VỀ BIẾN ĐỘNG Ở AI-CẬP
Những biến động diễn ra ở Ai-Cập trong hai tuần lễ gầnđây đang chiếm vị trí trung tâm, thu hút sự chú ý của dư
luận toàn thế giới, choán thời lượng ngày càng cao trong
hoạt động của mọi hệ thống truyền thông lớn nhỏ ở
khắp nơi, cũng như được thảo luận xôn xao trên hầu hết
các diễn đàn; đặc biệt tập trung nhất vào khía cạnh Dân
chủ của sự kiện. Bài viết này là một nổ lực khiêm tốn
nhằm đóng góp vào dư luận chung đó; chú ý đến trước hết
bối cảnh lịch sử, điạ lý, sau đó đến nội tình kinh
tế-xã hội của Ai Cập, tác động ngoại lai do sự thay đổi
của tình hình quốc tế góp phần vào biến động, và sau cùng
mối liên tuởng từ biến động đó đến vấn đề Dân chủ
cho Việt Nam.
SƠ LƯỢC VỀ AI CẬP
Ai-Cập nằm về phía đông Bắc Phi Châu, có biên giới chung
với Sudan ở phía Nam, với Lybia ở phía Tây, Hồng Hải ở phía
Đông, Địa Trung Hải ở phía Bắc, và với Israel ở phía
Đông Bắc (Xem bản đồ 1). Ai-Cập có đến 2,900km đường
duyên hải tiếp giáp với Địa Trung Hải, Vịnh Suez, Vịnh Aqaba
và Hồng Hải.
Biên giới dài nhất là với Sudan, 1,270km, chạy dài từ Hồng
Hải về hướng Tây, dọc theo vĩ tuyến 22. Biên giới dài thứ
hai, khoảng 1,150 km, là với Lybia ở phía Tây. Ở hướng Đông
Bắc, Ai Cập chia biên giới với Israel trên bán đảo Sinai trên
một chiều dài hơn 250km; và với dải Gaza của Palestine chừng
11km. Đoạn biên giới ngắn này là nơi trong những năm gần
đây du kích Palestine thường dùng đường hầm để chuyển lén
vũ khí vào Gaza.
Tổng dân số hiện nay của Ai Cập chừng 83 triệu người, trong
đó người Ai Cập chiếm hơn 99%. Ngoài Ả rập là ngôn ngữ
chính ra; tiếng Anh và tiếng Pháp rất thông dụng trong giới
trí thức.
Với vị trí như vậy Ai Cập có đặc điểm như một đầu
cầu nối liền Á Châu và Phi Châu qua bán đảo Sinai. Trước
đây các đạo quân của các dân tộc Assyrians, Babylonians,
Persians, Macedonians, Byzantines, Romans, và rồi về sau này, người
Turks đã lần lượt xâm chiếm Ai Cập. Biên giới phía Nam,
tiếp giáp với Sudan, nhờ sa mạc ngăn cách và phần nào do
lịch sử giao hiếu lâu dài nên ít bị uy hiếp hơn.
Mặt khác, Ai Cập còn là đầu cầu từ Địa Trung Hải đi vào
Hồng Hải, rồi ra Ấn Độ Dương. Vì đặc điểm này nên đế
quốc Anh, trong những thế kỷ trước, rất quan tâm đến việc
kiểm soát Ai Cập. Kênh đào Suez nối Địa Trung Hải với Hồng
Hải đã giúp hải quân Anh rút ngắn được đoạn hải hành
đến Ấn Độ; lộ trình mới là từ Đại Tây Dương qua eo
Gibraltar vào Điạ Trung Hải, qua kênh Suez, ra Hồng Hải, rồi
tiến vào Ấn Độ Dương. Trước đó, để từ Đại Tây Dương
đến Ấn Độ Dương, người ta phải đi xa hơn gấp bội, vòng
hết phần cực Nam của Phi Châu, qua mũi Hảo Vọng (Cape of Good
Hope) rồi mới đến được đích. Vì lý do này mà trước đây
Anh quốc đã đặt vấn đề kiểm soát kênh Suez, và toàn Ai
Cập, lên tầm chiến lược trong việc bảo vệ thuộc địa
lớn nhất của mình là Ấn Độ.
Ngoài ra, trong lịch sử hiện đại, kể từ khi dầu hoả trở
nên nguồn năng lượng huyết mạch của nhân loại thì vị trí
địa lý của Ai Cập lại càng trở nên quan trọng hơn .Ai Cập
là quốc gia lớn nhất trong khối Ả Rập, là khối dân, do một
tình cờ lịch sử, cư trú ngay trên vùng Trung Đông là nơi có
vựa dầu hoả lớn nhất thế giới. Ngoại trừ Iran ra, tất
cả các nước có lượng dầu hoả lớn như Iraq, Arab Saudi,
Kuwait, Syria, Lybia, v.v… đều là người Ả Rập. Khối dân Ả
Rập, tuy trong thời hiện đại bị phân ly thành nhiều quốc gia
khác nhau, nhưng lại có chung các đặc điểm về ngôn ngữ,
chủng tộc, văn hoá, tôn giáo và lịch sử. Do những đặc
điểm chung đó, từ lâu người Ả Rập luôn có một nguyện
vọng thiết tha là được thống nhất lại và làm chủ lấy kho
tài nguyên dầu hoả quý báu của mình. Ai Cập, và các lãnh tụ
như Nasser, Alwar-El-Sadat, đã đóng vai trò lãnh đạo khối Ả
Rập trong nổ lực không ngừng nhằm hiện thực nguyện vọng
thiết tha đó, nhưng không thành. Sự thất bại một phần là do
sự thiếu đoàn kết nội bộ của khối dân Ả Rập; phần
khác là do sự can thiệp của các siêu cường Tây Phương, theo
nguyên tắc cổ điển chia để trị, nhằm duy trì sự khống
chế đối với nguồn dầu hoả lớn nhất của thế giới.
Chính trong bối cảnh trên đây mà trong suốt thời Chiến Tranh
Lạnh lịch sử của Ai Cập đã hầu như luôn gắn liền với
các diễn biến chính trị lớn của toàn vùng Trung Đông, và
sự gắn bó đó vẫn còn tiếp tục cho đến nay.
Năm 1952 Trung Tá Gaman Abdul Nasser lãnh đạo quân đội đứng lên
làm cuộc cách mạng lật đổ vương quyền, đưa Ai Cập vào
một giai đoạn lịch sử mới. Nasser, cầm đầu nhóm sĩ quan
được mệnh danh là Nhóm Sĩ quan Tự Do (Free Officers), là một
người xuất thân thuộc giới bình dân, đã tham gia biểu tình
chống sự cai trị của Anh quốc khi còn là sinh viên. Về sau
Nasser gia nhập quân đội, từng bị thương trong cuộc xung đột
với Israel năm 1948, tỏ ra là một người yêu nước nồng nàn
với mong ước thiết tha cho đất nước Ai Cập của Ông thoát
khỏi sự khống chế của ngoại bang, vươn lên thành quốc gia
lãnh đạo và thống nhất khối Arabs. Độc lập cho Ai Cập và
thống nhất Arabs là hai mục tiêu suốt đời của Nasser.
Nhưng mong ước của Nasser và nguyện vọng của người dân Ai
Cập, cũng như quyền Dân tộc Tự quyết của cộng đồng đông
đảo người Arabs đã không thành đạt trọn vẹn và được
tôn trọng hoàn toàn như mong đợi. Ai Cập đã, cùng với các
nước khác ở Trung Đông, bị cuốn hút vào cuộc tranh chấp
của hai siêu cường Mỹ-Liên Xô, bị dằng xé trong nhiều năm
giữa hai hệ thống: Hệ thống Trung Đông và Hệ thống Arab (The
Middle Eastern and The Arab systems).
Hệ thống Trung Đông do Mỹ chủ xướng, với sự hậu thuẩn
của Anh, Pháp và Thổ Nhĩ Kỳ, có mục đích ngăn chận sự lan
tràn ảnh hưởng của Liên Xô vào Trung Đông. Hệ thống này
cổ suý cho việc hình thành một liên minh quân sự có tên là
Middle East Defense Organization (MEDO), có vai trò như một mắt xích
lớn, phối hợp với NATO và SEATO, tạo thành một vòng đai vây
kín Liên Xô. Liên minh này ngoài các quốc gia vừa nêu tên, sẽ
bao gồm nhiều quốc gia Arabs khác, Iran, Pakistan, và Do Thái.
Hệ thống Arab do Ai Cập lãnh đạo, gồm những quốc gia Arab có
chung ngôn ngữ, lịch sử, văn hoá và tôn giáo như Syria, Iraq,
Arab Saudi, Algeria, v.v... Hệ thống này là nổ lực thống nhất
Arab, thường được biết với tên gọi Liên Đoàn Arabs (League
of Arabs), nhằm đạt được độc lập khỏi sự chi phối hay cai
trị của các cường quốc, cả từ phiá Anh- Mỹ lẫn từ phía
Liên Xô. Hệ thống này, mà Nasser được xem là lãnh tụ, đã
cùng với Nehru của Ấn Độ và Sukarno của Nam Dương, hình
thành và phát triển Phong Trào Các Quốc gia Không Liên Kết,
chủ trương không liên minh với cả Mỹ lẫn Liên Xô. Ai Cập
của Nasser, và sau này của Anwar el Sadat, chủ trương tinh thần
độc lập quốc gia và xây dựng đất nước theo hướng xã
hội chủ nghĩa (socialism). Tuy giới truyền thông Tây Phương
đã một thời thường chụp cho Nasser và Sadat cái mũ "Cộng
sản", và Ai Cập đã có những lúc nhận được viện trợ vũ
khí và tài chánh lớn của Liên Xô, nhưng trên thực tế các
chính phủ Ai Cập thời đó lại đề cao truyền thống Hồi
Giáo và chống lại vấn đề đấu tranh giai cấp của học
thuyết Cộng Sản. Trong bài diễn văn đọc hồi tháng 10/1972
Anwar el-Sadat đã nêu lên khẩu hiệu: Tự Do-Xã hội Chủ nghĩa-
Thống Nhất (Freedom, Socialism and Unity), trong đó Sadat nhấn mạnh
đến sự độc lập, truyền thống hữu thần và chủ trương
xây dựng Ai cập theo một chế độ thế quyền (secular
government), thực hiện xã hội chủ nghĩa theo hướng hoà giải
các mâu thuẩn giai cấp, đồng thời nêu lên mục tiêu thống
nhất khối Arab.
Vào gìai đoạn đầu, Hệ Thống Arab thu hút được sự hưởng
ứng của đông đảo khối Arab, lý do là vì dấu tích của chủ
nghĩa thực dân với sự thống trị của Anh-Pháp ở trong Vùng
còn mới mẻ quá. Hơn nữa ngay sau đó, năm 1956, việc Anh-Pháp
và Do Thái liên minh tấn công Ai Cập vì vụ quốc hữu hoá kênh
đào Suez, đã khiến cho uy tín của Nasser, và do đó của Hệ
Thống, lên cao. Cuộc tấn công đó củng cố niềm tin của
khối dân Arabs rằng Do Thái là đồn tiền tiêu của Tây Phương
ở Trung Đông với mục tiêu đánh phá, gây chia rẽ và làm suy
yếu khối Arabs để chiếm đoạt tài nguyên dầu hoả của dân
trong Vùng.
Phía Hệ thống Trung Đông nằm dưới sự lãnh đạo của Mỹ.
Trong giai đoạn đầu, tuy hệ thống này có ưu thế gần như
tuyệt đối về quân sự và kinh tế, lại không thâu đạt
được những thành quả chính trị mong muốn. Tuy bề ngoài Mỹ
công khai phản đối và buộc Anh-Pháp-Do Thái phải ngưng việc
tái chiếm kênh Suez, nhưng điều đó không đủ khiến dư luận
của dân trong Vùng tin rằng Mỹ sẽ không nối gót Tây Phương
để tiếp tục khống chế nguồn tài nguyên dầu hỏa cho quyền
lợi vị kỷ của mình.
Nhưng rồi giai đoạn đầu qua đi, Hệ thống Arab, do Ai Cập
lãnh đạo, ngày càng trở nên yếu thế, bị tan vỡ dần và
cuối cùng hoàn toàn bị loại, nhường chỗ cho sự tòan thắng
của Hệ thống TĐ do Mỹ đứng đầu. Sự kiện đánh dấu cho
bước cáo chung của Hệ thống Arab là việc TT Ai Cập Anwar El
Sadat đã đến Camp David của Mỹ để ký Hiệp Định Hoà bình
với Thủ tướng Do Thái Menachem Begin năm 1978 (Camp David Accords).
Hiệp ước Hoà bình David là một bước ngoặt quan trọng trong
chính sách đối ngoại của Ai Cập; một sự quay ngoắt 180 độ
trong thái độ đối với Do Thái, và đối với Mỹ. Chính phủ
Ai Cập từ đó đã hoàn toàn từ bỏ thái độ chống Do Thái
và lập trường Không Liên Kết, ngã hẳn về phía Mỹ và
đồng minh. Sự thay đổi đó gặp phải phản ứng mãnh liệt
của dư luận Arabs trong Vùng, họ cho rằng chính phủ Ai Cập
đã chà đạp lên nguyện vọng của họ và phản bội lý
tưởng thống nhất Arabs. Đỉnh cao của phản ứng đó là việc
Sadat bị ám sát năm 1981.
Thật ra thì các lãnh tụ Ai Cập đã không còn lựa chọn nào
khác. Liên Xô đã không đủ giàu mạnh để cạnh tranh với MỸ
trong việc giúp Ai Cập thành đạt các mục tiêu chiến lược
của mình. Về mặt quân sự, quân viện của Liên Xô không
nhiều, kém cả lượng lẫn phẩm chất, đã không giúp quân
đội Ai Cập, tuy quân số đông hơn, có thể trở nên đồng
cân đồng lạng với quân đội Do Thái. Lượng viện trợ kinh
tế của Liên Xô là không đáng kể so với mức viện trợ của
Mỹ dành cho các quốc gia khác trong Vùng. Trong khi đó Ai Cập
lại là quốc gia phải nhập cảng lúa mì với số lượng lớn
từ Mỹ. Điều quan trọng hơn hết là Ai Cập, do vai trò quan
trọng của Hồi giáo trong xã hội, không thể nào tương hợp
lâu dài với xã hội vô thần của Liên Xô và hòa đồng vào
quỹ đạo của khối Cộng Sản được. Mối quan hệ Liên Xô-Ai
Cập, vì vậy, chỉ có tính chất chiến thuật tạm thời mà
không được xây dựng trên nền tảng của một chiến lược
lâu dài. Cuối cùng rồi Nasser đã phải trục xuất các nhân
viên Liên Xô về nước.
Mặt khác, nhu cầu thống nhất khối Arabs tuy cao cả, nhưng nội
bộ của Khối lại không đòan kết, lòng vị kỷ của mỗi
nước riêng rẽ bị đối phương khai thác để khoét sâu hố
chia rẽ; trong khi đó Ai Cập cũng có những tính toán riêng cho
quyền lợi của mình và của chế độ. Khi bị buộc phải lựa
chọn giữa một bên là quyền lợi quốc gia và chế độ với
bên kia là lý tưởng thống nhất Arabs, giới lãnh đạo Ai Cập
đã đành phải chọn điều thứ nhất. Anwar El Sadat đã phải
tạm gác việc thống nhất Arabs, quay về lo cho chính Ai Cập
của mình. Để làm vậy, Sadat chỉ còn một lựa chọn; đó là
thừa nhận vai trò của Mỹ ở Trung Đông, hòa hiếu với Do
Thái, để nhận được viện trợ cả quân sự lẫn kinh tế
từ Mỹ-Tây Phương nhằm xây dựng quân đội, củng cố chế
độ và phát triển đất nước. Hơn nữa, việc hoà hiếu với
Do Thái sẽ giúp Ai Cập giảm được một lượng ngân sách chi
phí quốc phòng lớn để dùng vào việc phát triển kinh tế sau
này.
Nhìn từ phía khác, việc Ai Cập thay đổi lập trường đối
ngoại và việc ký kết Hiệp ước Hoà bình Camp David với Do
Thái là một thành công lớn lao trong chính sách đối ngoại
của Mỹ ở Trung Đông. Đó là kết quả của nhiều thập niên
xử dụng nhuần nhuyễn cả "cây gậy" lẫn "củ cà rốt"
để phân hoá khối Arabs, phá vỡ Liên Minh Arab, củng cố thế
đứng cho Do Thái, duy trì được sự khống chế Trung Đông,
loại trừ hẳn ảnh hưởng của Liên Xô ra khỏi vùng có trữ
lượng dầu hoả lớn nhất thế giới, và từ đó giữ vững
được thế bá chủ thế giới của mình.
Kể từ đó, chính sách căn bản của Mỹ đối với Ai Cập là
hậu thuẫn cho một chế độ do quân đội nắm quyền và tìm
cách loại trừ dần ảnh hưởng của các lực lượng thần
quyền Hồi giáo khác, như lực lượng Muslim Brotherhood; một tổ
chức đề cao vừa tinh thần quốc gia vừa tinh thần Hồi giáo,
đặt trọng tâm hoạt động của mình vào các công tác tôn
giáo và từ thiện xã hội. Mặt khác, việc quân đội nắm
quyền là một thực trạng phổ biến ở các quốc gia kém phát
triển tại Á-Phi, nơi mà song song với nền kinh tế chậm tiến
là sự kém phát triển của các định chế xã hội cần thiết
cho sự hình thành các lực lượng chính trị dân sự và chính
đảng vững mạnh. Một hệ luận của thực trạng đó là đa
số quân đội của các quốc gia Á-Phi này đều lệ thuộc vào
vũ khí và quân viện của Tây Phương, đứng đầu là Mỹ. Nói
cách khác, Mỹ có thể dễ dàng, qua quân viện, gây ảnh hưởng
sâu xa đến chính tình của các quốc gia. Đối với Ai Cập,
mức viện trợ quân sự trung bình hằng năm của Mỹ, trong gần
3 thập niên qua, là chừng 1.3 tỉ dollars/ năm.
Từ đó đến nay, đã gần 30 năm qua, các chính phủ Mỹ liên
tục ủng hộ cho chế độ quân đội cầm quyền của Hosni
Mubarak. Ngoài quân đội, Mubarak đã sử dụng một mạng lưới
cảnh sát rộng lớn gần cả triệu nhân viên chìm nổi để cai
trị. Mọi đối lập chính trị đều bị đè bẹp; quốc hội
của Ai Cập không gì hơn là một loại "gia nô" của chính
phủ. Ai Cập của Mubarak đã cùng với Do Thái, Saudi Arabia trở
nên ba trụ cột quan trọng giúp duy trì và bảo vệ quyền lợi
của Mỹ ở Trung Đông. Điều đáng chú ý ở đây là trong 3
quốc gia đó, thì ngoại trừ Do Thái ra, Saudi Arabia và Ai Cập
là hai quốc gia, một thần quyền và một thế tục, có chế
độ độc tài với thành tích không mấy tốt đẹp về Nhân
Quyền và Dân Chủ, đến độ thua kém nhiều so với một quốc
gia khác trong Vùng, vẫn luôn bị giới truyền thông Mỹ công
kích, là Iran.
KHÍA CẠNH KINH TẾ
Ngay từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 nền kinh tế Ai Cập
đã chịu sự khống chế mạnh mẽ của hệ thống tài
chánh-ngân hàng Âu Châu, đứng đầu là Anh Quốc. Giới cẩm
quyền Ai Cập lúc đầu đã cố gắng tận dụng ưu thế nông
nghiệp của lưu vực sông Nile để làm nền tảng cho sự phát
triển kỹ nghệ. Nhưng rồi vì thiếu cả vốn lẫn kỹ thuật,
Ai Cập đã phải vay vốn của Tây Phương. Từ đó hệ thống
tài chánh-ngân hàng Anh xâm nhập và dần dần nắm quyền khống
chế kinh tế của Ai Cập. Ngay cả cổ phần của chính phủ Ai
Cập đối với kinh Suez cũng đã phải bán lại cho Tây Phương
để thế chấp các món nợ tài chánh khổng lồ. (Thời đó,
kinh Suez tuy nằm trên lãnh thổ của Ai Cập, nhưng quyền quản
trị lại thuộc một công ty của Anh-Pháp và chính phủ Ai Cập
chỉ sỡ hữu một số cổ phần trong công ty đó. Mãi đến năm
1956 Nasser mới quyết định quốc hữu hóa kinh này và vì vậy
đã gặp phải phản ứng quân sự mạnh mẽ của Anh-Pháp).
Từ năm 1952 trở đi, khi nhóm Sĩ Quan Tự Do (Free Officers Group)
của Nasser lật độ vương quyền thân Anh Quốc rồi lên cầm
quyền, Ai Cập đi theo hướng kinh tế hoạch định cứng rắn
của mô hình xã hội chủ nghĩa. Đường lối kinh tế đó,
cộng thêm với áp lực phong toả của hệ thống Trung Đông,
như trình bày ở phần trước, đã dẫn đưa Ai Cập vào lạc
hậu và bế tắc.
Sự chuyển hướng mạnh mẽ trong chính sách đối ngoại từ
những năm 1972 trở đi, xa lánh Liên Xô, bắt tay với Mỹ, và
ký hiệp ước hoà bình với Do Thái năm 1978, mở ra con đường
mới cho sự phát triển kinh tế của Ai Cập. Vốn đầu tư và
kỹ thuật Tây Phương tuồn vào ào ạt đã làm thay đổi hẳn
diện mạo của nền kinh tế. Nhìn chung mức sống của xã hội
được cải thiện nhiều về mọi mặt. Thành quả đó củng
cố uy tín của chế độ do quân đội cầm quyền. Vai trò và uy
tín của quân đội từ đó ngày càng gia tăng.
Mặc dầu vậy, nền kinh tế Ai Cập đã không phát triển đúng
mức như mong đợi. Những nhược điểm chí tử do sự cộng
hưởng của chế độ độc tài, trong đó quân đội nắm
quyền, và di sản của nền kinh tế hoạch định bắt đầu
bộc lộ mạnh mẽ vào đầu thập niên 1990s. Tệ nạn tham nhũng
hối lộ lan tràn và ngày càng trầm trọng; bộ máy hành chánh
ngày càng trở nên quan liêu và kém hiệu năng, gây tiêu hao
nặng nề cho tiềm lực kinh tế. Hệ thống công ty quốc doanh
ngốn hết phần lớn ngân sách đầu tư của chính phủ nhưng
lại thua lỗ nặng nề làm gia tăng khiếm hụt ngân sách và nợ
nước ngoài. Những năm 1990-1995 tổng GDP chỉ gia tăng 1.6%; trong
khi mức gia tăng dân số lại lên đến 2.4%! Mức thất nghiệp
cao, trung bình 9-10%. Bất công xã hội lan tràn; sự chênh lệch
giữa giàu-nghèo và giữa nông thôn-thành thị tăng cao. Với
tổng dân số gần 83 triệu người, Ai Cập hiện có tổng GDP
chừng 188 tỉ dollars, nhưng tổng số nợ nước ngoài lên đến
gần 35 tỉ. Sự phân phối lợi tức trong xã hội lại quá bất
công; gần 40% dân số sống với mức thu nhập chỉ 2
dollars/ngày!
Trong khi đó, viện trợ kinh tế của Mỹ từ cuối thập niên
1990 lại bắt đầu giảm dần, mặc dù mức viện trợ quân sự
thì hầu như không thay đổi từ đó cho đến nay, trung bình là
1.3 tỉ dollars. Ngoại trừ đỉnh cao là vào năm 2003 lúc mức
viện trợ kinh tế của Mỹ cho Ai Cập lên đến gần 1 tỉ,
những năm sau đó giảm đi nhiều và cho đến năm 2010 chỉ còn
chừng 200 triệu dollars/ năm.
Ngoài sự giảm sút viện trợ kinh tế của Mỹ, áp lực của
sự toàn cầu hoá kinh tế thông qua các tổ chức quốc tế như
IMF, World Bank và WTO, ngày càng gia tăng đã buộc chính phủ của
Hosni Mubarak, kể từ năm 1991 phải đưa ra chính sách cải cách
kinh tế để thích nghi. Đại thể những cải cách ấy không gì
khác hơn ngoài những toa thuốc thông thường do các tổ chức
quốc tế đó đưa ra cho các nước đang phát triển: Cắt giảm
chi tiêu công ích của chính phủ; thu hẹp và giải thể dần
các cơ sở quốc doanh; gia tăng việc tư hữu hoá doanh nghiệp,
đặc biệt là tư hữu hoá tài chánh-ngân hàng; pháp chế hoá
hoạt động kinh tế; giảm thiểu tài trợ công; v.v…
Nhưng chính sách cải cách gặp phải trở lực lớn; đó là
quán tính của hệ thống quốc doanh xã hội chủ nghĩa trước
đây và sự chống đối, tuy ngấm ngầm, nhưng mạnh mẽ của
quân đội. Suốt nhiều thập niên trước đó và cho đến nay,
với vai trò cầm quyền, quân đội Ai Cập đã được hưởng
vô số đặc quyền đặc lợi, không chỉ về chính trị mà,
quan trọng hơn, cả về kinh tế. Các đặc quyền ấy đã biến
quân đội trở thành một giai cấp mới trong xã hội, và giai
cấp đó không dễ dàng gì một sớm một chiều chấp nhận sự
đổi mới kinh tế để từ bỏ những đặc quyền đã thụ
hưởng cả nửa thế kỷ nay. Một chi tiết bên lề, nhưng đáng
chú ý và đặc biệt liên quan đến những biến động hiện
nay; đó là chính sách cải cách kinh tế lại do chính con trai
của Mubarak cầm đầu thực hiện. Chi tiết này góp phần không
nhỏ vào phản ứng của giới quân nhân cầm quyền đối với
việc cải cách kinh tế, và dẩn đến việc Mubarak không còn
được quân đội ủng hộ, phải ra đi.
Ngoài ra một thực trạng khác, cũng thuộc lãnh vực kinh tế,
có vai trò không nhỏ trong những biến động ở Ai Cập; đó là
sự gia tăng giá cả lương thực.Từ năm 2008 đến nay, giá
lương thực và thực phẩm gia tăng đột ngột và lên rất cao
tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, và đặc biệt
nghiêm trọng tại Trung Đông và Tây Phi. Nguyên nhân là do sự
sút giảm sản lượng của một số nông sản chính yếu ở
những quốc gia sản xuất lương thực lớn như Mỹ và Canada,
trong khi dân số toàn thế giới gia tăng nhanh, do thiên tai ở
nhiều nơi, và kế đến là do giá xăng dầu tăng cao. Theo PBS
thì Chủ tịch World Bank, ông Robert Zoellick, cho biết rằng việc
giá lương thực gia tăng sẽ đẩy chừng 44 triệu người vào
cảnh khốn cùng, và từ đó gây ra biến loạn, tại các quốc
gia như Ai Cập, Algeria, Tunisie và Yemen.
Cũng theo ông Zoellick thì đây là lần tăng giá lương thực cao
nhất trong hơn 20 năm qua, và nhiều chục triệu gia đình sẽ
phải chi phí hơn 50% lợi tức của mình cho phần lương thực.
Riêng ở Ai Cập thì vấn đề lương thực lại còn trầm trọng
hơn, mức gia tăng giá cả trung bình chỉ từ nửa năm nay đã
lên đến 20%, nhiều loại lương thực tăng đến 35%. Trong khi
đó thì có đến hơn 40% dân chúng có thu nhập dưới 2
dollars/ngày và số người này sẽ phải chi gần hết lợi tức
của mình cho phần lương thực mà vẫn không đủ ăn. Đáng
ngại hơn nữa là giá cả lương thực vẫn còn tiếp tục gia
tăng. Người Việt chúng ta có thành ngữ: "đói khát, loạn
lạc"; đói và loạn luôn đi liền với nhau. Tình hình kinh tế
tồi tệ chính là nguyên nhân gần của các biến động hiện
nay ở Ai Cập.
BỐI CẢNH CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ TRONG KHU VỰC.
Sau khi Chiến Tranh Lạnh kết thúc, nhiều người đã tưởng
rằng thế giới sẽ bước vào một giai đoạn ổn định và
hoà bình lâu dài, trong một trật tự Thế Giới Mới, như cách
gọi của cựu TT Bush senior, hay như giáo sư tiến sĩ Francis
Fukuyama đã viết, vào năm 1992, trong quyển sách nổi tiếng The
End of History and the Last Man, rằng sự chấm dứt của Chiến Tranh
Lạnh có nghĩa rằng lịch sử-hiểu theo nghĩa là sự tiến hoá
của nhân loại trên bình diện đấu tranh ý thức hệ- đã
đến hồi kết thúc và tự do dân chủ của phương Tây sẽ
được phổ quát hoá như là hình thái chính quyền cuối cùng
của loài người. (Ông viết nguyên văn: "What we may be
witnessing is not just the end of the Cold War, or the passing of a
particular period of postwar history, but the end of history as such... That
is, the end point of mankind's ideological evolution and the universalization
of Western liberal democracy as the final form of human government").
Tiếc rằng sự hồ hởi (euphoria) của của Fukuyama hơi
"sảng" khiến nhiều người không cảm thấy bị thuyết
phục. Chỉ sau đó một năm, một đồng nghiệp của Fukuyama ở
Havard, ông Samuel P. Huntington, đã bày tỏ quan điểm trái ngược
của mình trong quyển sách bán rất chạy The Clash of Civilizations
and the Remaking World Order, trong đó Huntington cho rằng sự hồ
hởi của Fukuyama là không phù hợp với thực tế và gây ra ảo
tưởng về sự hoà hợp (an illusion of harmony) của nhân loại.
Thực tế thì, theo Huntington, cứ sau khi một cuộc chiến lớn
kéo dài và đẩm máu kết thúc, người ta đều luôn có khuynh
hướng vui mừng và mong đợi một nền hoà bình trong một trật
tự vĩnh cữu và phổ quát; người ta đã từng gọi Thế Chiến
Thứ Nhất là " war to end wars", rồi Roosevelt, sau Đệ Nhị TC
cũng đã rất hân hoan nói về " a universial organization of
peace-loving Nations" với một "permanent structure of peace";
nhưng rồi Chiến Tranh Lạnh lại xảy ra; và chỉ vài năm sau
Chiến Tranh Lạnh, nhân loại lại được nghe nói về "ethnic
cleansing" ở Nam Tư, rồi chiến tranh ở Bosnia và Kosovo!
Tiếp đến là vụ 9/11; biến cố đã đặt nước Mỹ trước
một cuộc chiến hoàn toàn mới, trước đối thủ mới, với
hình thái chiến tranh mới, khác hẳn những cuộc chiến trước
kia; đòi hỏi những phương lược mới hơn, bao trùm lên tất
cả các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế và văn hoá.
Cuộc tấn công làm thiệt mạng gần 3000 công dân Mỹ, ngay tại
thành phố lớn nhất và cả vào Bộ Quốc Phòng của Hoa kỳ,
là một sự kiện không tiền khoáng hậu, gây tổn thất không
chỉ về nhân mạng và vật chất mà còn cả về tâm lý và
chính trị cho nước Mỹ, vì đó là lần đầu tiên một nước
Mỹ được che chắn bởi hai đại dương, đã bị tấn công ngay
vào nội điạ. Về nhiều mặt, vụ 9/11 còn hơn cả cuộc tấn
công Trân Châu Cảng của Nhật trước đây. Vì New York và Ngũ
Giác Đài rõ ràng là quan trọng hơn Trân Châu Cảng, và Nhật
là một đại cường mà sự xung đột với Mỹ, vào thời gian
1941, là không tránh khỏi; trong khi đó Al-Qaeda, kẻ chủ mưu
của vụ 9/11, chỉ là một tổ chức phi quốc gia và phân tán.
Mặt khác, việc bất thần tấn công của Nhật so ra dễ thực
hiện hơn. Để thực hiện thành công vụ 9/11, Al-Qaeda đã phải
dàn dựng một kế hoạch hết sức tinh vi; từ việc chọn lựa
và huấn luyện nhân sự; đến việc tổ chức bảo mật, vấn
đề xâm nhập, vấn đề thu thập tình báo và chống tình báo
để qua mặt không chỉ CIA, FBI mà cả các cơ quan tình báo
đồng minh của Mỹ; vấn đề chọn lựa mục tiêu, chọn lựa
phương tiện và thời điểm; vấn đề phối hợp giữa các
nhóm hoạt động; vấn đề yểm trợ, v.v… Nội một việc
tuyển chọn nhân sự không thôi cũng đủ để khiến Al-Qaeda
trở thành một đối thủ đáng sợ: 19 tên khủng bố, đã
chết theo 4 chiếc phi cơ trong vụ tấn công đã phải hội đủ
những đòi hỏi khó khăn: thông thạo Anh ngữ, có học vấn căn
bản vững vàng đủ để học sử dụng được phi cơ thương
mãi tối tân, thể lực tốt, thông minh, phản ứng bén nhạy và
quan trọng nhất là chấp nhận chịu chết. Những tên khủng
bố ấy hơn hẳn các cảm tử quân thông thường ở chỗ là
họ hành sự với quyết định chết trong sự tỉnh táo và sáng
suốt nhất để lái cho được máy bay vào mục tiêu với mức
sát hại đối phương tối đa. Nếu gác bỏ vấn đề đạo lý
qua một bên thì so ra Kinh Kha qua sông Dịch ngày xưa cũng không
bằng, vì Kinh Kha đã, vì sự thiếu điềm tĩnh của người
đồng sự, chém trượt Tần Thuỷ Hoàng; còn những tên khủng
bố 9/11 đã đánh chính xác vào mục tiêu dự định, ngoại
trừ chiếc thứ tư định chuyển đường bay về White House
hoặc Capitol đã bị hành khách can thiệp nên thất bại, không
bay được vào mục tiêu.
Cũng có dư luận, sau 9/11, không xem trọng khả năng của Al-Qaeda
đến như vậy, mà cho rằng sỡ dĩ cuộc tấn công thực hiện
được là vì chẳng qua các cơ quan tình báo Mỹ, do ảnh hưởng
của nhóm neo-conservatives, đã cố tình làm ngơ cho bọn khủng
bố tiến hành 9/11 để có cớ dấy lên một chiến lược tấn
công toàn diện vào Hồi Giáo. Dư luận đó thường được gán
cho tên gọi là (Thuyết Âm mưu) Conspiracy theory , được một
nhân vật tiếng tăm là Jesse Ventura dẩn đầu. Thuyết Âm mưu
về vụ 9/11, tuy gây xôn xao, nhưng không trưng dẩn đủ chứng
cứ thuyết phục nên dần dà đi vào quên lãng. Hơn nữa,
Thuyết Âm mưu đúng hay không, không quan trọng, vì dù sao 9/11
cũng đã gây nên nhiều biến chuyển lớn từ đó đến nay.
Trên bình diện quốc tế, vụ 9/11 khiến chính phủ Mỹ có
những thay đổi chiến lược rất quan trọng trên bàn cờ quốc
tế, đặc biệt là ở Trung Đông. Trước hết, để tiến hành
tấn công Afghanistan, Mỹ đã phải thay đổi thái độ đối
với Nga, vì Mỹ cần Nga giúp hai điều quan trọng: một là
mượn các phi trường ở Trung Á để chuyển quân và đường
bay qua không phận của Nga để vào vùng đó; hai là tin tức
tình báo về Liên Minh Phương Bắc ở Afghanistan là lực lượng
cho đến lúc đó còn giữ quan hệ với Nga. Vì Afghanistan nằm
sâu trong nội điạ, hải cảng gần nhất là Karachi, của
Pakistan, nằm trên Ấn Độ Dương, cũng cách xa đến 400 miles.
Các pháo đài bay chiến lược B52 có thể bay thẳng đến
Afghanistan từ Anh quốc hoặc từ căn cứ Diego Garcia, nhưng các
máy bay chiến thuật và trực thăng đổ quân thì lại cần
những căn cứ gần hơn. Và những căn cứ gần hơn đó lại ở
Trung Á thuộc vùng ảnh hưởng của Nga. Đổi lại Mỹ thôi
không qua trung gian của Georgia để tiếp trợ vũ khí nữa cho
Chechnya trong việc đòi ly khai khỏi Nga. Về sau này Mỹ cũng
đành phải làm ngơ cho Nga "đập" Georgia tơi bời vào năm
2008 vì cái tội dám dựa vào Mỹ để chống lại ảnh hưởng
lâu đời của Nga.
Ngoài ra, Mỹ cũng hoà hoãn hơn đối với Iran để được sự
ủng hộ của nước này và thu thập tin tức tình báo cần về
Afghanistan, vì Iran vẫn còn có quan hệ rất chặt chẻ đối
với một bộ phận không nhỏ những người theo hệ phái Shiite
ở Afghanistan và cả với vài thành phần khác trong Liên Minh
Bắc Phương mà Mỹ đang muốn hợp tác với trong chiến dịch
tấn công Afghanistan.
Một sự thay đổi khác rất quan trọng trong chính sách đối
ngoại của Mỹ gây ra do vụ 9/11 là mối quan hệ đối với
vương quốc Saudi Arabia, vựa dầu lớn nhất thế giới. Ở đây
sự thay đổi lại hết sức tinh vi nên ít được biết đến.
Chính sách đối với Saudi Arabia thay đổi đơn giản chỉ vì
mối quan hệ mật thiết giữa Vương quốc và Al-Qaeda. Về nhân
sự thì 15 trong số 19 tên khủng bố 9/11 là người của Saudi
Arabia, chưa kể là ngay Osama Bin Laden cũng là người Saudi đã
từng có mối liên lạc thân cận với hoàng tộc. Nhưng điều
quan trọng hơn là hầu hết các nguồn tài chánh cung ứng cho
Al-Qaeda đều đến từ Saudi Arabia. Một sự việc đáng chú ý
khác là trước biến cố 9/11 chừng hai tuần thì ông hoàng Turki
al Faisal, người chỉ huy cơ quan tình báo của Vương quốc,
từng cộng tác chặt chẻ với CIA, đột ngột bị cách chức.
Vụ cách chức này đã khiến cho việc điều tra về sau của
chính phủ Mỹ về đầu mối Al-Qaeda ở Saudi Arabia đi vào ngõ
cụt. Ngoài ra, khác với sự hợp tác nhiệt tình trước kia
của vương triều Saudi với chính phủ Mỹ trong việc giúp
Mujahideen (phần lớn về sau trở nên thành viên nòng cốt của
Al-Qaeda) ở Afghanistan chống lại Liên Xô hồi thập niên 1980s,
trong vụ 9/11 Vương triều đổi hẳn thái độ, không tích cực
cộng tác trong việc truy lùng Al-Qaeda, bất chấp yêu cầu nhiều
lần của chính phủ Mỹ.
Mặc dầu vậy, chính phủ Mỹ của TT Bush đã không gây chiến
với Saudi Arabia, vì điều đó không giúp đạt được mục
đích chiến lược trong cuộc chiến chống Al-Qaeda. Saudi Arabia
là thánh địa của toàn thể Hồi Giáo trên thế giới. Tấn
công trực tiếp vào đó là đồng nghĩa với việc chính thức
gây ra một cuộc thánh chiến với hơn 1 tỉ tín đồ Hồi Giáo,
và đó là cái bẩy mà Al-Qaeda mong muốn cho Mỹ rơi vào khi
khiêu khích Mỹ bằng vụ 9/11. Đối sách tối ưu của chính
phủ Mỹ là làm thế nào để hoặc vương triều Saudi phải tự
nguyện hợp tác với Mỹ chống lại Al-Qaeda, hoặc Saudi Arabia-
xét như một chỗ dựa tài chánh chính yếu của Al-Qaeda- phải
rơi vào khủng hoảng để rồi chuyển biến theo hướng Mỹ mong
muốn mà không cần trực tiếp đổ quân vào. Để thực hiện
đối sách đó, Mỹ chọn việc tấn công Iraq.
Chọn lựa việc tấn công Iraq để giải bài toán Saudi Arabia
trong cuộc chiến chống Al-Qaeda, đồng thời vẫn duy trì được
sự khống chế nguồn dầu hỏa Trung Đông, là một nước cờ
rất cao và bí hiểm của giới lãnh đạo Mỹ. Nước cờ này,
được phối hợp khéo léo với một số những hoạt động
khác, sẽ góp phần tạo ra bối cảnh cho những biến cố hiện
nay ở Tunisia, Ai Cập, Bahrain, và Lybia.
Saudi Arabia là vương quốc, tuy có diện tích rộng đến 900,000
dặm vuông, nhưng dân số ít chỉ khoảng gần 26 triệu người,
đa số theo hệ phái Sunni-Wahabi, một hệ phái Hồi giáo rất
cực đoan. Cho đến đầu thế kỷ 20, Saudi Arabia vẫn còn là
một xã hội bộ tộc, phân hoá và lạc hậu. Nếu không nhờ
vựa dầu lớn nhất thế giới, với sản lượng chừng 8 triệu
tấn, thu gần nửa tỉ dollars/ ngày thì có lẽ không mấy ai
biết đến vùng đất khô cằn với đám dân tàn bạo và hiếu
chiến này. Abdul Aziz Ibn Saud là vị vua thống nhất được các
bộ lạc cát cứ lại thành vương quốc mang tên chính thức là
United Kingdom of Saudi Arabia. Ibn Saud là một người nổi tiếng
hung tàn và nhiều vợ (hơn 100 bà vợ, 45 con trai và 125 con gái!)
, đã xử dụng tiền thu được từ dầu hoả và niềm tin tôn
giáo để củng cố cho độc quyền cai tri của bộ lạc Saud
của Ông. Cũng nhờ dầu hoả mà Saudi Arabia, kể từ thập niên
1930 trở đi được sự che chở hết lòng của siêu cường số
một thế giới. Biểu hiện của sự bảo vệ ấy vẫn còn
mới: khi Saddam Hussein tấn công Kuwait năm 1991, Mỹ đã vội vàng
đáp lời yêu cầu của Saudi đưa quân qua ngăn chận và đánh
tan quân Iraq.
Do vị trí điạ lý của mình, Saudi Arabia luôn bị uy hiếp từ
Do Thái, Iraq và Iran. Đối thủ sinh tử là Iran vì khác biệt
cả chủng tộc lẫn đối địch tôn giáo. Từ lâu Iraq, một
quốc gia trộn lẫn cả hai hệ phái Sunni và Shiite, nằm đệm
vào giữa, trở thành một trái độn an toàn, che chở cho Arab
Saudi khỏi sự uy hiếp trực tiếp của Iran.
Về phần Iraq thì đó là một lãnh thổ trống trải nằm ở
giữa 6 quốc gia khác nhau, rất khó phòng thủ. Nhưng ngược
lại nếu một cường quốc chiếm được Iraq thì có thể một
lúc uy hiếp nhiều nước ở chung quanh: Kuwait, Saudi, Iran, Jordan,
Turkey, và Syria. Sự hiện diện của Mỹ ở Iraq, như vậy, không
những chỉ làm đứt một mắt xích quan trọng của khối Arab,
mà còn uy hiếp cả Saudi Arabia, Syria, và Iran nữa. Trong khi đó
một Iraq không còn Saddam Hussein và do người Shiite cầm quyền
thì lại khiến ảnh hưởng của Iran, theo hệ phái Shiite, gia
tăng và áp lực lên Saudi Arabia nặng nề hơn. Đó là chưa kể
việc làm chủ Iraq sẽ dẩn đến việc khống chế sản lượng
dầu hoả của nước này, trực tiếp ảnh hưởng đến lượng
cung dầu trên thị trường quốc tế, từ đó có thể tạo nên
một áp lực kinh tế nặng nề lên Saudi Arabia là quốc gia chỉ
sống nhờ dầu hoả. Đối phó với áp lực như vậy, vương
triều Saudi bị đặt trước sự lựa chọn: hoặc chấp nhận
nguy cơ đối kháng chính trị lớn trong nội bộ để chống
lại Al-Qaeda, nhưng được Mỹ bảo vệ; hoặc tiếp tục như
hiện nay để tránh xung đột nội bộ thì lại không được
Mỹ che chở trước sự uy hiếp của liên minh Shiite Iraq-Iran.
Đến đây một câu hỏi vẫn thường được nêu ra là tại sao
Mỹ, năm 1991, không nhân đà chiến thắng của chiến dịch
Desert Storm, tiến về Baghdad, chiếm luôn Iraq, mà phải đợi
đến năm 2003. Câu trả lời nằm trong việc áp dụng nguyên
tắc cổ điển về cân bằng quyền lực thường được siêu
cường (hay đế quốc) sử dụng để giữ các nước nhỏ yếu
hơn trong thế kìm chế lẫn nhau nhằm duy trì sự ổn định
trong một khu vực mà không cần trực tiếp can thiệp. Năm 1991,
Saudi Arabia vẫn còn được Mỹ xem là đồng minh cần được
bảo vệ, vì vậy Mỹ vẫn muốn Iraq của Saddam đủ mạnh để
cân bằng với Iran và che chắn cho Saudi. Đến năm 2001 trở đi
thì tình hình lại khác, với những yếu tố mới phát sinh.
Yếu tố đầu tiên là Al-Qaeda trở thành kẻ thù chiến lược.
Saudi Arabia, do từ chối không hợp tác chống Al-Qaeda, không còn
là đồng minh chiến lược nữa, vì vậy không đáng được Mỹ
bảo vệ mà trái lại cần phải bị cưỡng chế. Trong khi đó
thì Iran, do theo hệ phái Shiite, là kẻ đối địch của Al-Qaeda,
nghĩa là có khả năng sẽ là đồng minh của Mỹ chống lại
tổ chức cực đoan đó. Nói cách khác là Mỹ, sau vụ 9/11, tìm
cách thay đổi thế cân bằng của hai hệ phái Hồi Giáo Sunni
và Shiite ở Trung Đông, rồi lợi dụng sự mâu thuẩn của hai
bên cho mục đích tiêu diệt kẻ thù chính là Al-Qaeda.
Vậy việc xâm chiếm Iraq của Mỹ tháng 3/2003 là một nước
cờ hay. Nhưng chưa hết. Mỹ còn mở một mặt trận khác, phối
hợp với việc xâm chiếm Iraq, trong chiến lược chống Al-Qaeda.
Mặt trận đó mang một danh xưng rất hiền lành; đó là Greater
Middle East Project, hay sau này được sửa lại là New Middle East
Project. Đây mới là nguồn chính sách nơi khai sinh ra những
biến động vừa qua tại Tunisia, rồi tại Ai Cập, Bahrain, Lybia
hiện nay, và có lẽ sẽ còn nhiều nơi khác ở Trung Đông.
Có thể nói rằng Greater Middle East, hay New Middle East Project, là
chiến lược thuộc lãnh vực văn hoá, chính trị và kinh tế
của cuộc chiến nhắm vào nền tảng xã hội và cơ cấu chính
quyền của những quốc gia có, hoặc có thể có, gốc rễ của
Al-Qaeda. Ýniệm căn bản, nhìn từ bề ngoài và một cách chính
thức, của chiến lược này rất đơn giản: xiển dương Dân
Chủ và Tự Do để đẩy lùi sự độc đoán, thù hận và bạo
động vốn là những tính chất gắn liền với các tổ chức
cuồng tín. TT Bush, trong một bài diễn văn đọc tại National
Endowment for Democracy vào hồi tháng 11/2003, đã nói rằng: "As
long as the Middle East remains a place where freedom does not flourish, it
will remain a place of stagnation, resentment, and violence ready for export.
Đó là nhận định, tuy nghe đơn sơ, nhưng khơi mào cho một
kế hoạch lớn lao và bao quát hơn về sau, nằm trong chiến
lược chung nhằm đẩy lùi, cô lập những khuynh hướng cực
đoan, hổ trợ sự lớn mạnh cho những quan điểm ôn hoà và
trung dung trong các cộng đồng Hồi giáo; đồng thời tạo ra
một hình ảnh mới về nước Mỹ đối với dân cư trong Vùng.
Xuất phát từ nhận định vừa nói, chính phủ Bush đã đỡ
đầu cho nhiều dự án nghiên cứu về một chiến lược vận
động, cổ suý dân chủ rộng lớn trải dài từ Ma-rốc tới
Afghanistan, bao trọn cả vùng Trung Đông ( vì vậy lúc đầu có
tên là Greater Middle East). Một trong những cơ quan tư nhân nhận
trách nhiệm nghiên cứu là RAND, một think-tank lâu đời, nổi
tiếng chuyên về hoạch định chiến lược thế giới. RAND đã
đúc kết nghiên cứu của mình thành đề nghị về một chiến
lược phức tạp, dựa theo kinh nghiệm của những cuộc cách
mạng màu đã diễn ra trước đây ở các nước như Ukraine,
Georgia, Kazakhstan,v.v…vận dụng phối hợp các hệ thống
truyền thông, các mạng internet, Facebook, Twitter và các phương
tiện tin học tối tân khác nhắm vào giới trẻ (theo thống kê
có giới trẻ trong hạng tuổi 15-35 chiếm đến hơn 60% dân số
trong Vùng), tìm cách huy động khối lượng đông đảo giới
này từ các quốc gia:Algeria, Morocco Lybia, Lebanon, Tunisia, Egypt,
Bahrain, Syria, Sudan, Yemen,v.v… vào một mặt trận chung, rộng
khắp, đứng lên đòi hỏi cho Dân Chủ và Tự Do. Hổ trợ
hoặc công khai, hoặc ngấm ngầm cho cuộc vận động rộng lớn
đó sẽ là các cơ quan phi-chính phủ (NGOs) như Human Right First,
National Endowment for Democracy, Egyptian Center for Women's Rights,USAID,
International Republican Institute, Freedom House, Open Society Institute,
v.v…
Đó là chiến lược chung, riêng trong trường hợp Ai Cập thì,
theo giáo sư William Engdahl, các cơ quan NGOs đã tài trợ và giúp
đỡ kỹ thuật cho một phong trào mang tên Egyptian Movement for
Change, hay còn gọi là Kefaya, do Muslim Brotherhood thành lập
khoảng năm 2004. Phong trào này khai thác kỹ thuật tin học biến
nó thành phương tiện nối kết và huy động chừng 800,000
thành viên trẻ qua interet, blogs, Facebook, Twitter cho mục tiêu
vận động Tự Do-Dân Chủ, và quan trọng hơn, tạo ra thay
đổi chế độ hiện thời. Xin mở ngoặc ở đây là có nguồn
tin cho rằng từ nhiều năm rồi, nhân viên Bộ Ngoại Giao Mỹ
đã tiếp xúc với đại diện của Muslim Brotherhood, tổ chức
Hồi Giáo lâu nay vốn được xem là cực đoan và chống Tây
Phương, từng bị Sadat và Mubarak đàn áp khốc liệt. (Điều
này gợi nhớ lại ở Miền Nam VN trước đây vào năm 1963, toà
Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn cũng bí mật tiếp xúc và bảo vệ cho
một vị lãnh tụ tôn giáo đang chống lại chính phủ lúc đó.)
Một điểm khác đáng chú ý đối với trường hợp Ai Cập;
đó là thái độ ôn hoà của quân đội đối với quần chúng
biểu tình; một thái độ gây nhiều thắc mắc. Như đã trình
bày ở trên, từ năm 1952 đến nay, quân đội là kẻ nắm giữ
chính quyền ở Ai Cập, bản thân Mubarak là một sĩ quan cao cấp
không quân đi theo nhóm Sĩ quan Tự Do của Nasser. Vậy tại sao
trong lúc quần chúng biểu tình đòi Mubarak từ chức thì quân
đội lại tỏ ra thân thiện với dân chúng? Có thể suy diễn
được câu trả lời khi nhìn vào cơ cấu viện trợ của Mỹ
dành cho Ai Cập trong suốt mấy chục năm qua. Trong cơ cấu đó,
viện trợ kinh tế ngày càng giảm, nhưng quân viện không hề
thay đổi mảy may. Để nhận quân viện như vậy, nhiều thế
hệ sĩ quan Ai Cập đã được huấn luyện ở Mỹ, và số
lượng sĩ quan được huấn luyện ở Mỹ ngày càng đông; sự
thâm nhập và tuyển mộ của CIA vào hàng ngũ các sĩ quan này
chắc chắn là càng sâu và càng nhiều. Cũng do đó thành phần
sĩ quan trẻ, chịu ảnh hưởng của Mỹ sẽ ngày càng đông hơn
số sĩ quan già do Anh-Pháp đào tạo trước đây mà Mubarak là
đại diện. Như vậy có thể xuyên qua thái độ của quân đội
để hiểu phần nào lập trường của Mỹ đối với biến cố.
Hoặc Mubarak là cái bung xung để cho nỗi thống khổ của đa
số lớp trẻ và dân nghèo có dịp xả thoát và được xoa
dịu, đồng thời để cho mọi sự diễn ra ăn khớp với chiến
lược mới trong toàn vùng; hoặc đã đến lúc lớp lãnh tụ
già nua trong quân đội Ai Cập trở nên không đắc dụng nữa
nên cần được thay thế. Dù thế nào đi nữa thì đám đông
biểu tình, tuy có nguyện vọng chính đáng, vẫn vô tình trở
thành phương tiện cho siêu cường ở ngoài và tầng lớp thống
trị ở trong xử dụng cho một mục đích định sẳn.
Tóm lại, Ai Cập trước sau vẫn thuộc về khối quốc gia thứ
ba, nghèo và bị các cường quốc thay nhau chi phối, trước đây
đã không hoàn toàn làm chủ được vận mệnh của mình, đến
nay tình hình vẫn vậy. Nhìn bề ngoài, việc đám đông quần
chúng nổi dậy đòi lật đổ chính phủ để xây dựng Tự
Do-Dân Chủ là một sự kiện cao đẹp làm rung động mọi tấm
lòng yêu chuộng công lý-bình đẳng ở khắp nơi. Nhưng đó
chỉ là biểu tượng, sự vùng dậy của dân chúng trong trường
hợp này, tuy do những động cơ chính đáng, đã bị chi phối
bởi những yếu tố không mong muốn cả từ bên trong lẫn bên
ngoài, nên chỉ trở thành như bọt nước sôi sục ở trên
mặt, bị đẩy đưa bởi những động lực khác nằm chìm
khuất ở dưới. Không ai chối cãi về nỗi thống khổ và lòng
khao khát tự do-dân chủ chính đáng của dân chúng Ai Cập. Vấn
đề là ở chỗ nổi thống khổ ấy đã một mặt thì bị lôi
cuốn vào trong một chiến lược quốc tế lớn của siêu
cường, và mặt kia thì bị lợi dụng bởi sự tham quyền cố
vị của giới thống trị bản xứ muốn làm một cuộc đảo
chánh nội bộ. Nhiều người đã vội gán cho sự biến động
ở Ai Cập là một cuộc cách mạng, quên rằng sự ra đi của
Mubarak không hề tạo ra một đảo lộn lớn lao nào đối với
chế độ chính trị hiện có, bởi vì quyền lực vẫn ở trong
tay quân đội, dù rằng quân đội đó có hứa sẽ thay đổi
hiến pháp, giải tán và bầu quốc hội mới trong vòng 6 tháng.
Nhưng bằng vào hiện tình kinh tế của Ai Cập, vào tình hình
hiện nay trong khu vực, và vào việc quân đội đã chỉ biết
sống lệ thuộc vào ngoại viện suốt 30 năm qua thì liệu có
tin được rằng những hứa hẹn ấy sẽ được thực hiện
đúng với tinh thần của nó? Thật đáng ngờ! Có lẽ nhiều
lắm thì giới cầm quyền mới, do sự đạo diễn kín đáo ở
đằng sau, sẽ tỏ ra ít độc đoán hơn ở những vấn đề
thứ yếu, một số những tự do và nhân quyền căn bản có lẽ
sẽ được tôn trọng hơn, cũng có lẽ sẽ có cả chính phủ
dân sự nữa, miễn sao tất cả những thay đổi ít ỏi đó
không gây thay đổi bất lợi cho ảnh hưởng của siêu cường
mà lại phục vụ được cho mục đích chính là triệt tiêu, hay
chí ít vô hiệu hoá, các khuynh hướng cực đoan, khuyến khích
và hổ trợ cho khuynh hướng Hồi giáo ôn hoà. Nhưng chung quy
sẽ không có cái gọi là cách mạng (revolution), hiểu theo nghĩa
là một sự thay đảo lộn, thay đổi tận gốc rễ (radical
change), và quyền lực quốc gia vẫn nằm trong tay của giới
thống trị hiện nay, tức của quân đội.
Mặt khác, biến cố Ai Cập chỉ là một phần, như đã nói,
của một chiến dịch rộng lớn hơn của siêu cường đối
với Trung Đông. Sau Tunisia, đến Ai Cập, và nay thì đang diễn
ra ở Bahrain và ở Lybia. Diễn biến như vậy rõ ràng là rơi
vào đúng kế hoạch vạch ra từ nhiều năm về trước trong
Greater (or New) Middle East Project. Bahrain thì sát ngay sau lưng của
Saudi Arabia và những biến động ở đó chắc chắn sẽ gây
những chấn động lớn vào Saudi Arabia. Trong những ngày này
giới truyền thông bắt đầu loan tin về sự phân rẽ giữa
vương triều Saudi và chính phủ Obama; ngay cả còn có tin đồn
rằng vua Abdullah, tám mươi mấy tuổi, suýt nữa bị heart attack.
Trước đó ông vua này đã lên tiếng công kích chính sách của
Mỹ đối với Mubarak và tuyên bố sẳn sàng giúp Ai Cập trám
vào lỗ hổng tài chánh nếu như bất thần Mỹ cắt quân viện
cho nước này.
(còn tiếp)
Trương Đình Trung
2/20/2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét