Thứ Hai, 7 tháng 3, 2011

Thi sĩ Hữu Loan – Một năm đã xa vắng trần thế

Posted by truongthondlb1


“Ở đời này có hai việc tôi không thể làm được. Một là đi ăn cắp, hai là đi làm cán bộ. Nay, tôi lao động, kiếm sống nuôi con, mà các ông cũng cấm. Từ cổ chí kim, tôi không thấy một nhà nước nào cấm người ta lao động cả. Còn các ông cấm, không cho tôi lao động, thì tôi chỉ còn một cách là đi ăn xin. Ngày mai tôi sẽ khoác bị chống gậy đi ăn xin, đề một tấm biển trước ngực: “Tú Loan, người ăn xin”. Các ông đừng bảo là tôi bôi xấu chế độ nhé.“ – Thi sĩ Hữu Loan

*

Một nhân cách vuông chành chạnh

Hoàng Tiến – Có người viết hàng trăm bài thơ, hàng nghìn bài thơ. Nhưng chẳng ai nhớ nổi một bài, nhớ nổi vài câu. Còn ngược lại, có người chỉ làm vài bài thơ, thậm chí một bài thơ, mà được lưu truyền đời này đời khác. Đọc lên, ai cũng tấm tắc khen hay.

Lãnh vực của văn chương nghệ thuật là lãnh vực của cái hay, cái đẹp, cái tài. Nó không phụ thuộc vào số lượng. Như người xưa thường nói: “Quý hồ tinh, bất quý hồ đa”

Nhà thơ Hữu Loan làm thơ không nhiều. Vẻn vẹn cả đời ông mới in một tập thơ, nhan đề “Màu tím hoa sim”, với dung lượng hơn chục bài thơ. Một số bài được truyền tụng và đã trở thành bất tử, như bài Màu tím hoa sim, bài Đèo Cả, bài Hoa lúa …

Đọc thơ Hữu Loan cảm nhận ông là một nhà thơ lớn. Nhà thơ lớn, theo tôi, phải đáp ứng được hai tiêu chuẩn. Một là có nội dung tư tưởng chứa đựng những cảm xúc thời đại. Hai là có phương thức biểu cảm mới lạ. Thơ Hữu Loan được cả hai điều đó.

Dẫn chứng một:

Đèo Cả!
Đèo Cả!
Núi cao ngất
Mây trời Ai Lao sầu đại dương
Dặm về heo hút
Đá bia mù sương
Bên quán Hồng Quân
người ngựa mỏi
Nhìn dốc ngồi than
thương ai lên đường
Chày ngày lạc giữa núi
Sau chân lối vàng xanh tuôn
Dưới cây bên suối độc
Cheo leo
chòi canh
như biên cương……

(Trích ĐÈO CẢ - 1946)

Dẫn chứng hai:

Nàng có ba người anh
đi bộ đội
Những em nàng
có em chưa biết nói
Tóc nàng xanh xanh.
Tôi,
người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng,
như tình yêu em gái.
Ngày hợp hôn,
nàng không đòi may áo mới
Tôi vận đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo……

(Trích MÀU TÍM HOA SIM – 1949)


Được biết bài “Đèo Cả”, khởi đầu tác giả viết bằng lục bát, rồi không ưng, bỏ đi. Hữu Loan nói về lối thơ xuống hàng (Ông không gọi thơ bậc thang, như những người nghiên cứu thơ Maiakovski đã gọi. Thơ Maiakovski được giới thiệu vào ta khoảng năm 1955 – 1956. Còn thơ xuống hàng của Hữu Loan có từ 1946 – 1949. Những cách tân lớn thường gặp nhau mà thôi):

- “Thơ xuống hàng làm người đọc sẽ phải đọc chậm, ngắt giọng, nhấn chữ, nó đập mạnh vào trực giác người ta hơn (Hữu Loan dùng tiếng Pháp intuitivement), nó làm nổi hình khối lên (en relief). Thơ cần phối hợp cả âm nhạc, điêu khắc và hội họa. Cái tối thiểu là người nghệ sĩ phải trả cho độc giả cái cảm xúc bằng thiên nhiên, mà nghệ thuật thì phải hơn thiên nhiên. Bài “Đèo Cả” đầu tiên tôi viết bằng lục bát, đọc lại không ưng. Cuộc sống khác đi, cả dân tộc đi vào kháng chiến, nhiều tình cảm lớn, lạ, nảy sinh. Nhịp điệu thơ phải khác. Cái quan trọng là nhịp điệu đúng chỗ, biểu hiện tình cảm đúng lúc, thì vẫn đi vào lòng người. Bài “Màu tím hoa sim” viết lối thơ xuống hàng, mà nhiều các cụ các bà không biết chữ ở thôn quê vẫn thuộc.

Tôi hỏi:

- Tác giả có thể cho biết ông nghĩ gì khi viết các câu thơ:

Chiều hoang tím
có chiều hoang biết
Chiều hoang tím
tím màu da diết
Nhìn áo rách vai
tôi hát
trong màu hoa

Hữu Loan cười:

- Có người đã đổi đầu đề bài thơ của tôi là “Đồi sim màu tím”. Màu tím như vậy là thành cụ thể mất rồi. Vì vợ tôi thích màu tím, màu tím với tôi lúc này là một ảo giác, một ảo ảnh, tôi hát trong màu hoa ấy. Tôi mê, tôi tỉnh, tôi say, tôi phát cuồng, tôi …như thế nào nhỉ, tùy các nhà phê bình phán xét.

Tôi nói:

- Tác giả đã nhập thần vào câu thơ Tôi hát trong màu hoa, là một câu thơ trong chữ có quỷ (ngôn trung hữu quỷ). Nó không có thực, mà lại rất thực về mặt tâm linh. Đọc lên thấy nổi gai người. Và chỉ còn biết đốt hương lên, tĩnh lặng, mới cảm nhận hết vẻ sắc lan tỏa ý nhị của ngôn ngữ nghệ thuật khi chúng được đặt xếp cạnh nhau.”

Trên đây là trích đoạn một bài viết về nhà thơ Hữu Loan cách nay 23 năm (1988), khi ông “tái xuất” trở ra Hà Nội sau 38 năm về Nga Sơn – Thanh Hóa làm ruộng và thồ đá nuôi con. Ra Hà Nội, ông tá túc ở căn hầm là nhà ở của nhà thơ Tú Sót (tức Chu Thành, biên tập viên Nhà xuất bản Thanh Niên) 64 Bà Triệu. Căn hầm chật chội luôn phải bật đèn vì thiếu ánh sáng, nhưng nườm nượp người qua lại. Rất nhiều người muốn biết mặt nhà thơ Hữu Loan.

Tôi ghi lại một vài mẩu chuyện hồi ấy:

Một buổi, trong bữa rượu lạc thanh bần, Hữu Loan bỗng hỏi:

- Truyện Kiều có thằng bán tơ thật không?

Mọi người ngớ ra. Cái tai nạn của cuộc đời Kiều, khởi nguyên là ở thằng bán tơ.

Phải tên xưng xuất tại thằng bán tơ

(câu 588 – Đoạn trường tân thanh)

Hữu Loan tủm tỉm:

- Kiều lấy Từ Hải, hùng cứ một phương trời, có cảnh báo ân báo oán làm hả hê cuộc đời Kiều. Cảnh báo oán trừng phạt đầy đủ những người đã gây tai họa cho Kiều. Nhưng không thấy thằng bán tơ. Thế là sao?

Hữu Loan ngừng một lúc, nhấc chén rượu lên môi, rồi lại đặt xuống. Một khoảng im lặng đủ để mọi người suy nghĩ, rồi ông nói nhẹ nhàng:

- Tôi bị cái họa Nhân văn – Giai phẩm, bị vu cho là phản động, lật đổ chính quyền, về Nga Sơn nằm dài, nhân đọc lại Kiều, mới thấy cụ Nguyễn Du nhà ta thánh thật. Thằng bán tơ là nhân vật bịa ra, nhân vật vu khống, không có thật, thì làm sao mang nó ra xét xử được. Cụ Nguyễn Du giả vờ quên thằng bán tơ là cụ cao tay lắm trong nghệ thuật bút pháp. Kẻ hậu sinh đọc Truyện Kiều, suy ngẫm để nhận ra điều ấy, là nhận ra cái xã hội thối nát truyện Kiều, đến công lý cũng vin vào một lời khai vu vơ làm tan nát cả một đời Kiều. Cái xã hội thiếu nhân tính, thiếu tôn trọng con người, gây oan khuất cho những người lương thiện, đáng nguyền rủa biết bao! Cái thâm thúy của cụ Nguyễn Du là ở đấy!

Chúng tôi cùng giật mình, thấy lạnh xương sống về nhận xét của Hữu Loan. Ngẫm ra, cụ Nguyễn Du thánh thật, và cụ Hữu Loan nhận ra được điều ấy trong bút pháp cụ Nguyễn Du, thì cụ Hữu Loan cũng thánh thật.

Mẩu chuyện thứ hai: Hữu Loan về quê làm ruộng, thồ đá bán. Phòng thương nghiệp và dân quân được lệnh xét hỏi. Họ bắt nhà thơ đổ hai sọt đá xuống và nói:

- Ông không vào hợp tác. Làm ăn riêng lẻ, để phát triển con đường tư bản. Chúng tôi cấm.

Nhà thơ nói:

- Chúng tôi bị quy Nhân văn – Giai phẩm, nghĩa là phần tử nguy hiểm hơn cả địa chủ, tư sản. Hợp tác các ông không cho tôi vào. Ở đời này có hai việc tôi không thể làm được. Một là đi ăn cắp, hai là đi làm cán bộ. Nay, tôi lao động, kiếm sống nuôi con, mà các ông cũng cấm. Từ cổ chí kim, tôi không thấy một nhà nước nào cấm người ta lao động cả. Còn các ông cấm, không cho tôi lao động, thì tôi chỉ còn một cách là đi ăn xin. Ngày mai tôi sẽ khoác bị chống gậy đi ăn xin, đề một tấm biển trước ngực: “Tú Loan, người ăn xin”. Các ông đừng bảo là tôi bôi xấu chế độ nhé.

Mấy ông thương nghiệp và dân quân quay ra bàn nhau một lúc, rồi họ rút lui.

Mẩu chuyện thứ ba: Cái họa Nhân văn – Giai phẩm đã lùi xa. Nhiều người đến thăm hỏi Hữu Loan. Người ta thấy ông ăn mặc mộc mạc, nhà cửa tuyềnh toàng. Có người hỏi: “Bấy lâu nay ông bận làm gì, mà không xây nhà cửa cho nó đàng hoàng, ở cho nó sướng cái thân”. Nhà thơ Hữu Loan đáp: “Tôi bận làm người”.

Sách xưa nói: “Tố nhân bất khả hữu ngạo thái, nhiên, bất khả vô ngạo cốt” (Làm người không nên có cái thái độ kiêu ngạo, tuy nhiên, không thể không có cái cốt cách kiêu ngạo). Nhà thơ Hữu Loan đã có cái cốt cách của bậc sĩ quân tử “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”(Giàu sang không cám dỗ, nghèo khó chẳng chuyển lay, uy vũ không khuất phục). Ông tự ví mình như cây gỗ vuông chành chạnh, không để cho ai đẽo gọt tròn trịa có thể lăn đi bất cứ chỗ nào.

Chúng tôi là lớp hậu sinh yêu thơ ông, quý mến ông, cảm thương những hoạn nạn mà ông đã trải, kính phục trước nhân cách khí khái, ngang tàng, mà chúng tôi thường nói với nhau: một nhân cách vuông chành chạnh!

Cầu mong linh hồn ông siêu thoát lên từng trời tương ứng với tuệ giác của ông.

Nam mô A di đà Phật!

Nhân dịp giỗ đầu nhà thơ Hữu Loan tổ chức tại quê nhà Nga Sơn-Thanh hóa, ngày 2 tháng 2 năm Tân Mão tức chủ nhật 6 tháng 3 năm 2011.

Nhà văn Hoàng Tiến cẩn bút.


*Bài do nhà văn Hoàng Tiến gửi trực tiếp cho Nguyễn Xuân Diện-Blog. Xin chân thành cảm ơn tác giả!

http://nguyenxuandien.blogspot.com/2011/03/thi-si-huu-loan-mot-nam-vang-xa-tran.html

*

Bài thơ Màu tím hoa sim:

Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê…

Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa…

Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường đông bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu…

Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu…

(1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét