Thứ Năm, 24 tháng 3, 2011

ựa chọn Thành công: Bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương lai của Việt Nam (phần 1)

L
Một khuôn khổ chính sách phát triển kinh tế - xã
hội cho Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2020 [1]

Tổng quan


Đầu thập niên 1990, Chương trình Việt Nam của Đại học
Harvard xuất bản một cuốn sách nhan đề Theo hướng rồng
bay
. Mục đích của cuốn sách này là nhằm cung cấp một
số khuôn khổ chiến lược giúp cho việc xác định các ưu
tiên và đưa ra các quyết sách quan trọng trong bối cảnh kinh
tế của Việt Nam và thế giới lúc bấy giờ. Thế giới đã
đổi thay nhiều kể từ khi cuốn sách Theo hướng rồng
bay
ra đời. Cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997
đã phơi bày một số điểm yếu ẩn chứa bên trong mô hình
phát triển của các nước Đông Á và Đông Nam Á. Quan trọng
hơn, cấu trúc của nền kinh tế toàn cầu vẫn không ngừng
biến chuyển và thay đổi với tốc độ ngày một nhanh hơn.
Tự do hóa thương mại đã thực sự tạo ra thị trường toàn
cầu cho các sản phẩm chế tạo và điều này cũng đang xảy ra
với các sản phẩm dịch vụ. Hai thập kỷ của sáp nhập và
mua bán công ty đã tạo ra những công ty toàn cầu khổng lồ
đứng tại đỉnh của chuỗi cung ứng, thâm nhập sâu vào hệ
thống sản xuất của cả nước đã và đang phát triển. Ngày
nay, các nước đang phát triển không thể dựa vào những chiến
lược công nghiệp hóa đã từng thành công trong quá khứ mà
phải liên tục đánh giá lại thế vị của mình có tính đến
những xu thế thay đổi rất nhanh trong đầu tư nước ngoài,
thị trường tài chính, công nghệ, và nhân khẩu.

Về phía mình, Việt Nam đã thay đổi rất nhiều sau gần 20 năm
với thành tích tăng trưởng cao và rất nhiều người dân Việt
Nam đã thoát khỏi cảnh đói nghèo. Với tư cách một quốc gia,
Việt Nam ngày càng nhận được sự nể trọng và có ảnh
hưởng ngày càng lớn hơn trong cộng đồng quốc tế. Có
được thành công này một phần là nhờ vào những quyết
định sáng suốt của chính phủ trong việc giải phóng lực
lượng sản xuất và hội nhập ngày càng sâu sắc hơn vào nền
kinh tế toàn cầu. Hệ quả tất yếu của những thay đổi
chính sách này là nền kinh tế Việt Nam ngày nay đã trở nên
phức tạp hơn rất nhiều, đòi hỏi việc ra chính sách phải
hết sức thận trọng và sáng suốt. Thế nhưng sự "quá
tải" trong vai trò của nhà nước và sự xuất hiện của
những nhóm đặc quyền được hưởng đặc lợi từ việc giữ
nguyên trạng thái hiện tại làm cho quá trình hoạch định
chính sách trở nên nặng nề và thiếu động cơ tiếp tục
cải cách. Trái với tinh thần khẩn trương và cấp thiết của
những năm đầu đổi mới, Việt Nam ngày nay đang được bao
trùm bởi một bầu không khí thỏa mãn và lạc quan, được
nuôi dưỡng bởi thành tích thu hút đầu tư nước ngoài và sự
ngợi ca của cộng đồng quốc tế và các nhà tài trợ. Trong
bối cảnh mới này, với tư cách là một nghiên cứu có tính
định hướng về chiến lược kinh tế của Việt Nam thì nội
dung của cuốn sách Theo hướng rồng bay không còn thích
hợp nữa và cần được viết lại. [2]

Bài viết này trình bày một khuôn khổ chiến lược giúp Việt
Nam xác định các ưu tiên và đưa ra các quyết sách kinh tế cho
những năm đầu của thế kỷ 21. Một luận điểm quan trọng
của bài viết này là Đông Á - được hiểu bao gồm Hàn
Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc, Hồng-kông, và Sing-ga-po
- nhìn chung đã thành công hơn so với các nước Đông Nam Á
- bao gồm Thái-lan, In-đô-nê-xia, May-lay-xia, và
Phi-lip-pin
. Bài viết này xem Trung Quốc như một trường
hợp đặc biệt: với vị trí địa lý, truyền thống văn hóa,
tốc độ tăng trưởng rất nhanh, và chất lượng các trường
đại học tinh hoa, Trung Quốc chắc chắn thuộc về mô hình
Đông Á, thế nhưng đồng thời Trung Quốc cũng lại có những
nhược điểm tương tự như của các nước Đông Nam Á. Đối
với Việt Nam, một nước có nhiều điểm tương đồng trong
chiến lược phát triển so với Trung Quốc thì ý nghĩa của
phân tích này rất quan trọng. Việt Nam phải đi theo quỹ đạo
phát triển của các nước Đông Á nhưng lại không được phép
sử dụng những công cụ chính sách mà những nước này đã
từng sử dụng trong quá trình công nghiệp hóa của chúng. Đáng
tiếc là Việt Nam không những không rút được những bài học
từ việc nghiên cứu các nền kinh tế đi trước, mà trái lại
còn lặp lại nhiều sai lầm của các nước Đông Nam Á, Đông
Á, và Trung Quốc. Một số người có thể cho rằng, việc bài
viết này rút gọn 30 năm vào trong một vài nguyên lý cơ bản
là một sự đơn giản hóa thái quá. Tuy nhiên, ở cấp độ
chiến lược, kinh nghiệm của các nước Đông Á và Đông Nam Á
cung cấp cho Việt Nam những bài học quan trọng mà Việt Nam
không thể không nghiên cứu thật thấu đáo.

Đặc biệt quan trọng,
tiềm năng phát triển của Việt Nam trong tương lai phụ thuộc
một phần lớn vào khả năng và ý chí của nhà nước trong
việc xây dựng một "bức tường lửa" ngăn cách giữa
quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị.
Một trong những chủ đề trọng tâm của bài viết này là quỹ
đạo phát triển của Việt Nam trong tương lai phụ thuộc vào
các quyết định hiện tại của nhà nước, và quỹ đạo này
ngày càng trở nên khó vãn hồi. Những quyết định của ngày
hôm nay sẽ định hình bối cảnh kinh tế chính trị của Việt
Nam trong những năm, và thậm chí là những thập niên tiếp theo.
Đặc biệt quan trọng, tiềm năng phát triển của Việt Nam trong
tương lai phụ thuộc một phần lớn vào khả năng và ý chí
của nhà nước trong việc xây dựng một "bức tường lửa"
ngăn cách giữa quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị.
Đặc trưng cơ bản của mô hình phát triển Đông Á (được
thể hiện ở Hàn Quốc, Đài Loan, Sing-ga-po) là khả năng của
nhà nước trong việc áp đặt kỷ cương đối với các nhóm
lợi ích, nhất là khi các nhóm này cản trở nền kinh tế trở
nên có tính cạnh tranh hơn. Trong mô hình Đông Á, sự ưu ái
của nhà nước đối với một doanh nghiệp phụ thuộc vào
thành công trong kinh doanh chứ không phải vào các mối quan hệ
chính trị hay thân quen của nó. Chính phủ thường xuyên từ
chối ký hợp đồng, cấp tín dụng và các phương tiện khác
ngay cả với những tập đoàn có thế lực nhất về mặt chính
trị khi chính phủ thấy rằng kế hoạch kinh doanh của những
tập đoàn này không khả thi, không đem lại lợi ích xã hội,
hay những dự án trước đây của chúng không được thực
hiện một cách thỏa đáng. "Chủ nghĩa tư bản thân
hữu
" phổ biến ở nhiều nước Đông Nam Á là thất bại
của nhà nước trong việc xác định một ranh giới rạch ròi
giữa những thế lực kinh tế và chính trị.

Chúng tôi không phải là những người duy nhất đưa ra nhận
định này. Dự báo của Economist Intelligence Unit (EIU) cho rằng
tốc độ tăng trưởng của Việt Nam sẽ suy giảm mạnh kể từ
2010 trở đi. Theo EIU, "những nhóm có đặc quyền đặc
lợi về chính trị có thể gây trở ngại cho cải cách và ngăn
chặn quá trình cấu trúc lại một số doanh nghiệp nhà nước
(DNNN), ảnh hưởng tới việc tăng cường năng lực cạnh tranh
và hạn chế kết quả tăng trưởng của Việt Nam
". [3]
Theo dự báo của EIU thì trong giai đoạn 2011 - 2020, tốc độ
tăng trưởng của Việt Nam chỉ có thể duy trì ở mức 5,1%
mỗi năm, thay vì mức trên 8% như hiện nay. Đánh giá này có
thể làm cho các nhà lãnh đạo của Việt Nam ngạc nhiên, nhất
là khi họ không ngớt nhận được những lời ngợi ca của các
nhà tài trợ như Ngân hàng Thế giới, ngân hàng đầu tư, và
báo chí quốc tế. [4]

Việt Nam cần hành động một cách quả quyết hơn nhằm ngăn
chặn sự suy giảm tốc độ tăng trưởng do những tổ chức
trung lập như EIU dự đoán. Chất lượng của đầu tư công là
một chỉ báo then chốt cho sự thành công của chính phủ trong
cải cách. Những người hay nhóm có thế lực chính trị
thường lợi dụng các dự án đầu tư công để trục lợi cá
nhân và trở lên giàu có một cách bất chính. Với tư cách là
chủ đầu tư, nhà nước không thể cho phép các chương trình
đầu tư của mình đi chệch khỏi mục tiêu tối đa hóa lợi
ích của quốc gia. Khi đầu tư công trở thành đối tượng
của các hành vi trục lợi thì một mặt mục tiêu của dự án
đầu tư không được thực hiện, đồng thời gánh nặng chi
phí sẽ được đặt lên vai của người dân và của nền kinh
tế. Trên thực tế Việt Nam đang đánh mất một phần đáng
kể nguồn lực của mình do lãng phí và tham nhũng. Công luận
không ngớt đưa tin về những dự án cơ sở hạ tầng (CSHT)
bị chậm tiến độ, đội giá, và chất lượng kém. Trong
nhiều trường hợp, dự án được lựa chọn mà không hề căn
cứ vào những tiêu chí kinh tế thích hợp. Ví dụ như Việt Nam
đang đầu tư xây dựng mới rất nhiều cảng nước sâu dọc
bờ biển miền Trung trong khi đó CSHT ở TP. Hồ Chí Minh, Bình
Dương, Đồng Nai, và Bà Rịa - Vũng Tàu, nơi hấp thụ tới
gần 60% lượng gia tăng dân số và lao động của cả nước,
lại đang quá tải một cách trầm trọng nhưng không được
đầu tư thỏa đáng. Dự án đầu tư 33 tỷ đô-la cho đường
sắt cao tốc Bắc - Nam ở thời điểm hiện nay là quá sớm và
vì vậy sẽ đóng góp không đáng kể cho tăng trưởng kinh tế,
trong khi gia tăng gánh nặng nợ nần cho quốc gia và giảm cơ
hội đầu tư cho các dự án khác cấp thiết hơn nhiều.

Khi đầu tư công trở
thành đối tượng của các hành vi trục lợi thì một mặt
mục tiêu của dự án đầu tư không được thực hiện, đồng
thời gánh nặng chi phí sẽ được đặt lên vai của người
dân và của nền kinh tế. Trên thực tế Việt Nam đang đánh
mất một phần đáng kể nguồn lực của mình do lãng phí và
tham nhũng.
Nhiều cá nhân và nhóm có thế lực chính trị ở Việt Nam đang
"hô biến" tài sản quốc gia thành sở hữu cá nhân thông qua
những phi vụ đất đai mờ ám và cổ phần nội bộ. Ở Việt
Nam, một đất nước có thu nhập bình quân đầu người khoảng
800 đô-la một năm nhưng giá đất lại đắt ngang với những
nước giàu nhất thế giới. Không hiếm trường hợp các cá
nhân giàu có kiếm được những khoản lợi nhuận kếch sù từ
hoạt động đầu cơ bất động sản, và họ làm được điều
này chủ yếu là nhờ hệ thống quy định và quản lý nhà
nước quá yếu kém. Có doanh nghiệp kinh doanh bất động sản
công khai tuyên bố: "nhờ quản lý quá kém, tôi làm giàu
quá nhanh
" . Cổ phần hóa các DNNN sẽ là một chủ trương
đúng nhằm tăng cường hiệu quả và sức cạnh tranh cho khu
vực kinh tế nhà nước nếu như quá trình này được thực
hiện một cách minh bạch và có trách nhiệm. Tuy nhiên, trên
thực tế, cũng vì quản lý yếu kém nên cổ phần hóa trong
nhiều trường hợp đã bị biến thành tư nhân hóa, giúp cho
những người nắm quyền kiểm soát công ty trở nên giàu có
trong khi tài sản của dân, của nước bị thất thoát nặng
nề.

Hoạt động của hệ thống tài chính cũng phản ánh sự thất
bại của Việt Nam trong việc tách bạch quyền lực kinh tế và
quyền lực chính trị. Trong khi khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
tạo ra hơn 90% việc làm trong khu vực công nghiệp và gần 70%
sản lượng công nghiệp thì phần lớn tín dụng và đầu tư
của nhà nước lại được giành cho khu vực kinh tế quốc
doanh. Trong thời gian qua, giao dịch nội gián đã trở thành
hiện tượng tương đối phổ biến trên thị trường chứng
khoán, trong đó nạn nhân là các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Đồng
thời, các giám đốc và những người "chủ" doanh nghiệp
vẫn tiếp tục lợi dụng kẽ hở của thị trường để trục
lợi cho mình.

Bài viết này cũng phân tích vai trò trọng tâm của giáo dục
trong mô hình phát triển của Đông Á để từ đó nêu bật lên
sự cấp thiết phải cải cách toàn diện và triệt để nền
giáo dục của Việt Nam. Mặc dù nội dung phân tích tập trung
vào giáo dục đại học nhưng cần phải thấy rằng hệ thống
giáo dục của Việt Nam đang bị khủng hoảng ở mọi cấp
độ. Bài viết chỉ ra rằng chất lượng giáo dục đại học
là một chỉ báo đáng tin cậy cho mức độ thịnh vượng về
kinh tế. Từ thực tế này, tình trạng kém cỏi của các
trường đại học Việt Nam so với hầu hết các trường đại
học trong khu vực là một điều vô cùng đáng lo ngại. Tình
trạng giáo dục hiện nay ở Việt Nam không chỉ là một trở
ngại lớn cho sự phát triển kinh tế mà còn là mầm mống cho
sự bất mãn về xã hội và bất ổn về chính trị trong tương
lai.

Mặc dù những xu thế trên chưa đến mức nguy hiểm chết
người nhưng để biến những tiềm năng to lớn của Việt Nam
thành hiện thực thì nhà nước phải hành động tức thời và
quả quyết trong một số lĩnh vực chính sách. Phần cuối của
bài viết này được dành để thảo luận một số kiến nghị
chính sách. Trong khuôn khổ có hạn, chúng tôi chỉ có thể
thảo luận một số vấn đề quan trọng và có tính ưu tiên cao
nhất mà không thể thảo luận một cách toàn diện mọi vấn
đề của Việt Nam. Chúng tôi không hề né tránh những vấn
đề có thể gây tranh cãi. Sự thực là, chính vì nhận thức
được một cách hết sức rõ ràng về sự thiếu vắng của
những tiếng nói phản biện chính sách với tinh thần xây dựng
mà chúng tôi thực hiện bài viết này. Những chính sách có
hiệu lực chỉ được ra đời từ những phân tích sâu sắc và
thảo luận sôi nổi, có căn cứ. [5] Nhiều quốc gia khác cũng
đã từng trải qua một số thách thức mà Việt Nam đang gặp
phải. Điều này có nghĩa là nhiều giải pháp và bài học đã
có sẵn, thiếu chăng chỉ là một quyết tâm chính trị. Đây
cũng chính là chủ đề quan trọng thứ hai của bài viết: bằng
những lựa chọn (hay không lựa chọn) của mình, nhà nước
Việt Nam sẽ quyết định tốc độ và triển vọng phát triển
kinh tế của đất nước. Nói một cách khác, đối với Việt
Nam, thành công là một sự lựa chọn trong tầm tay.


Phần 1. Câu chuyện về hai mô hình phát triển


I. Giới thiệu


Mục tiêu phát triển của Việt Nam đầy tham vọng: trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, và
một cách khái quát hơn, xây dựng một quốc gia "dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
". Thế
nhưng, nếu những xu thế hiện nay vẫn được tiếp tục thì
có lẽ Việt Nam sẽ không thể đạt được những mục tiêu
này, ít nhất là trong một khoảng thời gian khả dĩ chấp nhận
được về mặt chính trị. Bài viết này giải thích tại sao
lại như vậy và đề xuất khuôn khổ cho một chính sách thành
công hơn.

Thất bại trong việc đạt được những mục tiêu phát triển
sẽ là một sự thụt lùi to lớn đối với người dân Việt
Nam. Tuy nhiên, từ góc độ kinh tế khách quan mà nói thì điều
này, nếu có xảy ra, cũng không có gì quá ngạc nhiên. Trong số
các quốc gia đã thoát nghèo và có mức thu nhập trung bình -
vốn là mục tiêu Việt Nam đang hướng tới - chỉ có một vài
nước tiếp tục vươn lên trở thành những quốc gia giàu có,
hiện đại, và có thế lực. Nói một cách khác, xu hướng phát
triển phổ biến không đứng về phía Việt Nam. Mặc dù vậy,
xu hướng này không phải là một định mệnh. Ngược lại,
Việt Nam đang có những tiềm năng to lớn mà không phải quốc
gia nào cũng có. Chỉ trong vòng 20 năm, Việt Nam đã xây dựng
được một nền kinh tế năng động và hội nhập. Tuy nhiên,
bài viết này cũng sẽ chỉ ra rằng, thành công trong quá khứ
không phải là một sự bảo đảm vững chắc cho tương lai.
Nắm bắt được những cơ hội từ toàn cầu hóa, đồng thời
tránh được những "cạm bẫy" của nó sẽ là những thách
thức to lớn đối với Chính phủ Việt Nam.

Sự phát triển của Đông Á và Đông Nam Á cung cấp cho Việt
Nam những bài học quý báu. [6] Sau thế chiến thứ 2, các nước
Đông Á và Đông Nam Á đều trở lại cùng một vạch xuất
phát từ mức thu nhập và phát triển thấp. Thế nhưng chưa
đầy 20 năm sau, tức là từ những năm 1960, các nước Đông Á
đã trải qua một giai đoạn phát triển vượt bậc chưa từng
có trong lịch sử. Trong các nước Đông Á, chỉ có Trung Quốc
xuất phát chậm hơn cả do bị sa lầy vào thảm họa "Đại
nhẩy vọt" và Cách mạng Văn hóa. Ngày nay, những quốc gia
này đều tự hào vì có Chính phủ năng động, hiệu quả,
quyền năng, và xã hội tiên tiến. Họ đã hoặc đang nhanh
chóng xây dựng được một nền giáo dục và y tế đẳng cấp
thế giới cho người dân của mình.

Những thành phố của những quốc gia này năng động về mặt
văn hóa, trật tự về mặt xã hội, và an toàn về mặt vệ
sinh, môi trường.

Ngược lại, ngay cả trong những giai đoạn phát triển nhanh
nhất của mình, các nước Đông Nam Á cũng chưa thể thực
hiện được những sự chuyển hóa về chính trị, kinh tế, và
xã hội như của các nước Đông Á, và đây chính là điểm
khác biệt lớn lao giữa các nước Đông Á và các nước Đông
Nam Á nói riêng cũng như các nước đang phát triển nói chung.
Cho đến nay, nền kinh tế của Đông Nam Á vẫn dựa vào việc
khai thác lao động giá rẻ và tài nguyên tự nhiên. Ngoại trừ
Ma-lay-xia, các nước đang phát triển ở Đông Nam Á đều đã
từng trải qua những giai đoạn thăng trầm chính trị và biến
động xã hội. Chính phủ ở các nước này đã bị suy yếu
một cách đáng kể vì tham nhũng và chính trị bẩn thỉu chạy
theo đồng tiền. Các cuộc biểu tình lớn và đảo chính quân
sự đã từng lật đổ chính quyền ở In-đô-nê-xia, Thai-land,
và Phi-lip-pin. Quá trình đô thị hóa ở những nước này đang
diễn ra một cách hỗn loạn, với hàng triệu con người đang
phải sống lay lắt trong các khu ổ chuột, dọc theo bờ sông hay
bên rìa thành phố ở Jakarta, Bangkok, và Manila. Dịch vụ giáo
dục và y tế tốt là điều gì đó xa xỉ mà chỉ những
người giàu có mới với tới được. Tóm lại, con đường
của các nước Đông Á là con đường thẳng để đạt tới
sự thịnh vượng, ổn định và kính trọng của cộng đồng
quốc tế. Còn con đường của các nước Đông Nam Á thì vòng
vèo và gồ ghề hơn, đưa các quốc gia này tới một hiện tại
mong manh hơn và một tương lai bất định hơn, với nỗi ám
ảnh của bất công và bất ổn. Đáng tiếc là dường như
Việt Nam lại đang đi lại con đường của các nước Đông Nam
Á.

Sự cất cánh của Việt Nam chỉ mới bắt đầu, Việt Nam vẫn
còn nghèo so với các nước Đông Nam Á khác và rất nghèo so
với các nước phát triển ở Đông Á. Là người đi sau, Việt
Nam có ưu thế là có thể học kinh nghiệm thành công và thất
bại của các nước đi trước, trong đó một bài học bao trùm
là các quốc gia quyết định tốc độ tăng trưởng của mình
thông qua việc thực hiện hay không thực hiện những quyết
sách chiến lược thường là khó khăn về mặt chính trị.
Tương lai của Việt Nam sẽ phụ thuộc rất nhiều vào chất
lượng các quyết sách của Chính phủ. Nói một cách khác, thành công hay thất bại là sự lựa chọn
chứ không phải là định mệnh.


Phần tiếp theo so sánh đối chiếu sự phát triển Đông Á và
Đông Nam Á. Phần 2 xem xét những ý nghĩa về mặt xã hội của
chính sách kinh tế hiện nay của Trung Quốc. Phần 3 đánh giá
những chính sách hiện nay của Việt Nam trong sáu lĩnh vực có
tính quyết định tới sự phát triển của Việt Nam. Phần 4
phân tích cấu trúc hiện tại của nền kinh tế Việt Nam để
từ đó nhận diện các động lực và trở lực của tăng
trưởng. Trong Phần 5, chúng tôi sẽ đưa ra một số gợi ý
chính sách để giúp Việt Nam "bẻ lái" nền kinh tế theo
quỹ đạo tăng trưởng của Đông Á.
II. Sự thành công của Đông Á và sự thất bại (tương đối)
của Đông Nam Á. [7]

Sau một thời gian tăng trưởng khá nhanh, hiện nay tốc độ
tăng trưởng của các nước Đông Nam Á đã chậm lại.
Ma-lay-xia đã tiến một bước dài từ 1969 cho tới 1995 với
tốc độ tăng trưởng trung bình 7%/năm. Trong giai đoạn này
chỉ có một sự gián đoạn tăng trưởng nhỏ từ 1984 đến
1986. Tương tự như vậy, In-đô-nê-xia cũng tăng trưởng nhanh
trong giai đoạn 1967 - 96. Trong 3 thập kỷ này, tốc độ tăng
trưởng trung bình của In-đô-nê-xia là 6,8%/năm. Tốc độ tăng
trưởng của Thái-lan duy trì ở mức 7,6%/năm trong vòng gần 4
thập kỷ. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của các nước này
đã giảm xuống, hiện chỉ còn ở mức 4 - 6%. Vấn đề là sự
suy giảm tốc độ tăng trưởng ở các nước này xảy ra khi
mức thu nhập trung bình của người dân còn tương đối thấp,
ở In-đô-nê-xia là $1.280, ở Thái-lan là $2.700, và ở Ma-lay-xia
là dưới $5.000. [8] Ngược lại, thu nhập trên đầu người
của Hàn Quốc và Đài Loan hiện nay đều vượt mức $15.000.
Sự thực là trong khu vực, Hàn Quốc và Đài Loan là hai nước
duy nhất (ngoại trừ Sing-ga-po và Nhật Bản) đã thành công
trong việc đưa mức thu nhập trung bình của người dân vượt
ngưỡng $10.000. So với Đông Nam Á thì các nền kinh tế Đông Á
đã duy trì được tốc độ tăng trưởng cao hơn trong một
thời gian dài hơn, và kết quả là các nước Đông Á (trừ
Trung Quốc) đang nằm trong số những nước giàu nhất trên thế
giới.

Các nước Đông Á thành công là nhờ có chính sách đúng đắn
trong 6 lĩnh vực then chốt, bao gồm giáo dục, cơ sở hạ tầng
và đô thị hóa, doanh nghiệp cạnh tranh quốc tế, hệ thống
tài chính, hiệu năng của Nhà nước, và công bằng. Sự tiếp
nối thành công của Việt Nam cũng sẽ phụ thuộc vào hiệu
quả của chính sách trong 6 lĩnh vực này. Trong khuôn khổ bài
viết này, chúng tôi không có tham vọng trình bày một phân tích
toàn diện về sự phát triển của các nước Đông Á và Đông
Nam Á. Thay vào đó, phần thảo luận dưới đây sẽ nhấn mạnh
một số cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững và cung
cấp một khuôn khổ để đánh giá hiện trạng của nền kinh
tế Việt Nam.

1. Giáo dục


Các nhà phân tích đã đưa ra nhiều lời giải thích cho sự
thành công của Đông Á. Một số nhà phân tích nhấn mạnh tới
tính "thân thiện với thị trường" của các chính
sách kinh tế. Một số khác tập trung vào vai trò can thiệp của
nhà nước trong việc thúc đẩy công nghiệp hóa. Mặc dù hai
nhóm có thể có những nhận định khác nhau về vai trò của
nhà nước và thị trường, nhưng họ đều thống nhất với
nhau ở một điểm, đó là các quốc gia Đông Á đầu tư một
cách hết sức mạnh mẽ cho giáo dục ở tất cả các cấp. [9]
Các nước Đông Á có một tầm nhìn chiến lược toàn diện cho
sự phát triển nguồn lực con người. Hoạt động dạy nghề
ở các nước này cung cấp cho dân di cư từ nông thôn ra thành
thị những kỹ năng cần thiết để họ có thể tìm được
việc trong các nhà máy với mức thu nhập tốt hơn. Mức độ
tiếp cận giáo dục đại học của các nước này được mở
rộng một cách nhanh chóng, [10] trong đó đáng lưu ý là giáo
dục kỹ thuật và công nghệ. Chẳng hạn như vào năm 1971, số
kỹ sư ở các nước có mức thu nhập trung bình thời đó là
4,6/1.000 dân, trong khi ở Đài-loan và Sing-ga-po, con số này lần
lượt là 8 và 10. [11] Các nước Đông Á dành một sự ưu tiên
cao độ cho các trường đại học nghiên cứu đẳng cấp, nơi
đào tạo ra những ký sư, nhà khoa học, giám đốc, và quan
chức Chính phủ để đáp ứng nhu cầu của một xã hội nay
đã trở nên phức tạp và tinh vi hơn. Các nước này khuyến
khích sinh viên du học, đồng thời tạo ra những khuyến khích
thích đáng để thu hút sinh viên về nước. Ngay cả những
chiến lược công nghiệp có tính định hướng của Chính phủ
cũng được bắt đầu bằng việc đầu tư vào vốn con người.
Ví dụ như trong những năm 1970 và 1980, hàng trăm sinh viên Hàn
Quốc đã ra nước ngoài để học về các ngành liên quan đến
công nghệ đóng tàu tại những trường đại học hàng đầu
của thế giới. Những người này khi trở về đã đóng vai trò
then chốt trong việc ra đời ngành công nghiệp đóng tàu của
Hàn Quốc. Mô thức này được lặp lại đối với sự bùng
nổ của ngành công nghiệp bán dẫn ở Đài Loan và Trung Quốc
trong những năm 1990. Chính phủ của hai nước này đã đầu tư
thời gian và nỗ lực một cách đáng kể trong việc phát triển
mạng lưới lưu học sinh ngành kỹ thuật ở các trường đại
học hàng đầu của Mỹ, và những nhà khoa học trẻ hứa hẹn
nhất nhận được những lời đề nghị hấp dẫn nhất để
về nước giảng dạy tại các trường đại học hoặc mở
công ty tư nhân. [12] Các nước Đông Á đã thành công hơn các
nước Đông Nam Á gần như trên mọi phương diện. Ngày nay,
nhiều trường đại học của Trung Quốc, Hàn Quốc, và Đài
Loan nằm trong danh sách 100 trường đại học hàng đầu của
Châu Á theo xếp hạng của trường Đại học Giao thông Thượng
Hải. Ngoài Sing-ga-po ra thì không có một nước Đông Nam Á nào
có trường đại học nằm trong danh sách này. [13]

Tăng_trưởng_GDP_trên_Ä'ầu_người.jpg

Hình 1. Tăng trưởng GDP trên đầu người, 1960 - 2004
Nguồn: Những Chỉ báo Phát triển Thế giới (World Development
Indicators)



2. Cơ sở hạ tầng và Đô thị hóa


Xây dựng CSHT cần thiết cho sự tăng trưởng kinh tế và đô
thị hóa nhanh đòi hỏi các nguồn lực của Chính phủ phải
được sử dụng một cách hiệu quả. Ở đây cũng vậy, trừ
Trung Quốc ra, các nước Đông Á đạt được những kết quả
đáng tự hào hơn nhiều so với các nước Đông Nam Á. Chỉ
cần so sánh Tokyo, Seoul và Taipei với Bangkok, Manila, và Jakarta là
đã có thể thấy sự khác biệt to lớn: thành phố ở các
nước Đông Á là động lực cho tăng trưởng và đổi mới kinh
tế, trong khi thành phố ở các nước Đông Nam Á ô nhiễm, ùn
tắc, đắt đỏ, và ngập nước. Nghèo đói, tội phạm và sự
bất lực trong việc cung cấp các dịch vụ đô thị cơ bản
như giao thông, điện, nước sạch là những tai họa của các
thành phố Đông Nam Á. Không có gì ngạc nhiên khi các phong trào
biểu tình ở đô thị đã làm nghiêng ngả chính quyền ở
Bangkok, Manila, và Jakarta. Bên cạnh sự thất bại trong quản lý
đô thị, các nước Đông Nam Á còn có xu hướng đầu tư quá
mức vào các dự án khổng lồ mà trong hầu hết trường hợp
đều chứng tỏ là chưa cần thiết và lãng phí. Nói chung, các
nước Đông Á thường thận trọng hơn và chỉ đầu tư để
nâng cao công suất khi cần thiết. [14] Tại sao các nước Đông
Á lại thành công hơn các nước Đông Nam Á nhiều đến thế?
Một nhân tố quan trọng là các quyết định về CSHT ở các
nước này do các nhà kỹ trị ít chịu áp lực chính trị thực
hiện. Ngược lại, ở các nước Đông Nam Á, các quyết định
đầu tư của Nhà nước thường bị chi phối và thao túng bởi
các nhóm lợi ích đặc biệt. Như sẽ được thảo luận thêm
ở dưới, trong lĩnh vực đầu tư công vào CSHT và đô thị
hóa, Trung Quốc rất giống với các nước Đông Nam Á. Chính
phủ Trung Quốc đã thất bại trong việc bảo vệ những quyết
định này khỏi sự can thiệp có tính chính trị. Quá trình đô
thị hóa nhanh chóng của Trung Quốc đã để lại nhiều hậu
quả nghiêm trọng về môi trường, gây nên sự bất mãn và
trong một số trường hợp dẫn tới biểu tình của người dân
đô thị.

3. Doanh nghiệp cạnh tranh quốc tế


Tốc độ tăng trưởng nhanh của các ngành công nghiệp có tính
cạnh tranh là chìa khóa để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao cho các nền kinh tế có GDP trên đầu người dưới
15.000 đô-la Mỹ. Các công ty công nghiệp sẽ không thể tăng
trưởng nhanh nếu chúng không cạnh tranh được với cả các
đối thủ trên thị trường nội địa, và quan trọng hơn, trên
thị trường quốc tế. Các công ty dựa dẫm vào vị thế độc
quyền trên thị trường nội địa nhờ vào sự hỗ trợ của
nhà nước và không phải chịu áp lực của cạnh tranh sẽ
không nỗ lực hoặc không chấp nhận rủi ro để tìm kiếm
thị trường mới hay cải tiến sản phẩm và quá trình sản
xuất. Thời gian và năng lượng của đội ngũ cán bộ sẽ
được dành cho việc duy trì sự ưu ái của nhà nước thay vì
tìm cách cải tiến, giảm chi phí, tăng chất lượng, và chuyển
sang các dòng sản phẩm mới. Ở các nước Đông Á, khi nhà
nước hỗ trợ cho một ngành công nghiệp nào đó, hay thậm chí
một doanh nghiệp cá biệt nào đó, thì nói chung, ngành công
nghiệp hay doanh nghiệp này đều biết ngay từ đầu rằng sự
hỗ trợ này chỉ có tính tạm thời và rằng họ sẽ phải
xuất khẩu sau một vài năm để có thể tự tồn tại. Quy tắc
này được gọi là "xuất khẩu hay là
chết
". Một ngoại lệ đối với quy luật này
xuất hiện ở Hàn Quốc trong những năm 1990 là khi các chaebol
trở thành "quá lớn nên không được phép thất
bại
" - có nghĩa là Chính phủ Hàn Quốc sẽ luôn phải
"giải cứu chaebol" khi chúng có nguy cơ thất bại. Tuy
nhiên, trong cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á 1997 - 1998,
Chính phủ Hàn Quốc đã không thể cứu được những chaebol.

Mặc dù các ngành công nghiệp của Trung Quốc ngày càng hội
nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu nhưng chúng vẫn dựa
chủ yếu vào các biện pháp cắt giảm chi phí thay vì cải
tiến hay khai thác hiệu quả kinh tế theo quy mô. Ngay cả những
công ty lớn của Trung Quốc cũng thường là tập hợp bao gồm
một số các hoạt động kinh doanh cốt lõi đi kèm với rất
nhiều chi nhánh nhỏ, hoạt động trong những ngành không hề có
liên quan tới hoạt động cốt lõi. Việc quốc gia lớn nhất
hành tinh này không tận dụng được lợi thế theo quy mô trong
ngành công nghiệp thép, máy móc, và ô tô chủ yếu là do chính
quyền địa phương đã chuyển đầu tư và các hình thức hỗ
trợ khác cho các doanh nghiệp địa phương chứ không phải cho
các doanh nghiệp "quán quân" của trung ương. [15] Cố gắng
của chính quyền trung ương trong việc củng cố ngành thép đã
thất bại vì các doanh nghiệp thép địa phương liên tục
được các chính quyền địa phương "giải cứu". Kết quả
là, mặc dù Trung Quốc có một thị trường nội địa rất
lớn nhưng năng suất của các doanh nghiệp sản xuất thép của
Trung Quốc lại thấp hơn nhiều so với những doanh nghiệp quốc
tế hàng đầu. [16]

Ngày nay, nền công nghiệp của Việt Nam phụ thuộc nặng nề
vào các sản phẩm thâm dụng lao động như giày dép, dệt may,
đồ gỗ - tương tự như hầu hết các nước Đông Á 30 năm
trước. Việc dựa vào các sản phẩm thâm dụng lao động trong
một số giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa giúp
tạo công ăn việc làm, thu về ngoại tệ, và tích luỹ kinh
nghiệm điều hành các doanh nghiệp công nghiệp hiện đại. Tuy
nhiên, các quốc gia cạnh tranh trên cơ sở lao động rẻ không
thể vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Những nước này
phải chật vật để có được một tỷ lệ lợi nhuận mỏng
manh trong những thị trường mà mỗi ngày lại xuất hiện thêm
những đối thủ cạnh tranh mới. Nhật Bản, Đài Loan, Hàn
Quốc và Sing-ga-po đã tiến xa trên con đường học hỏi và
cải tiến để cuối cùng bước vào được các thị trường
sản phẩm phức tạp và tinh vi hơn, thâm dụng vốn và công
nghệ hơn. Khi mức lương trung bình tại các nước này tăng
lên, các nhà máy thâm dụng lao động và nguồn lực dần dần
được chuyển sang Trung Quốc và Đông Nam Á. Quá trình chuyển
đổi này không xảy ra một cách tự động. Nó đòi hỏi các
cá nhân, doanh nghiệp, và nhà nước phải cố gắng cao độ
một cách tập trung để có thể thúc đẩy và thực hiện quá
trình chuyển đổi này.

Các nước Đông Á thực hiện một chính sách kiên trì nhiều
khi đến cực đoan trong việc theo đuổi kỹ năng, công nghệ,
và tri thức tiên tiến để có thể giúp các doanh nghiệp của
mình xâm nhập thị trường sản phẩm mới và hiện đại hóa
quá trình sản xuất. Các nước này đã xây dựng các "hệ
thống sáng tạo" cấp quốc gia để tiếp thu và nâng cao năng
lực công nghệ cũng như khả năng tiếp cận, điều chỉnh, và
hoàn thiện các công nghệ nhập khẩu. Họ đã sử dụng các
chính sách thương mại, tài chính, giáo dục, thuế để thúc
đẩy các doanh nghiệp nội địa nâng cao kỹ năng và chất
lượng sản phẩm của mình. [17] Chính phủ Đài Loan đã đổi
mới hệ thống giáo dục để có thể cung cấp cho nền kinh tế
những kỹ sư và nhà khoa học được đào tạo bài bản. Nước
này đã tạo nhu cầu cho các dịch vụ tin học bằng cách tin
học hóa hoạt động của các cơ quan nhà nước, xây dựng các
viện nghiên cứu đẳng cấp thế giới để phát triển các
công nghệ tiên phong. Công viên Khoa học Công nghệ Hsin-Chu
được thành lập để thu hút các nhà khoa học và doanh nhân
Đài Loan từ Thung lũng Silicon và các nơi khác về nước làm
việc. Công ty Chế tạo Bán dẫn Đài Loan (TSMC), một công ty
đúc bán dẫn hàng đầu thế giới, là một sản phẩm của
Viện Nghiên cứu Công nghệ của Chính phủ Đài Loan, được
thành lập với sự hợp tác của Philips vào năm 1987. Trừ một
số rất ít ngoại lệ đối với doanh nghiệp thâm dụng vốn
cao (như trường hợp của TSMC) thì Chính phủ không đứng ra thành lập doanh
nghiệp mà chỉ tạo điều kiện sao cho các doanh nghiệp tư nhân
có thể thành công
. Các doanh nghiệp của Đài Loan đang đi
đầu trong các lĩnh vực máy tính, điện tử, và nhiều lĩnh
vực khác. Trái lại, In-đô-nê-xia và Thái-lan đang cố gắng thu
hút một lượng lớn FDI nhưng nhìn chung lại không tạo ra
được môi trường hỗ trợ các doanh nghiệp trong và ngoài
nước bước lên những bậc thang công nghệ cao hơn. Thái-lan
thành công hơn nhiều so với In-đô-nê-xia trong lĩnh vực phụ
tùng ô tô và ổ cứng máy tính, nhưng doanh nghiệp của Thái-lan
cho đến nay cũng vẫn chưa thể xâm nhập vào khâu thiết kế
và sáng tạo (là những khâu tạo ra nhiều giá trị gia tăng
nhất) của những ngành này.

Nếu đối chiếu với
kinh nghiệm của Đông Nam Á thì các nước này đã bảo hộ
nhiều ngành công nghiệp trong một thời gian khá dài, dẫn đến
việc lãng phí những nguồn lực khổng lồ và quý báu, trong khi
lại chỉ tạo ra những doanh nghiệp ỷ lại, thụ động, và
kém cạnh tranh, đặc biệt là trong khu vực nhà nước.
Một bài học quan trọng thứ hai từ Đông Á là thương mại
quốc tế không chỉ tạo ra sức ép cạnh tranh mà nó còn là
một thước đo chính xác cho năng lực cạnh tranh của các công
ty nội địa. Các công ty xuất khẩu thành công của Hàn Quốc
được Chính phủ thưởng công một cách hào phóng thông qua
việc ưu đãi các công ty này trong việc thâm nhập thị trường
nội địa và thực hiện các hợp đồng của Chính phủ. Đồng
thời, các công ty thất bại trong hoạt động xuất khẩu bị
"trừng phạt" một cách thích đáng. Ngay cả khi một công ty
nào đó (như trong ngành đóng tàu chẳng hạn) của Hàn Quốc
được sự hỗ trợ của nhà nước thì công ty này cũng luôn
chịu sức ép phải trở nên cạnh tranh hơn trên thị trường
quốc tế. Mặc dù nhiều công cụ trong số này không còn thích
hợp trong thời kỳ hậu WTO nữa nhưng nguyên lý hỗ trợ cho
các doanh nghiệp thành công trên thị trường quốc tế vẫn là
một biện pháp hữu hiệu để Chính phủ khuyến khích năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu đối chiếu với kinh
nghiệm của Đông Nam Á thì các nước này đã bảo hộ nhiều
ngành công nghiệp trong một thời gian khá dài, dẫn đến việc
lãng phí những nguồn lực khổng lồ và quý báu, trong khi lại
chỉ tạo ra những doanh nghiệp ỷ lại, thụ động, và kém
cạnh tranh, đặc biệt là trong khu vực nhà nước. Ô-tô Proton
của Ma-lay-xia và Thép Krakatau của In-đô-nê-xia là hai ví dụ
về hậu quả tai hại của chính sách vươn tới bậc thang công
nghệ cao hơn trong điều kiện được bảo hộ lâu dài. Ngành
công nghiệp thép của In-đô-nê-xia đang hấp hối sau 30 năm
được bảo hộ. Tương tự như vậy, ngành hàng không vốn
được trợ cấp hào phóng thì nay đang chết dần chết mòn sau
cuộc khủng hoảng tài chính 1997-98 và do không có khả năng
cạnh tranh trên thị trường quốc tế về máy bay cỡ nhỏ.

4. Hệ thống tài chính


Các nước Đông Á dành một phần lớn thu nhập quốc dân cho
các hoạt động đầu tư, và họ đã đầu tư một cách hiệu
quả. Đài Loan tăng trưởng ngoạn mục 10% trong suốt gần 20
năm, từ 1962 cho đến 1980, trong khi chỉ cần đầu tư khoảng
26% GDP. Nếu so sánh với Đài Loan trong giai đoạn đó thì hiện
nay Việt Nam đang phải tốn gần gấp đôi lượng vốn để
tạo thêm được một đơn vị tăng trưởng. Các nước Đông
Nam Á đã thành công trong việc huy động một tỷ lệ đầu tư
rất cao nhưng lại thất bại trong việc lặp lại kỳ tích tăng
trưởng của các nước Đông Á, trong đó nguyên nhân chủ yếu
là suất sinh lợi của các khoản đầu tư ở các nước Đông
Nam Á thấp hơn nhiều. Tham nhũng chắc chắn là một trong những
thủ phạm khi các quỹ đầu tư công bị bòn rút và thay đổi
mục đích sử dụng, và hệ quả là chi phí kinh doanh bị đội
lên cao. Bên cạnh tham nhũng thì một nguyên nhân quan trọng khác
hoạt động tự do hóa tài chính được thực hiện quá sớm,
trong khi hệ thống tài chính được thiết kế không thích hợp
và chưa sẵn sàng. Kết quả là sự xuất hiện của các khoản
đầu cơ rủi ro và sự hình thành của bong bóng tài sản. Cuộc
khủng hoảng năm 1997 bộc lộ mức độ đầu tư quá mức vào
các bất động sản có tính đầu cơ ở Thái-lan và
In-đô-nê-xia. Cuộc khủng hoảng này cũng làm lộ rõ sự giả
dối có tính hệ thống trong quản trị nội bộ công ty và trong
các bảng cân đối tài khoản của ngân hàng ở Thái-lan và
In-đô-nê-xia - cả hai là hậu quả của việc các cơ quan chức
năng ở hai nước này đã thất bại trong việc ban hành và
thực thi những quy tắc điều tiết cần thiết. Cũng cần phải
nói thêm là cuộc khủng hoảng 1997 chỉ là một sự kiện trong
một chuỗi liên tiếp các cuộc khủng hoảng ở Châu Mỹ
La-tinh, Bắc Mỹ, Châu Âu, và Châu Phi với cùng một nguyên
nhân, đó là sự liên kết giữa chính sách tự do hóa tài chính
quá ư bất cẩn mà hậu quả là những cuộc khủng hoảng tài
chính xảy ra sau đó. [18]

Chức năng cơ bản của một hệ thống tài chính là làm cầu
nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Thị trường là công cụ
hữu hiệu để khuyến khích tiết kiệm, sau đó dẫn truyền
các khoản tiết kiệm này tới các hoạt động đầu tư mang
lại suất sinh lời cao nhất. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng không
như các loại hàng hóa thông thường khác, tiền là một loại
hàng hóa đặc biệt. Thị trường tài chính (bao gồm thị
trường vốn và thị trường tiền tệ), phụ thuộc rất nhiều
vào niềm tin của các tác nhân tham gia thị trường, vào sự
minh bạch và đầy đủ về thông tin, và vào khả năng thực thi
các quy định pháp luật về điều tiết và quản lý thị
trường của nhà nước. Hơn thế, đầu tư là một hoạt động
rủi ro và phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện thực tế
cũng như kỳ vọng trên thị trường. Chính vì những lý do này
mà nhà nước đóng một vai trò then chốt trong việc điều
tiết thị trường để giảm thiểu những rủi ro có tính hệ
thống. Chẳng hạn như Đài Loan đã ban hành những quy định
nghiêm ngặt về hoạt động tích luỹ của cải thông qua việc
sở hữu đất đai và đầu cơ tài chính. Chính phủ Đài Loan
và Hàn Quốc còn ngăn cấm các tập đoàn công nghiệp mở ngân
hàng, chống lại việc sáp nhập các thế lực tài chính và
công nghiệp, mặc dù những chính sách này ở Hàn Quốc sau đó
bị các chaebol phá dỡ. Việc tăng lợi nhuận của các tập
đoàn công nghiệp chủ yếu thông qua nỗ lực tăng năng suất
và sức cạnh tranh chứ không phải thông qua các hoạt động
tài chính hay đầu cơ.

5. Hiệu năng của Nhà nước


Các nước Đông Á, trừ Trung Quốc, đã thành công trong việc
xây dựng các nhà nước hiệu quả với một số đặc điểm
chung như sau:

Thứ nhất, như đã thảo luận
ở các phần trên, nhờ vào một số lý do có tính lịch sử,
các nước này tạo ra được một sự cách ly giữa các nhà làm
chính sách và các nhóm lợi ích đặc biệt, nhất là đối với
những nhóm cản trở phát triển công nghiệp nhanh và bền
vững. Sự "tự chủ" của Chính phủ các nước Đông Á cho
phép họ thúc đẩy tích lũy vốn và đầu tư mà không bị chi
phối và thao túng bởi các tập đoàn kinh tế.

Thứ hai, những nhân tố cơ bản
được xây dựng một cách đúng đắn ngay từ ban đầu. Chính
phủ xây dựng CSHT kinh tế, đầu tư thích đáng cho giáo dục, y
tế, và an ninh công cộng với một mức chi phí chấp nhận
được, đồng thời thỏa mạn được kỳ vọng của nhân dân
về chất lượng. Kinh tế vĩ mô ở các nước này được
điều hành một cách thận trọng bởi những nhà chuyên môn
thực sự, trong đó mục tiêu phát triển chung của đất nước
luôn được đặt lên hàng đầu. Đối chiếu lại với kinh
nghiệm gần đây của Việt Nam, ngoại trừ an ninh và ổn định
chính trị thì người dân tương đối thất vọng đối với
các dịch vụ thiết yếu. Đồng thời, uy tín khó khăn lắm
mới có được của nhà nước trên phương diện quản lý vĩ
mô đang dần bị xói mòn vì một số sai lầm do không theo kịp
được với sự phức tạp ngày càng tăng của nền kinh tế.

Thứ ba, các nước Đông Á cũng
chứng minh được rằng họ có thể tạo ra những quyết tâm
chính trị mạnh mẽ để thay đổi khi cần thiết. Hàn Quốc
đã phản ứng một cách mạnh mẽ trước những yếu kém trong
cấu trúc nền kinh tế mà họ nhận ra được từ cuộc khủng
hoảng 1997 và sau đó đã trỗi dậy vững vàng hơn.

Thứ tư, Chính phủ các nước
Đông Á chủ trương thượng tôn pháp luật, trong đó hệ thống
tư pháp không chịu sự chi phối của các thế lực chính trị
có tính đảng phái. Sing-ga-po, Hồng Kông là những quốc gia
Đông Nam Á đầu tiên dành ưu tiên cho việc củng cố hệ
thống luật pháp. Chính điều này đã tạo ra một môi trường
thuận lợi, khuyến khích giao dịch kinh tế và đầu tư. Đồng
thời, việc đề cao thượng tôn pháp luật cũng là vũ khí then
chốt để chống tham nhũng. [19]

Thứ năm, các nhà lãnh đạo của
các nước Đông Á ra quyết định dựa trên những phân tích
chính sách có chất lượng và kịp thời. Họ cũng khuyến khích
những tranh luận thẳng thắn và cởi mở trong nội bộ Chính
phủ, giữa những nhà khoa học và trong giới kinh doanh về nội
dung và đường hướng của chính sách kinh tế.

Kết quả ở các nước Đông Nam Á không đồng nhất.
Phi-líp-pin là một trường hợp cực đoan. Vào những năm 1950,
Phi-líp-pin được coi là quốc gia có tiềm năng kinh tế lớn
nhất Đông Nam Á. Thế nhưng hệ thống chính trị của
Phi-líp-pin lại bị thao túng bởi một nhóm chính trị gia nhỏ,
những người kiếm tiền chủ yếu bằng việc kiểm soát đất
đai và các ngành công nghiệp được bảo hộ chặt chẽ. Các
tập đoàn lớn liên kết với nhau theo chiều dọc không thể
cạnh tranh trên thị trường quốc tế đã lợi dụng mối quan
hệ với nhà nước để duy trì vị thế độc tôn trên thị
trường nội địa. Mối liên kết đồng minh của các chính
trị gia với những nhóm lợi ích đặc biệt gây nên nhiều
tổn thất cho phát triển kinh tế và cho công chúng nói chung.
Mặc dù Phi-líp-pin có một số trường đại học tốt và
người dân có học vấn tương đối cao, thế nhưng mấy thập
kỷ tăng trưởng chậm, sự suy thoái về môi trường và tham
nhũng đã biến quốc gia đầy tiềm năng này thành một nơi
xuất khẩu lao động có kỹ năng chủ yếu của thế giới. Các
nước Đông Nam Á thường thất bại trong việc tạo nên quyết
tâm cần thiết để thực hiện các cải cách khó khăn về mặt
chính trị. Đây cũng là lo ngại của nhiều chuyên gia vì những
vấn đề có tính cấu trúc nội tại của nhiều nền kinh tế
Đông Nam Á sau khủng hoảng 1997 vẫn chưa được giải quyết
một cách triệt để.

Lịch sử phát triển của Đông Á không hoàn hảo. Ngay cả
những nước thành công nhất cũng thỉnh thoảng mắc sai lầm.
Chẳng hạn như Trung Quốc đang phải đối đầu với những
thách thức to lớn như kiểm soát nạn tham nhũng lan tràn, đô
thị hóa hỗn loạn, môi trường suy thoái, và bất bình đẳng
kinh tế tăng nhanh. Thêm vào đó, thế giới ngày nay đã trải
qua nhiều đổi thay quan trọng so với thời kỳ Nhật Bản, Đài
Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông, và Sing-ga-po bắt đầu tăng tốc quá
trình công nghiệp hóa. Ngày nay, quy tắc của Tổ chức Thương
mại Quốc tế không cho phép các nước bảo hộ các ngành công
nghiệp non trẻ bằng các biện pháp thuế quan và phi thuế quan
như trước nữa. Ngay cả khi giả sử rằng các nước Đông Nam
Á được phép thực hiện những chính sách bảo hộ này thì
nhiều khả năng là chúng cũng sẽ không vận hành theo cùng một
cách như trước. 20 Những thay đổi trong hoạt động kinh doanh
toàn cầu cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 khiến những mô
hình cũ này trở nên lỗi thời. Câu hỏi của ngày hôm nay
không còn là liệu một quốc gia có thể đi từ việc sản
xuất áo sơ-mi lên sản suất thép rồi ô tô hay không. Ngày nay,
trên thế giới chỉ còn một số rất ít các hãng sản xuất ô
tô độc lập, và thách thức đối với các nước công nghiệp
hóa muộn là làm thế nào để kết nối với những hệ thống
sản xuất toàn cầu hiện hữu trên cơ sở giảm giá thành,
tăng năng suất và cải tiến kỹ thuật. Bảo hộ thương mại
không phải là một công cụ hữu hiệu để đạt được mục
tiêu này. Hơn nữa, sự thay đổi hệ thống tiền tệ quốc tế
thời kỳ hậu Bretton Woods đã hạn chế phạm vi hoạt động
của chính sách tỷ giá hối đoái. Thêm vào đó, đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI ngày càng đóng vai trò quan trọng đối
với các nước đang phát triển, cho phép các nước khai thác
lợi thế này thông qua những chính sách công nghiệp của mình.
Chúng tôi sẽ phân tích rõ hơn nội dung này ở phần tiếp theo
của bài viết.

Liệu Trung Quốc sẽ đi theo con đường của Đông Á hay Đông
Nam Á? Một phần tư thế kỷ tăng trưởng nhanh, cùng với vị
trí địa lý và truyền thống văn hóa có vẻ như đảm bảo
rằng Trung Quốc đang nằm trong nhóm các nước Đông Á, mặc dù
là một nước đi sau. Tuy nhiên, bên cạnh những vấn đề cố
hữu như tham nhũng, môi trường, dịch vụ y tế thì những
thách thức mới về thành thị - nông thôn, trung ương - địa
phương, và mức độ bất công bằng là những vấn đề mà
Trung Quốc buộc phải giải quyết. Tùy thuộc vào mức độ
hiệu quả của chính phủ Trung Quốc trong việc giải quyết các
vấn đề này mà quỹ đạo tăng trưởng của Trung Quốc sẽ
được tiếp tục hay sẽ bị suy giảm. Bên cạnh đó, quy mô là
một nhân tố quan trọng đối với Trung Quốc. Mặc dù Trung
Quốc là một quốc gia trung ương tập quyền, nhưng trên thực
tế các tỉnh của nó với quy mô về diện tích, dân số, và
tiềm lực kinh tế nhiều khi còn lớn hơn các quốc gia khác
trong khu vực đang là một đe dọa làm xói mòn quyền lực của
trung ương. Quy mô lớn vừa mang lại cơ hội vừa tạo ra thách
thức cho Trung Quốc và là một nhân tố quan trọng định hình
nên chính sách của nước này. Ở Châu Á, chỉ có Ấn-Độ là
nước có sự tương đồng với Trung Quốc về khía cạnh quy mô
này.

Mức độ chuyển hóa của hệ thống kinh tế thế giới kể từ
sự trỗi dậy của các nước Đông Á trong giai đoạn 1960 - 1990
có những hệ lụy quan trọng đối với Việt Nam ngày hôm nay.
Trong phần tiếp theo chúng tôi sẽ chứng minh rằng Việt Nam
đang đứng trước nguy cơ lặp lại những thất bại lớn nhất
của các nước Đông Nam Á và Đông Á.

6. Công bằng


Suy đến cùng thì mục tiêu của mọi chính sách phát triển là
nhằm kiến tạo một xã hội công bằng và thịnh vượng. Một
trong những đặc điểm quan trọng của mô hình Đông Á là sự
tăng trưởng nhanh về kinh tế được kết hợp với sự phân
phối thu nhập tương đối đồng đều. Ngay cả khi đã đạt
được mức thu nhập trên đầu người cao như hiện nay thì
phân phối thu nhập ở Hàn Quốc và Đài Loan cũng đồng đều
hơn so với Ma-lay-xia, Phi-lip-pin, Thái-lan, Sing-ga-po và Việt Nam.
Tuy nhiên, những nước Đông Nam Á này vẫn có mức phân phố
thu nhập đồng đều hơn so với các nước ở Châu Phi và Châu
Mỹ La-tinh. [21] Mặc dù vậy, bất bình đẳng về thu nhập vẫn
tồn tại ở các nước Đông Nam Á trên cả ba phương diện quan
trọng của chính sách phát triển con người, đó là giáo dục,
y tế, và lưới an sinh xã hội. Học vấn và sức khỏe là hai
điều kiện thiết yếu để một người trở thành thành viên
có ích cho xã hội. Lưới an sinh xã hội bảo vệ những bộ
phận dễ bị tổn thương nhất của xã hội, như những người
nghèo ở nông thôn và thành thị, khỏi những cú sốc hay thăng
trầm của nền kinh tế toàn cầu. Cần nhấn mạnh thêm rằng
cho đến tận gần đây, các nước Đông Á nhìn chung cũng chưa
cung cấp cho người dân của mình những chương trình bảo hiểm
xã hội hào phóng. Tuy thế, như đã nói ở trên, các nước này
đã đạt được một mức độ công bằng xã hội cao do ngay
từ đầu những nhân tố cơ bản đã được xây dựng một
cách đúng đắn, trong đó quan trọng nhất là chất lượng giáo
dục và y tế công cộng rất tốt.

Chất lượng giáo dục thấp không chỉ kìm hãm sự phát triển
của quốc gia mà nó còn gây ra và duy trì sự bất công bằng.
Những gia đình khá giả cố gắng tạo điều kiện cho con cái
họ có được một nền học vấn tốt và những kỹ năng khan
hiếm một cách tương đối, nhờ vậy sau này tìm được việc
làm với mức lương cao hơn. Các gia đình nghèo hơn không thể
cho con em mình đi du học hay học ở những trường hàng đầu
trong nước, và vì vậy mức độ sẵn sàng cho thị trường lao
động kém hơn và phải nhận mức lương thấp hơn. Như vậy,
thất bại của hệ thống trường phổ thông và đại học của
nhiều nước Đông Nam Á đã gây nên di hại lâu dài cho sự
bình đẳng trong xã hội. Ở Việt Nam, nhờ giáo dục phổ thông
được mở rộng, một bộ phận lớn dân cư đã chuyển từ
mức thu nhập rất thấp lên mức thu nhập trung bình thấp một
cách khá nhanh chóng.

Y tế công cộng vừa là một nhân tố cấu thành nên phúc lợi,
đồng thời có ảnh hưởng quan trọng đối với năng suất
của lao động và an sinh của người dân. Nếu trong gia đình có
một người ốm thì cả nhà sẽ bị ảnh hưởng không chỉ vì
bị mất một nguồn thu nhập mà còn phải trả viện phí,
nhiều khi rất cao so với thu nhập bình thường. Một hệ thống
y tế quá đắt đỏ hoặc có chất lượng dịch vụ kém đẩy
những người không may mắn vào hoàn cảnh túng quẫn và buộc
con em họ không được tiếp tục đến trường. Trong khi hầu
hết các nước ở Châu Á đã đưa tuổi thọ bình quân lên
trên 70 tuổi, chi phí khám chữa bệnh vẫn còn là một nỗi kinh
hoàng đối với nhiều người có mức thu nhập thấp và trung
bình.

Chìa khóa để cải thiện công bằng về mặt kinh tế là tạo
điều kiện cho công nhân chuyển từ việc làm thu nhập thấp
sang việc làm thu nhập cao hơn. Đối với người nông dân,
điều này có nghĩa là bỏ thửa ruộng manh mún để chuyển sang
khu vực phi nông nghiệp, thường là trên thành phố. Thế nhưng
nếu thành phố lại bụi bặm, đường xá tắc nghẽn, nhà cửa
khó khăn, giá cả đắt đỏ thì cuộc sống của những người
di cư sẽ trở nên vô cùng khó khăn. Thành công trong công tác
quản lý đất đai, đô thị hóa và tạo công ăn việc làm mới
ở khu vực đô thị sẽ tạo điều kiện cho quá trình di cư
được thuận lợi và suôn sẻ. Còn nếu thất bại thì hệ
quả sẽ là bệnh tật, căng thẳng, bức xúc, và bất ổn xã
hội.

Một trong những khía cạnh đáng thất vọng nhất trong sự phát
triển của các nước Đông Nam Á là việc người giàu tránh
không phải trả những khoản thuế được coi là hợp lý và ở
mức độ rất phải chăng. Nhiều người trở nên giàu kếch xù
nhờ đầu cơ đất đai nhưng lại chỉ phải đóng một khoản
thuế bất động sản có tính tượng trưng, hoặc thậm chí
hoàn toàn không phải đóng thuế. Không những thế, nhiều
người giàu còn trốn tránh được thuế thu nhập cá nhân. Khi
những nguồn thu quan trọng của ngân sách bị xói mòn thì nhà
nước sẽ không đủ tiền để tài trợ cho các dịch vụ công.
Chi tiêu của chính phủ ở Trung Quốc chỉ phiếm 11% GDP, trong
khi con số này của các nước Đông Nam Á là khoảng 15-20% -
trừ Việt Nam có mức chi tiêu khá cao (28% GDP) nhờ vào nguồn
thu từ dầu mỏ. Đây là một lĩnh vực trong đó Việt Nam chi
đủ, nhưng không phải lúc nào các khoản chi này cũng được
thực hiện một cách khôn ngoan.

Ở Việt Nam và Trung
Quốc, mặc dù phân phối đất ban đầu khá công bằng nhưng
sự công bằng này đang bị phá vỡ một cách nhanh chóng do quá
trình chuyển đổi từ đất nông nghiệp sang đất công nghiệp
và đô thị. Quá trình này đã làm một số người kể cả quan
chức nhà nước giàu lên vô cùng nhanh chóng, trong khi khiến
nhiều nông dân thực sự trở thành "vô sản" và ngân sách
nhà nước thì không những không được cải thiện mà còn
thất thoát thêm do chi phí đền bù.
Khía cạnh cuối cùng của phân phối thu nhập công bằng liên
quan đến đất đai. Ở Phi-lip-pin, trong khi nhiều người lao
động không có lấy một tấc đất cắm rùi, thì một số ít
người khác lại sở hữu rất nhiều đất. Hiện tượng này
cũng xuất hiện ở một số vùng của In-đô-nê-xia do mật độ
dân cư quá cao và sự thâu tóm đất đai của một số "đại
gia" có mối quan hệ gần gũi với giới quan chức. Phân phối
đất đai ở Thái-lan và Ma-lay-xia cũng không thật công bằng.
Ở Việt Nam và Trung Quốc, mặc dù phân phối đất ban đầu
khá công bằng nhưng sự công bằng này đang bị phá vỡ một
cách nhanh chóng do quá trình chuyển đổi từ đất nông nghiệp
sang đất công nghiệp và đô thị. Quá trình này đã làm một
số người kể cả quan chức nhà nước giàu lên vô cùng nhanh
chóng, trong khi khiến nhiều nông dân thực sự trở thành "vô
sản" và ngân sách nhà nước thì không những không được
cải thiện mà còn thất thoát thêm do chi phí đền bù. Về
thực chất, đây là quá trình chuyển đổi và phân phối lại
ruộng đất, trong đó địa tô được chuyển sang tay một số
cá nhân có thế lực kinh tế và quyền lực chính trị, trong
số đó không ít người là quan chức của chính phủ. [22]
Điều tương tự đã không xảy ra ở Đài Loan và Hàn Quốc.
Trong quá trình tổ chức lại đất nông nghiệp ở hai nước
này, nông dân có thể bán đất của mình khi họ muốn với
mức giá công bằng chứ không bị cưỡng bức phải tái định
cư và nhận tiền đền bù thấp hơn giá trị thực của đất.
[23] Rõ ràng là, làm một người nông dân không có ruộng sẽ
rất khó khăn, đặc biệt khi bị thất học và không có tay
nghề. Vì vậy, phân phối đất rất không đồng đều sẽ dẫn
tới bất bình đẳng về phân phối thu nhập, nhất là khi giáo
dục và y tế cũng trong tình trạng thiếu thốn.

Về mặt tổng thể, kinh nghiệm của các nước Đông Á cho
thấy khả năng tạo công ăn việc làm với năng suất và mức
lương ngày một cao hơn cho tất cả mọi lao động là chìa khóa
cho công bằng. Đài Loan và Hàn Quốc đã rất thành công trong
việc thâm nhập thị trường xuất khẩu và phát triển các
ngành công nghiệp mới. Chính sự công nghiệp hóa nhanh này đã
tạo ra hàng triệu việc làm, và do vậy tạo ra nguồn thu nhập
ổn định cho lực lượng công nhân có kỹ năng và bán kỹ
năng ngày càng trở nên đông đảo. Trong quá trình công nghiệp
hóa, mỗi khi nền kinh tế của Hàn Quốc và Đài Loan tăng
trưởng thêm 1% thì nền kinh tế lại tạo thêm được từ 0,7
đến 0,8% việc làm mới. Đồng thời một nhân tố then chốt
trong quá trình này là đại đa số người dân ở cả Đài Loan
và Hàn Quốc đều có khả năng tiếp cận đối với giáo dục
có chất lượng. Bên cạnh đó, hệ thống giáo dục - đào tạo
ở hai nước này rất chú trọng tới hoạt động dạy nghề và
rèn luyện kỹ năng để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp
chế tạo đang ngày một lớn mạnh. Hệ thống y tế với chi
phí vừa phải ở Đài Loan và Hàn Quốc đã giúp nhiều gia
đình tránh được bẫy nghèo do chi phí y tế quá cao và mất thu
nhập khi gia đình có người ốm.

(còn tiếp)

____________________________________

Tài liệu tham khảo


1: Bài viết này dựa trên một nghiên cứu của David Dapice và
sử dụng kết quả nghiên cứu của Dwight Perkins, Nguyễn Xuân
Thành, Vũ Thành Tự Anh, Huỳnh Thế Du, và Jonathan Pincus, những
người đồng thời viết một số phần của bài, với sự biên
tập của Ben Wilkinson. Bài viết này được tổ chức Liên hiệp
quốc tại Việt Nam tài trợ.

2: Những tác giả chính của cuốn "Theo hướng rồng bay" là
những chuyên gia quốc tế, đa số không chuyên về Việt Nam, và
vì vậy nội dung chủ yếu của cuốn sách này là về những
kinh nghiệm có tính so sánh của một số nước trong khu vực.
Hơn mười năm qua, Harvard đã không ngừng phát triển năng lực
nghiên cứu chuyên sâu và tinh tế hơn nhiều dựa trên sự hợp
tác chặt chẽ giữa các chuyên gia Việt Nam và quốc tế. Trung
tâm hoạt động của Harvard tại Việt Nam được đặt tại
trường Fullbright ở TP. Hồ Chí Minh, là nơi đào tạo kinh tế
học và chính sách công cho công chức nhà nước. Trang web của
Trường Fullbright đặt tại địa chỉ http://www.fetp.edu.vn

3: Economist Intelligence Unit, "Việt Nam: Dự báo." Nguyên bản:
"Việt Nam: Country Forecast,", September 2007, p.36.

4: Trong một vài năm trở lại đây, Việt Nam đã trở thành cái
gọi là triệu chứng "cục cưng". Ngân hàng Thế giới và
nhóm các nhà tài trợ đồng minh của họ làm ngơ trước mọi
diễn biến tiêu cực ở Việt Nam chỉ vì họ cần ít nhất
một ví dụ thành công để chứng minh rằng viện trợ phát
triển chính thức (ODA) có tác dụng. In-đô-nê-xia đã từng là
"cục cưng" của Ngân hàng Thế giới cho đến đêm trước
khủng hoảng 1997, và sự rối loạn về chính trị sau đó đã
tiêu hủy triển vọng tăng trưởng của quốc gia này trong suốt
một thập kỷ. Việt Nam hiện nay đang được chọn để diễn
vai trò của In-đô-nê-xia trước đây. Kinh nghiệm của
In-đô-nê-xia cho thấy, làm "cục cưng" có cái khoái nhất
thời nhưng cái nguy dài hạn. Sau khi In-đô-nê-xia thất bại,
Ngân hàng Thế giới đã không ngại ngần chỉ trích những
thất bại trong chính sách của nước này một cách không
thương xót.

5: Chương trình Việt Nam tại Đại học Harvard mong muốn được
tham gia vào quá trình này thông qua các sáng kiến đối thoại
và phân tích chính sách phối hợp cùng với Chính phủ Việt Nam
và Tổ chức Liên hiệp quốc tại Việt Nam.

6: Trong bài viết này, "Đông Á" được hiểu là bao gồm Hàn
Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc, và hai quốc gia thành
bang Hồng Kông và Sing-ga-po. (Mặc dù về mặt địa lý Sing-ga-po
thuộc Đông Nam Á nhưng về mặt kinh tế, quốc gia này đi theo
mô hình tăng trưởng của các nước Đông Á). Trong khi về mặt
địa lý và truyền thống văn hóa, Trung Quốc hiển nhiên là
một nước Đông Á, nhưng con đường phát triển của nó lại
có nhiều điểm bất đồng so với các nước Đông Á khác. Vì
vậy, chúng tôi coi Trung Quốc là một trường hợp đặc biệt.
"Đông Nam Á" trong nghiên cứu này bao gồm các nước Thai-lan,
Ma-lay-xia, In-đô-nê-xia và Phi-lip-pin. Chúng tôi không đưa
Bru-nây (vì là một nước nhỏ, giàu lên từ dầu lửa) và các
nước kém phát triển nhất trong vùng (Lào, Căm-pu-chia,
Miến-điện, và Đông Ti-mo) trở thành đối tượng của bài
viết này. Rõ ràng là không nên so sánh Việt Nam với nhóm quốc
gia Đông Nam Á thứ hai này.

7: Khi kết luận rằng các nước Đông Nam Á tương đối thất
bại thì chắc chắn nhiều người sẽ phản đối và coi đó là
một nhận định có tính "khiêu khích", thậm chí là bất
công. Thế nhưng nếu đặt các nước Đông Nam Á này bên cạnh
các nước Đông Á để so sánh về thành tựu kinh tế thì kết
luận trên không còn có vẻ vô lý nữa. Trên thực tế, với
việc không duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, rồi
thỉnh thoảng lại bị rơi vào tình trạng bất ổn chính trị -
xã hội, rõ ràng là các nước Đông Nam Á không đạt được
mục tiêu kép về tăng trưởng kinh tế đi đôi với ổn định
chính trị - xã hội mà Chính phủ Việt Nam luôn mong muốn. Vì
vậy, qua lăng kính mục tiêu phát triển của Việt Nam thì các
nước Đông Nam Á hoàn toàn có thể bị coi là những trường
hợp tương đối thất bại.

8: Những dữ liệu về thu nhập đầu người này được tính
trên cơ sở tỷ giá hối đoái năm 2005 và được lấy từ
Bảng 1 của tài liệu Chỉ số Phát triển Thế giới 2007 của
Ngân hàng Thế giới. Thu nhập đầu người của Việt Nam trong
năm 2005 là khoảng $620, tức là bằng khoảng một nửa của
In-đô-nê-xia và một phần tư của Thái-lan.

9: Năm nay Việt Nam đã tiếp đón hai vị cựu nguyên thủ quốc
gia của Châu Á là Tomiichi Murayama của Nhật và Lý Quang Diệu
của Sing-ga-po. Khi được phỏng vấn, cả hai đều nhấn mạnh
giáo dục chính là chìa khóa cho sự phát triển của Việt Nam.

10: Cho tới năm 1982, 80% học sinh tốt nghiệp PTTH ở Đài Loan
tiếp tục theo học đại học hoặc cao đẳng.

11: Robert Wade, Quản trị thị trường: Lý thuyết kinh tế và vai
trò của nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa của các
nước Đông á (Governing the Market: Economic Theory and the Role of
Government in East Asian Industrialization), Princeton University Press,
1990, p. 65

12: Chuyển giao công nghệ từ Silicon Valley ở California vào Đài
Loan trong những năm 1980 được lặp lại trong những năm 1990
dưới những hình thức mới, nốt lết các doanh nghiệp của
Mỹ với Đài Loan và Thượng Hải. Xem AnnaLee Saxenian, "Lưu
thông chất xám và Động học của tư bản: sản xuất chip
điện tử ở Trung Quốc và Tam giác Silicon
Valley-Hsinchu-Shanghai." Nguyên bản: "Brain Circulation and Capital
Dynamics: Chinese Chipmaking and the Silicon and the Silicon
Valley-Hsinchu-Shanghai Triangle", in Victor Nee and Richard Swedberg,
eds., The Economic Sociology of Capitalism, Princeton University Press, 2005.

13: Xem http://ed.sjtu.edu.cn/rank/2007/ARWU 2007_TopAsia.htm.

14: Để thấy một ví dụ về sự khác biệt trong phương cách
đầu tư CSHT, hãy so sánh sân bay ở Đài Loan với sân bay của
Bangkok và Kuala Lumpur. Sân bay của Đài Loan được xây dựng 30
năm trước và vẫn đang được tiếp tục khai thác. Trong khi
đó, cả Bangkok và Kuala Lumpur đều đã xây sân bay mới với chi
phí hết sức tốn kém, bị coi là ý tưởng tồi và triển khai
kém.

15: Edward S. Steinfeld, "Sự hội nhập nông cạn của Trung Quốc:
Mạng lưới sản xuất và những thách thức mới cho những
nước công nghiệp hóa muộn". Nguyên bản: "China's Shallow
Integration: Networked Production and the New Challenges for Late
Industrialization," World Development, 32:11, 1971 - 1987, 2004.

16: Pei Sun, "Liệu việc tổ chức lại công nghiệp nhà nước
ở Trung Quốc có hiệu quả?" Nguyên bản: "Is the State-Led
Industrial Restructuring Effective in Transition China? Evidence from the
Steel Sector," Cambridge Journal of Economics, 31, 601-624, 2007.

17: Sanjaya Lall, "Cấu trúc và kết quả công nghệ của các
ngành xuất khẩu hàng chế biến ở các nước đang phát
triển." Nguyên bản: "The Technological Structure and Performance of
Developing Country Manufactured Exports, 1985-1998," Oxjord Development
Studies, 28:3, 337-369, 2000.

18: Khủng hoảng về tiết kiệm và nợ vay ở Mỹ, khủng hoảng
ở Châu Á, Mê-hi-cô, Bra-xin, Nga, Ác-hen-ti-na, Thổ-nhĩ-kỳ v.v.

19: Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản và các quốc gia thành bang
đều có chỉ số cảm nhận tham nhũng cao (tức là mức độ
tham nhũng thấp) trong các cuộc xếp hạng hàng năm của tổ
chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International). Chỉ số cảm
nhận của họ vẫn cao hơn ngay cả sau khi điều chỉnh theo mức
thu nhập. Xem
http://www.transparency.org/policy_research/surveys_indices/cpi/2006

20: Mô hình tập đoàn đa dạng hóa keiretsu của Nhật Bản trong
đó ngân hàng giữ vị trí trung tâm và xoay quanh nó là các công
ty sở hữu chéo của nhau hiện đã bị coi là lạc hậu, nếu
không nói là thất bại. Sau hai mươi năm kinh tế đình trệ,
hệ thống tài chính của Nhật Bản vẫn chưa giải quyết xong
hậu quả do hệ thống keiretsu gây ra. Chaebol của Hàn Quốc,
mặc dù không vướng vào vòng kiềm tỏa của các ngân hàng
nhưng vẫn được bảo lãnh vay từ các ngân hàng do nhà nước
kiểm soát. Nguy hiểm của hệ thống này đã bộc lộ rõ vào
năm 1997 khi một số chaebol rơi vào tình trạng phá sản. Có vẻ
như Việt Nam đang lặp lại một số khía cạnh của hai hệ
thống keiretsu và chaebol này.

21: Một thước đo mức độ bất bình đẳng về thu nhập là
chỉ số Gini. Chỉ số này bằng 0 nếu thu nhập của tất cả
mọi người bằng nhau, và chỉ số này bằng 1 nếu một người
có tất cả trong khi những người còn lại không có chút thu
nhập nào. Một nước có chỉ số Gini từ 0,25 trở xuống
được coi là rất công bằng, còn nếu chi số này cao hơn 0,50
thì bị coi là rất không công bằng. Chỉ số Gini của Hàn
Quốc là 0,32, Đài Loan và In-đô-nê-xia là 0,34, Việt Nam là
0,37, Ma-lay-xia là 0,40, Thái-lan là 0,42, Phi-lip-pin là 0,45, và
Trung Quốc là 0,47.

22: Bất bình đẳng kinh tế ở Trung Quốc đã ngày một trở
nên nghiêm trọng khiến các nhà lãnh đạo lo lắng. Tham nhũng
đất đai và chi tiêu công là nguyên nhân của rất nhiều cuộc
biểu tình đông người. Nếu Việt Nam dẫm vào dấu chân của
Trung Quốc trong việc tập trung quyền sở hữu đất thì có
thể Việt Nam cũng sẽ chứng kiến mức chênh lệch thu nhập
ngày càng cao.

23: Tất nhiên, cần nhớ rằng Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản
đều từng trợ cấp nặng nề cho khu vực nông nghiệp, một
chiến lược không còn khả thi đối với Việt Nam và Trung
Quốc ở thời điểm hiện nay.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét