Thứ Hai, 14 tháng 3, 2011

Thảm Sát Trường Sa

http://www.youtube.com/watch?v=hGdQPpwmyCM&eurl


http://blog.360.yahoo.com/blog-fkTae...c32.Yv?p=49443


Hãy xem kỹ clip, đây không phải "hải chiến" mà là lính VN trở thành bia cho đại liên từ tàu chiến TQ nã đạn, chiến tranh thì phải có 2 phe đánh nhau. Còn đây: lính VN trơ trọi trên đảo sau khi đổ bộ bằng tàu ..vận tải!

Lãnh đạo VN đã đưa lính vào nơi chắc chắn là chết và chắc chắn không thực hiện được gì

Những chiến sĩ anh hùng này đã hoàn toàn không có 1 cơ hội

Các tàu hải quân của VN toàn là tàu vận tải. Không có tàu chiến yểm trợ. Thủy thủ trên các tàu vận tải của VN thì không có vẻ trong tình trạng báo động. Có lẽ không ai nói với họ là TQ có thể đánh

Có ý kiến là VN bị bất ngờ khi TQ đánh năm 1979

Có vẻ là VN bị bất ngờ khi TQ bắt đầu chiếm đóng những đảo nửa nổi nửa chìm mà VN không đóng quân

Có vẻ là VN bị bất ngờ là VN đã đổ bộ lên đảo mà TQ còn đánh chiếm

Trong tương lai VN có sẽ còn bị bất ngờ nào nữa không?
__________________


Lời Bi Thiết cuả một Hải Quân VC sống sót sau thảm sát Trường Sa 14/3/1988

Mai Thanh Hai
Kêu gọi hành động thiết thực với những người đã nằm xuống trong ngày 14-3-1988

Là thành viên của Diễn đàn, tôi đưa ra vấn đề này để mọi người cùng bàn bạc, thống nhất và nếu thực hiện được trong thời gian sớm nhất thì không có gì tuyệt vời hơn.

Như chúng ta đã biết, cách đây hơn 21 năm, tàu chiến đấu và lính thủy Trung Quốc đã bất ngờ tấn công các tàu vận tải của ta đang làm nhiệm vụ tại vùng biển Cô Lin - Gạc Ma, thuộc quần đảo Trường Sa. Dã man và điên cuồng, lính thủy Trung Quốc đã bắn chìm tàu vận tải của ta, dùng pháo hạng nặng trên tàu và các loại vũ khí bộ binh khác bắn xối xả lên bãi cạn Gạc Ma, nơi có hơn 100 cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đang làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và xây dựng đảo. Những chiến sĩ này, đại đa số đều không thể chống cự được bởi không có vũ khí và do tương quan lực lượng. Rút cục, ngay từ những phút đầu, bộ đội ta đã chịu thương vong nặng nề.

Theo con số chính thức mà Nhà nước ta (thời điểm 1988) đưa ra, trong ngày 14-3-1988, đã có 74 cán bộ, chiến sĩ Hải quân ta hy sinh và bị mất tích. Sau thời điểm này, Trung Quốc đã trao trả cho ta 9 cán bộ-chiến sĩ bị chúng bắt sống làm tù binh. Như vậy, còn tới 65 bộ đội ta đang nằm sâu dưới lòng biển Cô Lin - Gạc Ma.

Đến thời điểm này, chúng ta càng biết rõ hoàn cảnh hy sinh của những chiến sĩ Hải quân Việt Nam trên vùng biển Cô Lin-Gạc Ma trong ngày 14-3-1988 qua những thước phim mới được công bố. Đây là bằng chứng xác thực về dã tâm của Trung Quốc và cũng nói lên ý chí, sự dũng cảm, kiên trung của những người tay không giữ đảo...

Những người bị bắt làm tù binh và được trao trả sau ngày 14-3-1988, hiện đang sống ra sao? Họ nói gì, nghĩ gì và hồi tưởng gì về những khoảnh khắc đâu thương đó?

Những gia đình có con em hy sinh trong ngày 14-3-1998 đã biết về trường hợp hy sinh của con em mình chưa? Qua bao nhiêu năm, nỗi đau có thể nguôi ngoai nhưng những người mẹ, người vợ, người chị của các liệt sĩ ấy đang sống thế nào?..

TÔI ĐỀ NGHỊ TẤT CẢ CÁC THÀNH VIÊN CỦA DIỄN ĐÀN HOÀNG SA VÀ NHỮNG AI ĐÃ, ĐANG QUAN TÂM ĐẾN DIỄN ĐÀN NÀY, ĐẾN SỰ KIỆN ĐAU THƯƠNG NÀY HÃY CÙNG BỎ CHÚT THỜI GIAN ĐỂ QUAN TÂM, TÌM HIỂU ĐẾN NHỮNG NGƯỜI ĐÃ TRỞ VỀ VÀ NHỮNG GIA ĐÌNH LIỆT SĨ HY SINH Ở CÔ LIN-GẠC MA

Trong danh sách 74 cán bộ, chiến sĩ Hải quân đã hy sinh và mất tích mà Báo Nhân dân đã đăng tải, đã liệt kê cụ thể họ tên, quê quán của các anh, các chú. Tôi đề nghị các bạn đọc danh sách này (liệt kê cụ thể ở dưới) và vận dụng điều kiện, hoàn cảnh để tìm đến họ. Trong diễn đàn này, chắc chắn có bạn ở Quảng Bình, các bạn có thể tìm đến mấy huyện trong tỉnh để tìm gía đình các liệt sĩ (hồi đó là tỉnh Bình Trị Thiên nhưng tên xã, huyện bây giờ vẫn không thay đổi) để thăm hỏi, động viên...

Các bạn ở các dịa phương khác cũng có thể làm như vậy. Sau mỗi chuyến đi thăm, tìm hiểu về gia đình các liệt sĩ, các bạn hãy viết về những gì đã ghi nhận, cảm nhận và đưa lên Diễn đàn của chúng ta. Từ những thông tin này, đề nghị Ban Quản trị Diễn đàn Hoàng Sa kêu gọi các thành viên và những người quan tâm, tổ chức việc quyên góp để giúp đỡ những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, neo đơn và chúng ta hoàn toàn có thể tổ chức những chuyến đi đến thăm hỏi, động viên các Mẹ, các Chị.

Việc "Đền ơn, đáp nghĩa" là chủ trương của Chính phủ và mọi hành động, việc làm đều được khuyến khích, không ai dám cấm đoán chúng ta. Đối với những người đã nằm xuống vì Trường Sa, việc này càng nên làm để vong linh của các anh khỏi tức tưởi, để các anh được yên nghỉ dưới lòng biển và để mọi người dân nước Việt không thể quên việc các anh đã nằm xuống ra sao, trong hoàn cảnh nào? Để cái chết của các anh không vô nghĩa, không đi vào quên lãng như suốt 21 năm qua, nhiều người đã muốn quên đi, muốn giấu đi...

Tôi xin cung cấp về trường hợp gia đình liệt sĩ Phan Văn Thiềng) quê Đông Trạch, Bố Trạch, Bình Trị Thiên, nay là Quảng Bình): Hiện tại mẹ liệt sĩ Thiềng vẫn đang sống một mình trong căn nhà mái lá ven quốc lộ 1A. Trong căn nhà này, thứ đáng giá nhất là tấm bằng... Tổ quốc ghi công mang tên anh Thiềng. Nhà không có bàn ghế, bếp nguội lạnh và mỗi ngày hàng xóm láng giềng, con gái mẹ ở gần đấy mang bát cơm đến cho mẹ ăn qua ngày... Đầu năm 2008, tôi đã qua thăm nhà mẹ và cũng thay mặt cơ quan tặng mẹ 500.000 đồng để mẹ có tiền sắm Tết. Hiện tại, không rõ hoàn cảnh của mẹ ra sao, rất mong bạn nào đó ở Quảng Bình đến thăm, tìm hiểu và thông báo cho anh em trên Diễn đàn. Đường đến nhà mẹ: Từ Hà Tĩnh chạy vào, qua đèo Ngang một đoạn sẽ thấy trụ sở UBND xã Đôn TRạch nằm bên tay trái, từ trụ sở xã đi khoảng 500 mét, sẽ thấy 1 căn nhà mái lá ọp ẹp nằm cạnh ao rau muống. Đó là nhà mẹ liệt sĩ Thiềng. Nếu không tìm được, cứ hỏi là người dân sẽ chỉ cho ngay...
Rất mong các bạn quan tâm đến đề nghị của tôi!
Rất mong các bạn liên lạc với tôi: thanhhaivir (a) yahoo.com


Danh sách 74 cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam hy sinh, mất tích trong ngày 14-3-1988 tại vùng biển Cô Linh - Gạc Ma (đăng trên báo Nhân dân 15-3-1988)

1- Vũ Phi Trừ, quê Quảng Khê, Quảng Xương, Thanh Hóa.
2- Nguyễn Văn Thắng, quê Thái Hưng, Thái Thụy, Thái Bình.
3- Phạm Gia Thiều, quê Hưng Đạo, Trung Đồng, Nam Ninh, Hà Nam Ninh (nay là tỉnh Hà Nam)
4- Lê Đức Hoàng, quê Nam Yên, Hải Yên, Tĩnh Gia, Thanh Hóa.
5- Trần Văn Minh, quê Đại Tân, Quỳnh Long, Quỳnh Lưu, Nghệ Tĩnh (nay là tỉnh Nghệ An).
6- Đoàn Đắc Hoạch, quê 163 Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, Hải Phòng.
7- Tạ Trần Văn Chức, quê Canh Tân, Hưng Hà, Thái Bình.
8- Hán Văn Khoa, quê Văn Lương, Tam Thanh, Vĩnh Phú (nay là tỉnh Phú Thọ).
9- Nguyễn Tiến Hùng, quê Quảng Xương, Thanh Hóa.
10- Lê Minh Thoa, quê Bình An, Tây Sơn, Nghĩa Bình (nay là tỉnh Bình Định).
11- Nguyễn Văn Hải, quê Chính Mỹ, Thủy Nguyên, Hải Phòng.
12- Nguyễn Tất Nam, quê Thường Sơn, Đô Lương, Nghệ Tĩnh.
13- Trần Đức Bảy, quê Phương Phượng, Lê Hòa, Kim Bảng, Hà Nam Ninh (nay là tỉnh Hà Nam).
14- Đỗ Việt Thắng, quê Thiệu Tân, Đông Sơn, Thanh Hóa.
15- Nguyễn Văn Thủy, quê Phú Linh, Phương Đình, Nam Ninh, Hà Nam Ninh (nay là Hà Nam).
16- Phạm Hữu Đoan, quê Thái Phúc, Thái Thụy, Thái Bình.
17- Bùi Duy Hiền, quê Diêm Điền, Thái Thụy, Thái Bình.
18- Nguyễn Bá Cường, quê Thanh Quýt, Điện Thắng, Điện Bàn, Quảng Nam – Đà Nẵng (nay là tỉnh Quảng Nam).
19- Kiều Văn Lập, quê Phú Long, Long Xuyên, Phúc Thọ, Hà Nội.
20- Lê Đình Thơ, quê Hoằng Minh, Hoằng Hóa, Thanh Hóa.
21- Trương Văn Hiền, quê Hương Phong, Hương Khuê, Hà Tĩnh.
22- Cao Xuân Minh, quê Hoằng Quang, Hoằng Hóa, Thanh Hóa.
23- Nguyễn Mậu Phong, quê Duy Ninh, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (nay là Quảng Bình).
24- Trần Văn Phương, quê Quảng Phúc, Quảng Trạch, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
25- Đinh Ngọc Doanh, quê Ninh Khang, Hoa Lư, Hà Nam Ninh (Ninh BÌnh).
26- Hồ Công Đệ, quê Hải Thượng, Tĩnh Gia, Thanh Hóa.
27- Đậu Xuân Tư, quê Nghi Yên, Nghi Lộc, Nghệ Tĩnh (Nghệ An).
28- Bùi Bá Kiên, quê Văn Phong, Cát Hải, Hải Phòng.
29- Đào Kim Cương, quê Vương Lộc, Can Lộc, Nghệ Tĩnh (Hà Tĩnh).
30- Phan Tấn Dư, quê Hòa Phong, Tuy hòa, Phú Khánh (Phú Yên).
31- Nguyễn Văn Phương, quê Mê Linh, Đông Hưng, Thái Bình.
32- Võ Đình Tuấn, quê Ninh Ích, Ninh Hòa, Phú Khánh (Khánh Hòa).
33- Nguyễn Văn Thành, quê Hương Điền, Hương Khê, Nghệ Tĩnh (Hà Tĩnh).
34- Phan Huy Sơn, quê Diễn Nguyên, Diễn Châu, Nghệ Tĩnh (Nghệ An).
35- Lê Bá Giang, quê Hưng Dũng, thành phố Vinh, Nghệ Tĩnh (Nghệ An).
36- Nguyễn Thắng Hải, quê Sơn Kim, Hương Sơn, Nghệ Tĩnh (Hà Tĩnh).
37- Phan Văn Dương, quê Nam Kim, Nam Đàn, Nghệ Tĩnh (Nghệ An).
38- Hồ Văn Nuôi, quê Nghi Tiến, Nghi Lộc, Nghệ Tĩnh (Nghệ An).
39- Vũ Đình Lương, quê Trung Thành, Yên Thành, Nghệ Tĩnh.
40- Trương Văn Thinh, quê Bình Kiên, Tuy Hòa, Phú Khánh (Phú Yên).
41- Trần Đức Thông, quê Minh Hòa, Hưng Hà, Thái Bình.
42- Trần Văn Phong, quê Minh Tâm, Kiến Xương, Thái Bình.
43- Trần Quốc Trị, quê Đông Thạch, Bố Trạch, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
44- Mai Văn Tuyến, quê Tây An, Tiền Hải, Thái Bình.
45- Trần Đức Hóa, quê Trường Sơn, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
46- Nguyễn Văn Thông, quê Nhân Trạch, Bố Trạch, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
47- Lê Văn Đông, quê Tây Trạch, Bố Trạch, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
48- Phan Văn Thiềng, quê Đông Trạch, Bố Trạch, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
49- Trần Thiện Phụng, quê phường 2, Đông Hà, Bình Trị Thiên (Quảng Trị).
50- Tống Sĩ Bái, quê phường 1, Đông Hà, Bình Trị Thiên (Quảng Trị).
51- Hoàng Ánh Đông, quê phường 2, Đông Hà, Bình Trị Thiên (Quảng Trị).
52- Trương Minh Phương, quê Quảng Sơn, Quảng Trạch, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
53- Nguyễn Minh Tâm, quê Dân Chủ, Hưng Hà, Thái Bình.
54- Trần Mạnh Viết, quê tổ 36, Bình Hiên, thành phố Đà Nẵng, Quảng Nam-Đà Nẵng (TP. Đà Nẵng)
55- Mai Văn Hải, quê Liêm Trạch, Bố Trạch, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
56- Hoàng Văn Túy, quê Hải Ninh, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
57- Võ Minh Đức, quê Liên Thủy, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
58- Võ Văn Tứ, quê Trường Sơn, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
59- Trương Văn Hướng, quê Hải Ninh, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
60- Nguyễn Tiến Doãn, quê Ngư Thủy, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
61- Phạm Hữu Tý, quê Phong Thủy, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
62- Nguyễn Hữu Lộc, quê tổ 22, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam-Đà Nẵng (TP. Đà Nẵng).
63- Trương Quốc Hùng, quê tổ 5, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam-Đà Nẵng (TP. Đà Nẵng).
64- Nguyễn Phú Đoàn, quê tổ 47, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam-Đà Nẵng (TP. Đà Nẵng).
65- Phạm Văn Nhân, quê Nghĩa Lợi, Nghĩa Hưng, Hà Nam Ninh (Nam Định).
66- Nguyễn Trung Kiên, quê Nam Tiến, Nam Ninh, Hà Nam Ninh (Nam ĐỊnh).
67- Dương Văn Dũng, quê tổ 53, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam-Đà Nẵng (TP Đà Nẵng).
68- Phạm Văn Lợi, quê Quảng Thủy, Quảng Trạch, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).
69- Trần Văn Quyết, quê Quảng Thủy, Quảng Trạch, Bình Trị Thiên (Q. BÌnh).
70- Phạm Văn Sửu, quê tổ 7, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam-Đà Nẵng (TP Đà Nẵng).
71- Trần Tài, quê tổ 12, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam-Đà Nẵng (TP Đà Nẵng).
72- Lê Văn Xanh, quê tổ 38, Tuyên Sơn, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam-Đà Nẵng (TP Đà Nẵng).
73- Lê Thế, quê tổ 29, An Trung Tây, Quảng Nam-Đà Nẵng (TP. Đà Nẵng).
74- Trần Văn Phong, quê Hải Tây, Hải Hậu, Hà Nam Ninh (Nam Định).
Gần lắm Trường Sa!


Diễn Biến Chiến Dịch CQ 88
Diễn biến chiến dịch CQ 88

Trích quân sử VC
Quân sử VC cũng không dám đả động đến tên kẻ sát nhân là Trung Cộng

Từ cuối năm 1986, một tàu dưới dạng đánh cá, không số của nước ngoài đến vùng biển Đông, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu biển xuống phía Nam, tăng số lần tàu chiến, tàu vận tải hoạt động trinh sát, thăm dò ở khu vực Trường Sa. Đặc biệt là từ ngày 24 đến 30 tháng 12 năm 1986, máy bay và tàu chiến của nước ngoài tiến hành các hoạt động trinh sát từ đảo Song Tử Tây đến khu vực đảo Thuyền Chài, gây nên tình hình căng thẳng về tranh chấp chủ quyền vùng biển của Việt Nam.

Ngày 31 tháng 12 năm 1986, một nước trong khu vực Đông Nam Á đưa lực lượng chiếm bãi Kỳ Vân, uy hiếp các đảo khác gần đảo Thuyền Chài. Đầu năm 1987, nước ngoài đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao và tăng cường đưa tàu chiến đi lại gần khu vực đảo Thuyền Chài. Tiếp đó, trong năm 1987, tàu Hải Dương 4 và một số tàu của nước ngoài tiến hành trinh sát phần lớn các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, trong đó có cả những đảo ta đang giữ; đặt bia kỷ niệm ở đảo Ma-i-xi-ti, huy động tàu qua lại khu vực các đảo An Bang, Thuyền Chài, Trường Sa, Trường Sa Đông, Song Tử Tây, có lúc chỉ cách ta khoảng một hải lý; đồng thời tăng cường các hoạt động trinh sát, xâm nhập, khai thác trái phép tài nguyên vào sâu vùng nội thủy của ta. Tàu nước ngoài đưa lực lượng chiếm giữ hai đảo Kỳ Vân và Kiệu Ngựa ở phía nam quần đảo Trường Sa. Có nước tăng cường lực lượng củng cố các đảo đang chiếm giữ và đưa thêm lực lượng đến vận chuyển xây dựng kiên cố ở Song Tử Tây, Loại Ta và một số đảo khác, gây tình hình căng thẳng ở khu vực quần đảo Trường Sa.

Trước tình hình đó, Bộ Chính trị và Đảng ủy Quân sự Trung ương đã chỉ thị cho Quân chủng Hải quân đưa lực lượng ra củng cố, giữ vững các đảo đang chốt giữ, tăng cường thế phòng thủ các đảo theo từng cụm, từng khu vực, bảo đảm khi có chiến sự xảy ra có thể chi viện hỗ trợ kịp thời giữ vững đảo; đưa lực lượng đóng giữ một số bãi ngầm mới trong khu vực quần đảo Trường Sa. Tiếp đó, Bộ Chính trị, Đảng ủy quân sự Trung ương ra nghị quyết về việc quyết tâm bảo vệ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trước mắt là quần đảo Trường Sa, là nhiệm vụ khẩn trương, quyết liệt, lâu dài, là nhiệm vụ chiến lược của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; khôngchỉ riêng của lực lượng vũ trang, mà các cấp, các ngành, địa phương có liên quan cũng phải đóng góp tích cực.


Tàu HQ505 hải quân nhân dân Việt Nam bị bắn cháy một bên hông

Quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra chỉ thị giao nhiệm vụ cho Quân chủng Hải quân phải bảo vệ các đảo của ta, đặc biệt là không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ quần đảo Trường Sa, bao gồm cả việc củng cố và xây dựng thêm các công trình chiến đấu và bảo đảm trong sinh hoạt; đồng thời đưa lực lượng ra đóng các bãi đá cạn. Trước mắt đưa lực lượng ra đóng giữ Đá Tây, Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ; khai thác và phát huy mọi khả năng của các lực lượng vũ trang, các ngành, các địa phương để chi viện từ bờ ra đảo xa. Nếu tàu nước ngoài xâm phạm đảo, hoặc dùng vũ lực uy hiếp thì đánh trả và tỉnh táo, không bị khiêu khích

Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ngày 12 tháng 1 năm 1987, Đảng ủy Quân chủng họp đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ trong năm 1986 và đề ra nhiệm vụ công tác năm 1987. Nhận định về tình hình trên biển, Đảng ủy Quân chủng nêu rõ: Tất cả các khu vực biển tình hình vẫn căng thẳng phức tạp, vẫn diễn ra các hoạt động xâm nhập, trinh sát của tàu nước ngoài tranh chấp chủ quyền tài nguyên, gây tình hình căng thẳng, có thể dẫn đến xung đột vũ trang đánh chiếm, hoặc tập kích vào các đảo, căn cứ trên đất liền, nhất là quần đảo Trường Sa. Toàn quân chủng phải đề cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao, đối phó hiệu quả mọi tình huống, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn xâm phạm trái phép, bảo vệ chủ quyền vùng biển và hải đảo của Tố quốc.

Ngày 24 tháng 10 năm 1987, Tư lệnh Hải quân ra mệnh lệnh chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cho lực lượng bảo vệ các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, tránh âm mưu khiêu khích của tàu nước ngoài; đồng thời chỉ thị cho các Lữ đoàn 125 chuẩn bị tàu, pông-tông sẵn sàng đưa lực lượng ra Trường Sa, chuyển các tàu của Lữ đoàn 172 vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu, cơ động ra phía trước và Trung đoàn 83 chuẩn bị lực lượng, phương tiện, sẵn sàng cơ động đến xây dựng đảo.

Những tháng cuối năm 1987, Quân chủng điều chuyển một số tàu thuộc các Lữ đoàn 146, 125 đưa bộ đội đến tăng cường lực lượng đóng giữ các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Ngày 28 tháng 10, tàu 613 đưa một phân đội chiến đấu thuộc Lữ đoàn 146, một trung đội công binh, do đồng chí Nguyễn Trung Cảng, Phó Lữ đoàn trưởng chỉ huy ra đóng giữ đảo Đá Tây. Do sóng to gió lớn, gặp khó khăn trong xây dựng công sự chốt giữ, nên sau một thời gian, tàu 613 chở bộ đội về Cam Ranh. Ngày 2 tháng 12 năm 1987, tàu HQ 604 thuộc Lữ đoàn 125 đưa bộ đội cùng vật liệu đến xây nhà cấp 3 ở đảo Đá Tây. Sau một thời gian lao động khẩn trương, cán bộ, chiến sĩ đã hoàn thành khu nhà ở, nhà trực, tổ chức canh gác, bảo vệ đảo.

Cùng thời gian này, Quân chủng tăng cường lực lượng xây dựng thế trận phòng thủ trên các đảo và vùng biển phía Nam. Quân chủng tăng cường thêm phương tiện choVùng 4 hải quân, bảo vệ vị trí neo đậu cho tàu thuyền tại khu vực giàn khoan. Hàng ngày, thường duy trì 2 tàu bảo vệ khu vực khai thác dầu khí, xua đuổi tàu lạ, bảo vệ an toàn cho công tác thăm dò khai thác dầu khí. Thực hiện kế hoạch phối hợp hiệp đồng trong hoạt động bảo vệ biển đảo ở khu vực phía Nam do Bộ Tổng Tham mưu đề ra, Bộ Tư lệnh Hải quân chỉ đạo; Sở chỉ huy Quân chủng hiệp đồng với Quân chủng Không quân tổ chức nhiều chuyến bay biển quan sát, nắm tình hình hiệp đồng với Đặc khuVũng Tàu - Côn Đảo, Quân khu 7 xây dựng và thực hiện kế hoạch bảo vệ khai thác dầu khí. Hoạt động tuần tiễu ở khu vực giàn khoan của Hải quân lúc cao nhất có 6 tàu của Lữ đoàn 171 và Hải đoàn 129. Một số tàu đánh cá đến hoạt động trái phép ở khu vực thềm lục địa, hoặc tàu lạ xuất hiện đã bị hải quân ta ngăn chặn, xua đuổi, bảo vệ an toàn khu vực tài nguyên thuộc chủ quyền vùng biển của Việt Nam.

Theo dõi chặt chẽ mọi diễn biến trên biển và khu vực quần đảo Trường Sa, ngày 9 tháng 1 năm 1988, Đảng ủy Quân chủng họp nhận định: Hải quân nước ngoài sẽ tiến hành các hoạt động quân sự tranh chấp chủ quyền hải đảo chiếm một số bãi san hô nổi hoặc chìm khi nước lên, xen kẽ với các đảo của ta. Các nước ngoài có thể tranh chấp thêm các đảo kể cả khi có xung đột với nhau. Cũng có nước có thể chiếm đóng một số đảo nằm giữa Kỳ Vân và Ri-gân. Cuộc tranh chấp các đảo đang trở thành nguy cơ trực tiếp đe dọa Việt Nam và các nước trong khu vực. Ở Bắc Bộ, nước ngoài có thể triển khai thêm khu vực khai thác dầu khí, sử dụng không quân và hải quân bảo vệ gây tình hình căng thẳng ở khu vực này. Ở vịnh Thái Lan, Hải quân Mỹ thường xuyên qua lại có thể hỗ trợ cho hải quân Thái Lan mở rộng hoạt động, gây mất ổn định, uy hiếp chủ quyền vùng biển, hải đảo của ta ở phía Nam.

Trên cơ sở nhận định, đánh giá tình hình, Đảng ủy Quân chủng đề ra chủ trương: Tranh thủ thời gian, triệt để triển khai lực lượng đóng giữ trên các đảo. Không để nước ngoài thực hiện ý đồ cho lực lượng đóng xen kẽ với ta, hoàn thành việc đóng giữ các đảo trong ba năm (1988-1990). Trong năm 1988, triển khai lực lượng đóng giữ phải hết sức bí mật, đóng đảo nào, bảo đảm phòng thủ tốt trên đảo đó. Đồng thời tăng cường số lần hoạt động tuần tiễu, bảo vệ vịnh Bắc Bộ, vùng biển Tây Nam. Bảo vệ vùng biển, hải đảo trong biển Đông trở thành vấn đề chiến lược của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, trong đó Hải quân nhân dân là lực lượng nòng cốt của chiến tranh nhân dân bảo vệ chủ quyền vùng biển, hải đảo của Tổ quốc. Đảng ủy Quân chủng xác định: "Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền vùng biển và quần đảo Trường Sa là nhiệm vụ quan trọng nhất, khẩn trương nhất và cũng là vinh dự của Quân chủng".

Thực hiện Nghị quyết của Đảng ủy Quân chủng, Bộ Tư lệnh Hải quân lệnh cho lực lượng tàu, bộ đội công binh và lực lượng của cơ quan chuyển vào Cam Ranh, sẵn sàng đưa bộ đội ra đóng giữ đảo. Bộ Tư lệnh Hải quân chấp hành nghiêm chỉ thị, mệnh lệnh của trên, sáng tạo, bình tĩnh, dũng cảm và kiên quyết phối hợp với các lực lượng khác đấu tranh cả về chính trị, ngoại giao, quân sự, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền vùng biển hải đảo và thềm lục địa của Tổ quốc, không để chiến tranh lan rộng ra khắp quần đảo, chỉ đạo cơ quan Bộ Tham mưu, các cục Chính trị, Hậu cần, Kỹ thuật và các đơn vị làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ, chỉ đạo và thực hiện tốt việc di chuyển cơ quan, Sở chỉ huy Quân chủng, củng cố duy trì nền nếp công tác của bộ phận còn lại ở phía Bắc (Sở chỉ huy hậu phương),chỉ đạo triển khai tăng cường thông tin liên lạc ở Cam Ranh, thành phố Hồ Chí Minh, quần đảo Trường Sa, chú trọng mạng thông tin hiệp đồng quân binh chủng, chỉ đạo bảo đảm hàng hải, thả phao tiêu đánh dấu luồng lạch ở Trường Sa, chỉ đạo công tác vật tư tài chính công binh bảo đảm hoàn thành kế hoạch xây dựng công trình, công sự chiến đấu, thiết bị chiến trường ở quần đảo Trường Sa, chỉ đạo công tác tuyển quân, nắm chắc số, chất lượng phương tiện chiến đấu, đề xuất xin và đóng mới phương tiện và bảo đảm quân số cho lực lượng tàu chiến đấu, lực lượng đóng quân trên đảo; chỉ đạo tăng cường công tác nắm địch, tăng thêm phương tiện, lực lượng nắm địch, chỉ đạo công tác tuyển quân và huấn luyện chiến đấu.

Ngày 22 tháng 1 năm 1988, nước ngoài đưa 4 tàu gồm: hộ vệ tên lửa, tuần dương, tàu dầu, tàu đổ bộ và một số tàu khác đến chiếm đóng đảo Chữ Thập. Tiếp đó, nước ngoài đưa một lực lượng lớn gồm 2 tàu hộ vệ tên lửa, 2 khu trục tên lửa, 4 tàu bảo đảm đậu xung quanh đảo, khống chế không cho tàu thuyền các nước qua lại để bảo vệ đảo Chữ Thập. Hải quân nước ngoài còn tổ chức ba cụm tuyến hoạt động gồm: Cụm phía sau lấy Hoàng Sa làm căn cứ thường xuyên có tàu hộ vệ pháo, hộ vệ tên lửa, khu trục tên lửa, tuần dương, các tàu ngầm và tàu hộ tống nhằm ngăn cản, uy hiếp lực lượng tàu hải quân ta hoạt động ở vịnh Bắc Bộ, gây khó khăn cho ta trong việc triển khai hoạt động bảo vệ vùng biển phía Nam; cụm ngăn chặn lực lượng hải quân ta ở đông bán đảo Cam Ranh, Cù Lao Thu và cụm Chữ Thập âm mưu khống chế ta ở khu vực Trường Sa, nếu có thời cơ phát triển lực lượng xuống khu vực phía Nam.

Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Hải quân, ngày 23 tháng 1 năm 1988, tàu 613 thuộc Vùng 4 hải quân chở lực lượng và vật liệu ra đảo Tiên Nữ. Sau hai ngày vật lộn với sóng to, gió lớn, tàu đến Tiên Nữ. Phương châm xây dựng là làm đến đâu chắc đến đó. Đầu tháng 2 năm 1988, cán bộ, chiến sĩ trên đảo hoàn thành nhà ở cấp 3, nơi sinh hoạt, bếp ăn và triển khai phương án sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đảo.

Ngày 27 tháng 1 năm 1988, tàu HQ-611 và tàu HQ-712, do đồng chí Công Phán, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 làm biên đội trưởng, đồng chí Nguyễn Thế Dân, Phó tham mưu trưởng Vùng 4 hải quân làm biên đội phó, chỉ huy 1 đại đội công binh và 2 khung đảo của Lữ đoàn 146 đến đóng giữ đảo Chữ Thập. Ngày 29 tháng 1, tàu bị hỏng máy phải dừng lại sửa chữa, đồng chí Nguyễn Thế Dân chuyển sang tàu HQ-07 thuộc Lữ đoàn 171 đi làm nhiệm vụ bảo vệ đảo Đá Lớn. Đồng chí Công Phán ở lại, sau khi tàu sửa chữa xong tiếp tục chỉ huy biên đội tiến về phía đảo Chữ Thập. Sáng ngày 30 tháng 1, khi cách đảo 5 hải lý, thì phát hiện 4 tàu chiến đấu của nước ngoài, gồm 2 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo ra ngăn cản, có lúc chỉ cách 300m, không cho tiếp cận đảo, tàu đành phải quay về Trường Sa Đông, không thực hiện được việc đóng giữ đảo Chữ Thập như kế hoạch đề ra.

Ngày 4 tháng 2 năm 1988, Thường vụ Đảng ủy Quân chủng họp nhận định: Nước ngoài đã cho quân đóng trên đảo Chữ Thập, trước mắt ta chưa đóng xen kẽ vì họ ngăn chặn ta từ xa. Họ có thể mở rộng phạm vi chiếm đóng sang các đảo Châu Viên, Đá Đông, Đá Nam, Tốc Tan và đóng xen kẽ những bãi đá ta đang đóng giữ. Do đó, ta phải nhanh chóng đưa lực lượng ra đóng giữ Đá Lát, Đá Lớn, Châu Viên. Thực hiện Nghị quyết của Thường vụ Đảng ủy Quân chủng, Tư lệnh Hải quân điện cho biên đội tàu 611 và 712 đang neo đậu ở đảo Trường Sa Đông đưa bộ đội đến đóng giữ đảo Đá Lớn trước 3 giờ ngày 5 tháng 2 năm 1988. Tình hình nhiệm vụ của Quân chủng ở quần đảo trường Sa khẩn trương, cấp bách. Được sự đồng ý của trên, Quân chủng thành lập Sở chỉ huy tiền phương tại Cam Ranh, do đồng chí Giáp Văn Cương làm Tư lệnh kiêm tư lệnh Vùng 4. Các cơ quan: tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật đều tổ chức các bộ phận tiền phương của ngành để kịp thời giải quyết mọi mặt theo yêu cầu đóng giữ, bảo vệ Trường Sa và DKI. Cục Kỹ thuật đã chỉ đạo các nhà máy, xưởng trạm, kho tàng lập các tổ đội sửa chữa động thường trực tại các khu vực Cam Ranh, Nha Trang, Đà Nẵng, Vũng Tàu và bám theo tàu thuyền các đơn vị để sửa chữa, bảo đảm kỹ thuật cho các hoạt động đóng giữ, bảo vệ các đảo và căn cứ.

Chấp hành mệnh lệnh của Tư lệnh Hải quân, tàu 611 và tàu 712 đưa lực lượng công binh và bộ đội của Lữ đoàn 146 đến đảo Đá Lát. Dưới sự chỉ huy của đồng chí Công Phán, bộ đội phân chia lực lượng thành 3 tổ chiến đấu canh gác; đồng thời tổ chức lực lượng làm nhà cấp 3. Đến ngày 20 tháng 2, lực lượng công binh được sự hỗ trợ của lực lượng đóng giữ đảo hoàn thành nhà và bàn giao cho lực lượng bảo vệ đảo.

Trong khi đó, ở hướng Đá Lớn, ngày 13 tháng 2, thực hiện nhiệm vụ Tư lệnh Hải quân giao, Lữ đoàn 125 cho tàu 505 kéo tàu LCU 556 cùng bộ phận làm nhà cao chân đóng giữ đảo Đá Lớn. trong khi ta đang tiến về phía đảo, thì phát hiện tàu khu trục và hai tàu hộ vệ tên lửa của nước ngoài cũng tiến về phía Đá Lớn. Khi ta cách Đá Lớn khoảng 4 hải lý, tàu nước ngoài thả thủy lôi ngăn cản, uy hiếp ta. Trước tình hình đó, ban chỉ huy tàu 505 họp nhận định: nước ngoài chưa biết ý đồ của ta đưa lực lượng ra đóng giữ đảo, việc thị uy không liên quan đến hành trình, ta cứ cho tàu chạy theo hướng đã định. Tàu 505 bình tĩnh, khôn khéo đưa tàu LCU 556 tiếp tục tiến về phía bắc đảo. Ngày 20 tháng 2, sau khi quan sát thăm dò luồng, tàu 556 tiến vào phía nam đảo an toàn. Cùng thời gian này, tàu Đại lãnh của công ty trục vớt cứu hộ Sài Gòn kéo tàu HQ-582 và pông-tông Đ02 đi Đá Lớn. Ngày 27 tháng 2, tàu xuất phát từ thành phố Hồ Chí Minh, đến ngày 1 tháng 3, pông-tông Đ02 vào đến vị trí phía bắc đảo Đá Lớn. Cán bộ, chiến sĩ trên pông-tông Đ02 và lực lượng trên tàu LCU đã đến triển khai lực lượng, xây dựng thế trận phòng thủ bảo vệ đảo Đá Lớn.

Tháng 2 năm 1988, nước ngoài tăng thêm 4 tàu hộ vệ tên lửa, hộ vệ pháo xuống hoạt động ở khu vực quần đảo Trường Sa, gây tình hình hết sức căng thẳng. Ngày 18 tháng 2, Thường vụ Đảng ủy Quân chủng họp đề ra chủ trương: "Ta phải kiên quyết đóng nhanh, đóng đồng thời tất cả các đảo đã có kế hoạch. Nếu cần có thể dùng mọi loại tàu để ủi bãi, không làm như vậy sẽ không kịp ngăn chặn nước ngoài tiếp tục mở rộng phạm vi chiếm đóng thêm".

Lúc này nhiệm vụ đóng giữ đảo của cán bộ, chiến sĩ các Lữ đoàn 146, 125 và Trung đoàn công binh 83 ngày càngtrở nên quyết liệt. trung tuần tháng 2 năm 1988, thực hiện mệnh lệnh của Sở chỉ huy Quân chủng, Lữ đoàn 125 đưa pông-tông 7 ra giữ Tốc Tan. Trong khi đó, tại Đá Đông, một đảo chìm rộng giữ vị trí quan trọng trong quần đảo, Sở chỉ huy Quân chủng lệnh cho tàu 661 đưa lực lượng ra cắm cờ, canh gác; đồng thời lệnh cho tàu 605 chở vật liệu, bộ đội chốt giữ đảo của Lữ đoàn 146 và lực lượng công binh của Trung đoàn 83 ra xây dựng, bảo vệ. Trong bối cảnh hải quân nước ngoài có thể khiêu khích ngăn chặn, song các tàu của ta đã bình tĩnh vượt qua sóng gió đưa bộ đội và vật liệu đến đảo an toàn. Nhờ sự kết hợp chặt chẽ giữa các lực lượng tàu, đảo, công binh, công việc triển khai xây dựng nhà, công sự đã hoàn thành theo đúng kế hoạch, bảo đảm yêu cầu kỹ thuật. Ta triển khai lực lượng bảo vệ đảo. Các tàu 605, 604 tiếp tục ở lại làm nhiệm vụ bảo vệ vòng ngoài Đá Đông. Như vậy đến tháng 3 năm 1988, lực lượng Hải quân ta đã triển khai xây dựng xong thế trận phòng thủ trên các đảo Đá Lát, Đá Đông, Tốc Tan, Tiên Nữ và Đá Lớn, đưa tổng số đảo đóng giữ của ta lên 16, trong đó gồm 9 đảo nổi, 7 đảo chìm.

Trong những tháng đầu năm 1988, nước ngoài cho quân chiếm đóng một số bãi đá thuộc khu vực quần đảo Trường Sa. Trước tình hình đó, ngày 4 tháng 3 năm 1988, Thường vụ Đảng ủy Quân chủng họp nhận định: Nước ngoài đã cho quân chiếm giữ Chữ Thập, Châu viên, Ga ven, Xu Bi, Huy Gơ. Ta xây dựng thế trận phòng thủ ở các đảo Tiên Nữ, Đá Lát, Đá Lớn, Đá Đông, Tốc Tan, bước đầu ngăn chặn được hành động mở rộng phạm vi chiếm đóng của hải quân nước ngoài ra các đảo lân cận. Song đối phương có thể chiếm thêm một số bãi cạn xung quanh cụm đảo Sinh Tồn, Nam Yết và đông kinh tuyến 115 độ

Căn cứ vào tình hình xung quanh khu vực Trường Sa, Thường vụ Đảng ủy Quân chủng xác định: Gạc Ma giữ vị trí quan trọng, nếu để hải quân nước ngoài chiếm giữ sẽ khống chế đường qua lại của ta tiếp tế, bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa. Vì vậy, Thường vụ Đảng ủy Quân chủng hạ quyết tâm đóng giữ các đảo Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao. Đây là một nhiệm vụ hết sức nặng nề, khẩn trương, bởi trong cùng một lúc hải quân ta phải triển khai đóng giữ cả 3 đảo trong điều kiện phương tiện, trang bị của ta cũ, thô sơ, lực lượng hạn chế. Thường vụ Đảng ủy Quân chủng giao cho Lữ đoàn 125 cử lực lượng thực hiện nhiệm vụ này.

Trong khi đó, hải quân nước ngoài sau khi chiếm giữ trái phép Chữ Thập, Châu viên, Huy Gơ, Ga Ven và Xu Bi cũng đang ý đồ chiếm giữ ba đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao nhằm gây thanh thế ở khu vực Trường Sa và trên biển Đông. Đầu tháng 3 năm 1988, nước ngoài huy động lực lượng của 2 hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa, tăng số tàu hoạt động ở đây thường xuyên có từ 9 đến 12 tàu chiến gồm: khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo, 2 tàu đổ bộ; tàu hỗ trợ gồm 3 tàu vận tải LSM, tàu đo đạc, tàu kéo và một pông-tông lớn. Việc nước ngoài đưa một lực lượng lớn tàu chiến, tàu vận tải đến hoạt động đã gây nên tình hình căng thẳng ở khu vực quần đảoTrường Sa.

Trước tình hình đó, ngày 31 tháng 3 năm 1988, Tư lệnh Hải quân lệnh cho Vùng 4, Lữ đoàn 125, Lữ đoàn 146; các hải đội 131, 132, 134 của Lữ đoàn 172 chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao; đồng thời lệnh cho Vùng 1, Vùng 3 và Lữ đoàn 125 ở Hải phòng chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu tăng cường. Bộ Tư lệnh Hải quân điều động 41 tàu thuyền và phương tiện nổi của Lữ đoàn 125, Cục Kinh tế, Vùng 1, Vùng 3, Vùng 5, Trường sĩ quan Hải quân, Nhà máy Ba Son, X51 tiếp nhận 3 tàu của nhà nước, 3 tàu của Tổng cục Hậu cần và 2 tàu của Quân khu 5 đến phối thuộc hoạt động khi cần thiết.

Thực hiện quyết tâm của Thường vụ Đảng ủy Quân chủng, ngày 12 tháng 3 năm 1988 tàu 605 (Lữ đoàn 125) do đồng chí Lê Lệnh Sơn làm thuyền trưởng được lệnh từ Đá Đông đến đóng giữ đảo Len Đao trước 6 giờ ngày 14 tháng 3 năm 1988. Sau 29 giờ hành quân bí mật, khẩn trương vượt qua sóng to, gió lớn, tàu 605 đến Len Đao lúc 5 giờ ngày 14 tháng 3 và cắm cờ Tổ quốc trên đảo, khẳng định chủ quyền và quyết tâm bảo vệ đảo của bộ đội ta.

Thực hiện nhiệm vụ đóng giữ các đảo Gạc Ma và Cô Lin, 9 giờ ngày 13 tháng 3 năm 1988, tàu HQ-604 do đồng chí Vũ Phi Trừ làm thuyền trưởng và tàu HQ-505 do đồng chí Vũ Huy Lễ làm thuyền trưởng được lệnh từ đảo Đá Lớn tiến về phía Gạc Ma, Cô Lin. Phối hợp với hai tàu 604 và 505 có 2 phân đội công binh (70 người) thuộc Trung đoàn 83, bốn tổ chiến đấu (22 người) thuộc Lữ đoàn 146, do đồng chí Trần Đức Thông, Phó Lữ đoàn trưởng chỉ huy và 4 chiến sĩ đo đạc của Đoàn đo đạc và biên vẽ bản đồ (Bộ Tổng Tham mưu). Sau khi hai tàu của ta thả neo được 30 phút, tàu hộ vệ của nước ngoài từ Huy Gơ chạy về phía Gạc Ma, có lúc cách ta 500m. 17 giờ ngày 13 tháng 3, tàu nước ngoài áp sát tàu 604 ta và dùng loa gọi sang khiêu khích. Bị tàu nước ngoài uy hiếp, cán bộ, chiến sĩ hai tàu 604 và 505 động viên nhau giữ vững quyết tâm không để mắc mưu, kiên trì neo giữ quanh đảo. Tàu chiến đấu của nước ngoài cùng 1 tàu hộ vệ, 2 tàu vận tải thay nhau cơ động, chạy quanh đảo Gạc Ma.

Trước tình hình căng thẳng do hải quân nước ngoài gây ra, lúc 21 giờ ngày 13 tháng 3, Bộ Tư lệnh Hải quân chỉ thị cho các đồng chí Trần Đức Thông, Vũ Huy Lễ, Vũ Phi Trừ chỉ huy bộ đội quyết giữ vững các đảo Gạc Ma, Cô Lin. Tiếp đó, Bộ Tư lệnh Hải quân chỉ thị: Khẩn trương thả xuồng máy, xuồng nhôm, chuyển vật liệu làm nhà lên đảo ngay trong đêm ngày 13 tháng 3. Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Hải quân, tàu 604 cùng lực lượng công binh Trung đoàn 83 chuyển vật liệu lên đảo Gạc Ma, tiếp đó, lực lượng của Lữ đoàn 146 bí mật đổ bộ, cắm cờ Tổ quốc và triển khai 4 tổ bảo vệ đảo.

Lúc này, nước ngoài điều thêm 2 tàu hộ vệ trang bị pháo 100mm đến hỗ trợ tàu có từ trước khiêu khích đe dọa ta rút khỏi đảo Gạc Ma. Ban chỉ huy tàu 604 họp nhận định tàu nước ngoài có thể dùng vũ lực can thiệp và quyết định chỉ huy bộ đội bình tĩnh xử trí, thống nhất thực hiện theo phương án tác chiến đề ra, quyết tâm bảo vệ Gạc Ma.

6 giờ ngày 14 tháng 3 năm 1988, đối phương thả 3 thuyền nhôm và 40 quân đổ bộ lên đảo tiến về phía cờ ta đang tung bay. Dựa vào thế đông quân, đối phương tiến vào giật cờ ta. Lập tức, thiếu úy Trần Văn Phương, hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh cùng đồng đội anh dũng giành lại cờ. Binh lính của đối phương đã dùng lưỡi lê đâm và bắn nguyễn Văn Lanh bị thương. Thiếu úy Trần Văn Phương xông vào cứu, bị đối phương bắn, đã anh dũng hy sinh. Trước lúc hy sinh, Trần Văn Phương đã hô: "Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo, hãy để cho máu của mình tô thắm lá cờ truyền thống của Quân chủng Hải quân”. Sự hy sinh anh dũng của Trần Văn Phương đã nêu tấm gương sáng cho các đơn vị noi theo, quyết tâm chiến đấu, bảo vệ hải đảo của Tố quốc.

Không uy hiếp được bộ đội ta rút khỏi đảo, 7 giờ 30 phút ngày 14 tháng 3, đồi phương dùng hai tàu bắn pháo 100mm vào tàu 604, làm tàu ta bị hỏng nặng. Đối phương cho quân xông về phía tàu ta. Thuyền trưởng Vũ Phi Trừ đã bình tĩnh chỉ huy bộ đội trên tàu sử dụng các loại súng AK, RPĐ, B40, B41 đánh trả quyết liệt, buộc binh lính đối phương phải nhảy xuống biển trở về tàu của họ. Trận đánh diễn ra mỗi lúc quyết liệt. Các đồng chí Trần Đức Thông, Vũ Phi Trừ vừa chỉ huy bộ đội chiến đấu, vừa tổ chức băng bó, cứu chữa thương binh và hỗ trợ các chiến sĩ bảo vệ cờ. Đối phương tiếp tục nã đạn, làm tàu ta bị thủng nhiều lỗ và hỏng nặng chìm dần xuống biển. Đồng chí Vũ Phi Trừ, thuyền trưởng; đồng chí Trần Đức Thông, Phó Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 cùng một số cán bộ, chiến sĩ tàu đã anh dũng hy sinh cùng tàu 604 ở khu vực đảo Gạc Ma.

Tại đảo Cô Lin, 6 giờ ngày 14 tháng 3 năm 1988, tàu HQ-505 đã cắm 2 lá cờ trên đảo. Khi tàu 604 của ta bị chìm, đồng chí Vũ Huy Lễ, thuyền trưởng tàu 505 ra lệnh nhổ neo cho tàu ủi bãi. Phát hiện tàu 505 của ta đang cơ động lên bãi, hai tàu của đối phương quay sang tiến công tàu 505. Bất chấp hiểm nguy, tàu 505 chạy hết tốc độ, trườn lên được hai phần ba thân tàu thì bốc cháy. 8 giờ 15 phút ngày 14 tháng 3, bộ đội tàu 505 vừa triển khai lực lượng dập lửa cứu tàu, bảo vệ đảo, vừa đưa xuồng đến cứu vớt cán bộ, chiến sĩ tàu 604 bị chìm. Tàu HQ-505 bị bốc cháy. Cán bộ, chiến sĩ của tàu dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử, bảo vệ chủ quyền đảo Cô Lin.

Ở hướng đảo Len Đao, 8 giờ 20 phút ngày 14 tháng 3, tàu của đối phương bắn mãnh liệt vào tàu HQ-605 của ta. Tàu 605 bị bốc cháy và chìm lúc 6 giờ ngày 15 tháng 3. Cán bộ, chiến sĩ của tàu dìu nhau bơi về đảo Sinh Tồn an toàn.

Như vậy, trước tình hình hải quân nước ngoài gây ra những vụ khiêu khích quân sự ở xung quanh khu vực Quần đảo Trường Sa, Bộ Tư lệnh Hải quân đã chỉ đạo, chỉ huy các đơn vị dũng cảm chiến đấu bảo vệ Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao; đồng thời triển khai lực lượng đóng giữ các đảo khác, giữ vững chủ quyền quần đảo, vùng biển và thềm lục địa Việt Nam. Trong trận chiến đấu ngày 14 tháng 3 năm 1988, ta bị tổn thất: 3 tàu bị bắn cháy và chìm, 3 đồng chí hy sinh, 11 đồng chí bị thương, 70 đồng chí bị mất tích. [1. Sau này, đối phương trao trả ta 9 đồng chí, còn 61 người mất tích.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét