 tỉ USD vào giữa thập niên đầu thế
kỷ 21 (13). Cũng theo nguồn này, Viện nghiên cứu hòa bình quốc
tế Stockholm cho biết, Trung Quốc nhập vũ khí qui ước nhiều
hơn bất kỳ quốc gia nào từ 2005-2009. Theo báo cáo của Bộ
quốc phòng Hoa Kỳ năm 2010 (ANNUAL REPORT TO CONGRESS, trang
33-36-45-46-48), Trung Quốc hiện sử dụng hệ thống phòng thủ
tên lửa đất đối không SA-10, SA-20 PMU1/PMU2 cũng như dùng các
chiến đấu cơ thế hệ thứ tư Su-27, Su-30, Su-30MK2… của Nga.
Quân đội Trung Quốc cũng sử dụng hệ thống định vị toàn
cầu GPS của Mỹ, GLONASS của Nga; bởi hệ thống Bắc Đẩu
(Beidou-1 và Beidou-2) của họ hoạt động kém. Tổng quát, trong
hầu hết lĩnh vực then chốt của công nghiệp quốc phòng, Trung
Quốc đều phải dựa vào kỹ thuật nước ngoài, từ hệ
thống điều khiển, động cơ turbine đến các thiết bị chính
xác cao. Từ năm 2003 đến nay, Trung Quốc liên tục vận động
hành lang Liên minh châu Âu để EU xóa lệnh cấm các nước
thành viên bán vũ khí cho Trung Quốc, được áp dụng kể từ
sự kiện Thiên An Môn 1989.
Và trong khi chờ EU mở cửa cho xuất khẩu vũ khí sang Trung
Quốc, quân đội nước này vẫn tiếp tục dựa chủ yếu vào
nhà cung cấp truyền thống là Nga. Tuy nhiên, sự nóng vội trong
"thể hiện bản thân" của Trung Quốc đã khiến Nga bắt
đầu dè chừng. Anatoly Isaikin – tổng giám đốc Rosoboronexport
– dự báo doanh số vũ khí Nga bán cho Trung Quốc trong vài năm
tới chỉ chiếm khoảng 10%. Sự lo ngại khả năng Trung Quốc
chôm chỉa kỹ thuật đã khiến Chính phủ Moscow xét lại việc
bán tiêm kích cơ hiện đại Su-33 có thể được dùng cho hàng
không mẫu hạm tương lai của Trung Quốc (mối nghi ngờ xuất
phát từ việc Trung Quốc chỉ đặt mua vỏn vẹn hai chiếc Su-33
"để bay thử"). Cần nhắc lại, quan hệ thương mại quân
sự Nga-Trung từng có lúc căng thẳng, bắt đầu từ năm 2004
với hai sự kiện. Thứ nhất, đó là vụ Trung Quốc sao chép
kỹ thuật chiến đấu cơ Su-27 trong khi họ chỉ được phép
nhận lắp ráp theo hợp đồng gia công cho Nga. Thứ hai, đó là
vụ Nga chơi trả đòn bằng việc ký hợp đồng giao cho Trung
Quốc một "lô" vận tải cơ quân sự IL-76 nhưng cuối cùng
không hề sản xuất! Vụ việc khiến Trung Quốc nổi giận. Sau
khi nhận 105 trong 200 chiếc Su-27 trong thương vụ đã ký, Trung
Quốc hủy hợp đồng và ngừng các cuộc đàm phán thương vụ
vũ khí trong vài năm. Tuy nhiên, sau loại thất bại việc nghiên
cứu-chế tạo động cơ cho chiến đấu cơ, Trung Quốc lại làm
hòa với Moscow, cốt để mua hệ thống phòng thủ S-300 và đặc
biệt là động cơ cho máy bay chiến đấu. Cần biết, động cơ
mà Trung Quốc chế tạo cho chiếc Su-27 chỉ "chạy tốt"
được 30 tiếng (!) trong khi động cơ Nga hoạt động đến 400
tiếng mới cần được bảo trì. Khi các cuộc đàm phán được
nối lại năm 2008, Nga - lần này - bắt đầu chơi rắn. Họ
không còn (dám) "nhờ" Trung Quốc lắp ráp (theo kiểu gia công
sản phẩm) chiến đấu cơ nữa. Tháng 11-2010, Nga nói họ chỉ
có thể cung cấp chiến đấu cơ Su-35 cho chương trình hàng
không mẫu hạm Trung Quốc nếu "anh bạn" này chịu mua 48
chiếc - số lượng đủ để Nga "hoàn vốn và có tí lãi"
trước khi bị kỹ sư Trung Quốc chôm chỉa kỹ thuật! Nga còn
nói, Trung Quốc phải ráng "kiên nhẫn" chờ thêm "ít lâu"
để quân đội Nga nhận trước dàn tên lửa phòng thủ S-400
rồi mới đến lượt họ "được" mua (nguồn 11)!
Sự lệ thuộc nước ngoài thật ra đã phản ánh đúng thực
lực và trình độ kỹ thuật trong công nghiệp nói chung của
Trung Quốc, nơi mà bây giờ vẫn còn kém xa Nhật về công
nghiệp điện tử dân dụng; nơi nổi tiếng thế giới với
những vụ đánh cắp bản quyền cũng như gián điệp kinh tế
(và cả quốc phòng – tất nhiên!).
(CÒN TIẾP)
Mạnh Kim
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét