Chủ Nhật, 9 tháng 1, 2011

Trang hồi ký xúc động của một “đứa trẻ” Mỹ Lai (kỳ một)

... Đầu năm 1959, gia đình tôi chuyển vùng từ Sơn Hội xuống Sơn Mỹ làm ăn sinh sống. Vì sau khi ba tôi ở tù ngoài Côn Đảo về, cuộc sống của gia đình ở Sơn Hội gặp nhiều trắc trở khó khăn, chính quyền luôn dòm ngó và nhiều lần bắt xuống hội đồng xã tra khảo.

Mỹ Lai và những đứa trẻ mồ côi

Dù trong thời chiến, nhưng gia đình tôi ở Sơn Mỹ gặp nhiều thuận lợi trong làm ăn, buôn bán.

Ba tôi may vá và làm nghề thuốc tây, còn mẹ tôi tạo được một quầy hàng tạp hoá ngoài chợ Sơn Mỹ kinh doanh vải, thuốc tây và quần áo... Tên tuổi ông bà chín Tẩu dường như đã thành khá thân quen với người dân Sơn Mỹ thời bấy giờ.

Cuối năm 1959 mẹ tôi sinh đứa con thứ 2. Chị Trần thị Mỹ của tôi, được sự hỗ trợ của 2 dì từ Sơn Hội xuống giúp đỡ trong thời gian mẹ ở cử, nên việc buôn bán trông coi quầy quán cũng không trở ngại khó khăn gì. Đầu năm 1960, gia đình tôi đã tạo được một căn nhà rất khang trang gần chợ Sơn Mỹ, bên cạnh nhà ông Bốn Tương. Trước sân sẵn có hàng dừa cao tít, trĩu quả, bóng dừa tỏa mát cả sân nhà, bên kia đường là ao đầm người ta nuôi tôm cá, xa hơn là những rặng dừa nước mênh mông xanh thẳm, trước nhà hơn 300 mét là biển Mỹ Khê với bờ cát trắng chạy dài tít tắp và mặt nước trong veo một màu xanh biếc, bao la bất tận...

Năm 1962 mẹ sinh tôi. Trần Văn Đức tên tôi, lúc bé tí các dì gọi là thằng Trọng Hiền. Là đứa con trai đầu tiên cho nên cả gia đình vui lắm, nhất là ba má tôi.

Hai năm sau, 1964 đứa con thứ tư ra đời, đó là em Trần Thị Huệ của tôi.

Thời gian này chiến tranh ác liệt lắm, dân Sơn Mỹ chết rất nhiều dưới bao làn bom đạn quân thù, những lần oanh tạc của máy bay Mỹ, và những đợt đột kích từ những hạm đội ngoài biển tấn công vào. Gia đình tôi và dân nơi đây có hôm cả ngày phải núp dưới hầm, nhiều gia đình bị bom dội trúng sụp hầm chết cả nhà. Do vậy dân Sơn Mỹ thời gian này tản cư đi nơi khác nhiều lắm, để tránh đạn, kẻ đi Lý Sơn, người xuống Bình Đức, nhiều người phải lìa quê xa xứ.... Bao gia đình phải ly tan, những đứa trẻ mất cha mẹ, bao cụ già không còn nơi nương tựa, nhà cửa, ruộng vườn tan hoang....

Cùng một số gia đình, ba mẹ tôi dẫn các con tản cư xuống Bình Đức. Ở tạm nhà một người quen gần chợ Bình đức, sát cạnh nhà ông Đổng, bà Huệ... Gần 2 năm sống nơi này, ba mẹ vẫn theo nghề may vá và buôn bán. Thỉnh thoảng cũng có những trận càn quét, những trận pháo kích, nhưng không liên tục, ác liệt như bên Sơn Mỹ.

Dân Bình Đức phần lớn là ngư dân và làm muối, còn lại số ít làm nông và buôn bán. Bình Đức là một vùng quê duyên hải khá đẹp, nơi đây không xô bồ tấp nập nhưng cũng không kém phần rộn ràng với nhịp sống vươn lên, bao ngư dân vạm vỡ lúc nào trên mặt họ cũng nở nụ cười thân thiện, với những chiếc thuyền sơn màu xanh đỏ đua nhau ra khơi đánh cá trong những buổi sáng tinh mơ ... Đám trẻ con chúng tôi đợi trời bớt nắng gần xế chiều tập trung đông lắm ở khu đầu bờ đập để câu cá, câu cua hoặc đá banh nhựa trên đường, đôi khi còn kéo nhau lên đồi sau chợ dùng mo cau tuột xuống...

Bình Đức không yên bình lâu như tôi tưởng. Rồi bom đạn Mỹ cũng dội xuống nơi này liên tục, máu dân lành lại nhuộm đỏ mảnh đất thân thương của họ. Chợ Bình Đức, máy xay gạo bên chợ và bao căn nhà tranh làm mồi cho bom xăng cùng rocket.

Năm 1967, mẹ tôi sinh đứa con thứ 5: em Trần thị Hà. Cùng thời gian này gia đình lại một lần nữa phải tản cư lên xóm Thuận Yên, Tư Cung. Dựng một căn nhà tranh nhỏ ở tạm trong khu vườn bà Bộ. Cũng năm này ba tôi phải lên Tịnh Hiệp công tác. Ông là y sĩ của C12 huyện Sơn Tịnh. Nhờ có các dì từ Sơn Hội hay xuống giúp đỡ, nên mẹ cũng đỡ vất vả trong khoảng thời gian em Hà còn nhỏ.

Hơn một năm ở xóm Thuận Yên,Tư Cung. Đó là quãng đời hạnh phúc nhất của tôi, của gia đình tôi, dù lúc ấy chiến tranh có phần khốc liệt hơn, bom càn dồn dập hơn. Những người dân quê tôi gánh chịu đau thương, từng ngày từng giờ, không ít thì nhiều, tôi chưa thấy được một ngày nào mà không có tiếng súng, đạn bom. Nhưng lớn dần lên tôi hiểu hơn, thấy được nhiều điều hơn.

Ngoại tôi sống ở Sơn Hội. Những đứa con của bà đã có gia đình và ra sống riêng. Dì út của tôi làm ăn xa quê, nên ba mẹ phải thường xuyên chăm lo cuộc sống của bà. Chị Hồng, chị Mỹ thường được mẹ sai đem tiền gạo về ngoại. Những lần đó tôi đều đòi đi theo, tôi vui mừng tung tăng chạy theo 2 chị, cõng theo màu xanh của ruộng mì, ruộng lúa, huỳnh tinh, rau lang..., những vẻ đẹp rất nên thơ của làng quê qua mấy chiều hiếm hoi yên bình.

Không biết từ đâu, tôi rất yêu ngoại. Có thể do mẹ tôi giống bà, không chỉ về hình dáng mà cả tính cách. Đến nay tôi vẫn còn luôn cảm nhận được hơi ấm thuở nào của những lần về thăm được bà ôm vào lòng...

Làng Thuận Yên quê tôi đáng yêu sao. Nằm sát bên đường quốc lộ 24 B là hai dãy núi tiếp nhau, um tùm những rặng liễu và cỏ tranh. Bên này đường là xóm Thuận Yên, Tư Cung, xen lẫn với các xóm dân cư là những thửa ruộng bát ngát xanh. Bà con chân lấm tay bùn, cố đổi lấy những giọt mồ hôi để đong nhận từng bát cơm ngon, những manh áo lành... Tôi có cảm tưởng rằng, dân Mỹ Lai quê tôi rất siêng năng cần cù, vì phải luôn đương đầu với bom đạn, những trận càn quét, những làn rocket, cho nên họ phải tranh thủ từng giờ phút, khi sáng sớm hoặc chiều tối là khoảng thời gian im tiếng súng nhất họ đồng loạt ra đồng để trồng trọt, đổ nước cho lúa, tưới nước cho huỳnh tinh, rau lang, mì ,bón phân và làm sạch cỏ cho hoa màu... Những người buôn bán cũng thức dậy sớm lắm, để lo cơm nước cho gia đình, con cái trước khi ra chợ.

Buổi sáng 16-03-1968, một buổi sáng định mệnh của tôi, của gia đình tôi, của xóm Thuận Yên, của Mỹ Lai.

Sớm hơn bao trận càn quét trước, 5giờ 30 phút các tràng pháo từ nhiều phía đã bắn vào làng Thận Yên, Tư Cung, Mỹ Khê. Pháo nã dài hơn mọi khi và sau đó hơn 1 tiếng đồng hồ, khoảng hơn 7 giờ trên bầu trời Mỹ Lai xuất hiện rất nhiều máy bay trực thăng, chúng tha hồ bắn rocket vào các khu dân cư. Lúc này bà con mới biết một ngày chẳng lành đến với họ. Má tôi cùng mấy chị em nghe tiếng la làng kinh hoàng của rất nhiều bà con trúng đạn bị thương... Không lâu sau mấy tràng rocket là tiếng máy bay trực thăng bay rất thấp và hạ cánh xuống đồng lúa làng Thuận Yên. Lúc này tiếng súng trường của những tên lính Mỹ vừa hạ cánh bắn dữ lắm. Những tiếng la xé trời, tiếng khóc van xin của bao người trên đường ra đồng hoặc đi chợ. Thế nhưng những tay súng đâu có tha, họ vẫn nổ súng bắn giết những người ấy, giết hàng loạt, giết hết, giết sạch ...

Mấy nhà gần rìa làng bị lính Mỹ vào lôi ra đầu tiên. Họ lôi ra hết bắt tập trung trên bờ ruộng gần ngã ba Tháp Canh. Mẹ tôi thấy không ổn nên chuẩn bị thật chu đáo, lấy túi vải thật to màu nâu bỏ quần aó của mấy chị em tôi vào đó và đưa cho chị Hồng giữ. Mẹ còn bó vào đùi của mấy chị em tôi mỗi đứa 10.000 đồng, phòng khi chạy lạc có tiền mà xài. Tôi bị nhột quá nên mở ra đưa lại mẹ số tiền ấy. Bà còn kịp ra hầm phía sau nhà, cất giấu rất nhiều thuốc tây và vải.... Công việc vừa xong thì toán lính Mỹ ập vào nhà, tay súng lăm lăm, lôi xềnh xệch mẹ cùng chúng tôi ra đường. Dù ôm Hà trên tay, bà cũng không quên vói cầm theo chiếc nón. Ra tới đường gia đình tôi nhập vào đoàn người và bị lính Mỹ dẫn ra ngã ba Tháp Canh tập trung. Vừa tới nơi, lợi dụng lúc hỗn loạn, mẹ kéo chúng tôi vào hầm nhà bà Nhiều để trốn. Nhưng lúc đó dưới hầm đông nghẹt người, mẹ và mấy chị em tôi phải đứng gần miệng hầm. Tôi thấy nhà trên của bà Nhiều cũng vậy, người ta vào trốn thật nhiều, dưới phản, sau bàn thờ... Nhưng họ trốn không được lâu. Khi những toán lính Mỹ khác lùa bà con từ các nơi đến ngã ba, chúng bắt ngồi xuống và một toán khác ập vào nhà bà Nhiều, lôi toàn bộ những người trốn trong nhà ra. Chúng chĩa súng xuống hầm và la lớn.... Mọi người sợ quá lần lượt kéo nhau chui lên.


Bà Hà Thị Quí, bà Nhiều và Trần Văn Đức

Tôi còn thấy một bà già, già lắm, chắc bà quá yếu nên từ dưới hầm bước lên chậm, bị một thằng Mỹ tức giận dùng báng súng phang vào giữa lưng, chắc bị gãy xương nên bà đi không được nữa, bà té xuống hiên nhà và thằng Mỹ ấy nắm tay bà lôi ra chỗ tập trung. Sau sân có buị tre khá rậm, mẹ định kéo chúng tôi ra hướng ấy để trốn, nhưng bị một thằng Mỹ phát hiện chạy lại lôi mẹ rất mạnh làm chiếc áo ngoài của mẹ bung hết nút. Hết cách, mẹ cùng mấy chị em phải theo ra nơi tập trung. Cả nhà tôi ngồi sát mé ruộng, chiếc túi đồ màu nâu còn in rõ nơi chúng tôi ngồi, thật đau thương và bi thảm (chiếc túi màu nâu trong bức ảnh dưới đây).


Tôi nghĩ trên thế gian này chắc không bao giờ và không ở đâu lại có cảnh bi thảm nào hơn vậy. Tiếng khóc sợ hãi, tiếng van xin, tiếng trẻ thơ khóc thét khiếp đảm.... rồi những tràng súng liên thanh hướng vào đám người vô tội ấy bắn xối xả. Rồi không còn nghe thấy tiếng van xin nữa mà thay vào đó là những tiếng ré kinh hoàng. Tôi còn nghe thật rõ mà: “chết tôi rồi trời ơ...ơ...i!“.

Những người chưa trúng đạn đồng loạt đứng dậy chạy xuống ruộng lúa. Nhưng tôi thấy khó ai làm được việc đó. Những làn đạn dày đặc của lính Mỹ nã vào họ, họ bị trúng đạn và lần lượt ngã xuống, máu và thịt người vương vãi mọi nơi, nhiều thi thể không còn toàn thây nữa vì sức công phá quá lớn của những tràng liên thanh ngay cự ly gần. Giữa lúc hỗn loạn này, mẹ ôm Hà và một tay đẩy tôi xuống bờ ruộng lúa, mùa lúa đang lên đòng nên cũng khá cao, bà nằm đè lên tôi và Hà, chiếc nón là vật ngụy trang thật tốt lúc nầy, bà dùng để che thêm cho tôi, phần mà thân bà đè lên chưa lấp hết. Chị Mỹ tôi cũng ngã xuống gần đó và nằm im giả chết... Lính Mỹ vẫn tiếp tục bắn dữ lắm, khi thấy không còn ai sống nữa, chúng lại đến rất gần, tìm trẻ em và một số xác người còn cử động bắn tiếp. Sau đó chúng lần lượt kéo đi vào làng theo hướng ngã ba. Trên đường cái và dưới ruộng xác người nằm la liệt khắp nơi, máu tươi nhuộm ướt cả một quãng đường và phun ướt đẫm cả vạt lúa nơi ấy.


Mẹ Đức, bà Nguyễn Thị Tẩu (chín Tẩu)

Lính Mỹ rút đi được một lúc thì Hà bỗng khóc. Mẹ bảo tôi “con ôm Hà về nhà ngoại đi chứ lính Mỹ trở lại họ bắn chết“. Mẹ bị thương rất nặng ở đầu, bụng và đùi, bà không còn đứng lên được nữa...

... Bà nghiêng thân mình để khỏi đè Hà nữa nên tôi nhìn thấy rất rõ. Lúc đó tôi chỉ biết nghe lời và vội ôm Hà kéo lê trên đường. Tôi chỉ còn nói được một lời cuối cùng với mẹ tôi “con ôm Hà về ngoại nghen mẹ...“. Tôi sợ lính Mỹ trở lại bắn chết, cho nên vội đi không suy nghĩ gì để cứu mẹ, dù không làm được gì cho mẹ lúc đó, nhưng nghĩ lại tôi thấy rất buồn và ân hận. Tôi thương mẹ thật nhiều... Tôi vật vã kéo ôm em Hà thoát khỏi những xác người vương vãi ...

Trần Văn Đức Germany- Remscheid 2009

(xem tiếp kỳ sau

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét