Tổng thống Hosni Mubarak: 82 tuổi, lãnh đạo Ai Cập từ 30 năm qua, lâu nhất Ai Cập thời cận đại. Lãnh tụ đảng Dân chủ Quốc gia đương quyền. Lên nắm quyền sau khi người tiền nhiệm, Anwar Sadat, bị ám sát. Vì chưa chính thức thấy ai kế vị và vì sức khỏe yếu kém, các nhà phân tích cho rằng Tổng thống đang chuẩn bị cho người con trai Gamal lên thay. VOA: Xin nói các lý do dẫn đến các cuộc biểu tình ở Cairo và các thành phố khác của Ai Cập?
Ông Stephen Cook: Đây là kết quả của nhiều năm bực bội và chán nản bị dồn nén. Trong vòng năm sáu năm qua, Ai Cập vẫn thường có biểu tình, nhưng lần này nó xuất phát từ ngày kỷ niệm của cảnh sát 25 tháng 1, cộng với tình hình tại Tunisia, khiến cho nhân dân Ai Cập có thêm động lực và một cảm giác rằng một lãnh đạo A-rập có thể bị loại bỏ quyền lực bằng sức mạnh nhân dân, là chuyện có thể xảy ra.
VOA: Tại sao lần này biểu tình có vẻ vững mạnh hơn trong khi những lần biểu tình trước đây thì chết yểu và nhanh chóng bị chính quyền dẹp bỏ?
Ông Stephen Cook: Tôi nghĩ chế độ hiện nay tại Ai Cập vẫn trông đợi lần này biểu tình chỉ là chuyện xảy ra trong ngày và mọi thứ sẽ trở lại bình thường giống như cũ. Nhưng có lẽ các cuộc biểu tình ở Tunisia kéo dài suốt tháng đã làm cho nhiều người Ai Cập có quyết tâm hơn và cũng muốn làm y như vậy.
VOA: Ở những nước như Jordan, Yemen và Libăng cũng có những cuộc biểu tình tương tự để đòi cơm ăn áo mặc, thất nghiệp, giá cả sinh hoạt tăng. Điều gì đã dẫn đến những sự phản đối dồn dập như thế?
Ông Stephen Cook: Chúng ta nên tách riêng Libăng vì tình hình tại đây có tính cách đặc thù. Trên khắp Trung đông, giống như Yemen, người dân đã chán ngán với các chế độ toàn trị và khinh bỉ giới lãnh đạo. Tại Ai Cập, kinh tế không là lý do quan trọng, mặc dù có những khẩu hiệu liên quan đến kinh tế; tại đây người ta muốn có một xã hội tự do hơn.
VOA: Tại Ai Cập, ông Mohammed El Baradei, một người mạnh mẽ chống đối chế độ đã trở về nước. Có phải sự trở về này châm dầu thêm cho các cuộc biểu tình chống chính phủ?
Ông Stephen Cook: Sự trở về của ông El Baradei rất quan trọng. Nếu ông có thể lãnh đạo những nhóm biểu tình rời rạc và nhiều xu hướng trên đường phố, ông ta sẽ có thể tạo cho phong trào này một sự đoàn kết và trở thành một trung tâm điểm cho cải cách và thay đổi; trở thành một thách thức lớn cho chế độ.
Trong khi đó, chính quyền đã gán cho các cuộc biểu tình này là do Muslim Brotherhood, một nhóm Hồi giáo đối lập lớn, giật giây. Mục đích là để nhận được sự ủng hộ của Hoa Kỳ và có lý do để mạnh tay đàn áp.
Nhưng trong thực tế phong trào này chỉ do một luật gia thế tục lãnh đạo và chỉ muốn cải cách. Do đó, sự trở về của ông El Baradei là một diễn biến quan trọng.
VOA: Phải chăng Hoa Kỳ đang mắc kẹt vì ở vào thế đứng giữa Tổng thống Hosni Mubarak và người biểu tình?
Ông Stephen Cook: Tôi nghĩ chính quyền của Tổng thống Obama khó xử với Ai Cập hơn là với Tunisia, nhưng đến lúc nào đó cũng phải tôn trọng nguyên tắc.
Cách mà Bộ Ngoại giao Mỹ xử lý đối với tình hình Ai Cập khiến tôi thất vọng. Kêu gọi các bên tự chế trong khi rõ ràng là một bên không hề tự chế. Kêu gọi chế độ phải cải cách trong lúc này thì không còn hợp thời nữa.
Các vai chính hiện nay tại Ai Cập
Tổng thống Hosni Mubarak: 82 tuổi, lãnh đạo Ai Cập từ 30 năm qua, lâu nhất Ai Cập thời cận đại. Lãnh tụ đảng Dân chủ Quốc gia đương quyền. Lên nắm quyền sau khi người tiền nhiệm, Anwar Sadat, bị ám sát. Vì chưa chính thức thấy ai kế vị và vì sức khỏe yếu kém, các nhà phân tích cho rằng Tổng thống đang chuẩn bị cho người con trai Gamal lên thay.
Mohamed ElBaradei: Chuyên viên ngoại giao từng lãnh giải Nobel Hòa bình. Ông được quốc tế chú ý vì hay chỉ trích Tổng thống Mubarak và chính phủ. Chức vụ quan trọng sau cùng là Giám đốc IAEA, cơ quan nguyên tử năng quốc tế. Sống bên ngoài Ai Cập từ nhiều năm qua. Là người thành lập phong trào cải cách, ông lên tiếng sẵn sang lãnh đạo chính phủ lâm thời nếu Tổng thống Mubarak ra đi.
Bộ trưởng Omar Suleiman: Đứng đầu ngành tình báo và đồng minh đắc lực của Tổng thống Mubarak. Các nhà phân tích xem ông là người có thể kế vị ông Mubarak. Ông được quốc tế kính nể vì đóng vai trung gian hòa giải cho cuộc xung đột Israel Palestine và ngăn chận chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan.
Ayman Nour: Nhân vật bất đồng chính kiến lập ra đảng Al Ghad, Ngày Mai. Tranh cử tổng thống chống ông Mubarak năm 2005 và sau đó đi tù về tội tham nhũng. Chính quyền trả tự do cho ông trước áp lực của Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế.
Muslim Brotherhood, Huynh Đệ Hồi giáo: Tổ chức Hồi giáo cực đoan bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, nhưng vẫn giữ một vai trò chống đối quan trọng. Thành viên của họ giữ 20% ghế Quốc hội. Nhóm này lãnh đạo một phong trào ôn hòa nhằm cải cách chính trị và xã hội, tiến đến một quốc gia Hồi giáo.
Người biểu tình Ai Cập bất chấp lệnh giới nghiêm
Bất chấp lệnh giới nghiêm ban hành tối thứ Sáu, người biểu tình Ai Cập tiếp tục đốt phá các tòa nhà tại Cairo và chính quyền đã cho bố trí nhiều xe tăng.
Tổng thống Hosni Mubarak đã nới rộng giới nghiêm trên cả nước nhưng theo tin báo chí biện pháp này chẳng có nhiều hiệu quả ngăn chận bạo động.
Người biểu tình, mà người ta tin là có đến hàng vạn người, đòi Tổng thống Mubarak từ chức.
Có tin nói Tổng thống sẽ đọc bài diễn văn trước nhân dân nhưng không có cơ quan truyền thông nhà nước nào cho biết khi nào thì ông xuất hiện.
Người biểu tình tại Cairo bao vây các xe của lực lượng an ninh, và lật tung một chiếc trước khi đốt.
Tại nhiều nơi trong thành phố có nhiều đám cháy lớn, trong đó có một số tòa nhà chính phủ; và có người còn nghe cả tiếng súng trên đường phố.
Trụ sở của đảng Dân chủ Quốc gia đang cầm quyền là một trong những nơi bị đốt.
Tìm kiếm Blog này
Thứ Sáu, 28 tháng 1, 2011
Nhà giàu kiểu Mỹ, Ấn Ðộ và Trung Hoa
Posted by truongthondlb3
Ngô Nhân Dụng (Người Việt) – Ông Ðặng Tiểu Bình đã phát động một cuộc cách mạng mới khi đưa ra khẩu hiệu “Làm giàu là vinh quang!” Nó thay thế cho khẩu hiệu “Lao động là vinh quang” của Mao Trạch Ðông.
Từ đó, các đảng viên Trung Cộng đã phấn đấu làm giàu, không cần nghĩ tới lao động nữa. Nhưng không phải ở nước nào người ta cũng làm giàu kiểu đó. Ở nhiều nơi người ta phải làm việc cật lực mới tích lũy được tiền của. Tuần báo Economist mới đăng một bài dài 14 trang về những người giàu; đặc biệt có một đoạn viết về “Các nhà quý tộc mới ở Á Châu,” họ so sánh những người giàu ở hai nước Ấn Ðộ và Trung Quốc. Ðọc bài đó, chúng ta biết khi nào việc làm giàu đáng gọi là vinh quang! Ðó là khi những người giàu có được người khác kính trọng.
Thế giới hiện nay có hàng chục triệu người là “triệu phú đô la Mỹ”. Nếu đặt tiêu chuẩn tổng số tài sản lên tới một triệu đô la thì, theo ngân hàng Credit Suisse, hiện có hơn 24 triệu người trên thế giới là triệu phú. Họ làm chủ tổng cộng 69 ngàn tỷ Mỹ kim. Và 41% những người này sống ở nước Mỹ, chắc quý vị độc giả ở California cũng quen biết nhiều người.
Nếu bỏ qua những tài sản nổi như nhà ở, xe cộ, trang sức, vân vân, mà chỉ đếm số tiền được đem đầu tư thôi đã lên tới một triệu, thì con số triệu phú khắp thế giới khoảng 10 triệu người, như các công ty tài chánh Capgemini và Merrill Lynch ước tính. Trong số 10 triệu người này, chỉ có 16% giàu có là do được thừa hưởng gia tài ông cha để lại. Còn 84% người giàu đều do họ tự làm nên. Ðặc biệt, gần một nửa vì tự mình khởi nghiệp kinh doanh mà trở nên giàu có. Trong đó có thể kể đến các ông Bill Gates, Warren Buffetts, hay Carlos Slim (giàu nhất Mexico, có lúc giàu nhất thế giới). Nhưng không thể kể những ông triệu phú như Nguyễn Việt Tiến, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng, hay Lê Ðức Thúy trong số đó. Vì quý vị triệu phú đô-la đó không xây dựng cơ nghiệp bằng việc doanh thương.
Ở nước Mỹ khi nói đến những người kiếm được nhiều tiền như Bill Gates hay Warren Buffetts, Tiger Woods, bà Oprah, hay các cầu thủ bóng bầu dục hoặc tài tử xi nê; không thấy ai tỏ ý ganh ghét vì họ giàu có. Hầu như mọi người công nhận chuyện họ giàu là tự nhiên. Trong một thị trường tự do cạnh tranh, có luật lệ để bảo vệ sự công bằng; thì những người chịu khó, có tài riêng và may mắn họ sẽ giàu; mình không may mắn, thiếu tài, hoặc không thích làm giàu, thì chấp nhận thua họ về tiền bạc. Miễn là sao mình không lười biếng để bị nghèo khó quá là được.
Báo The Economist kể hồi tháng 9 vừa qua, hai ông Bill Gates và Warren Buffetts đã ngồi họp với 50 đại tài chủ giàu nhất nước Tàu. Hai ông này đã bỏ ra một nửa tài sản, hoặc nhiều hơn, để làm việc nghĩa; họ nói rằng khi mình có nhiều tiền quá, xài cho mình không hết thì nên xài cho người khác. Chắc các nhà tư bản mới ở Trung Quốc sẽ noi gương. Nhiều người trong đám họ cũng làm giàu nhanh, không khác gì Bill Gates hay Mark Zuckerberg. Nhưng bên Mỹ thì việc mọi người góp tiền cho các hội thiện đã là một thói quen có từ mấy thế kỷ. Trong năm 2009 cả nước Mỹ người ta đã quyên góp 217 tỷ đô la cho các hội thiện. Còn ở bên Tàu thì từ khi lập chế độ cộng sản đến nay chắc thói quen làm việc thiện đã bị quên mất rồi. Không phải vì người Trung Hoa keo kiệt, mà vì cả nước họ chỉ có mỗi một hội thiện duy nhất được phép hoạt động, là… đảng Cộng Sản! Mà đảng ta thì thiếu gì tiền, đâu cần ai quyên góp?
Tại Mỹ, cuộc cách mạng tin học tạo cơ hội cho những người “thượng lưu trí não” (báo The Economist gọi là cognitive elite). Họ thấy tiền từ trên trời rớt xuống lẹ quá, xài không kịp bèn đem cho ngay. Bill Gates bỏ hàng chục tỷ Mỹ kim lập ra cơ quan từ thiện lúc mới có 39 tuổi. Mark Zuckerberg, người sáng lập Facebook và được báo Time chọn làm Nhân Vật Năm 2010, mới 26 tuổi đã đem tặng 100 triệu đô la cho các trường học quận Newark. Trong một xã hội dân chủ tự do, mọi người bình đẳng trước luật pháp; ai cũng có cơ hội như nhau; cho nên tài sản có chênh lệch người ta chấp nhận được. Người dân những nước đang lên cũng mà tin tưởng vào cơ chế kinh tế thị trường. Một cuộc nghiên cứu dư luận của Pew Research hỏi ý kiến mọi người có đồng ý hay không, là “trong kinh tế thị trường thì hầu hết mọi người đều được khá giả hơn, mặc dù có người giàu người nghèo”. Có 79% người Ấn Ðộ đồng ý, và 84% người Trung Hoa cũng nghĩ vậy.
Nhưng người giàu ở hai nước Ấn Ðộ và Trung Hoa khác nhau. Báo The Economist viết rằng ở Ấn Ðộ những triệu phú (đô-la) được coi như những anh hùng. Bao nhiêu nhà kinh doanh đã dựng lên cả một kỹ nghệ xuất cảng chất xám ở thành phố Bangalore, làm dịch vụ tin học cho các đại công ty quốc tế. Công ty Tata đang đưa ra thị trường những chiếc xe nhỏ xài ít tốn xăng nhất và giá rẻ nhất, nhưng cũng lập ra hàng chục cơ quan từ thiện và các viện nghiên cứu phát triển. Công ty trả lương nhân viên khá và ông Ratan Tata, chủ tịch công ty sắp hồi hưu, sống một cách khiêm tốn. Giới tỷ phú Ấn Ðộ vươn lên trong lúc nước họ cũng vươn lên. Trong thập niên vừa qua tài sản trung bình dân Ấn Ðộ tăng 150%, từ 2,000 đô la mỗi đầu người lên 5,000 đô la.
Người dân Ấn Ðộ đa số không ghét hay khinh người giàu. Báo chí tự do, ai làm giàu bất chính, ai buôn bán gian xảo, ai nhận tiền hối lộ, khó lòng giấu giếm. Các đảng chính trị hoạt động tự do, nếu có ai làm điều sai trái thế nào cũng bị soi mói, sợ có người tìm ra. Bầu cử tự do, dân bất mãn thì thay đổi người cầm quyền. Nhà báo gặp một bà cụ sống trong khu nhà ổ chuột Dharavi ở thành phố Mumbai. Bà Aruna mù chữ, ở trong căn hộ một phòng ngủ, chứa 10 người. Hỏi bà nghĩ sao về những người giàu, bà nói: “Họ làm việc cực nhọc. Chúng tôi cũng phải làm việc cực nhọc”. Con gái lớn của bà đang làm việc trong một ngân hàng. Con nhỏ hơn thì đang đi học. Gia đình này sống ở nấc thang dưới cùng của xã hội Ấn Ðộ, nhưng họ đang ngẩng đầu trông lên.
Ở Trung Quốc, báo The Economist thấy người nghèo không nhìn những người giàu như vậy. Cuộc cải cách kinh tế đã vứt bỏ chế độ cộng sản để theo kinh tế thị trường nhờ thế 500 triệu người Trung Hoa ra khỏi cảnh nghèo đói; đồng thời cũng xây những nhà chọc trời ở Thượng Hải, Quảng Châu. Nhưng giới kinh doanh ở Trung Quốc làm ăn như thế nào, người dân thường không biết. Ðó là việc trên thiên đình! Không ai được quyền đặt câu hỏi về quyền hành của đảng Cộng Sản. Ðể làm giàu, tốt nhất là đi với đảng, hay là xin vào đảng. Số đảng viên chiếm dưới 5% dân số, nhưng họ nắm quyền tuyệt đối.
Các đảng viên cao cấp và những người giàu có còn coi họ sống bên trên luật pháp. Báo The Economist thuật chuyện con trai của một trùm công an tên là Lý Cương, năm ngoái lái xe trong lúc say rượu, cán chết một người đi bộ. Cậu công tử vọt xe đi, còn quay đầu lại quát lớn: “Ðứa nào gan thì đi khai báo đi! Bố tao là Lý Cương!” Không ngờ có những blogers tìm ra chuyện này và loan truyền trên mạng. Một bài hát được phổ biến, với điệp khúc, “Bố tao là Lý Cương! Bố tao là Lý Cương!” Cuối cùng cậu công tử bị bắt và ông Lý Cương phải lên tivi xin lỗi.
Ðảng Cộng Sản giữ rất nhiều tiền, nhưng không đem chi tiêu cho những việc phúc lợi của dân như lập quỹ hưu bổng, an sinh xã hội, hoặc nâng cao trình độ y tế, giáo dục ở nông thôn. Ðảng sẵn sàng đem tiền cấp vốn hoặc cho các doanh nghiệp nhà nuớc vay, mặc dầu các cán bộ quốc doanh làm ăn thua lỗ. Các xí nghiệp tư không thể cạnh tranh với các công ty do các cán bộ quản lý. Chính quyền các cấp đặt ra những thứ thuế không cần hỏi ý kiến đại biểu của dân, và nhiều khi không đúng pháp luật.
Tình trạng bất công xã hội ở Trung Quốc đã tăng lên. Trong nước Trung Hoa đã có tới 800,000 triệu phú đô-la, nhưng cũng có 400 triệu người sống với dưới 2 đô-la một ngày. Chỉ số Gini, từ zero đến một, là một thước đo công bằng xã hội, số càng lớn càng bất công. Gini bằng zero là công bằng tuyệt đối, khi tài sản và lợi tức tất cả mọi người bằng nhau, Gini bằng 1 là bất công tuyệt đối. Giữa thập niên 1980, khi nước Trung Hoa mới bắt đầu đổi mới kinh tế, hầu hết mọi người nghèo như nhau, chỉ số Gini là 0.28; 20 năm sau, chỉ số đó tăng lên thành 0.4, tức là bất công hơn. Thời 1980 Ấn Ðộ bất công hơn Trung Quốc, điều đó hiểu được vì hệ thống đẳng cấp dựa trên tôn giáo vẫn lưu cữu; nhưng bây giờ nhờ kinh tế thị trường nên Ấn Ðộ công bằng hơn. Ở Ấn Ðộ, trong cùng thời gian kể trên, chỉ số Gini cũng tăng từ 0.32 lên 0.37.
Một nguyên nhân gây nên cảnh bất công xã hội ở Trung Quốc, theo The Economist, là chế độ hộ khẩu. Nông dân không được tự do đổi chỗ ở, khi lên thành phố sống con cái họ không được đi học trường công chính thức, không được cung cấp các dịch vụ xã hội, y tế, vì không có hộ khẩu. Có 2 nước Trung Hoa, người thành phố và người nông thôn, phân cách vì chính sách hộ khẩu. Thành phố Thượng Hải cho phép những phụ nữ lấy chồng người Thượng Hải, sau 15 năm sẽ có hộ khẩu. Hỏi tại sao không cho những người đàn ông lấy vợ ở Thượng Hải được hưởng quy chế đó, văn phòng thị trưởng không giải thích được, chỉ nói rằng chắc không có cô nào dân Thượng Hải mà lại lấy chồng “ngoại quốc!”
Cảnh sống bất công đang là một thùng thuốc nổ đe dọa sự ổn định xã hội ở Trung Quốc. Nhà văn Pearl Buck viết nhiều tiểu thuyết về người Trung Hoa, đã nhận xét: Khi nào người giàu giàu quá còn người nghèo nghèo quá thì sẽ loạn. Không biết những nhà tỷ phú, triệu phú ở Trung Quốc có tìm cách chia sẻ lợi tức và tài sản cho các đồng bào của họ ở thôn quê hay không. Nhưng nếu muốn cho con cháu họ trong lâu dài vẫn được hưởng những tài sản họ đã tích lũy được, tốt nhất là phải thiết lập một chế độ tự do dân chủ, có pháp luật công bằng do các đại biểu thật sự của mọi người dân đặt ra. Như Khổng Tử nói, khi đó là quốc gia sẽ trở thành “hữu đạo”.
Những ông triệu phú đô la ở Trung Quốc (và Việt Nam) nên học lại Khổng Tử, sau khi một bức tượng của ngài mới được dựng lên làm cảnh trước Thiên An Môn. Cụ Khổng ngày xưa cũng rất quan tâm đến chuyện làm giàu, có lúc cụ còn khuyến khích người ta phải làm giàu, vì nếu sống nghèo là đáng hổ thẹn. Cụ từng nói: “Ở một nước có đạo lý mà mình nghèo hèn thì đáng xấu hổ; ở một nước không có đạo lý mà mình giàu sang thì đáng xấu hổ” (“Bang hữu đạo, bần thả tiện yên, sỉ dã; bang vô đạo, phú thả quý yên, sỉ dã”. Luận Ngữ, thiên VIII, Thái Bá, câu 13).
Một nước theo thể chế tự do dân chủ với luật pháp công bằng, có thể xếp vào loại “Bang Hữu Ðạo”. Còn nói đến “Bang Vô Ðạo” thì ai cũng biết nó thế nào rồi. Khi con một ông tướng công an cán chết người xong, không những thản nhiên bỏ đi mà còn thách đố và đe dọa mọi người; một nước như vậy thì gọi là gì?
Ngô Nhân Dụng
Ngô Nhân Dụng (Người Việt) – Ông Ðặng Tiểu Bình đã phát động một cuộc cách mạng mới khi đưa ra khẩu hiệu “Làm giàu là vinh quang!” Nó thay thế cho khẩu hiệu “Lao động là vinh quang” của Mao Trạch Ðông.
Từ đó, các đảng viên Trung Cộng đã phấn đấu làm giàu, không cần nghĩ tới lao động nữa. Nhưng không phải ở nước nào người ta cũng làm giàu kiểu đó. Ở nhiều nơi người ta phải làm việc cật lực mới tích lũy được tiền của. Tuần báo Economist mới đăng một bài dài 14 trang về những người giàu; đặc biệt có một đoạn viết về “Các nhà quý tộc mới ở Á Châu,” họ so sánh những người giàu ở hai nước Ấn Ðộ và Trung Quốc. Ðọc bài đó, chúng ta biết khi nào việc làm giàu đáng gọi là vinh quang! Ðó là khi những người giàu có được người khác kính trọng.
Thế giới hiện nay có hàng chục triệu người là “triệu phú đô la Mỹ”. Nếu đặt tiêu chuẩn tổng số tài sản lên tới một triệu đô la thì, theo ngân hàng Credit Suisse, hiện có hơn 24 triệu người trên thế giới là triệu phú. Họ làm chủ tổng cộng 69 ngàn tỷ Mỹ kim. Và 41% những người này sống ở nước Mỹ, chắc quý vị độc giả ở California cũng quen biết nhiều người.
Nếu bỏ qua những tài sản nổi như nhà ở, xe cộ, trang sức, vân vân, mà chỉ đếm số tiền được đem đầu tư thôi đã lên tới một triệu, thì con số triệu phú khắp thế giới khoảng 10 triệu người, như các công ty tài chánh Capgemini và Merrill Lynch ước tính. Trong số 10 triệu người này, chỉ có 16% giàu có là do được thừa hưởng gia tài ông cha để lại. Còn 84% người giàu đều do họ tự làm nên. Ðặc biệt, gần một nửa vì tự mình khởi nghiệp kinh doanh mà trở nên giàu có. Trong đó có thể kể đến các ông Bill Gates, Warren Buffetts, hay Carlos Slim (giàu nhất Mexico, có lúc giàu nhất thế giới). Nhưng không thể kể những ông triệu phú như Nguyễn Việt Tiến, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng, hay Lê Ðức Thúy trong số đó. Vì quý vị triệu phú đô-la đó không xây dựng cơ nghiệp bằng việc doanh thương.
Ở nước Mỹ khi nói đến những người kiếm được nhiều tiền như Bill Gates hay Warren Buffetts, Tiger Woods, bà Oprah, hay các cầu thủ bóng bầu dục hoặc tài tử xi nê; không thấy ai tỏ ý ganh ghét vì họ giàu có. Hầu như mọi người công nhận chuyện họ giàu là tự nhiên. Trong một thị trường tự do cạnh tranh, có luật lệ để bảo vệ sự công bằng; thì những người chịu khó, có tài riêng và may mắn họ sẽ giàu; mình không may mắn, thiếu tài, hoặc không thích làm giàu, thì chấp nhận thua họ về tiền bạc. Miễn là sao mình không lười biếng để bị nghèo khó quá là được.
Báo The Economist kể hồi tháng 9 vừa qua, hai ông Bill Gates và Warren Buffetts đã ngồi họp với 50 đại tài chủ giàu nhất nước Tàu. Hai ông này đã bỏ ra một nửa tài sản, hoặc nhiều hơn, để làm việc nghĩa; họ nói rằng khi mình có nhiều tiền quá, xài cho mình không hết thì nên xài cho người khác. Chắc các nhà tư bản mới ở Trung Quốc sẽ noi gương. Nhiều người trong đám họ cũng làm giàu nhanh, không khác gì Bill Gates hay Mark Zuckerberg. Nhưng bên Mỹ thì việc mọi người góp tiền cho các hội thiện đã là một thói quen có từ mấy thế kỷ. Trong năm 2009 cả nước Mỹ người ta đã quyên góp 217 tỷ đô la cho các hội thiện. Còn ở bên Tàu thì từ khi lập chế độ cộng sản đến nay chắc thói quen làm việc thiện đã bị quên mất rồi. Không phải vì người Trung Hoa keo kiệt, mà vì cả nước họ chỉ có mỗi một hội thiện duy nhất được phép hoạt động, là… đảng Cộng Sản! Mà đảng ta thì thiếu gì tiền, đâu cần ai quyên góp?
Tại Mỹ, cuộc cách mạng tin học tạo cơ hội cho những người “thượng lưu trí não” (báo The Economist gọi là cognitive elite). Họ thấy tiền từ trên trời rớt xuống lẹ quá, xài không kịp bèn đem cho ngay. Bill Gates bỏ hàng chục tỷ Mỹ kim lập ra cơ quan từ thiện lúc mới có 39 tuổi. Mark Zuckerberg, người sáng lập Facebook và được báo Time chọn làm Nhân Vật Năm 2010, mới 26 tuổi đã đem tặng 100 triệu đô la cho các trường học quận Newark. Trong một xã hội dân chủ tự do, mọi người bình đẳng trước luật pháp; ai cũng có cơ hội như nhau; cho nên tài sản có chênh lệch người ta chấp nhận được. Người dân những nước đang lên cũng mà tin tưởng vào cơ chế kinh tế thị trường. Một cuộc nghiên cứu dư luận của Pew Research hỏi ý kiến mọi người có đồng ý hay không, là “trong kinh tế thị trường thì hầu hết mọi người đều được khá giả hơn, mặc dù có người giàu người nghèo”. Có 79% người Ấn Ðộ đồng ý, và 84% người Trung Hoa cũng nghĩ vậy.
Nhưng người giàu ở hai nước Ấn Ðộ và Trung Hoa khác nhau. Báo The Economist viết rằng ở Ấn Ðộ những triệu phú (đô-la) được coi như những anh hùng. Bao nhiêu nhà kinh doanh đã dựng lên cả một kỹ nghệ xuất cảng chất xám ở thành phố Bangalore, làm dịch vụ tin học cho các đại công ty quốc tế. Công ty Tata đang đưa ra thị trường những chiếc xe nhỏ xài ít tốn xăng nhất và giá rẻ nhất, nhưng cũng lập ra hàng chục cơ quan từ thiện và các viện nghiên cứu phát triển. Công ty trả lương nhân viên khá và ông Ratan Tata, chủ tịch công ty sắp hồi hưu, sống một cách khiêm tốn. Giới tỷ phú Ấn Ðộ vươn lên trong lúc nước họ cũng vươn lên. Trong thập niên vừa qua tài sản trung bình dân Ấn Ðộ tăng 150%, từ 2,000 đô la mỗi đầu người lên 5,000 đô la.
Người dân Ấn Ðộ đa số không ghét hay khinh người giàu. Báo chí tự do, ai làm giàu bất chính, ai buôn bán gian xảo, ai nhận tiền hối lộ, khó lòng giấu giếm. Các đảng chính trị hoạt động tự do, nếu có ai làm điều sai trái thế nào cũng bị soi mói, sợ có người tìm ra. Bầu cử tự do, dân bất mãn thì thay đổi người cầm quyền. Nhà báo gặp một bà cụ sống trong khu nhà ổ chuột Dharavi ở thành phố Mumbai. Bà Aruna mù chữ, ở trong căn hộ một phòng ngủ, chứa 10 người. Hỏi bà nghĩ sao về những người giàu, bà nói: “Họ làm việc cực nhọc. Chúng tôi cũng phải làm việc cực nhọc”. Con gái lớn của bà đang làm việc trong một ngân hàng. Con nhỏ hơn thì đang đi học. Gia đình này sống ở nấc thang dưới cùng của xã hội Ấn Ðộ, nhưng họ đang ngẩng đầu trông lên.
Ở Trung Quốc, báo The Economist thấy người nghèo không nhìn những người giàu như vậy. Cuộc cải cách kinh tế đã vứt bỏ chế độ cộng sản để theo kinh tế thị trường nhờ thế 500 triệu người Trung Hoa ra khỏi cảnh nghèo đói; đồng thời cũng xây những nhà chọc trời ở Thượng Hải, Quảng Châu. Nhưng giới kinh doanh ở Trung Quốc làm ăn như thế nào, người dân thường không biết. Ðó là việc trên thiên đình! Không ai được quyền đặt câu hỏi về quyền hành của đảng Cộng Sản. Ðể làm giàu, tốt nhất là đi với đảng, hay là xin vào đảng. Số đảng viên chiếm dưới 5% dân số, nhưng họ nắm quyền tuyệt đối.
Các đảng viên cao cấp và những người giàu có còn coi họ sống bên trên luật pháp. Báo The Economist thuật chuyện con trai của một trùm công an tên là Lý Cương, năm ngoái lái xe trong lúc say rượu, cán chết một người đi bộ. Cậu công tử vọt xe đi, còn quay đầu lại quát lớn: “Ðứa nào gan thì đi khai báo đi! Bố tao là Lý Cương!” Không ngờ có những blogers tìm ra chuyện này và loan truyền trên mạng. Một bài hát được phổ biến, với điệp khúc, “Bố tao là Lý Cương! Bố tao là Lý Cương!” Cuối cùng cậu công tử bị bắt và ông Lý Cương phải lên tivi xin lỗi.
Ðảng Cộng Sản giữ rất nhiều tiền, nhưng không đem chi tiêu cho những việc phúc lợi của dân như lập quỹ hưu bổng, an sinh xã hội, hoặc nâng cao trình độ y tế, giáo dục ở nông thôn. Ðảng sẵn sàng đem tiền cấp vốn hoặc cho các doanh nghiệp nhà nuớc vay, mặc dầu các cán bộ quốc doanh làm ăn thua lỗ. Các xí nghiệp tư không thể cạnh tranh với các công ty do các cán bộ quản lý. Chính quyền các cấp đặt ra những thứ thuế không cần hỏi ý kiến đại biểu của dân, và nhiều khi không đúng pháp luật.
Tình trạng bất công xã hội ở Trung Quốc đã tăng lên. Trong nước Trung Hoa đã có tới 800,000 triệu phú đô-la, nhưng cũng có 400 triệu người sống với dưới 2 đô-la một ngày. Chỉ số Gini, từ zero đến một, là một thước đo công bằng xã hội, số càng lớn càng bất công. Gini bằng zero là công bằng tuyệt đối, khi tài sản và lợi tức tất cả mọi người bằng nhau, Gini bằng 1 là bất công tuyệt đối. Giữa thập niên 1980, khi nước Trung Hoa mới bắt đầu đổi mới kinh tế, hầu hết mọi người nghèo như nhau, chỉ số Gini là 0.28; 20 năm sau, chỉ số đó tăng lên thành 0.4, tức là bất công hơn. Thời 1980 Ấn Ðộ bất công hơn Trung Quốc, điều đó hiểu được vì hệ thống đẳng cấp dựa trên tôn giáo vẫn lưu cữu; nhưng bây giờ nhờ kinh tế thị trường nên Ấn Ðộ công bằng hơn. Ở Ấn Ðộ, trong cùng thời gian kể trên, chỉ số Gini cũng tăng từ 0.32 lên 0.37.
Một nguyên nhân gây nên cảnh bất công xã hội ở Trung Quốc, theo The Economist, là chế độ hộ khẩu. Nông dân không được tự do đổi chỗ ở, khi lên thành phố sống con cái họ không được đi học trường công chính thức, không được cung cấp các dịch vụ xã hội, y tế, vì không có hộ khẩu. Có 2 nước Trung Hoa, người thành phố và người nông thôn, phân cách vì chính sách hộ khẩu. Thành phố Thượng Hải cho phép những phụ nữ lấy chồng người Thượng Hải, sau 15 năm sẽ có hộ khẩu. Hỏi tại sao không cho những người đàn ông lấy vợ ở Thượng Hải được hưởng quy chế đó, văn phòng thị trưởng không giải thích được, chỉ nói rằng chắc không có cô nào dân Thượng Hải mà lại lấy chồng “ngoại quốc!”
Cảnh sống bất công đang là một thùng thuốc nổ đe dọa sự ổn định xã hội ở Trung Quốc. Nhà văn Pearl Buck viết nhiều tiểu thuyết về người Trung Hoa, đã nhận xét: Khi nào người giàu giàu quá còn người nghèo nghèo quá thì sẽ loạn. Không biết những nhà tỷ phú, triệu phú ở Trung Quốc có tìm cách chia sẻ lợi tức và tài sản cho các đồng bào của họ ở thôn quê hay không. Nhưng nếu muốn cho con cháu họ trong lâu dài vẫn được hưởng những tài sản họ đã tích lũy được, tốt nhất là phải thiết lập một chế độ tự do dân chủ, có pháp luật công bằng do các đại biểu thật sự của mọi người dân đặt ra. Như Khổng Tử nói, khi đó là quốc gia sẽ trở thành “hữu đạo”.
Những ông triệu phú đô la ở Trung Quốc (và Việt Nam) nên học lại Khổng Tử, sau khi một bức tượng của ngài mới được dựng lên làm cảnh trước Thiên An Môn. Cụ Khổng ngày xưa cũng rất quan tâm đến chuyện làm giàu, có lúc cụ còn khuyến khích người ta phải làm giàu, vì nếu sống nghèo là đáng hổ thẹn. Cụ từng nói: “Ở một nước có đạo lý mà mình nghèo hèn thì đáng xấu hổ; ở một nước không có đạo lý mà mình giàu sang thì đáng xấu hổ” (“Bang hữu đạo, bần thả tiện yên, sỉ dã; bang vô đạo, phú thả quý yên, sỉ dã”. Luận Ngữ, thiên VIII, Thái Bá, câu 13).
Một nước theo thể chế tự do dân chủ với luật pháp công bằng, có thể xếp vào loại “Bang Hữu Ðạo”. Còn nói đến “Bang Vô Ðạo” thì ai cũng biết nó thế nào rồi. Khi con một ông tướng công an cán chết người xong, không những thản nhiên bỏ đi mà còn thách đố và đe dọa mọi người; một nước như vậy thì gọi là gì?
Ngô Nhân Dụng
Mùa xuân của người mù bán chổi
Posted by truongthondlb3
Liêu Thái/Người Việt - QUẢNG NAM – Họ là những người không nhà, không tiền, không tương lai và không có khái niệm thời gian. Mà dường như họ cũng không có khái niệm gì về không gian nốt.
Thời gian của họ là mùi của bữa cơm đạm bạc sau một buổi dài mệt nhọc vác bó chổi mọ mẫm dò tìm lối đi, khắp nẻo. Không gian của họ là một vòm bóng tối cùng những âm thanh, tiếng nói quen thuộc của những gương mặt chưa bao giờ nhìn thấy nhau…
Cuộc đời họ buồn, nhưng họ sống mạnh mẽ và đáng yêu… Mùa Xuân của họ cũng kham khổ và đượm buồn như chính tiếng rao của họ!
Những tiếng rao dài như cổ tích
Cuối năm, trời lạnh, thi thoảng đổ mưa, vài chiếc xe đường dài chạy như ma đuổi lốc lên từng cơn bụi, trận mưa rào không đủ thấm vào khối đất bột hai bên đường khiến cho bụi có thêm mùi hơi khét ướt. Tết, vậy mà mọi thứ vẫn còn ngổn ngang. Hàng hóa tăng giá, người nghèo co ro trong nỗi vui Tết nghèo. Cái lạnh càng thêm thấm da thấm thịt khi bất chợt nhìn thấy một người mù vác bó chổi đót chống gậy lọ mọ đi dưới mưa bụi. Tiếng rao: Chổi đây! Chổi đây!… ảm đạm như kéo dài cổ tích.
Thay vì đi uống cà phê một mình, tôi mời người bán chổi vào quán cùng uống nước và hứa sẽ mua năm cây chổi (tôi cũng chưa biết mua làm gì và định bụng nói vậy thôi chứ gửi tiền năm cây, tôi vẫn có quyền nhận một cây và tặng số còn lại cho người bán!).
Ông giới thiệu: “Mình tên Trần Hùng, 59 tuổi, đang là hội viên Hội Người Mù, mình sống bằng nghề buôn chổi!”
Tôi hỏi thăm ông nhà ở đâu, đã sắp Tết, ông đã chuẩn bị gì ăn Tết chưa, và những ngày cận Tết đi bán vậy ông có thấy vui không… Ông gật đầu, “Tết thì vui rồi, mình cả năm trông chờ vào mùa này mà, sáng dậy mình đi rất sớm, có khi đi tới khuya mới về, bán trúng kiếm cả trăm ngàn đồng (tương đương $10) chứ chơi đâu, Tết mà!”
Ðợi ông nhấp xong ngụm trà nóng, tôi hỏi thêm: “Vậy ngày thường mình bán được chừng bao nhiêu cây chổi và tiền lãi ra sao bác?” Ông cười: “Ừ, ngày thường kiếm được từ 25 đến 30 ngàn đồng (tương đương $1.2 – $1.5) nhưng không phải ngày nào cũng kiếm được vậy đâu, vì chổi mà, người bán thì nhiều, mà người xài thì đâu có phải ai cũng mua xong xài là hư ngay đâu. Cả hội người mù có đến 40 người đi bán chổi, người cao nhất là 80 tuổi thì đi bán ở khu vực trong huyện, còn trẻ thì đi xa.”
Ông Hùng cho biết thêm là có nhiều người mù, tuổi đã cao, vác bó chổi nặng từ 25 đến 30kg đi vào tận Quảng Ngãi hoặc ra Ðà Nẵng bán. Phần lớn họ đi nhờ xe bus hoặc đi xe khách với giá ưu tiên.
“Nhà nước có chế độ ưu tiên cho người mù đi xe bus của nhà nước miễn phí. Nhưng tụi tui vẫn đi xe tư là chủ yếu. Vì dễ gì mà đón được xe nhà nước, hễ xe bus nhà nước thấy tụi tui đứng đón là chạy luôn, không ngừng đâu! Thôi mình đón xe tư, họ lấy giá cũng rẻ hơn khách bình thường, có nhiều chủ xe cho luôn tiền xe, không lấy. Ðó là chưa nói đến tai nạn…” Ông Hùng tâm sự.
Thường thì người mù không sợ bóng đêm nhưng họ sợ tiếng ồn, vì tất cả cảm giác của họ khi di chuyển đều phụ thuộc vào âm thanh và tín hiệu dọ dẫm phát ra từ hai bàn tay, từ bước chân… Những ngày giáp Tết, phố xá ồn ào, tấp nập cũng là những ngày kiếm sống tốt nhất của người bán chổi, người bán vé số, người bán hàng rong… Tuy nhiên, nguy hiểm lại rình rập người mù.
Ðã có không ít tai nạn thương tâm xảy đến với người mù đi bán chổi.
Lá rách đùm lá nát…
Ông Hùng kể: “Người cao tuổi nhất của nhóm đi bán chổi đót trong hội người mù năm nay đã ngoài tám mươi. Ông cũng có con cái nhưng tụi nó nghèo khổ quá, mà ông thì không muốn dựa dẫm, vậy là đi, khi nào hết đi được mới thôi. Cách đây mấy hôm, ông bị sụp xuống hố trụ điện, dính toàn đá hộc, vậy là gãy chân, xước mặt, chảy máu quá trời. Trúng mấy ngày lạnh này nữa, thấy ổng nằm rên mà thương quá. Mà khổ nỗi mình cũng nghèo như ổng, chẳng biết giúp gì!”
Trước đây, cùng đi bán chổi với ông Hùng còn có thêm cặp vợ chồng mù Ðỗ Phú Trung (mồ côi cha mẹ) và Nguyễn Thị Phương. Hai người cưới nhau được ba năm thì sinh con, và lúc đứa bé lên 9 tuổi thì anh Trung bị tai nạn qua đời, vài năm sau, chị Phương cũng đổ bệnh và qua đời theo, bỏ lại đứa con 13 tuổi sống với bà ngoại. “Sáng nay tui mới gặp thằng nhỏ, cho nó mấy ngàn đồng, mình không có tiền, thôi kệ, lá rách thương đùm lá nát mà!” Ông Hùng kể.
Tôi tạm biệt ông Hùng, giữ đúng lời hứa mua năm chiếc chổi, mỗi cây 20 ngàn đồng và sau đó tặng lại ông bốn cây. Ông mừng lắm. Ông cho tôi biết thêm rằng ngày hôm nay ông đã quá “trúng mánh” vì trong mỗi cây chổi ông lãi từ 3 đến 5 ngàn đồng. Như vậy để kiếm được 80 ngàn đồng, ông phải bán đến hơn hai mươi cây chổi. Trước khi ra về, tôi không quên nhấc thử bó chổi, tôi giật mình vì nó quá nặng. Có thể lên đến 35kg và hơn chứ không phải như ông nói 25kg.
Tôi hỏi: “Nặng kinh khủng vậy sao bác nói 25 kg?” Ông Hùng cười khà khà: “Thì nói vậy cho nó nhẹ bớt, chứ nếu mình nghĩ mình mù mãi làm sao dám đi ra đường, và nghĩ nó nặng quá thì vác mau mệt. Bọn tui quen rồi, có vác năm mươi kí lô thì cũng phải nghĩ nó cao nhất là hai mươi lăm. Như vậy sẽ thấy nhẹ hơn. Chú nghĩ sao mà tui đi năm sáu chục cây số mà vác có hai mươi lăm cây chổi, mỗi cây một kí lô, vậy thì lời lãi bao nhiêu chứ. Thà chấp nhận vác nhiều, trúng mánh mình bán hết là có ăn chú à!”
Lúc tôi tạm biệt ông Hùng, đồng hồ đã chỉ sang 1 giờ 30 phút chiều. Ông nói chút nữa ông sẽ đi ăn một bữa cơm thịt và tôm cho thật đã, vì ông trúng mánh, thường thì mỗi bữa ăn của ông không bao giờ được phép quá 7 ngàn đồng.
Tự dưng tôi thấy ân hận vì không tặng thêm ông nhiều tiền một chút và đã nói chuyện quá dông dài để ông đói bụng. Không hiểu sao lúc này ông quay lại vỗ vai tôi và nói: “Không sao đâu mà cháu!” Tôi buột miệng hỏi: “Vậy Tết mình ăn món gì ngon nhất hả bác?”; Ông nói: “Da heo và đầu heo nấu cháo, bữa cúng Tất niên của hội là ngon nhất đó!” Tôi im lặng nhìn theo dáng ông bước dọ dẫm, ôm bó chổi xiêu vẹo trên đường.
Và những bữa cơm Tết…
Theo lời giới thiệu của ông Hùng, tôi tìm đến Hội Người Mù Ðiện Bàn, ở khối 4, thị trấn Vĩnh Ðiện, huyện Ðiện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Cảm giác đầu tiên ập vào tôi là không khí vắng lặng, dù đã hơn 6 giờ chiều mà không thấy đèn đóm nào thắp lên, phòng ốc chật chội, áo quần phơi khắp nơi, ẩm mốc bốc mùi khắp ngõ ngách.
Ấn tượng mạnh hơn nữa là giọng hát nữ vọng ra từ một căn phòng tối om: “Nhìn mặt trời mà không chói lóa, là hội người mù Việt Nam…”
Sau một lúc trò chuyện với ông phó chủ tịch hội (cũng bị mù) và ông chủ tịch hội (mù hoàn toàn, không thấy gì), tôi được chị tình nguyện viên (lành lặn) dắt đi thăm các phòng, trò chuyện, chụp hình. Xuống đến nhà bếp, tôi lại ngạc nhiên thêm lần nữa vì người đang ngồi hát (câu tôi mới vừa kể trên) vừa lặt rau vừa cời than trên bếp nấu canh. Chị làm nhanh và thiện nghệ đến độ tôi không nghĩ đó là người mù. Cho đến khi tôi hỏi thăm, chị ngước đôi mắt mờ đục lên nhìn về phía tôi một cách vô vọng tôi mới hiểu là chị không nhìn thấy gì.
Tôi lại liếc nhìn vào nồi canh của chị đang nấu cho cả tập thể hơn ba mươi người cùng ăn. Trời ạ, “canh toàn quốc” tôi nghe nhiều rồi nhưng đây là lần đầu tôi mục kích sở thị một nồi canh toàn quốc với rau cúc tần loe ngoe vài chục cọng, mấy con tôm khô nổi lên rồi lại chìm xuống theo nhịp sôi của nước, và mùi “nước mắm đại dương” mặn chát. Tôi cố nhìn, dò tìm xem thử còn món nào khác và thấy một dĩa cá chuồn kho chừng vài ba con gì đó, có vẻ như cá kho đã lâu, hâm đi hâm lại đến độ chuyển sang màu vàng xanh đùng đục.
Tự dưng tôi thấy hơi nghẹn và thầm nghĩ: cũng may là họ mù, có khi như vậy lại hay, nếu họ mắt sáng, nhìn thấy đời sống chung quanh rồi lại nhìn lại mình, nhìn lại góc đời giường chiếu ẩm mốc với diện tích chưa tới 30 mét vuông cho cả mấy chục người, nhìn lại góc bếp hoang hoải của mình, e rằng họ buồn lắm, khó mà nói được cho trót!
Ông chủ tịch hội nói với tôi: “Ở đây chỉ có món chổi đót là nhiều và phong phú nhất, nhưng món này không ăn được. Nói là hội, nói tui là chủ tịch hội cho sang vậy chứ được chi mô chú. Thì nhà nước xây dựng hội, hỗ trợ cho học chữ bờ-ray (brind) vậy là quí quá rồi. Những người mù già yếu, hoàn toàn không nơi nương tựa thì được cấp 360 ngàn đồng/tháng. Còn lại thì có vài người được cho 180 ngàn/tháng. Chủ yếu là đi bán chổi mà sống chú ơi! Anh em mù ở đây không phải là thương binh, họ mù bẩm sinh hoặc đi kinh tế mới khai phá đất bị mìn, hỏng mắt, nên chẳng có chế độ gì cho họ được thoải mái đâu, nếu là thương binh nhà nước thì đã có chỗ ở ngon lành rồi.”
Ông nói thêm: “Hội bỏ mối chổi cho các hội viên với giá gốc 18 ngàn đồng, bán ra thị trường được 20 đến 21 ngàn dồng, lãi cao nhất 3 ngàn đồng/cây chổi. Mỗi tháng nếu làm giỏi thì kiếm cũng được 700 ngàn đồng/ người. Trừ những ngày mưa gió, ốm đau. Có người lấy thêm chổi bên ngoài có chất lượng tốt hơn để bán và lãi cũng cao hơn chút đỉnh.”
Tôi hỏi ông có ai kiếm được mỗi tháng chừng 900 ngàn đồng không, ông lắc đầu nói dứt khoát: “Chắn chắn là không có, trừ khi trúng mánh được người ta cho kia, nhưng có mấy ai có cái phước đó.”
Tôi lại hỏi thêm về những ưu tiên, những chính sách của nhà nước dành cho hội, ông lại lắc đầu, và tôi để ý thấy mấy người ngồi bên trong cũng lắc đầu. Tôi nhớ đến câu của ông Hùng trong lần gặp buổi trưa: “Có đôi khi mình là kẻ ăn bám mà! Khổ lắm chú ơi!”
Ông chủ tịch hội nói thêm: “Tết này có quà anh à, người ta cho mỗi người mù một thùng mì tôm và 50 ngàn đồng.” Tôi hỏi ông: “Tết mà sao lại cho mì tôm hả bác? Ðâu phải bão lụt đâu mà cho vậy?” Ông chủ tịch nói: “Vậy cũng là quí hóa lắm rồi anh ơi, anh thấy đấy, ở quê mình, người sáng còn khổ nữa huống chi là người mù!”
Tôi im lặng, chào tạm biệt ông và những anh em mù trong căn phòng không có đèn đóm.
Vì với người mù, ban ngày cũng như ban đêm, và với người mù nghèo khó thì mùa Xuân cũng chẳng khác gì mùa Ðông.
Tiếng rao bán chổi của họ vẫn kéo lê theo tiếng bước chân mỏi mệt trên mặt đường. Những mặt đường mùa Xuân lạnh và khô.
Liêu Thái
Liêu Thái/Người Việt - QUẢNG NAM – Họ là những người không nhà, không tiền, không tương lai và không có khái niệm thời gian. Mà dường như họ cũng không có khái niệm gì về không gian nốt.
Thời gian của họ là mùi của bữa cơm đạm bạc sau một buổi dài mệt nhọc vác bó chổi mọ mẫm dò tìm lối đi, khắp nẻo. Không gian của họ là một vòm bóng tối cùng những âm thanh, tiếng nói quen thuộc của những gương mặt chưa bao giờ nhìn thấy nhau…
Cuộc đời họ buồn, nhưng họ sống mạnh mẽ và đáng yêu… Mùa Xuân của họ cũng kham khổ và đượm buồn như chính tiếng rao của họ!
Những tiếng rao dài như cổ tích
Cuối năm, trời lạnh, thi thoảng đổ mưa, vài chiếc xe đường dài chạy như ma đuổi lốc lên từng cơn bụi, trận mưa rào không đủ thấm vào khối đất bột hai bên đường khiến cho bụi có thêm mùi hơi khét ướt. Tết, vậy mà mọi thứ vẫn còn ngổn ngang. Hàng hóa tăng giá, người nghèo co ro trong nỗi vui Tết nghèo. Cái lạnh càng thêm thấm da thấm thịt khi bất chợt nhìn thấy một người mù vác bó chổi đót chống gậy lọ mọ đi dưới mưa bụi. Tiếng rao: Chổi đây! Chổi đây!… ảm đạm như kéo dài cổ tích.
Thay vì đi uống cà phê một mình, tôi mời người bán chổi vào quán cùng uống nước và hứa sẽ mua năm cây chổi (tôi cũng chưa biết mua làm gì và định bụng nói vậy thôi chứ gửi tiền năm cây, tôi vẫn có quyền nhận một cây và tặng số còn lại cho người bán!).
Ông giới thiệu: “Mình tên Trần Hùng, 59 tuổi, đang là hội viên Hội Người Mù, mình sống bằng nghề buôn chổi!”
Tôi hỏi thăm ông nhà ở đâu, đã sắp Tết, ông đã chuẩn bị gì ăn Tết chưa, và những ngày cận Tết đi bán vậy ông có thấy vui không… Ông gật đầu, “Tết thì vui rồi, mình cả năm trông chờ vào mùa này mà, sáng dậy mình đi rất sớm, có khi đi tới khuya mới về, bán trúng kiếm cả trăm ngàn đồng (tương đương $10) chứ chơi đâu, Tết mà!”
Ðợi ông nhấp xong ngụm trà nóng, tôi hỏi thêm: “Vậy ngày thường mình bán được chừng bao nhiêu cây chổi và tiền lãi ra sao bác?” Ông cười: “Ừ, ngày thường kiếm được từ 25 đến 30 ngàn đồng (tương đương $1.2 – $1.5) nhưng không phải ngày nào cũng kiếm được vậy đâu, vì chổi mà, người bán thì nhiều, mà người xài thì đâu có phải ai cũng mua xong xài là hư ngay đâu. Cả hội người mù có đến 40 người đi bán chổi, người cao nhất là 80 tuổi thì đi bán ở khu vực trong huyện, còn trẻ thì đi xa.”
Ông Hùng cho biết thêm là có nhiều người mù, tuổi đã cao, vác bó chổi nặng từ 25 đến 30kg đi vào tận Quảng Ngãi hoặc ra Ðà Nẵng bán. Phần lớn họ đi nhờ xe bus hoặc đi xe khách với giá ưu tiên.
“Nhà nước có chế độ ưu tiên cho người mù đi xe bus của nhà nước miễn phí. Nhưng tụi tui vẫn đi xe tư là chủ yếu. Vì dễ gì mà đón được xe nhà nước, hễ xe bus nhà nước thấy tụi tui đứng đón là chạy luôn, không ngừng đâu! Thôi mình đón xe tư, họ lấy giá cũng rẻ hơn khách bình thường, có nhiều chủ xe cho luôn tiền xe, không lấy. Ðó là chưa nói đến tai nạn…” Ông Hùng tâm sự.
Thường thì người mù không sợ bóng đêm nhưng họ sợ tiếng ồn, vì tất cả cảm giác của họ khi di chuyển đều phụ thuộc vào âm thanh và tín hiệu dọ dẫm phát ra từ hai bàn tay, từ bước chân… Những ngày giáp Tết, phố xá ồn ào, tấp nập cũng là những ngày kiếm sống tốt nhất của người bán chổi, người bán vé số, người bán hàng rong… Tuy nhiên, nguy hiểm lại rình rập người mù.
Ðã có không ít tai nạn thương tâm xảy đến với người mù đi bán chổi.
Lá rách đùm lá nát…
Ông Hùng kể: “Người cao tuổi nhất của nhóm đi bán chổi đót trong hội người mù năm nay đã ngoài tám mươi. Ông cũng có con cái nhưng tụi nó nghèo khổ quá, mà ông thì không muốn dựa dẫm, vậy là đi, khi nào hết đi được mới thôi. Cách đây mấy hôm, ông bị sụp xuống hố trụ điện, dính toàn đá hộc, vậy là gãy chân, xước mặt, chảy máu quá trời. Trúng mấy ngày lạnh này nữa, thấy ổng nằm rên mà thương quá. Mà khổ nỗi mình cũng nghèo như ổng, chẳng biết giúp gì!”
Trước đây, cùng đi bán chổi với ông Hùng còn có thêm cặp vợ chồng mù Ðỗ Phú Trung (mồ côi cha mẹ) và Nguyễn Thị Phương. Hai người cưới nhau được ba năm thì sinh con, và lúc đứa bé lên 9 tuổi thì anh Trung bị tai nạn qua đời, vài năm sau, chị Phương cũng đổ bệnh và qua đời theo, bỏ lại đứa con 13 tuổi sống với bà ngoại. “Sáng nay tui mới gặp thằng nhỏ, cho nó mấy ngàn đồng, mình không có tiền, thôi kệ, lá rách thương đùm lá nát mà!” Ông Hùng kể.
Tôi tạm biệt ông Hùng, giữ đúng lời hứa mua năm chiếc chổi, mỗi cây 20 ngàn đồng và sau đó tặng lại ông bốn cây. Ông mừng lắm. Ông cho tôi biết thêm rằng ngày hôm nay ông đã quá “trúng mánh” vì trong mỗi cây chổi ông lãi từ 3 đến 5 ngàn đồng. Như vậy để kiếm được 80 ngàn đồng, ông phải bán đến hơn hai mươi cây chổi. Trước khi ra về, tôi không quên nhấc thử bó chổi, tôi giật mình vì nó quá nặng. Có thể lên đến 35kg và hơn chứ không phải như ông nói 25kg.
Tôi hỏi: “Nặng kinh khủng vậy sao bác nói 25 kg?” Ông Hùng cười khà khà: “Thì nói vậy cho nó nhẹ bớt, chứ nếu mình nghĩ mình mù mãi làm sao dám đi ra đường, và nghĩ nó nặng quá thì vác mau mệt. Bọn tui quen rồi, có vác năm mươi kí lô thì cũng phải nghĩ nó cao nhất là hai mươi lăm. Như vậy sẽ thấy nhẹ hơn. Chú nghĩ sao mà tui đi năm sáu chục cây số mà vác có hai mươi lăm cây chổi, mỗi cây một kí lô, vậy thì lời lãi bao nhiêu chứ. Thà chấp nhận vác nhiều, trúng mánh mình bán hết là có ăn chú à!”
Lúc tôi tạm biệt ông Hùng, đồng hồ đã chỉ sang 1 giờ 30 phút chiều. Ông nói chút nữa ông sẽ đi ăn một bữa cơm thịt và tôm cho thật đã, vì ông trúng mánh, thường thì mỗi bữa ăn của ông không bao giờ được phép quá 7 ngàn đồng.
Tự dưng tôi thấy ân hận vì không tặng thêm ông nhiều tiền một chút và đã nói chuyện quá dông dài để ông đói bụng. Không hiểu sao lúc này ông quay lại vỗ vai tôi và nói: “Không sao đâu mà cháu!” Tôi buột miệng hỏi: “Vậy Tết mình ăn món gì ngon nhất hả bác?”; Ông nói: “Da heo và đầu heo nấu cháo, bữa cúng Tất niên của hội là ngon nhất đó!” Tôi im lặng nhìn theo dáng ông bước dọ dẫm, ôm bó chổi xiêu vẹo trên đường.
Và những bữa cơm Tết…
Theo lời giới thiệu của ông Hùng, tôi tìm đến Hội Người Mù Ðiện Bàn, ở khối 4, thị trấn Vĩnh Ðiện, huyện Ðiện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Cảm giác đầu tiên ập vào tôi là không khí vắng lặng, dù đã hơn 6 giờ chiều mà không thấy đèn đóm nào thắp lên, phòng ốc chật chội, áo quần phơi khắp nơi, ẩm mốc bốc mùi khắp ngõ ngách.
Ấn tượng mạnh hơn nữa là giọng hát nữ vọng ra từ một căn phòng tối om: “Nhìn mặt trời mà không chói lóa, là hội người mù Việt Nam…”
Sau một lúc trò chuyện với ông phó chủ tịch hội (cũng bị mù) và ông chủ tịch hội (mù hoàn toàn, không thấy gì), tôi được chị tình nguyện viên (lành lặn) dắt đi thăm các phòng, trò chuyện, chụp hình. Xuống đến nhà bếp, tôi lại ngạc nhiên thêm lần nữa vì người đang ngồi hát (câu tôi mới vừa kể trên) vừa lặt rau vừa cời than trên bếp nấu canh. Chị làm nhanh và thiện nghệ đến độ tôi không nghĩ đó là người mù. Cho đến khi tôi hỏi thăm, chị ngước đôi mắt mờ đục lên nhìn về phía tôi một cách vô vọng tôi mới hiểu là chị không nhìn thấy gì.
Tôi lại liếc nhìn vào nồi canh của chị đang nấu cho cả tập thể hơn ba mươi người cùng ăn. Trời ạ, “canh toàn quốc” tôi nghe nhiều rồi nhưng đây là lần đầu tôi mục kích sở thị một nồi canh toàn quốc với rau cúc tần loe ngoe vài chục cọng, mấy con tôm khô nổi lên rồi lại chìm xuống theo nhịp sôi của nước, và mùi “nước mắm đại dương” mặn chát. Tôi cố nhìn, dò tìm xem thử còn món nào khác và thấy một dĩa cá chuồn kho chừng vài ba con gì đó, có vẻ như cá kho đã lâu, hâm đi hâm lại đến độ chuyển sang màu vàng xanh đùng đục.
Tự dưng tôi thấy hơi nghẹn và thầm nghĩ: cũng may là họ mù, có khi như vậy lại hay, nếu họ mắt sáng, nhìn thấy đời sống chung quanh rồi lại nhìn lại mình, nhìn lại góc đời giường chiếu ẩm mốc với diện tích chưa tới 30 mét vuông cho cả mấy chục người, nhìn lại góc bếp hoang hoải của mình, e rằng họ buồn lắm, khó mà nói được cho trót!
Ông chủ tịch hội nói với tôi: “Ở đây chỉ có món chổi đót là nhiều và phong phú nhất, nhưng món này không ăn được. Nói là hội, nói tui là chủ tịch hội cho sang vậy chứ được chi mô chú. Thì nhà nước xây dựng hội, hỗ trợ cho học chữ bờ-ray (brind) vậy là quí quá rồi. Những người mù già yếu, hoàn toàn không nơi nương tựa thì được cấp 360 ngàn đồng/tháng. Còn lại thì có vài người được cho 180 ngàn/tháng. Chủ yếu là đi bán chổi mà sống chú ơi! Anh em mù ở đây không phải là thương binh, họ mù bẩm sinh hoặc đi kinh tế mới khai phá đất bị mìn, hỏng mắt, nên chẳng có chế độ gì cho họ được thoải mái đâu, nếu là thương binh nhà nước thì đã có chỗ ở ngon lành rồi.”
Ông nói thêm: “Hội bỏ mối chổi cho các hội viên với giá gốc 18 ngàn đồng, bán ra thị trường được 20 đến 21 ngàn dồng, lãi cao nhất 3 ngàn đồng/cây chổi. Mỗi tháng nếu làm giỏi thì kiếm cũng được 700 ngàn đồng/ người. Trừ những ngày mưa gió, ốm đau. Có người lấy thêm chổi bên ngoài có chất lượng tốt hơn để bán và lãi cũng cao hơn chút đỉnh.”
Tôi hỏi ông có ai kiếm được mỗi tháng chừng 900 ngàn đồng không, ông lắc đầu nói dứt khoát: “Chắn chắn là không có, trừ khi trúng mánh được người ta cho kia, nhưng có mấy ai có cái phước đó.”
Tôi lại hỏi thêm về những ưu tiên, những chính sách của nhà nước dành cho hội, ông lại lắc đầu, và tôi để ý thấy mấy người ngồi bên trong cũng lắc đầu. Tôi nhớ đến câu của ông Hùng trong lần gặp buổi trưa: “Có đôi khi mình là kẻ ăn bám mà! Khổ lắm chú ơi!”
Ông chủ tịch hội nói thêm: “Tết này có quà anh à, người ta cho mỗi người mù một thùng mì tôm và 50 ngàn đồng.” Tôi hỏi ông: “Tết mà sao lại cho mì tôm hả bác? Ðâu phải bão lụt đâu mà cho vậy?” Ông chủ tịch nói: “Vậy cũng là quí hóa lắm rồi anh ơi, anh thấy đấy, ở quê mình, người sáng còn khổ nữa huống chi là người mù!”
Tôi im lặng, chào tạm biệt ông và những anh em mù trong căn phòng không có đèn đóm.
Vì với người mù, ban ngày cũng như ban đêm, và với người mù nghèo khó thì mùa Xuân cũng chẳng khác gì mùa Ðông.
Tiếng rao bán chổi của họ vẫn kéo lê theo tiếng bước chân mỏi mệt trên mặt đường. Những mặt đường mùa Xuân lạnh và khô.
Liêu Thái
Cù Huy Hà Vũ – khúc xương khó nuốt
Posted by truongthondlb3
Nguyễn Tường Tâm (Đàn Chim Việt) - Cù Huy Hà Vũ có một nhân thân đặc biệt, có một gia thế đặc biệt, có một quan hệ xã hội cá nhân đặc biệt, tình hình hiện nay đặc biệt, điều luật truy tố ông rất đặc biệt, tất cả các điều đó khiến cho Đảng đã và sẽ còn tiếp tục gặp rất nhiều khó khăn trong việc giải quyết vụ án, kể cả muốn dùng các biện pháp đặc biệt trấn áp hay mua chuộc bị can cũng không thể làm được, và ngay cả tìm một chánh án để xét xử bị can cũng gặp khó khăn, chẳng ai muốn “bị” cử làm chánh án vụ Cù Huy Hà Vũ.
Trước thái độ thẳng thắn, táo bạo của Tiến Sĩ (TS) Cù Huy Hà Vũ, nhiều người nghĩ rằng đằng sau ông phải có một lực lượng lớn trong giới lãnh đạo đảng hỗ trợ. Điều này có thể đúng… nhưng không nhất thiết phải có điều đó. Hơn hai hết, ông biết về gia thế của ông. Gia đình ông là một trong rất ít “Hoàng Gia Cách Mạng”. Bố ông, Cù Huy Cận, một trong các công thần tạo dựng chế độ, đồng thời cùng với cậu ruột của ông, nhà thơ Xuân Diệu, hai người là hai ngôi sao sáng nhất trong thi ca Việt Nam cận đại. Bản thân ông lại là một trí thức được đào tạo bài bản của hai nền giáo dục Xã hội Chủ Nghĩa và phương tây. Việc làm của ông không mưu lợi cá nhân mà hoàn toàn vì các người dân nghèo khổ đang bị đàn áp, vì dân tộc, vì nguy cơ của tổ quốc trước họa xâm lăng của ngoại bang phương bắc. Cho nên chỉ có một số rất ít trí thức vì ganh tị cho ông là người “tự làm nổi”, và một số rất ít nhân vật lãnh đạo chóp bu bị ông tố cáo là thù ghét ông, đại đa số thành phần dân chúng và đảng viên, đặc biệt là giới cách mạng lão thành còn lại đều biểu đồng tình với ông, vì ông đã nói được cho họ, đã hành động thay cho họ, những điều mà họ rất muốn mà không nói và không làm được. Chính điều này khiến đảng đã phải suy nghĩ lung lắm, cuối cùng, mới dám bắt ông, mặc dù đó là điều lúc đầu họ không dám, không muốn.
Bắt ông rồi, cũng không dám ra lệnh cho đám cai tù hành hạ ông như đối với những nhà bất đồng chính kiến khác. Ai dám ra lệnh đó? Mà nếu có kẻ ra lệnh thì những cai tù nào dám thi hành? Đám công an cai tù dù ngu dốt lắm cũng phải biết hành hạ ông chẳng có lợi gì cho bản thân, có khi còn mang họa vì nguy cơ bị những đảng viên cao cấp khác âm thầm đồng tình với việc làm của ông, cảm tình với “gia đình cách mạng danh tiếng” của ông, sẽ trả thù.
Cá nhân ông cũng có mối quan hệ xã hội đặc biệt làm rào chắn bảo vệ ông. Ông là một trong rất ít trí thức xuất sắc trong nước. Điều này khiến ông được giới trí thức đàn anh và cùng trang lứa có cảm tình và nể vì đặc biệt. Bởi thế ông đã được giới trí thức đàn anh và bậc thầy của ông trên trang mạng bauxite trao cho chức vụ danh giá trong tổ chức này, “Cố vấn pháp luật.” Đây là cái áo giáp vô hình nhưng vững chắc bảo vệ ông.
Ông cũng là một nghệ sĩ hội họa có tài, từng được hân hạnh vẽ nhiều bức chân dung Đại tướng Võ Nguyên Giáp và tranh rất đẹp, đồng thời cũng là hội viên hội Mỹ Thuật Việt Nam. Ông thường được giới văn nghệ sĩ có uy tín trong cũng như ngoài đảng mời tham dự các sinh hoạt văn hóa, như cuộc hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn tại Cẩm Giàng, quê hương của Văn Đoàn nổi tiếng này, mà bố ông cũng là một thành viên. Bởi thế, giới nghệ sĩ, một thành phần sĩ phu có uy tín trong nước, sẽ đứng về phía ông trong những việc ông làm. Lại thêm một lớp áo giáp nữa bảo vệ ông.
Tốt nghiệp tiến sĩ luật tại trường nổi tiếng nhất nước Pháp, Đại học Sorbone, nên ông rất thông thạo luật pháp của mấy nước văn minh phương tây cũng như rành rẽ những thiếu sót trong luật hình sự và luật hiến pháp của Việt Nam. Ông cũng từng rút kinh nghiệm đau thương qua vụ nhận tội của hai nhà tranh đấu cho nhân quyền Nguyễn Tiến Trung và Luật Sư Lê Công Định, cho nên không thể có chuyện ông nhận tội trước tòa. Trong bài “Về điều 79” gửi cho đài BBC ngày 17/12/2009, TS Hà Vũ nghiên cứu trường hợp Luật Sư Lê Công Định bị tuyên án 5 năm tù giam, quản chế 3 năm về tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” (điều 79 BLHS), ông đã phân tích tất cả các mánh lới của Cơ quan công an đe dọa và dụ dỗ LS Định để ông này nhận tội mong được hưởng khoan hồng giảm án. Do đó chắc chắn không thể có chuyện ông nhận tội dù với bất cứ biện pháp đe dọa hay dụ dỗ nào.
Mới đây, trong biên bản lời khai lập ngày 18-1-2011, từ trong tù TS Hà Vũ một lần nữa cho thấy thái độ cương quyết không nhận tội khi ông xác nhận 3 mục tiêu đòi hỏi lâu nay của ông là: Bác bỏ chủ nghĩa xã hội, đa đảng và liên minh với Hoa Kỳ, đồng thời ông cũng xác định, “Tổ Quốc Việt Nam hay là chết.” Cho tới giờ phút này của vụ án, TS Hà Vũ cho thấy ông cương quyết không nhận tội.
Ông lại rất khôn ngoan không để bị kết tội lật đổ chính quyền nhân dân theo điều 79 BLHS mà hình phạt cao nhất là tử hình như đảng đã từng áp dụng đối với mấy nhà tranh đấu khác. Trong bài “Về Điều 79” trích dẫn ở trên, ông viết, “Theo Điều 79 BLHS, người nào hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân là phạm “Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Phân tích trường hợp LS Lê Công Định ông viết tiếp, “Tại cơ quan an ninh Việt Nam, Lê Công Định thừa nhận đã tham gia “Đảng dân chủ Việt Nam”, thành lập “Đảng lao động” và “Đảng xã hội”, soạn thảo “Tân Hiến pháp”… và vì vậy cấu thành tội phạm quy định tại Điều 79 BLHS.” Từ kiến thức pháp lý như vậy, ông đã không để trường hợp mắc kẹt của LS Lê Công Định xảy ra với ông. Ông tránh không ở trong một tổ chức hay đảng phái nào. Ông hoạt động một mình. Một mình thì không thể nào bị kết tội lật đổ chính quyền.
Điều 88 luật Hình Sự được áp dụng để truy tố ông là một điều luật vừa trái điều 69 hiến pháp vừa trái nguyên tắc cơ bản của luật hình sự. Theo điều 88, “Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:
a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;
b) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân;
c) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.” Việc định danh tội phạm như điều 88 quá mơ hồ khiến cho đảng, thông qua tòa án, có toàn quyền muốn kết án ai hay tha ai cũng được. Luật sư Trần Lâm, nguyên Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao, một người đã từng quyết định nhiều vụ án quan trọng của đất nước, đã nhận xét về vấn đề định danh tội trạng của điều 88 như sau, “… nếu bảo là chống đối cũng đúng, mà bảo là ông (Cù Huy Hà Vũ) muốn thực thi pháp luật thì cũng đúng.” Trong khi đó nguyên tắc cơ bản của luật hình là mọi định danh tội phạm phải rõ ràng và được giải thích chặt chẽ, không thể giải thích tùy tiện theo lòng thương, ghét của chánh án. Nội dung điều 88 cũng trái với quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí qui định trong điều 69 Hiến Pháp. (Điều 69 Hiến Pháp qui định “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.”). Vì vậy sẽ nhức đầu cho tòa nếu mở đầu vụ xử mà luật sư của bị can nêu vấn đề tiên quyết là xét tính bất hợp hiến của điều 88 thì tòa sẽ phải đình chính vụ để chờ bản án của vụ tranh cãi tính hợp hiến của điều 88 mà chắc chắn nếu tranh cãi thì phần thắng sẽ về phía nêu khiếu nại.
Cù Huy Hà Vũ lại là một trong chỉ vài luật gia xuất sắc nhất trong nước rất am tường luật pháp của nền văn minh phương tây hiện đại mà đảng đang cố sức theo đuổi để thực hiện công cuộc đổi mới tư pháp. Cho nên việc xét xử ông sẽ chỉ khiến cho đảng lúng túng vì không một vị chánh án nào của đảng cũng như không một vị đại diện Viện Kiểm Sát nào có thể ngang tài đấu lý với cá nhân ông, vợ ông và mấy luật sư bào chữa cho ông. Chắc chắn TS Cù Huy Hà Vũ sẽ đấu lý với đại diện Viện Kiểm Soát và sẽ đưa vị chánh án và hội đồng xét xử vào thế kẹt: Nếu chấp nhận lý lẽ của TS Hà Vũ và các luật sư bênh vực ông thì sẽ bị đuổi khỏi đảng, khỏi cơ quan, bị tước đoạt mọi quyền lợi. Nếu tuân theo bản án định trước của đảng bộ thì tự biến mình thành một con rối và tự ghi tên mình vào danh sách những “trí thức” hèn hạ và ngu dốt nhất của đất nước vào đầu thế kỷ 21. Chẳng một ai muốn bị kẹt vào tình huống không lối thoát này. Vì thế tin từ trong nước cho hay không vị chánh án nào muốn được đề cử xét xử vụ này.
Ông cũng là một người trung niên, còn trẻ, khỏe, biết sống nhân nghĩa, chân tình với giới “giang hồ”. Văn phòng của ông chuyên tiếp những khiếu kiện của những người thấp cổ bé miệng vì thế ông được lòng giới “trọng nghĩa khinh tài” này. Sau lần tiếp xúc đầu tiên với ông để nhờ văn phòng luật của vợ chồng ông bênh vực, ngày 18/11/10 blogger “người buôn gió” đã viết “Mình chỉ quý anh Vũ thẳng tính”. Trước đó tác giả viết, “Anh Vũ thấy mình vào nói một thôi một hồi. – Đ.m. tao nói cho mày nghe, đã là vì đất nước thì phải nói, chứ nếu có sao tao mất nhiều chứ, đ.m. tao có công việc, có tiền, có danh dự của gia đình. Tao có phải thằng lông bông ngoài đường đâu. Có đứa bảo tao làm chính trị, đ.m. nó chứ, làm chính trị ở cái nước này thì chỉ có vào Đảng. Còn ở ngoài mà nói thì làm đ… có thằng nào làm được đâu, toàn bị cho là chống phá bỏ tù hết. Cái ở đây là mình đứng trên địa vị người dân yêu nước, mình phải nói những gì mà thấy nguy hại cho đất nước. Tao đ… đảng phái nào hết, thằng nào làm sai là mình phải nói cho nó chừa đi, thế dân mới đỡ khổ, nước mới mạnh được.” Cách nói của người trí thức Cù Huy Hà Vũ rất bình dân, rất bộc trực, rất thẳng thắn và đầy lòng yêu nước. Đó là giọng điệu “trọng nghĩa khinh tài” (ghi chú: khinh tài đây là khinh tiền) rất “Lương Sơn Bạc” (1). Thái độ đó đã khiến “giới giang hồ đích thực” kính trọng ông. Chính vì thế đảng muốn mượn những tay tù hình sự, giang hồ vặt trong trại giam để hãm hại ông như đã từng áp dụng đối với các nhà bất đồng chính kiến khác sẽ không được. Ngay cả sau này, khi thả ông ra khỏi tù, đảng cũng không thể kiếm được những tay côn đồ đe dọa tông xe gây tai nạn, thậm chí có thể làm thiệt mạng ông, hay áp đảo ném “cứt, đái, chất thải bẩn thỉu” vào nhà ông như đảng đã từng áp dụng với nhà cách mạng Cộng Sản lão thành Hoàng Minh Chính và những người bất đồng chính kiến khác. Cho nên, từ trong tù cho tới ngoài đời, nhà trí thức “hảo hớn” Cù Huy Hà Vũ có một vị trí “cao lừng lững” mà đảng không trấn áp được.
Để chứng minh các điều trên, mới đây đảng đã thua keo đầu khi lần đầu tiên phải cho một người bất đồng chính kiến tiếp tục lên tiếng công khai chỉ trích đảng qua một biên bản chính thức trong trại giam, trước sự hiện diện của luật sư bênh vực. Đó là biên bản lời khai lập ngày 18-1-2011, từ trong tù, trong đó TS Hà Vũ một lần nữa xác nhận 3 mục tiêu đòi hỏi của ông là: Bác bỏ chủ nghĩa xã hội, đa đảng và liên minh với Hoa Kỳ.
Chính vì thế, tại Hà Nội hay toàn miền Bắc, nơi danh tiếng cá nhân và gia đình ông nổi như cồn, đảng không ra lệnh nổi cho kẻ nào thi hành việc theo dõi và bắt ông được mà phải chờ khi ông vào Saigon, “cọp xuống núi”, nơi miền Nam nhiều người còn xa lạ với ông, mới chỉ thị tay sai bày mưu bắt ông một cách hèn hạ.
Việc xét xử TS Hà Vũ lại có thêm một khó khăn nữa trong nội bộ đảng cộng sản là thành phần nhân sự mới của Bộ Chính Trị có nhiều người chưa bị ông tố cáo, trong đó đặc biệt là vị tân Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng. Những vị này chắc chắn không những không dại gì trấn áp TS Cù Huy Hà Vũ mà còn âm thầm muốn dùng ông để làm đối trọng tranh dành quyền lực với các “đồng chí đối thủ”.
Do đó bây giờ bắt được TS Cù Huy Hà Vũ rồi thì làm gì với ông vẫn tiếp tục là một vấn đề làm đau đầu mấy tay chóp bu trong đảng bị ông tố cáo đích danh. Nói tóm lại, hiện nay trong khi ông biết rằng việc bắt giữ và xét xử ông sẽ chỉ giúp ông cơ hội làm nên lịch sử và đi vào lịch sử dân tộc như cha ông và bác ông thì thành phần chóp bu trong đảng như đang ngồi phải lửa. Muốn yên cũng không được. Cù Huy Hà Vũ đã tuyên bố với mấy nhà cách mạng lão thành là kỳ này dù chết ông cũng sẽ quyết không lui. Và ông mới tái xác nhận điều này trong biên bản khai báo ngày 18-1-2011 trích dẫn ở trên.
Mọi người hãy chờ xem tiếp màn giao đấu của “hiệp sĩ Cù Huy Hà Vũ diệt gian trừ bạo” và trận tái đấu sẽ bắt đầu trước phiên tòa sắp tới. Chắc chắn tại chính phiên tòa đó, nhà trí thức Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ sẽ biến phiên tòa xét xử ông thành phiên tòa xét xử thành phần chóp bu trong đảng đang phạm tội lừa gạt đồng chí, đồng bào với ý niệm giả dối “dân chủ tập trung”, đang nói một đằng làm một nẻo, đang giả danh chủ nghĩa Mác-Lê Nin trong khi đi ngược lại chủ nghĩa này, đang mượn danh ông Hồ Chí Minh để dụ dỗ những người còn tôn sùng ông, đang đàn áp không cho dân chúng lên tiếng khiếu kiện, đang cướp đất của dân qua hình thức đền bù rẻ mạt v.v… và đang dâng đất, dâng biển cho kẻ thù truyền kiếp Trung Quốc.
© Nguyễn Tường Tâm
© Đàn Chim Việt
Nguyễn Tường Tâm (Đàn Chim Việt) - Cù Huy Hà Vũ có một nhân thân đặc biệt, có một gia thế đặc biệt, có một quan hệ xã hội cá nhân đặc biệt, tình hình hiện nay đặc biệt, điều luật truy tố ông rất đặc biệt, tất cả các điều đó khiến cho Đảng đã và sẽ còn tiếp tục gặp rất nhiều khó khăn trong việc giải quyết vụ án, kể cả muốn dùng các biện pháp đặc biệt trấn áp hay mua chuộc bị can cũng không thể làm được, và ngay cả tìm một chánh án để xét xử bị can cũng gặp khó khăn, chẳng ai muốn “bị” cử làm chánh án vụ Cù Huy Hà Vũ.
Trước thái độ thẳng thắn, táo bạo của Tiến Sĩ (TS) Cù Huy Hà Vũ, nhiều người nghĩ rằng đằng sau ông phải có một lực lượng lớn trong giới lãnh đạo đảng hỗ trợ. Điều này có thể đúng… nhưng không nhất thiết phải có điều đó. Hơn hai hết, ông biết về gia thế của ông. Gia đình ông là một trong rất ít “Hoàng Gia Cách Mạng”. Bố ông, Cù Huy Cận, một trong các công thần tạo dựng chế độ, đồng thời cùng với cậu ruột của ông, nhà thơ Xuân Diệu, hai người là hai ngôi sao sáng nhất trong thi ca Việt Nam cận đại. Bản thân ông lại là một trí thức được đào tạo bài bản của hai nền giáo dục Xã hội Chủ Nghĩa và phương tây. Việc làm của ông không mưu lợi cá nhân mà hoàn toàn vì các người dân nghèo khổ đang bị đàn áp, vì dân tộc, vì nguy cơ của tổ quốc trước họa xâm lăng của ngoại bang phương bắc. Cho nên chỉ có một số rất ít trí thức vì ganh tị cho ông là người “tự làm nổi”, và một số rất ít nhân vật lãnh đạo chóp bu bị ông tố cáo là thù ghét ông, đại đa số thành phần dân chúng và đảng viên, đặc biệt là giới cách mạng lão thành còn lại đều biểu đồng tình với ông, vì ông đã nói được cho họ, đã hành động thay cho họ, những điều mà họ rất muốn mà không nói và không làm được. Chính điều này khiến đảng đã phải suy nghĩ lung lắm, cuối cùng, mới dám bắt ông, mặc dù đó là điều lúc đầu họ không dám, không muốn.
Bắt ông rồi, cũng không dám ra lệnh cho đám cai tù hành hạ ông như đối với những nhà bất đồng chính kiến khác. Ai dám ra lệnh đó? Mà nếu có kẻ ra lệnh thì những cai tù nào dám thi hành? Đám công an cai tù dù ngu dốt lắm cũng phải biết hành hạ ông chẳng có lợi gì cho bản thân, có khi còn mang họa vì nguy cơ bị những đảng viên cao cấp khác âm thầm đồng tình với việc làm của ông, cảm tình với “gia đình cách mạng danh tiếng” của ông, sẽ trả thù.
Cá nhân ông cũng có mối quan hệ xã hội đặc biệt làm rào chắn bảo vệ ông. Ông là một trong rất ít trí thức xuất sắc trong nước. Điều này khiến ông được giới trí thức đàn anh và cùng trang lứa có cảm tình và nể vì đặc biệt. Bởi thế ông đã được giới trí thức đàn anh và bậc thầy của ông trên trang mạng bauxite trao cho chức vụ danh giá trong tổ chức này, “Cố vấn pháp luật.” Đây là cái áo giáp vô hình nhưng vững chắc bảo vệ ông.
Ông cũng là một nghệ sĩ hội họa có tài, từng được hân hạnh vẽ nhiều bức chân dung Đại tướng Võ Nguyên Giáp và tranh rất đẹp, đồng thời cũng là hội viên hội Mỹ Thuật Việt Nam. Ông thường được giới văn nghệ sĩ có uy tín trong cũng như ngoài đảng mời tham dự các sinh hoạt văn hóa, như cuộc hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn tại Cẩm Giàng, quê hương của Văn Đoàn nổi tiếng này, mà bố ông cũng là một thành viên. Bởi thế, giới nghệ sĩ, một thành phần sĩ phu có uy tín trong nước, sẽ đứng về phía ông trong những việc ông làm. Lại thêm một lớp áo giáp nữa bảo vệ ông.
Tốt nghiệp tiến sĩ luật tại trường nổi tiếng nhất nước Pháp, Đại học Sorbone, nên ông rất thông thạo luật pháp của mấy nước văn minh phương tây cũng như rành rẽ những thiếu sót trong luật hình sự và luật hiến pháp của Việt Nam. Ông cũng từng rút kinh nghiệm đau thương qua vụ nhận tội của hai nhà tranh đấu cho nhân quyền Nguyễn Tiến Trung và Luật Sư Lê Công Định, cho nên không thể có chuyện ông nhận tội trước tòa. Trong bài “Về điều 79” gửi cho đài BBC ngày 17/12/2009, TS Hà Vũ nghiên cứu trường hợp Luật Sư Lê Công Định bị tuyên án 5 năm tù giam, quản chế 3 năm về tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” (điều 79 BLHS), ông đã phân tích tất cả các mánh lới của Cơ quan công an đe dọa và dụ dỗ LS Định để ông này nhận tội mong được hưởng khoan hồng giảm án. Do đó chắc chắn không thể có chuyện ông nhận tội dù với bất cứ biện pháp đe dọa hay dụ dỗ nào.
Mới đây, trong biên bản lời khai lập ngày 18-1-2011, từ trong tù TS Hà Vũ một lần nữa cho thấy thái độ cương quyết không nhận tội khi ông xác nhận 3 mục tiêu đòi hỏi lâu nay của ông là: Bác bỏ chủ nghĩa xã hội, đa đảng và liên minh với Hoa Kỳ, đồng thời ông cũng xác định, “Tổ Quốc Việt Nam hay là chết.” Cho tới giờ phút này của vụ án, TS Hà Vũ cho thấy ông cương quyết không nhận tội.
Ông lại rất khôn ngoan không để bị kết tội lật đổ chính quyền nhân dân theo điều 79 BLHS mà hình phạt cao nhất là tử hình như đảng đã từng áp dụng đối với mấy nhà tranh đấu khác. Trong bài “Về Điều 79” trích dẫn ở trên, ông viết, “Theo Điều 79 BLHS, người nào hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân là phạm “Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Phân tích trường hợp LS Lê Công Định ông viết tiếp, “Tại cơ quan an ninh Việt Nam, Lê Công Định thừa nhận đã tham gia “Đảng dân chủ Việt Nam”, thành lập “Đảng lao động” và “Đảng xã hội”, soạn thảo “Tân Hiến pháp”… và vì vậy cấu thành tội phạm quy định tại Điều 79 BLHS.” Từ kiến thức pháp lý như vậy, ông đã không để trường hợp mắc kẹt của LS Lê Công Định xảy ra với ông. Ông tránh không ở trong một tổ chức hay đảng phái nào. Ông hoạt động một mình. Một mình thì không thể nào bị kết tội lật đổ chính quyền.
Điều 88 luật Hình Sự được áp dụng để truy tố ông là một điều luật vừa trái điều 69 hiến pháp vừa trái nguyên tắc cơ bản của luật hình sự. Theo điều 88, “Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:
a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;
b) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân;
c) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.” Việc định danh tội phạm như điều 88 quá mơ hồ khiến cho đảng, thông qua tòa án, có toàn quyền muốn kết án ai hay tha ai cũng được. Luật sư Trần Lâm, nguyên Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao, một người đã từng quyết định nhiều vụ án quan trọng của đất nước, đã nhận xét về vấn đề định danh tội trạng của điều 88 như sau, “… nếu bảo là chống đối cũng đúng, mà bảo là ông (Cù Huy Hà Vũ) muốn thực thi pháp luật thì cũng đúng.” Trong khi đó nguyên tắc cơ bản của luật hình là mọi định danh tội phạm phải rõ ràng và được giải thích chặt chẽ, không thể giải thích tùy tiện theo lòng thương, ghét của chánh án. Nội dung điều 88 cũng trái với quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí qui định trong điều 69 Hiến Pháp. (Điều 69 Hiến Pháp qui định “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.”). Vì vậy sẽ nhức đầu cho tòa nếu mở đầu vụ xử mà luật sư của bị can nêu vấn đề tiên quyết là xét tính bất hợp hiến của điều 88 thì tòa sẽ phải đình chính vụ để chờ bản án của vụ tranh cãi tính hợp hiến của điều 88 mà chắc chắn nếu tranh cãi thì phần thắng sẽ về phía nêu khiếu nại.
Cù Huy Hà Vũ lại là một trong chỉ vài luật gia xuất sắc nhất trong nước rất am tường luật pháp của nền văn minh phương tây hiện đại mà đảng đang cố sức theo đuổi để thực hiện công cuộc đổi mới tư pháp. Cho nên việc xét xử ông sẽ chỉ khiến cho đảng lúng túng vì không một vị chánh án nào của đảng cũng như không một vị đại diện Viện Kiểm Sát nào có thể ngang tài đấu lý với cá nhân ông, vợ ông và mấy luật sư bào chữa cho ông. Chắc chắn TS Cù Huy Hà Vũ sẽ đấu lý với đại diện Viện Kiểm Soát và sẽ đưa vị chánh án và hội đồng xét xử vào thế kẹt: Nếu chấp nhận lý lẽ của TS Hà Vũ và các luật sư bênh vực ông thì sẽ bị đuổi khỏi đảng, khỏi cơ quan, bị tước đoạt mọi quyền lợi. Nếu tuân theo bản án định trước của đảng bộ thì tự biến mình thành một con rối và tự ghi tên mình vào danh sách những “trí thức” hèn hạ và ngu dốt nhất của đất nước vào đầu thế kỷ 21. Chẳng một ai muốn bị kẹt vào tình huống không lối thoát này. Vì thế tin từ trong nước cho hay không vị chánh án nào muốn được đề cử xét xử vụ này.
Ông cũng là một người trung niên, còn trẻ, khỏe, biết sống nhân nghĩa, chân tình với giới “giang hồ”. Văn phòng của ông chuyên tiếp những khiếu kiện của những người thấp cổ bé miệng vì thế ông được lòng giới “trọng nghĩa khinh tài” này. Sau lần tiếp xúc đầu tiên với ông để nhờ văn phòng luật của vợ chồng ông bênh vực, ngày 18/11/10 blogger “người buôn gió” đã viết “Mình chỉ quý anh Vũ thẳng tính”. Trước đó tác giả viết, “Anh Vũ thấy mình vào nói một thôi một hồi. – Đ.m. tao nói cho mày nghe, đã là vì đất nước thì phải nói, chứ nếu có sao tao mất nhiều chứ, đ.m. tao có công việc, có tiền, có danh dự của gia đình. Tao có phải thằng lông bông ngoài đường đâu. Có đứa bảo tao làm chính trị, đ.m. nó chứ, làm chính trị ở cái nước này thì chỉ có vào Đảng. Còn ở ngoài mà nói thì làm đ… có thằng nào làm được đâu, toàn bị cho là chống phá bỏ tù hết. Cái ở đây là mình đứng trên địa vị người dân yêu nước, mình phải nói những gì mà thấy nguy hại cho đất nước. Tao đ… đảng phái nào hết, thằng nào làm sai là mình phải nói cho nó chừa đi, thế dân mới đỡ khổ, nước mới mạnh được.” Cách nói của người trí thức Cù Huy Hà Vũ rất bình dân, rất bộc trực, rất thẳng thắn và đầy lòng yêu nước. Đó là giọng điệu “trọng nghĩa khinh tài” (ghi chú: khinh tài đây là khinh tiền) rất “Lương Sơn Bạc” (1). Thái độ đó đã khiến “giới giang hồ đích thực” kính trọng ông. Chính vì thế đảng muốn mượn những tay tù hình sự, giang hồ vặt trong trại giam để hãm hại ông như đã từng áp dụng đối với các nhà bất đồng chính kiến khác sẽ không được. Ngay cả sau này, khi thả ông ra khỏi tù, đảng cũng không thể kiếm được những tay côn đồ đe dọa tông xe gây tai nạn, thậm chí có thể làm thiệt mạng ông, hay áp đảo ném “cứt, đái, chất thải bẩn thỉu” vào nhà ông như đảng đã từng áp dụng với nhà cách mạng Cộng Sản lão thành Hoàng Minh Chính và những người bất đồng chính kiến khác. Cho nên, từ trong tù cho tới ngoài đời, nhà trí thức “hảo hớn” Cù Huy Hà Vũ có một vị trí “cao lừng lững” mà đảng không trấn áp được.
Để chứng minh các điều trên, mới đây đảng đã thua keo đầu khi lần đầu tiên phải cho một người bất đồng chính kiến tiếp tục lên tiếng công khai chỉ trích đảng qua một biên bản chính thức trong trại giam, trước sự hiện diện của luật sư bênh vực. Đó là biên bản lời khai lập ngày 18-1-2011, từ trong tù, trong đó TS Hà Vũ một lần nữa xác nhận 3 mục tiêu đòi hỏi của ông là: Bác bỏ chủ nghĩa xã hội, đa đảng và liên minh với Hoa Kỳ.
Chính vì thế, tại Hà Nội hay toàn miền Bắc, nơi danh tiếng cá nhân và gia đình ông nổi như cồn, đảng không ra lệnh nổi cho kẻ nào thi hành việc theo dõi và bắt ông được mà phải chờ khi ông vào Saigon, “cọp xuống núi”, nơi miền Nam nhiều người còn xa lạ với ông, mới chỉ thị tay sai bày mưu bắt ông một cách hèn hạ.
Việc xét xử TS Hà Vũ lại có thêm một khó khăn nữa trong nội bộ đảng cộng sản là thành phần nhân sự mới của Bộ Chính Trị có nhiều người chưa bị ông tố cáo, trong đó đặc biệt là vị tân Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng. Những vị này chắc chắn không những không dại gì trấn áp TS Cù Huy Hà Vũ mà còn âm thầm muốn dùng ông để làm đối trọng tranh dành quyền lực với các “đồng chí đối thủ”.
Do đó bây giờ bắt được TS Cù Huy Hà Vũ rồi thì làm gì với ông vẫn tiếp tục là một vấn đề làm đau đầu mấy tay chóp bu trong đảng bị ông tố cáo đích danh. Nói tóm lại, hiện nay trong khi ông biết rằng việc bắt giữ và xét xử ông sẽ chỉ giúp ông cơ hội làm nên lịch sử và đi vào lịch sử dân tộc như cha ông và bác ông thì thành phần chóp bu trong đảng như đang ngồi phải lửa. Muốn yên cũng không được. Cù Huy Hà Vũ đã tuyên bố với mấy nhà cách mạng lão thành là kỳ này dù chết ông cũng sẽ quyết không lui. Và ông mới tái xác nhận điều này trong biên bản khai báo ngày 18-1-2011 trích dẫn ở trên.
Mọi người hãy chờ xem tiếp màn giao đấu của “hiệp sĩ Cù Huy Hà Vũ diệt gian trừ bạo” và trận tái đấu sẽ bắt đầu trước phiên tòa sắp tới. Chắc chắn tại chính phiên tòa đó, nhà trí thức Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ sẽ biến phiên tòa xét xử ông thành phiên tòa xét xử thành phần chóp bu trong đảng đang phạm tội lừa gạt đồng chí, đồng bào với ý niệm giả dối “dân chủ tập trung”, đang nói một đằng làm một nẻo, đang giả danh chủ nghĩa Mác-Lê Nin trong khi đi ngược lại chủ nghĩa này, đang mượn danh ông Hồ Chí Minh để dụ dỗ những người còn tôn sùng ông, đang đàn áp không cho dân chúng lên tiếng khiếu kiện, đang cướp đất của dân qua hình thức đền bù rẻ mạt v.v… và đang dâng đất, dâng biển cho kẻ thù truyền kiếp Trung Quốc.
© Nguyễn Tường Tâm
© Đàn Chim Việt
Thứ Năm, 27 tháng 1, 2011
Làm lãnh đạo phải “Biết Xấu Hổ”
Posted by dinhtan
Thiện Giao, phóng viên RFA, Bangkok
2009-05-28
Một bài viết có tựa đề “Biết Xấu Hổ” được đăng trên blog của tác giả Osin ngày 24 tháng Năm. Bài viết này cũng được đăng trên trang nhà của tờ báo Sài Gòn Tiếp Thị, ký tên Huy Đức.
“Biết Xấu Hổ” là bài báo liên kết 2 sự kiện. Hay nói đúng hơn, là dựa vào 1 sự kiện xảy ra tại Hàn Quốc, để nói về một sự kiện khác đã và đang xảy ra tại Việt Nam.
Cựu tổng thống Nam Hàn Roh Moo- huyn. Photo courtesy Wikipedia
Đầu tiên là vụ cựu tổng thống Roh Moo-hyun của Hàn Quốc tự tử ngày 23 tháng Năm.
“Cuộc sống quả là “khó khăn” như ông Roh Moo-hyun trăn trối. Từ một công nhân, tự học để trở thành luật sư, trở thành một chính trị gia lên tới đỉnh cao: đắc cử tổng thống của một quốc gia dân chủ.
Cảm thấy xấu hổ trước người dân của mình
Tác giả Osin, tức Huy Đức, viết:
“Cuộc sống quả là “khó khăn” như ông Roh Moo-hyun trăn trối. Từ một công nhân, tự học để trở thành luật sư, trở thành một chính trị gia lên tới đỉnh cao: đắc cử tổng thống của một quốc gia dân chủ.
Để rồi, sáng 23-5-2009, phải kết thúc cuộc đời bằng cách gieo mình xuống một vách đá sâu. “Tôi cảm thấy xấu hổ trước người dân của mình,” trước đó, ông Roh Moo-hyun thừa nhận khi phải đến Seoul theo triệu tập của tòa.
Ông Roh thành công nhờ xây dựng được niềm tin của công chúng vào ông như là một chính trị gia trong sạch. Cái chết của ông được mô tả là gây sốc cho cả nước, từ hôm 23-5, người dân ở vùng quê ông đã xếp hàng dài, đã khóc khi quan tài ông đi qua.
Ông nói, ông chỉ biết đến khoản tiền 6 triệu USD mà người thân ông cầm ấy khi không còn là Tổng thống. Rõ ràng đã có những động cơ chính trị. Nhưng, rõ ràng cũng đã có những khoản tiền lọt vào nhà, qua những người thân nhất, là vợ, là con trai, là cháu rể, là trợ lý.
Thật là chua xót nếu ông thực sự vẫn còn trong sạch mà phải kết thúc sự nghiệp lẫy lừng trong xấu hổ bởi vợ con.”
Để rồi, sáng 23-5-2009, phải kết thúc cuộc đời bằng cách gieo mình xuống một vách đá sâu. “Tôi cảm thấy xấu hổ trước người dân của mình,” trước đó, ông Roh Moo-hyun thừa nhận khi phải đến Seoul theo triệu tập của tòa.
Quả thực, cuộc sống đã trở nên quá “khó khăn” cho ông Roh Moo-hyun. Có người đặt câu hỏi, những khó khăn ấy, chúng “khó” đến mức nào?
Có người cho rằng, ông Tổng Thống không phải là người trực tiếp cầm lấy những đồng tiền hối lộ. Thậm chí, như tác giả Osin đã viết, ông Roh Moo-hyun “chỉ biết đến khoản tiền 6 triệu USD mà người thân ông cầm khi ông không còn là Tổng thống.”
Có người cũng nói, kết cuộc bi thảm nhất cho ông cố Tổng Thống chỉ là án tù, nhiều lắm là vài năm tù, và trả lại cho Nhà Nước những khoản tiền không chính đáng.
Nếu có vậy, thì làm sao mà cuộc sống lại trở nên “khó khăn” đối với ông? Để ông phải chọn cái chết để giải quyết mọi chuyện?
Khó có thể phủ nhận, rằng những khó khăn mà ông Roh Moo-hyun nói đến trong bức thư tuyệt mệnh đến từ chính lòng tự trọng của người đã từng lãnh đạo đất nước Hàn Quốc.
Những người khác viết trên blog của mình, rằng họ thấy thương cảm cho vị tổng thống xấu số, nhưng đồng thời, họ cảm thấy người dân Hàn may mắn có một tổng thống như vậy.
Cái chết của ông Roh Moo-hyun có thể là tiếng chuông cảnh tỉnh cho bất cứ ai đang ngồi ở cương vị lãnh đạo, đang nắm lấy những vị trí mà, hoặc là giúp họ trở thành nô bộc thật sự của dân chúng, hoặc là biến họ thành những kẻ thù của chính dân mình.
Những người khác viết trên blog của mình, rằng họ thấy thương cảm cho vị tổng thống xấu số, nhưng đồng thời, họ cảm thấy người dân Hàn may mắn có một tổng thống như vậy.
Vụ ông tổng thống Hàn Quốc tự vận được tác giả Osin gắn với sự kiện đang bùng nổ trở lại tại Việt Nam những ngày gần đây.
Tiền hoa hồng lên đến hàng triệu Mỹ kim
Báo chí Australia mấy ngày qua liên tục đăng tải phóng sự điều tra, cáo buộc công ty Securency của nước này trả cho một người môi giới Việt Nam số tiền lên đến hơn 10 triệu Úc kim, chỉ để làm công việc … thông dịch.
Một luật sư Việt Nam, hiện đang sống tại Úc, là ông Lưu Tường Quang, tóm tắt sự việc:
“Vào năm 2002, dưới thời Thống Đốc Lê Đức Thúy, Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam muốn chuyển giấy bạc sang tiền nhựa (polymer) để có thể giữ an toàn và tránh làm giả. Công ty Securency [của Úc] có quan hệ với công ty Company For Technology and Development, gọi tắt là CFCD, của Việt Nam.
Công ty này lại có một công ty khác là BankTech, mà người giám đốc của BankTech là ông Lê Đức Minh, con trai Lê Đức Thúy.”
Vụ Lê Đức Minh – Lê Đức Thúy ra sao? Xin dẫn tiếp lời kể của blogger Osin:
“Cũng sáng nay, 25-5, trong một diễn tiến có thể liên hệ, cảnh sát Úc xác nhận với báo chí là sẽ điều tra một vụ “môi giới” liên quan đến con trai của ông Lê Đức Thúy, cựu thống đốc Ngân hàng Việt Nam. Cảnh sát vào cuộc sau khi tờ báo The Age, có bài cáo buộc những môi giới viên cho hãng Securency đã “trả hàng triệu đôla tiền hoa hồng cho công ty CFTD”.
Trong một diễn tiến có thể liên hệ, cảnh sát Úc xác nhận với báo chí là sẽ điều tra một vụ “môi giới” liên quan đến con trai của ông Lê Đức Thúy, cựu thống đốc Ngân hàng Việt Nam.
CFTD được tờ báo này xác định là công ty mẹ của Banktech, công ty thuộc quyền quản lý của ông Lê Đức Minh, con trai ông Lê Đức Thúy, liên quan đến việc in tiền polymer hồi năm 2002.
Chưa rõ kết quả điều tra từ Úc sẽ đi tới đâu, nhưng nếu thực sự có một khoản hoa hồng lên tới hàng triệu USD đã được chi ra thì “cánh cửa vợ con” quả thực là ở đâu cũng vô cùng lợi hại.
Theo nguồn tin riêng, ông Lê Đức Minh được điều về Banktech bởi một ngành không liên quan đến vai trò Thống đốc của ông Lê Đức Thúy.
Tuy nhiên, như kết luận trước đây của Thanh tra Chính phủ, việc ông Minh “nắm” Banktech “tuy không trái quy định của pháp luật, nhưng đã gây nghi ngờ về sự khách quan, minh bạch”.”
Vụ việc trả hàng chục triệu Úc kim cho một người thông dịch không phải là sự kiện duy nhất liên quan đến sai phạm của giới chức Việt Nam tại nước ngoài nói chung và tại Úc Đại Lợi nói riêng. Những chuỗi vi phạm liên tục trong thời gian qua đang bào mòn hình ảnh của đất nước và con người Việt Nam trong cái nhìn của người dân và chính quyền Úc Đại Lợi.
Luật sư Lưu Tường Quang nhắc lại các sự kiện dính dáng đến Vietnam Airlines, và thậm chí, cả trong ngành giáo dục liên quan đến vấn đề du học sinh Việt Nam đến Úc.
Vụ việc trả hàng chục triệu Úc kim cho một người thông dịch không phải là sự kiện duy nhất liên quan đến sai phạm của giới chức Việt Nam tại nước ngoài nói chung và tại Úc Đại Lợi nói riêng.
“Về mặt dư luận, thực tế thì dư luận không giới hạn trong cộng đồng gốc Việt, mà mở rộng ra cho cộng đồng người Úc nói chung. Nhìn về Châu Á, Đông Nam Á, sự hợp tác của Úc với Việt Nam, thì người Úc nói chung không đánh giá cao hệ thống luật pháp cũng như sự trong sáng trong cách điều hành các công ty tại Việt Nam. Sự kiện này, một lần nữa, xác nhận sự đánh giá thấp của công luật Úc đối với Việt Nam.
Sự kiện này không chỉ liên hệ đến 1 công ty Úc và 1 công ty Việt Nam. Đã có nhiều chuyện xảy ra rồi. Vụ Vietnam Airlines là một ví dụ. Ngay cả vấn đề du học sinh cũng vậy.
Tôi biết có 1 số giáo sư Việt Nam đặt ra vấn đề thù lao để cho phép sinh viên sang Úc du học. Những điều này đều trái với luật lệ nước Úc. Những việc này, nước Úc không hề chấp nhận và sẽ không bao giờ chấp nhận.”
Tham nhũng bị phanh phui bởi báo chí nước ngoài
Điều đáng nói ở đây, là các vụ việc lớn liên quan đến tham nhũng tại Việt Nam thường được phanh phui nhờ vào báo chí nước ngoài.
Công ty tư vấn PCI của Nhật Bản trong dự án Xa Lộ Đông Tây là một ví dụ. Chính báo chí Nhật Bản truy tìm và đưa ra ánh sáng.
Điều đáng nói ở đây, là các vụ việc lớn liên quan đến tham nhũng tại Việt Nam thường được phanh phui nhờ vào báo chí nước ngoài.
Nay, vụ công ty Securency của Úc cũng do báo chí Úc điều tra và công bố.
Trở lại với ý tưởng “biết xấu hổ” trong bài viết cùng tên của tác giả Osin. Ông viết, rằng “Banktech là một trường hợp rất hiếm được đưa ra công luận, nhưng, những mối liên hệ kiểu “Lê Đức Minh” trên thực tế không phải hiếm hoi.
Vấn đề không chỉ là trái hay không trái những “quy định” hiện hành vốn đang có nhiều khoảng trống. Một nhà lãnh đạo nghiêm minh không nên để vợ con làm những việc mà dư luận có thể “nghi” về tính khách quan. Đừng đợi đến khi nhân dân đưa ra chứng cứ, phải biết xấu hổ từ những “dự án” đầu tiên mà anh em, vợ con, dâu rể… tham gia.”
Tác giả nhận định, là “Cho dù ở trong thể chế nào, ở đâu có quyền lực là ở đó có tham nhũng. Vấn đề là ở đâu, những người giàu có nhất là nhân dân; ở đâu những người giàu có nhất là “con ông cháu cha”; ở đâu, tham nhũng vẫn cứ “vinh thân phì gia”; ở đâu tham nhũng không có nơi để an toàn hạ cánh.
Ở những quốc gia không biết xấu hổ thì kết cục cũng có nhiều bi thảm; nhưng, người gánh chịu lại rất tiếc là thường ở phía nhân dân.
Quốc gia nào thì tham nhũng cũng cần phải được coi là “thế lực thù địch” nguy hiểm nhất. Nguy hiểm vì nó không rõ ràng phân tuyến; nguy hiểm vì, đôi khi nó nhởn nhơ bên cạnh, và đôi khi là cánh tay đắc lực của những bậc có quyền.”
Blogger Osin kết luận “Chỉ ở những quốc gia biết xấu hổ, kết cục của một kẻ dính tới tham nhũng mới có thể là tù tội như cựu tổng thống Trần Thủy Biển (Đài Loan); có thể phải lưu vong như Thaksin, Thailand; có thể phải cắn rứt lương tâm như tổng thống Roh Moo-hyun, Hàn Quốc.
Ở những quốc gia không biết xấu hổ thì kết cục cũng có nhiều bi thảm; nhưng, người gánh chịu lại rất tiếc là thường ở phía nhân dân.”
Copyright © 1998-2011 Radio Free Asia
Thiện Giao, phóng viên RFA, Bangkok
2009-05-28
Một bài viết có tựa đề “Biết Xấu Hổ” được đăng trên blog của tác giả Osin ngày 24 tháng Năm. Bài viết này cũng được đăng trên trang nhà của tờ báo Sài Gòn Tiếp Thị, ký tên Huy Đức.
“Biết Xấu Hổ” là bài báo liên kết 2 sự kiện. Hay nói đúng hơn, là dựa vào 1 sự kiện xảy ra tại Hàn Quốc, để nói về một sự kiện khác đã và đang xảy ra tại Việt Nam.
Cựu tổng thống Nam Hàn Roh Moo- huyn. Photo courtesy Wikipedia
Đầu tiên là vụ cựu tổng thống Roh Moo-hyun của Hàn Quốc tự tử ngày 23 tháng Năm.
“Cuộc sống quả là “khó khăn” như ông Roh Moo-hyun trăn trối. Từ một công nhân, tự học để trở thành luật sư, trở thành một chính trị gia lên tới đỉnh cao: đắc cử tổng thống của một quốc gia dân chủ.
Cảm thấy xấu hổ trước người dân của mình
Tác giả Osin, tức Huy Đức, viết:
“Cuộc sống quả là “khó khăn” như ông Roh Moo-hyun trăn trối. Từ một công nhân, tự học để trở thành luật sư, trở thành một chính trị gia lên tới đỉnh cao: đắc cử tổng thống của một quốc gia dân chủ.
Để rồi, sáng 23-5-2009, phải kết thúc cuộc đời bằng cách gieo mình xuống một vách đá sâu. “Tôi cảm thấy xấu hổ trước người dân của mình,” trước đó, ông Roh Moo-hyun thừa nhận khi phải đến Seoul theo triệu tập của tòa.
Ông Roh thành công nhờ xây dựng được niềm tin của công chúng vào ông như là một chính trị gia trong sạch. Cái chết của ông được mô tả là gây sốc cho cả nước, từ hôm 23-5, người dân ở vùng quê ông đã xếp hàng dài, đã khóc khi quan tài ông đi qua.
Ông nói, ông chỉ biết đến khoản tiền 6 triệu USD mà người thân ông cầm ấy khi không còn là Tổng thống. Rõ ràng đã có những động cơ chính trị. Nhưng, rõ ràng cũng đã có những khoản tiền lọt vào nhà, qua những người thân nhất, là vợ, là con trai, là cháu rể, là trợ lý.
Thật là chua xót nếu ông thực sự vẫn còn trong sạch mà phải kết thúc sự nghiệp lẫy lừng trong xấu hổ bởi vợ con.”
Để rồi, sáng 23-5-2009, phải kết thúc cuộc đời bằng cách gieo mình xuống một vách đá sâu. “Tôi cảm thấy xấu hổ trước người dân của mình,” trước đó, ông Roh Moo-hyun thừa nhận khi phải đến Seoul theo triệu tập của tòa.
Quả thực, cuộc sống đã trở nên quá “khó khăn” cho ông Roh Moo-hyun. Có người đặt câu hỏi, những khó khăn ấy, chúng “khó” đến mức nào?
Có người cho rằng, ông Tổng Thống không phải là người trực tiếp cầm lấy những đồng tiền hối lộ. Thậm chí, như tác giả Osin đã viết, ông Roh Moo-hyun “chỉ biết đến khoản tiền 6 triệu USD mà người thân ông cầm khi ông không còn là Tổng thống.”
Có người cũng nói, kết cuộc bi thảm nhất cho ông cố Tổng Thống chỉ là án tù, nhiều lắm là vài năm tù, và trả lại cho Nhà Nước những khoản tiền không chính đáng.
Nếu có vậy, thì làm sao mà cuộc sống lại trở nên “khó khăn” đối với ông? Để ông phải chọn cái chết để giải quyết mọi chuyện?
Khó có thể phủ nhận, rằng những khó khăn mà ông Roh Moo-hyun nói đến trong bức thư tuyệt mệnh đến từ chính lòng tự trọng của người đã từng lãnh đạo đất nước Hàn Quốc.
Những người khác viết trên blog của mình, rằng họ thấy thương cảm cho vị tổng thống xấu số, nhưng đồng thời, họ cảm thấy người dân Hàn may mắn có một tổng thống như vậy.
Cái chết của ông Roh Moo-hyun có thể là tiếng chuông cảnh tỉnh cho bất cứ ai đang ngồi ở cương vị lãnh đạo, đang nắm lấy những vị trí mà, hoặc là giúp họ trở thành nô bộc thật sự của dân chúng, hoặc là biến họ thành những kẻ thù của chính dân mình.
Những người khác viết trên blog của mình, rằng họ thấy thương cảm cho vị tổng thống xấu số, nhưng đồng thời, họ cảm thấy người dân Hàn may mắn có một tổng thống như vậy.
Vụ ông tổng thống Hàn Quốc tự vận được tác giả Osin gắn với sự kiện đang bùng nổ trở lại tại Việt Nam những ngày gần đây.
Tiền hoa hồng lên đến hàng triệu Mỹ kim
Báo chí Australia mấy ngày qua liên tục đăng tải phóng sự điều tra, cáo buộc công ty Securency của nước này trả cho một người môi giới Việt Nam số tiền lên đến hơn 10 triệu Úc kim, chỉ để làm công việc … thông dịch.
Một luật sư Việt Nam, hiện đang sống tại Úc, là ông Lưu Tường Quang, tóm tắt sự việc:
“Vào năm 2002, dưới thời Thống Đốc Lê Đức Thúy, Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam muốn chuyển giấy bạc sang tiền nhựa (polymer) để có thể giữ an toàn và tránh làm giả. Công ty Securency [của Úc] có quan hệ với công ty Company For Technology and Development, gọi tắt là CFCD, của Việt Nam.
Công ty này lại có một công ty khác là BankTech, mà người giám đốc của BankTech là ông Lê Đức Minh, con trai Lê Đức Thúy.”
Vụ Lê Đức Minh – Lê Đức Thúy ra sao? Xin dẫn tiếp lời kể của blogger Osin:
“Cũng sáng nay, 25-5, trong một diễn tiến có thể liên hệ, cảnh sát Úc xác nhận với báo chí là sẽ điều tra một vụ “môi giới” liên quan đến con trai của ông Lê Đức Thúy, cựu thống đốc Ngân hàng Việt Nam. Cảnh sát vào cuộc sau khi tờ báo The Age, có bài cáo buộc những môi giới viên cho hãng Securency đã “trả hàng triệu đôla tiền hoa hồng cho công ty CFTD”.
Trong một diễn tiến có thể liên hệ, cảnh sát Úc xác nhận với báo chí là sẽ điều tra một vụ “môi giới” liên quan đến con trai của ông Lê Đức Thúy, cựu thống đốc Ngân hàng Việt Nam.
CFTD được tờ báo này xác định là công ty mẹ của Banktech, công ty thuộc quyền quản lý của ông Lê Đức Minh, con trai ông Lê Đức Thúy, liên quan đến việc in tiền polymer hồi năm 2002.
Chưa rõ kết quả điều tra từ Úc sẽ đi tới đâu, nhưng nếu thực sự có một khoản hoa hồng lên tới hàng triệu USD đã được chi ra thì “cánh cửa vợ con” quả thực là ở đâu cũng vô cùng lợi hại.
Theo nguồn tin riêng, ông Lê Đức Minh được điều về Banktech bởi một ngành không liên quan đến vai trò Thống đốc của ông Lê Đức Thúy.
Tuy nhiên, như kết luận trước đây của Thanh tra Chính phủ, việc ông Minh “nắm” Banktech “tuy không trái quy định của pháp luật, nhưng đã gây nghi ngờ về sự khách quan, minh bạch”.”
Vụ việc trả hàng chục triệu Úc kim cho một người thông dịch không phải là sự kiện duy nhất liên quan đến sai phạm của giới chức Việt Nam tại nước ngoài nói chung và tại Úc Đại Lợi nói riêng. Những chuỗi vi phạm liên tục trong thời gian qua đang bào mòn hình ảnh của đất nước và con người Việt Nam trong cái nhìn của người dân và chính quyền Úc Đại Lợi.
Luật sư Lưu Tường Quang nhắc lại các sự kiện dính dáng đến Vietnam Airlines, và thậm chí, cả trong ngành giáo dục liên quan đến vấn đề du học sinh Việt Nam đến Úc.
Vụ việc trả hàng chục triệu Úc kim cho một người thông dịch không phải là sự kiện duy nhất liên quan đến sai phạm của giới chức Việt Nam tại nước ngoài nói chung và tại Úc Đại Lợi nói riêng.
“Về mặt dư luận, thực tế thì dư luận không giới hạn trong cộng đồng gốc Việt, mà mở rộng ra cho cộng đồng người Úc nói chung. Nhìn về Châu Á, Đông Nam Á, sự hợp tác của Úc với Việt Nam, thì người Úc nói chung không đánh giá cao hệ thống luật pháp cũng như sự trong sáng trong cách điều hành các công ty tại Việt Nam. Sự kiện này, một lần nữa, xác nhận sự đánh giá thấp của công luật Úc đối với Việt Nam.
Sự kiện này không chỉ liên hệ đến 1 công ty Úc và 1 công ty Việt Nam. Đã có nhiều chuyện xảy ra rồi. Vụ Vietnam Airlines là một ví dụ. Ngay cả vấn đề du học sinh cũng vậy.
Tôi biết có 1 số giáo sư Việt Nam đặt ra vấn đề thù lao để cho phép sinh viên sang Úc du học. Những điều này đều trái với luật lệ nước Úc. Những việc này, nước Úc không hề chấp nhận và sẽ không bao giờ chấp nhận.”
Tham nhũng bị phanh phui bởi báo chí nước ngoài
Điều đáng nói ở đây, là các vụ việc lớn liên quan đến tham nhũng tại Việt Nam thường được phanh phui nhờ vào báo chí nước ngoài.
Công ty tư vấn PCI của Nhật Bản trong dự án Xa Lộ Đông Tây là một ví dụ. Chính báo chí Nhật Bản truy tìm và đưa ra ánh sáng.
Điều đáng nói ở đây, là các vụ việc lớn liên quan đến tham nhũng tại Việt Nam thường được phanh phui nhờ vào báo chí nước ngoài.
Nay, vụ công ty Securency của Úc cũng do báo chí Úc điều tra và công bố.
Trở lại với ý tưởng “biết xấu hổ” trong bài viết cùng tên của tác giả Osin. Ông viết, rằng “Banktech là một trường hợp rất hiếm được đưa ra công luận, nhưng, những mối liên hệ kiểu “Lê Đức Minh” trên thực tế không phải hiếm hoi.
Vấn đề không chỉ là trái hay không trái những “quy định” hiện hành vốn đang có nhiều khoảng trống. Một nhà lãnh đạo nghiêm minh không nên để vợ con làm những việc mà dư luận có thể “nghi” về tính khách quan. Đừng đợi đến khi nhân dân đưa ra chứng cứ, phải biết xấu hổ từ những “dự án” đầu tiên mà anh em, vợ con, dâu rể… tham gia.”
Tác giả nhận định, là “Cho dù ở trong thể chế nào, ở đâu có quyền lực là ở đó có tham nhũng. Vấn đề là ở đâu, những người giàu có nhất là nhân dân; ở đâu những người giàu có nhất là “con ông cháu cha”; ở đâu, tham nhũng vẫn cứ “vinh thân phì gia”; ở đâu tham nhũng không có nơi để an toàn hạ cánh.
Ở những quốc gia không biết xấu hổ thì kết cục cũng có nhiều bi thảm; nhưng, người gánh chịu lại rất tiếc là thường ở phía nhân dân.
Quốc gia nào thì tham nhũng cũng cần phải được coi là “thế lực thù địch” nguy hiểm nhất. Nguy hiểm vì nó không rõ ràng phân tuyến; nguy hiểm vì, đôi khi nó nhởn nhơ bên cạnh, và đôi khi là cánh tay đắc lực của những bậc có quyền.”
Blogger Osin kết luận “Chỉ ở những quốc gia biết xấu hổ, kết cục của một kẻ dính tới tham nhũng mới có thể là tù tội như cựu tổng thống Trần Thủy Biển (Đài Loan); có thể phải lưu vong như Thaksin, Thailand; có thể phải cắn rứt lương tâm như tổng thống Roh Moo-hyun, Hàn Quốc.
Ở những quốc gia không biết xấu hổ thì kết cục cũng có nhiều bi thảm; nhưng, người gánh chịu lại rất tiếc là thường ở phía nhân dân.”
Copyright © 1998-2011 Radio Free Asia
Nghĩ trước thềm xuân
LÊ MAI
Năm 2011, tính theo lịch ta, khởi đầu bằng một ngày khá đặc biệt – ngày Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất hai tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam trên đất Hương Cảng. Sự trùng hợp ngẫu nhiên này có thể là một sự trùng hợp lịch sử, song nó còn là thông điệp gửi đến cho tương lai, ĐCS sẽ tiếp tục lãnh đạo dân tộc này, đất nước này như thế nào hầu đưa đất nước vươn lên, sánh vai với các cường quốc năm châu như mong ước của người sáng lập?
Câu hỏi không dễ trả lời – dẫu một kỳ ĐH của ĐCS vừa kết thúc. Hiển nhiên, ánh sáng của các chính sách sẽ chiếu rọi khắp nơi trên cả nước. Song giờ đây, khi mùa xuân sắp về, nhìn ra ngoài khung cửa, chỉ thấy mênh mông mờ mịt một màu xám ngắt, cộng với cái lạnh tê tái từ phía Bắc, vượt qua đèo Hải Vân cao vút lỗ châu mai tràn vào. Bầu trời thành phố vẫn đầy mây mù, chưa thấy tín hiệu nắng lên. Năm nay, hình như thiếu đi cái vẻ tất bật, rộn ràng của những ngày giáp Tết? Người đi lại trên đường phố hình như thưa vắng hơn? Chợ búa hình như ít người hơn? Mua bán hình như ít tấp nập hơn? “Siêu lạm phát B52 rải thảm trên toàn bờ cõi. Sông dài cá lội biệt tăm. Anh hùng kẻ gian đánh tráo lộn sòng”? Cái không mấy thay đổi, có lẽ là những câu khẩu hiệu mừng đảng, mừng xuân giăng khắp phố phường?
Nói đến đảng, nhất là ĐCS, luôn luôn phải thận trọng, suy nghĩ thấu đáo, nhất thiết không thể tuỳ tiện. Tôi không dám lạm bàn. Thế là tôi nhớ đến một bài viết của Trần Bạch Đằng – nhà cách mạng lão thành, nhà nghiên cứu uyên bác về “nỗi thèm khát nóng bỏng”. Ông muốn nói thèm khát cái gì?
Ấy là những năm kháng chiến chống Pháp, ở Nam Bộ, các ông Lê Duẩn, Phạm Hùng, Hà Huy Giáp, Ung Văn Khiêm, Trần Bạch Đằng…luôn được các ba, các má, các chị thương yêu, đùm bọc, chở che. Nhiều khi, họ gọi các nhân vật lẫy lừng ấy bằng “thằng” – một cách gọi thân mật, thân thiết rất Nam Bộ.
Hãy đọc hai câu thơ của Trần Bạch Đằng viết về Lê Duẩn:
Má gọi bằng thằng và cười ấm áp
Anh bồi hồi như mọi tầm cao
Hai câu thơ nói lên lòng tin cậy, sự mến thương, bình đẳng của người dân đối với Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ lúc bấy giờ và cũng nói lên cảm xúc sâu lắng của Bí thư Xứ ủy. Nhà thơ phải rất cao tay và rất hiểu “nhân vật” mới có thể viết được như vậy. Trong trường hợp này, được người dân kêu bằng “thằng” – như Lê Duẩn, thật không dễ dàng. Và dĩ nhiên, đó là một niềm vui, một phần thưởng từ người dân.
Đáng mừng là lúc bấy giờ có nhiều người thuộc “đẳng cấp thằng”: Thằng Ba Duẩn, thằng Ba Khiêm (Ung Văn Khiêm), thằng Tám Hà (Hà Huy Giáp), thằng Hai Hùng (Phạm Hùng)…
Vẫn lời Trần Bạch Đằng:
“…khi cùng bơi xuồng với anh Ba Duẩn, ghé xin nước uống một nhà trên bờ kênh.
- Tao biết mầy là thằng Ba Duẩn – chủ nhà trao gáo nước mưa cho anh Ba và bảo:
- Mầy là chỉ huy cao hơn hết ở xứ Nam này, ai cũng phục, vậy tại sao mầy để thằng con của hương hào Lẹ làm chủ tịch xã?
….
- Tôi sẽ giải quyết vụ này! – Anh Ba tự xem có lỗi, đã hứa, phải qua phiên dịch của tôi vì giọng Quảng Trị của anh rất khó nghe. Chủ nhà cười rạng rỡ:
- Tao biết tụi bây quang minh chánh đại mà!”
Cuộc đối thoại thật thú vị. Một người dân “tao, mầy, thằng” với Bí thư xứ uỷ Nam Bộ và ông Bí thư lập tức giải quyết thắc mắc của người dân. Không gì có thể nói nhiều hơn chi tiết ấy.
Câu chuyện trên gợi cho chúng ta trả lời câu hỏi, phải chăng nỗi thèm khát nóng bỏng của Trần Bạch Đằng là giá mà bây giờ đảng viên được người dân gọi bằng “thằng” với tất cả sự tin yêu, quý mến? Thế nhưng, đáng buồn là hiện thực rất phũ phàng, người dân hiện nay cũng gọi không ít cán bộ, đảng viên bằng “thằng” song không phải là “thằng” theo nghĩa Nam Bộ…
Lại có một cách gọi khác cũng không kém phần độc đáo của Mười Trí (Huỳnh Văn Trí), một nhân sỹ miền Nam, từng là một nhân vật khét tiếng trong giới giang hồ (Bình Xuyên), đã đi theo kháng chiến vì dân tộc. Sau khi Bảy Viễn về thành, Mười Trí viết thư cho Hồ Chí Minh, gửi qua Phạm Hùng. Đó chính là “Bức tâm thư kính gửi anh Hồ Chí Minh” độc đáo của Mười Trí. Trong thư, Mười Trí gọi Hồ Chí Minh là “anh” và xưng là “thằng em của anh”: “thằng em của anh là Mười Trí gửi thư này chúc anh mạnh khỏe…thằng em của anh xin hứa chắc với anh là thằng em của anh sẽ tiếp tục kháng chiến cho tới thắng lợi cuối cùng”.
Các nhân vật trong đoàn Phạm Hùng toát mồ hôi khi đọc thư Mười Trí, vì nó có vẻ “giang hồ” quá. Nhưng sau khi phân tích kỹ, cả đoàn đều đồng ý chuyển thư này lên Hồ Chí Minh. Vì đây chính là khẩu khí, phong cách, tâm hồn của một người từng trong giới giang hồ theo kháng chiến. Họ phải rất quý, rất phục ai đó, họ mới xưng hô như vậy. Đó cũng là một nét độc đáo của văn hóa VN, con người VN.
Hai câu chuyện đều nói lên mối quan hệ giữa người dân và lãnh đạo. Khi người lãnh đạo hiểu dân, thực sự vì dân, người dân sẽ quý họ, không một “lý luận” nào có thể thay thế điều đó – “lý luận giáo điều” càng không thể!
Bây giờ, chúng ta trở về với hoa trái mùa xuân. Những chậu quất bày đầy dọc phố, trái vàng rực nằm lẫn trong lá xanh, mùa xuân về rồi đấy nhỉ. Hoa tầm xuân xanh biếc, hoa cúc vàng rực, hoa lay ơn đỏ, hoa lan lá xanh với bông trắng…Có lẽ cái lạnh năm nay làm cho hoa mai – loài hoa đặc trưng của Tết miền Nam, nở muộn…
Đất trời đang sang xuân. Dù hoa nở muộn, mùa xuân vẫn cứ về, cũng như đất nước này, dân tộc này vạn đại tươi xanh.
(Lê Mai’s blog)
Năm 2011, tính theo lịch ta, khởi đầu bằng một ngày khá đặc biệt – ngày Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất hai tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam trên đất Hương Cảng. Sự trùng hợp ngẫu nhiên này có thể là một sự trùng hợp lịch sử, song nó còn là thông điệp gửi đến cho tương lai, ĐCS sẽ tiếp tục lãnh đạo dân tộc này, đất nước này như thế nào hầu đưa đất nước vươn lên, sánh vai với các cường quốc năm châu như mong ước của người sáng lập?
Câu hỏi không dễ trả lời – dẫu một kỳ ĐH của ĐCS vừa kết thúc. Hiển nhiên, ánh sáng của các chính sách sẽ chiếu rọi khắp nơi trên cả nước. Song giờ đây, khi mùa xuân sắp về, nhìn ra ngoài khung cửa, chỉ thấy mênh mông mờ mịt một màu xám ngắt, cộng với cái lạnh tê tái từ phía Bắc, vượt qua đèo Hải Vân cao vút lỗ châu mai tràn vào. Bầu trời thành phố vẫn đầy mây mù, chưa thấy tín hiệu nắng lên. Năm nay, hình như thiếu đi cái vẻ tất bật, rộn ràng của những ngày giáp Tết? Người đi lại trên đường phố hình như thưa vắng hơn? Chợ búa hình như ít người hơn? Mua bán hình như ít tấp nập hơn? “Siêu lạm phát B52 rải thảm trên toàn bờ cõi. Sông dài cá lội biệt tăm. Anh hùng kẻ gian đánh tráo lộn sòng”? Cái không mấy thay đổi, có lẽ là những câu khẩu hiệu mừng đảng, mừng xuân giăng khắp phố phường?
Nói đến đảng, nhất là ĐCS, luôn luôn phải thận trọng, suy nghĩ thấu đáo, nhất thiết không thể tuỳ tiện. Tôi không dám lạm bàn. Thế là tôi nhớ đến một bài viết của Trần Bạch Đằng – nhà cách mạng lão thành, nhà nghiên cứu uyên bác về “nỗi thèm khát nóng bỏng”. Ông muốn nói thèm khát cái gì?
Ấy là những năm kháng chiến chống Pháp, ở Nam Bộ, các ông Lê Duẩn, Phạm Hùng, Hà Huy Giáp, Ung Văn Khiêm, Trần Bạch Đằng…luôn được các ba, các má, các chị thương yêu, đùm bọc, chở che. Nhiều khi, họ gọi các nhân vật lẫy lừng ấy bằng “thằng” – một cách gọi thân mật, thân thiết rất Nam Bộ.
Hãy đọc hai câu thơ của Trần Bạch Đằng viết về Lê Duẩn:
Má gọi bằng thằng và cười ấm áp
Anh bồi hồi như mọi tầm cao
Hai câu thơ nói lên lòng tin cậy, sự mến thương, bình đẳng của người dân đối với Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ lúc bấy giờ và cũng nói lên cảm xúc sâu lắng của Bí thư Xứ ủy. Nhà thơ phải rất cao tay và rất hiểu “nhân vật” mới có thể viết được như vậy. Trong trường hợp này, được người dân kêu bằng “thằng” – như Lê Duẩn, thật không dễ dàng. Và dĩ nhiên, đó là một niềm vui, một phần thưởng từ người dân.
Đáng mừng là lúc bấy giờ có nhiều người thuộc “đẳng cấp thằng”: Thằng Ba Duẩn, thằng Ba Khiêm (Ung Văn Khiêm), thằng Tám Hà (Hà Huy Giáp), thằng Hai Hùng (Phạm Hùng)…
Vẫn lời Trần Bạch Đằng:
“…khi cùng bơi xuồng với anh Ba Duẩn, ghé xin nước uống một nhà trên bờ kênh.
- Tao biết mầy là thằng Ba Duẩn – chủ nhà trao gáo nước mưa cho anh Ba và bảo:
- Mầy là chỉ huy cao hơn hết ở xứ Nam này, ai cũng phục, vậy tại sao mầy để thằng con của hương hào Lẹ làm chủ tịch xã?
….
- Tôi sẽ giải quyết vụ này! – Anh Ba tự xem có lỗi, đã hứa, phải qua phiên dịch của tôi vì giọng Quảng Trị của anh rất khó nghe. Chủ nhà cười rạng rỡ:
- Tao biết tụi bây quang minh chánh đại mà!”
Cuộc đối thoại thật thú vị. Một người dân “tao, mầy, thằng” với Bí thư xứ uỷ Nam Bộ và ông Bí thư lập tức giải quyết thắc mắc của người dân. Không gì có thể nói nhiều hơn chi tiết ấy.
Câu chuyện trên gợi cho chúng ta trả lời câu hỏi, phải chăng nỗi thèm khát nóng bỏng của Trần Bạch Đằng là giá mà bây giờ đảng viên được người dân gọi bằng “thằng” với tất cả sự tin yêu, quý mến? Thế nhưng, đáng buồn là hiện thực rất phũ phàng, người dân hiện nay cũng gọi không ít cán bộ, đảng viên bằng “thằng” song không phải là “thằng” theo nghĩa Nam Bộ…
Lại có một cách gọi khác cũng không kém phần độc đáo của Mười Trí (Huỳnh Văn Trí), một nhân sỹ miền Nam, từng là một nhân vật khét tiếng trong giới giang hồ (Bình Xuyên), đã đi theo kháng chiến vì dân tộc. Sau khi Bảy Viễn về thành, Mười Trí viết thư cho Hồ Chí Minh, gửi qua Phạm Hùng. Đó chính là “Bức tâm thư kính gửi anh Hồ Chí Minh” độc đáo của Mười Trí. Trong thư, Mười Trí gọi Hồ Chí Minh là “anh” và xưng là “thằng em của anh”: “thằng em của anh là Mười Trí gửi thư này chúc anh mạnh khỏe…thằng em của anh xin hứa chắc với anh là thằng em của anh sẽ tiếp tục kháng chiến cho tới thắng lợi cuối cùng”.
Các nhân vật trong đoàn Phạm Hùng toát mồ hôi khi đọc thư Mười Trí, vì nó có vẻ “giang hồ” quá. Nhưng sau khi phân tích kỹ, cả đoàn đều đồng ý chuyển thư này lên Hồ Chí Minh. Vì đây chính là khẩu khí, phong cách, tâm hồn của một người từng trong giới giang hồ theo kháng chiến. Họ phải rất quý, rất phục ai đó, họ mới xưng hô như vậy. Đó cũng là một nét độc đáo của văn hóa VN, con người VN.
Hai câu chuyện đều nói lên mối quan hệ giữa người dân và lãnh đạo. Khi người lãnh đạo hiểu dân, thực sự vì dân, người dân sẽ quý họ, không một “lý luận” nào có thể thay thế điều đó – “lý luận giáo điều” càng không thể!
Bây giờ, chúng ta trở về với hoa trái mùa xuân. Những chậu quất bày đầy dọc phố, trái vàng rực nằm lẫn trong lá xanh, mùa xuân về rồi đấy nhỉ. Hoa tầm xuân xanh biếc, hoa cúc vàng rực, hoa lay ơn đỏ, hoa lan lá xanh với bông trắng…Có lẽ cái lạnh năm nay làm cho hoa mai – loài hoa đặc trưng của Tết miền Nam, nở muộn…
Đất trời đang sang xuân. Dù hoa nở muộn, mùa xuân vẫn cứ về, cũng như đất nước này, dân tộc này vạn đại tươi xanh.
(Lê Mai’s blog)
Mùi Vịt Bắc Kinh Trong Đảng CSVN
Từ sau Đại hội đảng IX với Nộng Đức Mạnh “lên ngôi” Tổng Bí thư đảng tháng 4 năm 2001, mùi cơm Tầu, Vịt quay Bắc Kinh đã tỏa ra khắp cõi Việt Nam. Đến năm 2008, trong nhiệm kỳ hai của Mạnh, thì bàn tay Tầu đã mò tới Tây Nguyên để xây dựng nhà máy khai thác Bauxite mà Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất Nước không được hỏi ý.
Sau đó, hàng lọat các Công ty Tầu được “trúng thầu” nhiều dự án phát triển Kinh tế của Việt Nam, quan trọng hơn cả là còn được quyền đưa công nhân của mình vào làm việc và đem hàng hóa, trang cụ sản xuất từ nước Tầu vào sử dụng, dù hàng hóa cùng lọai sản xuất từ Việt Nam có thừa.
Cho đến năm nay (2011), không ai biết đã có bao nhiều ngàn công nhân người Tầu đang có mặt ở Việt Nam, kể cả những người mượn cớ du lịch rồi ở luôn làm việc cho các công ty Tầu Cộng. Nhà nước chỉ nhìn nhận có khỏang 35 ngàn người, nhưng các tin của Báo Việt Nam ước lượng có tới 75 ngàn.
Một sự kiện khác chứng minh cho mùi Vịt Bắc Kinh đã khỏa lấp cả quyền làm chủ đất nước của dân Việt là người Việt đã bị cấm vào các cơ sở kinh doanh hay khu nhà máy do người Tầu chủ qủan. Công nhân Việt Nam cũng không được thuê mướn, dù chỉ làm những việc tầm thường.
Chuyện khai thác Bauxite còn nhiêu khê hơn.
Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng đã hớn hở cam đoan rằng, sau khi dựng xong nhà máy, công ty Tầu Chalieco sẽ bàn giao tòan bộ cho Việt Nam. Nhưng Dũng quên nói cho dân biết rằng, sau khi lọc hết chất độc bùn đỏ bỏ vào hồ chứa ở Lâm Đồng và Đắk Nông thì Việt Nam phải bán quặng làm ra nhôm cho Tầu.
Bán với gía nào và lời lỗ ra sao thì chưa ai biết rõ, kể cả Chủ đầu tư là Tập đòan Than- Khóang sản Việt Nam (TKV). Các chuyên viên trong và ngòai nước, kể cả một số người làm việc cho TKV thì xác tín rằng, dự án khai thác Bauxite không có lời mà sẽ lỗ to vì chi phí qúa lớn so với giá bán ra thị trường.
Phía nhà nước cãi lại, nhưng họ lại quên cộng thêm các khỏan tiền chưa biết lấy đâu ra để làm đường bộ, đường sắt, xây bến cảng Kê Gà ở Bình Thuận để chuyên chở sản phẩm cho Tầu đem về nước.
Cho đến năm 2011, các dự án giao thông căn bản này vẫn còn trong vòng nghiên cứu. Ấy là chưa kể những hậu qủa về môi sinh dọc theo các tuyến lưu thông khi chuyên chở sản phẩm của Bauxite. Nhiều chuyên viên nói thẳng canh bạc khai thác Bauxite của Nhà nước hòan tòan bất khả thi, phí phạm và nguy hiểm tột cùng nếu chẳng may các hồ chứa bùn đỏ bị vỡ làm tràn chất độc diệt chủng xuống các mạch nước, sông, hồ và suối khe.
Hàng ngàn Trí thức và người Việt Nam yêu nước từ trong và ngòai nước, kể cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch Nước đã gửi thư hay ký tên vào hai Kiến Nghị, lần thứ nhất ngày 12/4/2009 và lần thứ nhì ngày 9/10/2010, yêu cầu ngưng ngay Dự án khai thác Bauxite để tránh hiểm họa cho dân tộc.
Những người ký tên cho rằng tài nguyên của Tổ tiên để lại, nếu chưa khai thác vẫn còn nguyên đó và hãy đợi khi nào Việt Nam có đủ kiến thức và phương tiện làm chủ khai thác thì làm cũng chưa muộn. Hơn nữa, ông Võ Nguyên Giáp và một số Tướng lãnh nghĩ hưu còn vạch ra mối nguy về Quốc phòng nếu để cho người Tầu vào thao túng ở vùng lãnh thổ chiến lược Tây Nguyên. Bởi lẽ cuộc chiến Việt Nam đã chứng minh kẻ nào làm kiểm sóat được Tây Nguyên thì sẽ làm chủ được cuộc chiến.
Rất tiếc cho số phận dân tộc là những người có trách nhiệm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ là đảng Cộng sản Việt Nam đã bỏ ngòai tai những lời khuyên phải để, tiếp tục “chũi đầu xuống cát” đưa ra, vào ngày 25-4-2009, “Kết luận của Bộ chính trị về Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bauxite giai đoạn 2007-2015, có xét đến năm 2025.”
Kết luận này có điểm quan trọng viết rằng :” Chủ trương thăm dò, khai thác, chế biến bauxite là chủ trương nhất quán từ Đại hội IX và Đại hội X của Đảng đến nay. Triển khai các nghị quyết Đại hội, trong 2 nhiệm kỳ, Bộ Chính trị đã nhiều lần bàn và ra các nghị quyết, kết luận để lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng ngành công nghiệp bauxite, alumin, nhôm, phục vụ phát triển kinh tế đất nước nói chung, góp phần phát triển kinh tế-xã hội Tây Nguyên nói riêng.
Thực hiện nghị quyết của Đảng, Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng và phê duyệt Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bauxite giai đoạn 2007-2015, có xét đến năm 2025 với bước đi cụ thể và chỉ đạo triển khai 2 dự án khai thác bauxite, sản xuất alumin đầu tiên tại Tân Rai (Bảo Lộc, Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắk Nông); đồng thời, chỉ đạo tìm kiếm, lựa chọn đối tác nước ngoài có năng lực để hợp tác phát triển kết cấu hạ tầng và đầu tư xây dựng ngành công nghiệp bauxite, alumin, nhôm. Chính phủ đã giao Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam là đơn vị có kinh nghiệm trong khai thác khoáng sản làm chủ đầu tư thực hiện 2 dự án và chủ trì đàm phán với các đối tác nước ngoài.”
ĐẠI HỘI ĐẢNG IX VIẾT GÌ VỀ BAUXITE ?
Nhưng hai Đại hội đảng IX và X đã nói gì về khai thác Bauxite ?
Trong Báo cáo về “Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010′ ở Tây Nguyên, khóa đảng VIII dưới quyền Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã trình tại Đại hội Khóa đảng IX về khai thác Bauxite nguyên văn như sau :
“Tây Nguyên là địa bàn chiến lược quan trọng của cả nước cả về kinh tế – xã hội và quốc phòng – an ninh, có lợi thế để phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp sản xuất hàng hoá lớn kết hợp với công nghiệp chế biến, phát triển công nghiệp năng lượng và công nghiệp khai thác khoáng sản. Có chiến lược và quy hoạch xây dựng Tây Nguyên giàu về kinh tế, vững mạnh về quốc phòng, an ninh, tiến tới thành vùng kinh tế động lực.
Phát triển nhanh theo hướng thâm canh là chính đối với các cây công nghiệp gắn với thị trường xuất khẩu (cà phê, cao su, chè, bông…), chăn nuôi đại gia súc, trồng và bảo vệ rừng, cây dược liệu, cây đặc sản và công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Phát triển thủy điện lớn và vừa, các hồ chứa nước cho thủy lợi. Khai thác và chế biến quặng bôxít. Phát triển công nghiệp giấy. Nâng cấp, khai thác tốt các tuyến đường trục và đường ngang nối xuống vùng Duyên hải. Phát triển sự hợp tác liên kết kinh tế – thương mại – dịch vụ với các nước láng giềng Lào, Campuchia. Có chính sách thu hút vốn đầu tư, bố trí dân cư và lao động và đất đai theo quy hoạch, nâng cao dân trí và trình độ công nghệ. Thực hiện tốt chính sách dân tộc, thật sự cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của đồng bào dân tộc.”
Sau đó, chuyện “Bauxite” đã được lập lại tại Đại hội đảng khóa X. Nhưng vấn đề không phải là khai thác hay không khai thác mà giao cho ai làm và ai có lợi, Việt Nam hay nước ngòai ?
Trong điều kiện hiện nay và thực tế đã chứng minh việc khai thác Bauxite trên Tây Nguyên chỉ làm lợi cho Tầu Bắc Kinh vì sản phẩm của VN không bán cho ai khác ngòai Tầu là quốc gia đã “trúng thầu” xây dựng nhà máy khai thác khóang sản Bauxite và muốn mua hết lọai qúy phẩm này để phục vụ kỹ nghệ vửa rẻ, vừa đỡ tốn tiền vận chuyện nhờ ở bên cạnh Việt Nam.
Hơn nữa liệu Việt Nam nào có dám bán hàng cho nước khác ?
Tiếp đến là chuyện 10 tỉnh đấu nguồn, có vị trí chiến lược sát biên giới Tầu (có tin của Quốc hội là 18 tỉnh) cho các công ty Tầu Bắc Kinh, Hồng Kông và Đài Loan thuê đất rừng dài hạn 50 năm trồng cây kỹ nghệ.
Nhiều viên chức địa phương đã chóang váng không biết tại sao các Quan đầu tỉnh đã có quyết định cho thuê đất, nhất là tại những khu vực, nếu khi xẩy ra chiến tranh thì quân Tầu có thể thong dong chạy theo các con đường mòn do các công ty Tầu mới làm vòng quanh các ngọn đồi chiến lược để nã súng xuống quân Việt Nam ở dưới đồng bằng !
Nhiều trí thức trong nước đã lên tiếng lo ngại đến trường hợp công nhân Tầu sẽ lập ra các làng “tự chủ” ngay trong các khu đất thuê rồi sinh con đẻ cái họp thành một “nước Tầu” trong lãnh thổ Việt Nam thì lúc đó ai đuổi họ đi được ?
ĐƯỜNG SẮT TẦU XUYÊN VIỆT NAM ?
Sau cùng là chuyện Tầu có kế họach làm đường tầu cao tốc nối liền với các nước Đông Nam Á để bành trướng kinh tế và thương mại.
Kế họach này đã do Báo China Daily tiết lộ Trung Quốc sẽ xây dựng một tuyến đường sắt cao tốc nối liền Quảng Tây, miền Nam Trung Quốc với Tân Gia Ba xuyên qua Hà Nội, sang Lào, Cao Miên để qua Thái Lan rồi xuống Mã Lai Á trước khi chạy đến Tân Gia Ba.
Nhưng ai đã cho phép Tầu Bắc Kinh làm đường sắt cao tốc xuyên qua lãnh thổ Việt Nam là điều những người cầm đầu đảng CSVN, đầu tiên là Nguyễn Phú Trọng, tân Tổng Bí thư đảng khóa XI mới được bầu ngày 18/1 (2011) phải trả lời trước nhân dân.
Trong chức vụ Chủ tịch Quốc hội, Nguyễn Phú Trọng đã chứng minh có khuynh hướng thân Tầu khi chống việc đem vấn đề khai thác Bauxite vào chương trình nghị sự để Quốc hội tranh luận, dù có yêu cầu của một số không nhỏ Đại biểu.
Trọng cũng chống cả việc đòi Chính phủ phải tường trính để cho Quốc hội chất vấn về áp lực của Tầu tại Biển Đông.
Do đó, không ai khỏi lo ngại khi có tin Nguyễn Sinh Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị khóa XI, Phó Thủ tướng thường trực sẽ thay Trọng làm Chủ tịch Quốc hội.
Tại sao ?
Bởi vì Hùng rất hăng hái chuyện làm đường cao tốc nối liền Sài Gòn với Hà Nội và nối Hà Nội với Tầu.
Trong cuộc điều trần trước Quốc hội ngày 12/06/2010, Hùng nói : ” Tôi yên tâm. Yên tâm rằng phải làm. Yên tâm cùng Chính phủ xin Quốc hội chủ trương để làm. Yên tâm là Quốc hội và Chính phủ tính được bài để làm”
Cả Bộ trường Giao thông-Vận tải Hồ Nghĩa Dũng cũng “say làm đường cao tốc” không kém Hùng.
Trong Cuộc phỏng vấn của Báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 3/1/2011, Dũng nói hùng hổ : ” Dứt khoát là phải làm. Nhưng mà thời điểm như thế nào thì phải tính kỹ, phải theo đúng thủ tục, quy định, rồi phải báo cáo Quốc hội. Chính phủ quyết tâm để chuẩn bị dự án chứ không phải là Chính phủ cứ làm mà không báo cáo Quốc hội như mọi người ngộ nhận.”
Dũng còn tiết lộ Việt nam “không lọai trừ việc cho Trung Quốc tham gia đấu thầu” làm đường Cao Tốc khi phỏng vấn bởi Báo Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh ngày 18/6/2010.
Cũng may mà Quốc hội Việt Nam, trong cuộc bỏ phiếu ngày 19/6/2010, đã thẳng tay bác bỏ đề nghị làm đường sắt cao tốc, có kinh phí dự trù 56 tỷ Mỹ Kim, với số phiếu 208 trên tổng số 427 Đại biểu có mặt. Số đồng ý chỉ có 185 người. Số người không bỏ phiếu là 34.
Nhưng chuyện nhà nước “cố đấm ăn xôi” chưa ngừng ở đây mà hiện đang có nỗ lực đem dự án làm đường sắt cao tốc ra Quốc hội một lần nữa với sự chuẩn bị kỹ càng hơn cho chắc ăn.
Nhưng bao giờ đưa ra thì cũng phải đợi bầu xong Khóa XIII cùa Quốc hội, dự trù ngày 22/5 (2011).
Vì vậy, khi có tin đồn ở Hà Nội nói rằng Nguyễn Sinh Hùng đã được bố trí vào chức Chủ tịch Quốc hội thay vì Phạm Quang Nghị, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư đảng Hà Nội thì mọi người đều nghĩ ngay đến “âm mưu” làm đường cao tốc cho Tầu hưởng lợi lại có cơ hội sống mới dưới thời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhưng mùi hôi hám của Vịt Bắc Kinh thiu lại cũng đi theo phủ kín cả đảng và Nhà nước CSVN. -/-
Phạm Trần
(01/011)
Sau đó, hàng lọat các Công ty Tầu được “trúng thầu” nhiều dự án phát triển Kinh tế của Việt Nam, quan trọng hơn cả là còn được quyền đưa công nhân của mình vào làm việc và đem hàng hóa, trang cụ sản xuất từ nước Tầu vào sử dụng, dù hàng hóa cùng lọai sản xuất từ Việt Nam có thừa.
Cho đến năm nay (2011), không ai biết đã có bao nhiều ngàn công nhân người Tầu đang có mặt ở Việt Nam, kể cả những người mượn cớ du lịch rồi ở luôn làm việc cho các công ty Tầu Cộng. Nhà nước chỉ nhìn nhận có khỏang 35 ngàn người, nhưng các tin của Báo Việt Nam ước lượng có tới 75 ngàn.
Một sự kiện khác chứng minh cho mùi Vịt Bắc Kinh đã khỏa lấp cả quyền làm chủ đất nước của dân Việt là người Việt đã bị cấm vào các cơ sở kinh doanh hay khu nhà máy do người Tầu chủ qủan. Công nhân Việt Nam cũng không được thuê mướn, dù chỉ làm những việc tầm thường.
Chuyện khai thác Bauxite còn nhiêu khê hơn.
Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng đã hớn hở cam đoan rằng, sau khi dựng xong nhà máy, công ty Tầu Chalieco sẽ bàn giao tòan bộ cho Việt Nam. Nhưng Dũng quên nói cho dân biết rằng, sau khi lọc hết chất độc bùn đỏ bỏ vào hồ chứa ở Lâm Đồng và Đắk Nông thì Việt Nam phải bán quặng làm ra nhôm cho Tầu.
Bán với gía nào và lời lỗ ra sao thì chưa ai biết rõ, kể cả Chủ đầu tư là Tập đòan Than- Khóang sản Việt Nam (TKV). Các chuyên viên trong và ngòai nước, kể cả một số người làm việc cho TKV thì xác tín rằng, dự án khai thác Bauxite không có lời mà sẽ lỗ to vì chi phí qúa lớn so với giá bán ra thị trường.
Phía nhà nước cãi lại, nhưng họ lại quên cộng thêm các khỏan tiền chưa biết lấy đâu ra để làm đường bộ, đường sắt, xây bến cảng Kê Gà ở Bình Thuận để chuyên chở sản phẩm cho Tầu đem về nước.
Cho đến năm 2011, các dự án giao thông căn bản này vẫn còn trong vòng nghiên cứu. Ấy là chưa kể những hậu qủa về môi sinh dọc theo các tuyến lưu thông khi chuyên chở sản phẩm của Bauxite. Nhiều chuyên viên nói thẳng canh bạc khai thác Bauxite của Nhà nước hòan tòan bất khả thi, phí phạm và nguy hiểm tột cùng nếu chẳng may các hồ chứa bùn đỏ bị vỡ làm tràn chất độc diệt chủng xuống các mạch nước, sông, hồ và suối khe.
Hàng ngàn Trí thức và người Việt Nam yêu nước từ trong và ngòai nước, kể cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch Nước đã gửi thư hay ký tên vào hai Kiến Nghị, lần thứ nhất ngày 12/4/2009 và lần thứ nhì ngày 9/10/2010, yêu cầu ngưng ngay Dự án khai thác Bauxite để tránh hiểm họa cho dân tộc.
Những người ký tên cho rằng tài nguyên của Tổ tiên để lại, nếu chưa khai thác vẫn còn nguyên đó và hãy đợi khi nào Việt Nam có đủ kiến thức và phương tiện làm chủ khai thác thì làm cũng chưa muộn. Hơn nữa, ông Võ Nguyên Giáp và một số Tướng lãnh nghĩ hưu còn vạch ra mối nguy về Quốc phòng nếu để cho người Tầu vào thao túng ở vùng lãnh thổ chiến lược Tây Nguyên. Bởi lẽ cuộc chiến Việt Nam đã chứng minh kẻ nào làm kiểm sóat được Tây Nguyên thì sẽ làm chủ được cuộc chiến.
Rất tiếc cho số phận dân tộc là những người có trách nhiệm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ là đảng Cộng sản Việt Nam đã bỏ ngòai tai những lời khuyên phải để, tiếp tục “chũi đầu xuống cát” đưa ra, vào ngày 25-4-2009, “Kết luận của Bộ chính trị về Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bauxite giai đoạn 2007-2015, có xét đến năm 2025.”
Kết luận này có điểm quan trọng viết rằng :” Chủ trương thăm dò, khai thác, chế biến bauxite là chủ trương nhất quán từ Đại hội IX và Đại hội X của Đảng đến nay. Triển khai các nghị quyết Đại hội, trong 2 nhiệm kỳ, Bộ Chính trị đã nhiều lần bàn và ra các nghị quyết, kết luận để lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng ngành công nghiệp bauxite, alumin, nhôm, phục vụ phát triển kinh tế đất nước nói chung, góp phần phát triển kinh tế-xã hội Tây Nguyên nói riêng.
Thực hiện nghị quyết của Đảng, Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng và phê duyệt Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bauxite giai đoạn 2007-2015, có xét đến năm 2025 với bước đi cụ thể và chỉ đạo triển khai 2 dự án khai thác bauxite, sản xuất alumin đầu tiên tại Tân Rai (Bảo Lộc, Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắk Nông); đồng thời, chỉ đạo tìm kiếm, lựa chọn đối tác nước ngoài có năng lực để hợp tác phát triển kết cấu hạ tầng và đầu tư xây dựng ngành công nghiệp bauxite, alumin, nhôm. Chính phủ đã giao Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam là đơn vị có kinh nghiệm trong khai thác khoáng sản làm chủ đầu tư thực hiện 2 dự án và chủ trì đàm phán với các đối tác nước ngoài.”
ĐẠI HỘI ĐẢNG IX VIẾT GÌ VỀ BAUXITE ?
Nhưng hai Đại hội đảng IX và X đã nói gì về khai thác Bauxite ?
Trong Báo cáo về “Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010′ ở Tây Nguyên, khóa đảng VIII dưới quyền Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã trình tại Đại hội Khóa đảng IX về khai thác Bauxite nguyên văn như sau :
“Tây Nguyên là địa bàn chiến lược quan trọng của cả nước cả về kinh tế – xã hội và quốc phòng – an ninh, có lợi thế để phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp sản xuất hàng hoá lớn kết hợp với công nghiệp chế biến, phát triển công nghiệp năng lượng và công nghiệp khai thác khoáng sản. Có chiến lược và quy hoạch xây dựng Tây Nguyên giàu về kinh tế, vững mạnh về quốc phòng, an ninh, tiến tới thành vùng kinh tế động lực.
Phát triển nhanh theo hướng thâm canh là chính đối với các cây công nghiệp gắn với thị trường xuất khẩu (cà phê, cao su, chè, bông…), chăn nuôi đại gia súc, trồng và bảo vệ rừng, cây dược liệu, cây đặc sản và công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Phát triển thủy điện lớn và vừa, các hồ chứa nước cho thủy lợi. Khai thác và chế biến quặng bôxít. Phát triển công nghiệp giấy. Nâng cấp, khai thác tốt các tuyến đường trục và đường ngang nối xuống vùng Duyên hải. Phát triển sự hợp tác liên kết kinh tế – thương mại – dịch vụ với các nước láng giềng Lào, Campuchia. Có chính sách thu hút vốn đầu tư, bố trí dân cư và lao động và đất đai theo quy hoạch, nâng cao dân trí và trình độ công nghệ. Thực hiện tốt chính sách dân tộc, thật sự cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của đồng bào dân tộc.”
Sau đó, chuyện “Bauxite” đã được lập lại tại Đại hội đảng khóa X. Nhưng vấn đề không phải là khai thác hay không khai thác mà giao cho ai làm và ai có lợi, Việt Nam hay nước ngòai ?
Trong điều kiện hiện nay và thực tế đã chứng minh việc khai thác Bauxite trên Tây Nguyên chỉ làm lợi cho Tầu Bắc Kinh vì sản phẩm của VN không bán cho ai khác ngòai Tầu là quốc gia đã “trúng thầu” xây dựng nhà máy khai thác khóang sản Bauxite và muốn mua hết lọai qúy phẩm này để phục vụ kỹ nghệ vửa rẻ, vừa đỡ tốn tiền vận chuyện nhờ ở bên cạnh Việt Nam.
Hơn nữa liệu Việt Nam nào có dám bán hàng cho nước khác ?
Tiếp đến là chuyện 10 tỉnh đấu nguồn, có vị trí chiến lược sát biên giới Tầu (có tin của Quốc hội là 18 tỉnh) cho các công ty Tầu Bắc Kinh, Hồng Kông và Đài Loan thuê đất rừng dài hạn 50 năm trồng cây kỹ nghệ.
Nhiều viên chức địa phương đã chóang váng không biết tại sao các Quan đầu tỉnh đã có quyết định cho thuê đất, nhất là tại những khu vực, nếu khi xẩy ra chiến tranh thì quân Tầu có thể thong dong chạy theo các con đường mòn do các công ty Tầu mới làm vòng quanh các ngọn đồi chiến lược để nã súng xuống quân Việt Nam ở dưới đồng bằng !
Nhiều trí thức trong nước đã lên tiếng lo ngại đến trường hợp công nhân Tầu sẽ lập ra các làng “tự chủ” ngay trong các khu đất thuê rồi sinh con đẻ cái họp thành một “nước Tầu” trong lãnh thổ Việt Nam thì lúc đó ai đuổi họ đi được ?
ĐƯỜNG SẮT TẦU XUYÊN VIỆT NAM ?
Sau cùng là chuyện Tầu có kế họach làm đường tầu cao tốc nối liền với các nước Đông Nam Á để bành trướng kinh tế và thương mại.
Kế họach này đã do Báo China Daily tiết lộ Trung Quốc sẽ xây dựng một tuyến đường sắt cao tốc nối liền Quảng Tây, miền Nam Trung Quốc với Tân Gia Ba xuyên qua Hà Nội, sang Lào, Cao Miên để qua Thái Lan rồi xuống Mã Lai Á trước khi chạy đến Tân Gia Ba.
Nhưng ai đã cho phép Tầu Bắc Kinh làm đường sắt cao tốc xuyên qua lãnh thổ Việt Nam là điều những người cầm đầu đảng CSVN, đầu tiên là Nguyễn Phú Trọng, tân Tổng Bí thư đảng khóa XI mới được bầu ngày 18/1 (2011) phải trả lời trước nhân dân.
Trong chức vụ Chủ tịch Quốc hội, Nguyễn Phú Trọng đã chứng minh có khuynh hướng thân Tầu khi chống việc đem vấn đề khai thác Bauxite vào chương trình nghị sự để Quốc hội tranh luận, dù có yêu cầu của một số không nhỏ Đại biểu.
Trọng cũng chống cả việc đòi Chính phủ phải tường trính để cho Quốc hội chất vấn về áp lực của Tầu tại Biển Đông.
Do đó, không ai khỏi lo ngại khi có tin Nguyễn Sinh Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị khóa XI, Phó Thủ tướng thường trực sẽ thay Trọng làm Chủ tịch Quốc hội.
Tại sao ?
Bởi vì Hùng rất hăng hái chuyện làm đường cao tốc nối liền Sài Gòn với Hà Nội và nối Hà Nội với Tầu.
Trong cuộc điều trần trước Quốc hội ngày 12/06/2010, Hùng nói : ” Tôi yên tâm. Yên tâm rằng phải làm. Yên tâm cùng Chính phủ xin Quốc hội chủ trương để làm. Yên tâm là Quốc hội và Chính phủ tính được bài để làm”
Cả Bộ trường Giao thông-Vận tải Hồ Nghĩa Dũng cũng “say làm đường cao tốc” không kém Hùng.
Trong Cuộc phỏng vấn của Báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 3/1/2011, Dũng nói hùng hổ : ” Dứt khoát là phải làm. Nhưng mà thời điểm như thế nào thì phải tính kỹ, phải theo đúng thủ tục, quy định, rồi phải báo cáo Quốc hội. Chính phủ quyết tâm để chuẩn bị dự án chứ không phải là Chính phủ cứ làm mà không báo cáo Quốc hội như mọi người ngộ nhận.”
Dũng còn tiết lộ Việt nam “không lọai trừ việc cho Trung Quốc tham gia đấu thầu” làm đường Cao Tốc khi phỏng vấn bởi Báo Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh ngày 18/6/2010.
Cũng may mà Quốc hội Việt Nam, trong cuộc bỏ phiếu ngày 19/6/2010, đã thẳng tay bác bỏ đề nghị làm đường sắt cao tốc, có kinh phí dự trù 56 tỷ Mỹ Kim, với số phiếu 208 trên tổng số 427 Đại biểu có mặt. Số đồng ý chỉ có 185 người. Số người không bỏ phiếu là 34.
Nhưng chuyện nhà nước “cố đấm ăn xôi” chưa ngừng ở đây mà hiện đang có nỗ lực đem dự án làm đường sắt cao tốc ra Quốc hội một lần nữa với sự chuẩn bị kỹ càng hơn cho chắc ăn.
Nhưng bao giờ đưa ra thì cũng phải đợi bầu xong Khóa XIII cùa Quốc hội, dự trù ngày 22/5 (2011).
Vì vậy, khi có tin đồn ở Hà Nội nói rằng Nguyễn Sinh Hùng đã được bố trí vào chức Chủ tịch Quốc hội thay vì Phạm Quang Nghị, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư đảng Hà Nội thì mọi người đều nghĩ ngay đến “âm mưu” làm đường cao tốc cho Tầu hưởng lợi lại có cơ hội sống mới dưới thời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhưng mùi hôi hám của Vịt Bắc Kinh thiu lại cũng đi theo phủ kín cả đảng và Nhà nước CSVN. -/-
Phạm Trần
(01/011)
Hà Nội, Ga Lẻ Hoa Lục
Trung Cộng sẽ xây tuyến đường sắt cao tốc từ Quảng Tây (Nam TQ) tới Singapore, chạy ngang qua Hà nội (Việt Nam). Nghe tin này hồi Thứ năm 20 Tháng Giêng 2011 trên Đài RFI mà không dám tin vào lổ tai của mình nên phải mở Internet xem lại bản tin giấy trắng mực đen cho chắc. Rồi chắc hơn nữa, ngày Chủ nhật 23 Tháng Giêng 2011 trong Mục Điểm Báo, Đài RFI có đề cập một bài báo của tờ The Economist, tựa đề “Hội nhập Đông Nam Á, Trung Quốc đưa đường xe lửa xuống phía nam ». Tiểu tựa mục điểm báo này là “Tham vọng của Trung Quốc qua đường tàu tốc hành xuyên Đông Nam Á”. Đến đây có thể yên trí là TC sẽ xây một đường cao tốc chạy qua Hà nội; thủ đô của nước Việt Nam thời CS trở thành là một ga lẻ của đường xe lửa của TC.
Một, qua con đường này thủ đô của nước VN thời CS là Hà nội thành một ga lẻ như ga quận huyện của TC. Báo China Daily cho biết đường xe lửa này của TC nối liền khu tự trị của người thiểu số Choang ở Quảng Tây (Nam TQ) với Singapore, chạy ngang qua Hà nội (Việt Nam). Đường này là ưu tiên hàng đầu của tỉnh Quảng Tây nên bắt đầu làm năm 2011 này. Đường này như đưởng liên tỉnh của TC, nối liền thủ phủ Nam Ninh của Quảng Tây với thành phố Bình Hương của tỉnh Giang Tây, ở gần biên giới TQ và VN.
Đối với các nước ở Đông Nam Á, đường này bắt đầu từ Nam Ninh của Quảng Tây, chạy qua thủ đô Hà Nội của Việt Nam, sang Vientiane (Lào), Phnom Penh (Cam Bốt), Bangkok (Thái Lan) và Kuala Lumpur (Malaysia) trước khi đến Singapore. Quảng Tây sẽ là trung tâm buôn bán của toàn khu vực với ASEAN là khối đối tác thương mại lớn nhất.
Hai, qua con đường này, Trung Cộng thống lĩnh Đông Nam Á trên bộ như Đế quốc La Mã xưa kia tạo thành một mạng lưới đường sá “đường nào cũng về La Mã”. Về kinh tế, con đường cao tốc này là con đường TC xuất cảng hàng hoá và chuyên chở nguyên liệu mà TC thèm muốn nhập cảng về TC. Hàng hoá TC giá rẻ sẽ tràn ngập các nước ĐNA. ĐNA còn nhiều tài nguyên thiên nhiên TC rất cần cho guồng máy kinh tế của TC. TC mua chở về nước dễ dàng.
Giả sử Mỹ có phong toả Eo Biển Mã Lai, Mỹ cũng không ngăn cản bước chân khổng lồ của TC trên bộ được. TC cũng còn giao thương được với các nước ĐNA.
Dù TC chưa phải là thành viên của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á gọi là ASEANm nhưng TQ đã ký được Hiệp định tự do mậu dịch giữa Trung Quốc và ASEAN có hiệu lực cách đây một năm, đã cắt giảm thuế quan cho rất nhiều hàng hóa.
Đó là chưa nói TC dùng các nước Đông Nam Á như những thuộc địa di dân, Hán hóa một cách êm đềm trên con đường nam tiến như đã từng làm với Tân Cương, Tây Tạng. Vùng này TQ đã có sẵn đội quân thứ năm. Mã lai, Nam dương, Tân gia ba, Thái Lan, Lào, Miên số Hoa kiều đã có sẵn, nắm chặt nền kinh tế của các nước sở tại.
Ba, qua con đường này, Trung Cộng tạo thành một thế liên hoàn TC đánh bạt Mỹ ra khỏi đất liền ĐNA. Trong thời buổi Mỹ dồn dập trở lại ĐNA qua con đường ASEAN, gây trở ngại cho thế thống lĩnh của TC trên biển Đông mà TC gọi là Nam Hải của TQ, nhiều nước ĐNA muốn Mỹ có mặt, nghiêng về phía Mỹ, TC muốn lôi kéo các ĐNA vào vòng ảnh hưởng kinh tế của mình.
TC đã đánh bạt ảnh hưởng của Mỹ và VN ra khỏi Miên Lào rồi bằng viện trợ hào phóng và bằng đầu tư xây đập thủy điện hàng chục cái ở Lào, Miên. VN rơi vào thế “Biển Đông dậy sóng, Cữu Long cạn nguồn”; TC giết hai cái vựa lúa và cá của Việt Nam.
TC cũng cấm chốt ngay trên vương quốc Thái Lan, thành lập một khu chế xuất hoàn toàn của TC trị giá một tỷ rưởi Đô la để từ đó có thế xuất cảng hàng hoá made in China mà không bị thuế suất cao của các nước ngoài WTO.
Bốn, qua con đường này TC biến giấc mộng lâu đời của người Trung hoa thành hiện thực. Đó là biến các phiên quốc thành chư hầu hay quận huyện của TQ. Ngày xưa TQ dùng quân binh, gươm giáo. Thơi Chiến tranh Lạnh TC dùng chủ nghĩa CS biến mình thành Anh Cả Đỏ của Bắc Hàn, Việt Nam, Mông cổ, Tây Tạng. Thời kinh tế toàn cầu, TC dùng vũ khí kinh tế tài chánh đầu tư, viện trợ, cho vay. Mỹ còn phải làm con nợ của TC.
Con đường nam tiến trên bộ chỉ tốn có 45 tỷ đô la để thực hiện con đường trong vòng 5 năm để biến giấc mộng lớn thành sự thật – thì quá rẻ. Giấc mộng biến các phiên quốc thành chư hầu hay quận huyện là giấc mộng ngàn đời của TQ. Danh xưng tên nước Trung Hoa đã nói lên tham vọng đó. Lúc nào Trung Hoa thống nhứt được trong nước, mạnh lên là làm bung ra để “khai hoá” các quốc gia dân tộc nhỏ ở xung quanh.
Về ĐNA, từ thập niên 90, TC đã dự trù mở đường xe lửa nối liền Côn Minh thủ phủ của tỉnh Vân Nam của TQ với Singapore của bán đảo Mã lai rồi. TC đã ký thỏa thuận xây các tuyến đường sắt mới với Lào và Thái Lan, và đang chuẩn bị kéo dài mạng lưới hỏa xa nội địa từ Côn Minh sang đến biên giới Trung – Lào. Các tuyến đường này TC cố hoàn thành vào năm 2015, sẽ mang lại những lợi ích khổng lồ cho TC về kinh tế, chánh trị, văn hoá, xã hội, v.v.
TC đi từng giai đoạn, làm từng khúc đường để sau cùng ráp nối lại để như Đế Quốc La Mã ở Âu châu thời trước Công Nguyên biến hệ thống đường sá này thành “đường nào cũng về La Mã” hầu đế quốc có thể chuyển quân lê dương, chuyển lịnh hành chánh của hoàng đế đến các thuộc địa của La Mã. Phải nói hệ thống đường sá chiến lược và hệ thống hành chánh cai trị này đóng góp rất nhiều cho Âu châu và cho giáo hội Công Giáo La mã phát triển sau khi Đế quốc La mã suy tàn và sụp đổ.
Và nếu đi sâu xa vào lịch sử Trung Hoa cỗ đại một chút sẽ thấy. Khi các nước bây giờ mạnh như Đức còn là vùng chưa khai khẩn ở Âu châu, thì Trung Hoa đã có triều cương, đường sá với nhà hàng, khách sạn, thành phố bên đường từ thủ đô chạy toả khắp các đơn vị hành chánh – gọi là đường cái quan. Chữ ‘hoả tốc’ bắt nguồn từ việc người có nhiệm vụ chuyển lịnh của vua chúa, quan viên bằng ngựa, từ trạm này sang trạm kế tiếp, nếu chạy chậm lò lửa tắt khi đến, thì phải chịu trách nhiệm có thể bị tù đày. /.
Một, qua con đường này thủ đô của nước VN thời CS là Hà nội thành một ga lẻ như ga quận huyện của TC. Báo China Daily cho biết đường xe lửa này của TC nối liền khu tự trị của người thiểu số Choang ở Quảng Tây (Nam TQ) với Singapore, chạy ngang qua Hà nội (Việt Nam). Đường này là ưu tiên hàng đầu của tỉnh Quảng Tây nên bắt đầu làm năm 2011 này. Đường này như đưởng liên tỉnh của TC, nối liền thủ phủ Nam Ninh của Quảng Tây với thành phố Bình Hương của tỉnh Giang Tây, ở gần biên giới TQ và VN.
Đối với các nước ở Đông Nam Á, đường này bắt đầu từ Nam Ninh của Quảng Tây, chạy qua thủ đô Hà Nội của Việt Nam, sang Vientiane (Lào), Phnom Penh (Cam Bốt), Bangkok (Thái Lan) và Kuala Lumpur (Malaysia) trước khi đến Singapore. Quảng Tây sẽ là trung tâm buôn bán của toàn khu vực với ASEAN là khối đối tác thương mại lớn nhất.
Hai, qua con đường này, Trung Cộng thống lĩnh Đông Nam Á trên bộ như Đế quốc La Mã xưa kia tạo thành một mạng lưới đường sá “đường nào cũng về La Mã”. Về kinh tế, con đường cao tốc này là con đường TC xuất cảng hàng hoá và chuyên chở nguyên liệu mà TC thèm muốn nhập cảng về TC. Hàng hoá TC giá rẻ sẽ tràn ngập các nước ĐNA. ĐNA còn nhiều tài nguyên thiên nhiên TC rất cần cho guồng máy kinh tế của TC. TC mua chở về nước dễ dàng.
Giả sử Mỹ có phong toả Eo Biển Mã Lai, Mỹ cũng không ngăn cản bước chân khổng lồ của TC trên bộ được. TC cũng còn giao thương được với các nước ĐNA.
Dù TC chưa phải là thành viên của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á gọi là ASEANm nhưng TQ đã ký được Hiệp định tự do mậu dịch giữa Trung Quốc và ASEAN có hiệu lực cách đây một năm, đã cắt giảm thuế quan cho rất nhiều hàng hóa.
Đó là chưa nói TC dùng các nước Đông Nam Á như những thuộc địa di dân, Hán hóa một cách êm đềm trên con đường nam tiến như đã từng làm với Tân Cương, Tây Tạng. Vùng này TQ đã có sẵn đội quân thứ năm. Mã lai, Nam dương, Tân gia ba, Thái Lan, Lào, Miên số Hoa kiều đã có sẵn, nắm chặt nền kinh tế của các nước sở tại.
Ba, qua con đường này, Trung Cộng tạo thành một thế liên hoàn TC đánh bạt Mỹ ra khỏi đất liền ĐNA. Trong thời buổi Mỹ dồn dập trở lại ĐNA qua con đường ASEAN, gây trở ngại cho thế thống lĩnh của TC trên biển Đông mà TC gọi là Nam Hải của TQ, nhiều nước ĐNA muốn Mỹ có mặt, nghiêng về phía Mỹ, TC muốn lôi kéo các ĐNA vào vòng ảnh hưởng kinh tế của mình.
TC đã đánh bạt ảnh hưởng của Mỹ và VN ra khỏi Miên Lào rồi bằng viện trợ hào phóng và bằng đầu tư xây đập thủy điện hàng chục cái ở Lào, Miên. VN rơi vào thế “Biển Đông dậy sóng, Cữu Long cạn nguồn”; TC giết hai cái vựa lúa và cá của Việt Nam.
TC cũng cấm chốt ngay trên vương quốc Thái Lan, thành lập một khu chế xuất hoàn toàn của TC trị giá một tỷ rưởi Đô la để từ đó có thế xuất cảng hàng hoá made in China mà không bị thuế suất cao của các nước ngoài WTO.
Bốn, qua con đường này TC biến giấc mộng lâu đời của người Trung hoa thành hiện thực. Đó là biến các phiên quốc thành chư hầu hay quận huyện của TQ. Ngày xưa TQ dùng quân binh, gươm giáo. Thơi Chiến tranh Lạnh TC dùng chủ nghĩa CS biến mình thành Anh Cả Đỏ của Bắc Hàn, Việt Nam, Mông cổ, Tây Tạng. Thời kinh tế toàn cầu, TC dùng vũ khí kinh tế tài chánh đầu tư, viện trợ, cho vay. Mỹ còn phải làm con nợ của TC.
Con đường nam tiến trên bộ chỉ tốn có 45 tỷ đô la để thực hiện con đường trong vòng 5 năm để biến giấc mộng lớn thành sự thật – thì quá rẻ. Giấc mộng biến các phiên quốc thành chư hầu hay quận huyện là giấc mộng ngàn đời của TQ. Danh xưng tên nước Trung Hoa đã nói lên tham vọng đó. Lúc nào Trung Hoa thống nhứt được trong nước, mạnh lên là làm bung ra để “khai hoá” các quốc gia dân tộc nhỏ ở xung quanh.
Về ĐNA, từ thập niên 90, TC đã dự trù mở đường xe lửa nối liền Côn Minh thủ phủ của tỉnh Vân Nam của TQ với Singapore của bán đảo Mã lai rồi. TC đã ký thỏa thuận xây các tuyến đường sắt mới với Lào và Thái Lan, và đang chuẩn bị kéo dài mạng lưới hỏa xa nội địa từ Côn Minh sang đến biên giới Trung – Lào. Các tuyến đường này TC cố hoàn thành vào năm 2015, sẽ mang lại những lợi ích khổng lồ cho TC về kinh tế, chánh trị, văn hoá, xã hội, v.v.
TC đi từng giai đoạn, làm từng khúc đường để sau cùng ráp nối lại để như Đế Quốc La Mã ở Âu châu thời trước Công Nguyên biến hệ thống đường sá này thành “đường nào cũng về La Mã” hầu đế quốc có thể chuyển quân lê dương, chuyển lịnh hành chánh của hoàng đế đến các thuộc địa của La Mã. Phải nói hệ thống đường sá chiến lược và hệ thống hành chánh cai trị này đóng góp rất nhiều cho Âu châu và cho giáo hội Công Giáo La mã phát triển sau khi Đế quốc La mã suy tàn và sụp đổ.
Và nếu đi sâu xa vào lịch sử Trung Hoa cỗ đại một chút sẽ thấy. Khi các nước bây giờ mạnh như Đức còn là vùng chưa khai khẩn ở Âu châu, thì Trung Hoa đã có triều cương, đường sá với nhà hàng, khách sạn, thành phố bên đường từ thủ đô chạy toả khắp các đơn vị hành chánh – gọi là đường cái quan. Chữ ‘hoả tốc’ bắt nguồn từ việc người có nhiệm vụ chuyển lịnh của vua chúa, quan viên bằng ngựa, từ trạm này sang trạm kế tiếp, nếu chạy chậm lò lửa tắt khi đến, thì phải chịu trách nhiệm có thể bị tù đày. /.
Một bài chính luận ngụy biện, nói lấy được!
Các đại biểu giơ cao thẻ đảng tại lễ bế mạc Đại hội Ðảng XI tại Hà Nội, ngày 19/1/2011
Tôi rất mừng khi đọc trên báo Quân đội Nhân dân trong nước số ra ngày chủ nhật 23-1-2011 trong mục “Chính luận” bài của tác giả Xuân Bằng với đầu đề là: “Cái nhìn siêu thực về một hiện tượng sống động”, nhằm tranh luận với bài viết của tôi trên VOA về Đại hội XI của đảng Cộng sản Việt Nam: “Nội dung siêu thực, nhân sự lên gân, đe dọa”.
Tôi vui vì bài báo của tôi đã được chú ý, được phản hồi từ trong nước, và có thể mở ra một cuộc tranh luận công khai bổ ích và lý thú về kết quả của Đại hội XI vừa kết thúc. Bài này là để đáp lễ ông Xuân Bằng.
Tôi cho rằng nội dung của 3 ngày thảo luận các văn kiện dự thảo nhìn chung là xa rời cuộc sống, tránh né những vấn đề lý luận và thực tiễn nóng bỏng nhất, và tôi vẫn cho đó là một nhận định chính xác, phản ánh đúng sự thật.
Tại sao không mở ra cuộc tranh luận sôi nổi lý thú vể vấn đề liệu chủ nghĩa Marx – Lenin còn cần thiết, còn có giá trị hay không? về chủ nghĩa xã hội kiểu Mác-xít còn cần thiết hay không? về chế đô độc đảng có ưu việt hơn chế độ đa đảng hay không? và có nên coi sở hữu quốc doanh là then chốt và chủ đạo trong nền kinh tế hay không?
Đó là những vấn đề nóng bỏng, thiết thực, có nhiều ý kiến khác nhau, trái ngược nhau, sao không nêu lên để thảo luận?
Nhà báo Xuân Bằng có thấy trong cả 27 bản tham luận ở hội trường, đã có đại biểu nào nêu lên vấn đề có nên khai thác bauxite trên vùng Tây Nguyên, có nên làm đường xe lửa cao tốc lúc này, giải quyết quyền sở hữu ruộng đất của nông dân ra sao, hay vấn đề bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ lãnh thổ, hải đảo quốc gia trong cuộc khủng hoảng ở vùng biển Đông ra sao hay không?
Tránh né một loạt vấn đề thực tiễn quan trọng cực lớn như vậy thì không phải là quay lưng lại với cuộc sống thật, không phải là siêu thực hay sao?
Tác giả Xuân Bằng chỉ lấy một dẫn chứng là đại hội có sửa vài chữ trong nhận định về quan hệ sở hữu, thay “chế độ công hữu tư liệu sản xuất” bằng “quan hệ sản xuất tiên tiến phù hợp”, thì thực tế chỉ là lấy một sự thay đổi còn rất mơ hồ, không rõ ràng dứt khoát, nhằm chứng minh rằng đã có thảo luận dân chủ (!) và sinh động (!). Lẽ ra đại hội cần xác định rõ thực tế các tập đoàn kinh tế quốc doanh đã hư hỏng do được đảng và nhà nước nuông chiều quá đáng tai hại ra sao, và nền kinh tế vừa và nhỏ của tư nhân đã bị kìm hãm nặng nề ra sao, nguyên tắc cạnh tranh công bằng giữa các hình thức sở hữu quốc doanh, hợp tác xã và tư nhân đã bị vi phạm nghiêm trọng ra sao, nhưng không ai đề cập đến. Vẫn là xa rời cuộc sống thật, xa rời các vấn đề thiết yếu nhất, không siêu thực thì là gì?
Tất nhiên các đại biểu đều có nói đến những vấn đề mà xã hội quan tâm, nhưng rất chung chung, hời hợt, nhạt nhòa, nhìn chung toàn cảnh, trên đại thể là siêu thực.
Chỉ cần quan sát thái độ thờ ơ, có thể nói là chán nản, thất vọng của quần chúng lao động, nông dân, trí thức, tuổi trẻ đối với kết quả Đại hội XI là rõ.
Tất nhiên không thể kể đến những luận điệu tuyên truyền, tô vẽ khiên cưỡng, kiểu nói lấy được như bài báo trên đây của ông Xuân Bằng nào đó xưa nay ít ai biết.
Về nhân sự, ông Xuân Bằng càng đuối lý, chỉ viện được ra là kỳ này bầu cử đều có số dư khác các đại hội trước. Đây lại là lấy một vài chi tiết để che dấu cái toàn thể, cái bản chất. Có những vấn đề hệ trọng hơn nhiều. Xin hỏi ông có tin 200 vị được bầu là thuộc những phần tử ưu tú vào loại nhất, những người có tâm và có tầm cao, vào loại nhân tài của đất nước và của đảng CS hay không? Ông có tin là ông Nông Quốc Tuấn từ nơi khác “nhảy dù” xuống đảng bộ Bắc Giang chỉ 5 tháng trước đại hội của tỉnh là tinh hoa của đảng bộ Bắc Giang và được toàn đảng bộ này tín nhiệm thật hay không? Ông có tin là trong 200 vị trúng cử, không có ai là “làm giàu nhanh”, “có tài sản nghi là bất minh”, “lý lịch có điểm chưa rõ ràng”, như tiêu chuẩn đã đề ra hay không? Vậy theo ông lý lịch ông Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh đã minh bạch rõ ràng ngay trong toàn đảng hay chưa?
Trong Bộ Chính trị có bổ sung 5 vị mới, sao không có ai là nhà kinh tế, nhà tài chính, nhà giáo dục, nhà khoa học, nhà văn hóa kiệt xuất, làm tăng thêm chất lượng lãnh đạo? Sao lại là 3 viên chức bàn giấy: ông Ngô Dụ, Chánh văn phòng Trung ương đảng; ông Nguyễn Xuân Phúc, Bộ trưởng chủ nhiệm Văn phòng chính phủ; bà Tòng Thị Phóng,Trưởng ban Dân vận của đảng; thêm ông Đinh Thế Huynh, hội trưởng Hội nhà báo nhưng không thể viết báo, chỉ làm cái việc cai quản chặt chẽ gần 10.000 nhà báo theo ý muốn của đảng. Và kỳ lạ nhất là thêm một ông Trung tướng Công an Trần Đại. Thêm một nhân vật chuyên chính trong Bộ Chính trị, bên cạnh Đại tướng Công an Lê Hồng Anh, để làm gì vậy? Thế không phải là “lên gân, đe dọa”, như tôi nhận định hay sao, thưa ông?
Trong Trung ương vừa bầu, có 1 đại tướng bộ trưởng và 7 thứ trưởng công an, chưa kể 1 tướng công an làm Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao. Bộ Quốc phòng củng không có nhiều thứ trưởng là ủy viên Trung ương như thế. Các Bộ Kinh tế Công thương, Lao động, Tài nguyên-Môi trường, Văn hóa, Giáo dục, Khoa học Công nghệ lại càng hiếm, vắng.
Giữa thời kỳ xây dựng hoà bình, thế không phải là lên gân, là đe dọa cả xã hội đang khao khát tự do, dân chủ và nhân quyền, đang thật lòng mong muốn sớm hội nhập với xã hội dân chủ văn minh hay không? Thế mà không siêu thực sao?
* Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Tôi rất mừng khi đọc trên báo Quân đội Nhân dân trong nước số ra ngày chủ nhật 23-1-2011 trong mục “Chính luận” bài của tác giả Xuân Bằng với đầu đề là: “Cái nhìn siêu thực về một hiện tượng sống động”, nhằm tranh luận với bài viết của tôi trên VOA về Đại hội XI của đảng Cộng sản Việt Nam: “Nội dung siêu thực, nhân sự lên gân, đe dọa”.
Tôi vui vì bài báo của tôi đã được chú ý, được phản hồi từ trong nước, và có thể mở ra một cuộc tranh luận công khai bổ ích và lý thú về kết quả của Đại hội XI vừa kết thúc. Bài này là để đáp lễ ông Xuân Bằng.
Tôi cho rằng nội dung của 3 ngày thảo luận các văn kiện dự thảo nhìn chung là xa rời cuộc sống, tránh né những vấn đề lý luận và thực tiễn nóng bỏng nhất, và tôi vẫn cho đó là một nhận định chính xác, phản ánh đúng sự thật.
Tại sao không mở ra cuộc tranh luận sôi nổi lý thú vể vấn đề liệu chủ nghĩa Marx – Lenin còn cần thiết, còn có giá trị hay không? về chủ nghĩa xã hội kiểu Mác-xít còn cần thiết hay không? về chế đô độc đảng có ưu việt hơn chế độ đa đảng hay không? và có nên coi sở hữu quốc doanh là then chốt và chủ đạo trong nền kinh tế hay không?
Đó là những vấn đề nóng bỏng, thiết thực, có nhiều ý kiến khác nhau, trái ngược nhau, sao không nêu lên để thảo luận?
Nhà báo Xuân Bằng có thấy trong cả 27 bản tham luận ở hội trường, đã có đại biểu nào nêu lên vấn đề có nên khai thác bauxite trên vùng Tây Nguyên, có nên làm đường xe lửa cao tốc lúc này, giải quyết quyền sở hữu ruộng đất của nông dân ra sao, hay vấn đề bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ lãnh thổ, hải đảo quốc gia trong cuộc khủng hoảng ở vùng biển Đông ra sao hay không?
Tránh né một loạt vấn đề thực tiễn quan trọng cực lớn như vậy thì không phải là quay lưng lại với cuộc sống thật, không phải là siêu thực hay sao?
Tác giả Xuân Bằng chỉ lấy một dẫn chứng là đại hội có sửa vài chữ trong nhận định về quan hệ sở hữu, thay “chế độ công hữu tư liệu sản xuất” bằng “quan hệ sản xuất tiên tiến phù hợp”, thì thực tế chỉ là lấy một sự thay đổi còn rất mơ hồ, không rõ ràng dứt khoát, nhằm chứng minh rằng đã có thảo luận dân chủ (!) và sinh động (!). Lẽ ra đại hội cần xác định rõ thực tế các tập đoàn kinh tế quốc doanh đã hư hỏng do được đảng và nhà nước nuông chiều quá đáng tai hại ra sao, và nền kinh tế vừa và nhỏ của tư nhân đã bị kìm hãm nặng nề ra sao, nguyên tắc cạnh tranh công bằng giữa các hình thức sở hữu quốc doanh, hợp tác xã và tư nhân đã bị vi phạm nghiêm trọng ra sao, nhưng không ai đề cập đến. Vẫn là xa rời cuộc sống thật, xa rời các vấn đề thiết yếu nhất, không siêu thực thì là gì?
Tất nhiên các đại biểu đều có nói đến những vấn đề mà xã hội quan tâm, nhưng rất chung chung, hời hợt, nhạt nhòa, nhìn chung toàn cảnh, trên đại thể là siêu thực.
Chỉ cần quan sát thái độ thờ ơ, có thể nói là chán nản, thất vọng của quần chúng lao động, nông dân, trí thức, tuổi trẻ đối với kết quả Đại hội XI là rõ.
Tất nhiên không thể kể đến những luận điệu tuyên truyền, tô vẽ khiên cưỡng, kiểu nói lấy được như bài báo trên đây của ông Xuân Bằng nào đó xưa nay ít ai biết.
Về nhân sự, ông Xuân Bằng càng đuối lý, chỉ viện được ra là kỳ này bầu cử đều có số dư khác các đại hội trước. Đây lại là lấy một vài chi tiết để che dấu cái toàn thể, cái bản chất. Có những vấn đề hệ trọng hơn nhiều. Xin hỏi ông có tin 200 vị được bầu là thuộc những phần tử ưu tú vào loại nhất, những người có tâm và có tầm cao, vào loại nhân tài của đất nước và của đảng CS hay không? Ông có tin là ông Nông Quốc Tuấn từ nơi khác “nhảy dù” xuống đảng bộ Bắc Giang chỉ 5 tháng trước đại hội của tỉnh là tinh hoa của đảng bộ Bắc Giang và được toàn đảng bộ này tín nhiệm thật hay không? Ông có tin là trong 200 vị trúng cử, không có ai là “làm giàu nhanh”, “có tài sản nghi là bất minh”, “lý lịch có điểm chưa rõ ràng”, như tiêu chuẩn đã đề ra hay không? Vậy theo ông lý lịch ông Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh đã minh bạch rõ ràng ngay trong toàn đảng hay chưa?
Trong Bộ Chính trị có bổ sung 5 vị mới, sao không có ai là nhà kinh tế, nhà tài chính, nhà giáo dục, nhà khoa học, nhà văn hóa kiệt xuất, làm tăng thêm chất lượng lãnh đạo? Sao lại là 3 viên chức bàn giấy: ông Ngô Dụ, Chánh văn phòng Trung ương đảng; ông Nguyễn Xuân Phúc, Bộ trưởng chủ nhiệm Văn phòng chính phủ; bà Tòng Thị Phóng,Trưởng ban Dân vận của đảng; thêm ông Đinh Thế Huynh, hội trưởng Hội nhà báo nhưng không thể viết báo, chỉ làm cái việc cai quản chặt chẽ gần 10.000 nhà báo theo ý muốn của đảng. Và kỳ lạ nhất là thêm một ông Trung tướng Công an Trần Đại. Thêm một nhân vật chuyên chính trong Bộ Chính trị, bên cạnh Đại tướng Công an Lê Hồng Anh, để làm gì vậy? Thế không phải là “lên gân, đe dọa”, như tôi nhận định hay sao, thưa ông?
Trong Trung ương vừa bầu, có 1 đại tướng bộ trưởng và 7 thứ trưởng công an, chưa kể 1 tướng công an làm Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao. Bộ Quốc phòng củng không có nhiều thứ trưởng là ủy viên Trung ương như thế. Các Bộ Kinh tế Công thương, Lao động, Tài nguyên-Môi trường, Văn hóa, Giáo dục, Khoa học Công nghệ lại càng hiếm, vắng.
Giữa thời kỳ xây dựng hoà bình, thế không phải là lên gân, là đe dọa cả xã hội đang khao khát tự do, dân chủ và nhân quyền, đang thật lòng mong muốn sớm hội nhập với xã hội dân chủ văn minh hay không? Thế mà không siêu thực sao?
* Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Chưa thể có báo cáo sâu về Đường sắt cao tốc trong năm 2011
"Việc trình dự án trong năm 2011 là mong muốn của Bộ Giao thông, hay nói cách khác là chủ đầu tư. Nhưng nghiên cứu có hoàn thành được trong năm 2011 hay không, vẫn chưa thể khẳng định".
TS. Khuất Việt Hùng – Viện Trưởng Viện Quy hoạch và Quản lý giao thông, người tham gia phản biện báo cáo đầu tư dự án ĐSCT Bắc - Nam trả lời PV Bee xung quanh dự kiến báo cáo nghiên cứu sâu về đường sắt cao tốc (ĐSCT) năm 2011.
3 năm nữa mới xong nghiên cứu sâu
Báo cáo đầu tư về ĐSCT trình Quốc hội vừa rồi đã nhận được rất nhiều phản biện và góp ý. Vậy bản nghiên cứu sâu lần này tiếp thu những phản biện và góp ý đó như thế nào?
Lần này tôi không tham gia cùng JICA là làm nghiên cứu khả thi nhưng rất hi vọng chúng tôi sẽ được mời để tham gia góp ý kiến khi có dự thảo báo cáo nghiên cứu khả thi. Lần trước khi Chính phủ trình Quốc hội chỉ là báo cáo đầu tư. Vì vậy những số liệu, tính toán của báo cáo trước đây sơ sài hơn rất nhiều báo cáo bây giờ.
Theo đề nghị của nhiều chuyên gia khác nhau, phải nghiên cứu lại, chi tiết hơn. Trong đó phải xem xét đến những yếu tố liên quan đến công nghệ, những đánh giá tác động đến môi trường, biến đổi khí hậu, phân tích mối liên hệ giữa đường sắt cao tốc với phát triển hệ thống đô thị dọc tuyến đường…
Tất nhiên, nghiên cứu này phải vừa cụ thể, lại vừa tổng thể. Tức, nghiên cứu trên cơ sở định hướng phát triển toàn tuyến, nhưng phần nghiên cứu khả thi sẽ nghiên cứu cụ thể đoạn Hà Nội – Vinh và TP. HCM – Nha Trang. Sau khi có kết quả nghiên cứu từ hai tuyến trên, có thẩm định, đánh giá, trong đó có mời thẩm định độc lập. Sau đấy mới tổng hợp, lập báo cáo để Bộ Giao thông Vận tải trình Chính phủ xem xét, cân nhắc để trình Quốc Hội.
Với chừng đó việc phải làm, theo anh, mục tiêu trình Chính phủ nghiên cứu sâu năm 2011 như tuyên bố mới đây của Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam có vẻ như hơi gấp?
Việc trình dự án trong năm 2011 là mong muốn của Bộ Giao thông, hay nói cách khác là chủ đầu tư. Nhưng nghiên cứu có hoàn thành được trong năm 2011 hay không, vẫn chưa thể khẳng định. Vì thực tế, hai tuyến này rất phức tạp, có độ dài lớn, yêu cầu phải nghiên cứu tỉ mỉ.
Vậy để có một bản báo cáo sâu hoàn chỉnh, cần thời gian bao lâu?
Nhanh phải mất 3 năm. Còn nếu đơn giản chỉ là trình thử để xin chỉ đạo tiếp, hoặc để đảm bảo tính thời sự, có thêm số liệu cụ thể, chi tiết hơn trình Quốc hội mới có thể kịp trong năm 2011.
Để VN có đường sắt trong năm 2020 là không thể !
Nhật Bản muốn làm theo lộ trình, Việt Nam muốn làm cả
Anh đánh giá thế nào về thời gian dự kiến vận hành một số đoạn đường sắt cao tốc vào năm 2020?
Không chỉ tôi, mà nhiều chuyên gia đều đánh giá, chúng ta không thể có đường sắt cao tốc vận hành vào năm 2020 được. Nếu chúng ta quyết làm hai đoạn Hà Nội – Vinh, và TP.HCM – Nha Trang thì sớm nhất phải là năm 2025, bình thường thì phải năm 2030 chúng ta mới có thể có. Còn toàn tuyến thì năm 2040 là sớm.
Cũng phải nói thêm rằng, phía Nhật Bản họ cũng đề nghị việc thực hiện phải có lộ trình, chỉ nên làm từng đoạn một. Và làm xong một đoạn để chúng ta đánh giá, tiếp nhận về công nghệ xây dựng, điều hành… rồi sẽ làm những đoạn tiếp theo. Đấy là thành ý của họ, ta không nên hiểu sai. Việt Nam cứ muốn làm cả.
Theo tôi, chúng ta nên làm trước đoạn Hà Nội – Hải Phòng, hoặc TP.HCM – Biên Hòa. Đây là những đoạn ngắn, khi hoàn thành chúng ta có thể đánh giá được. Hơn nữa, nếu có muốn lựa chọn công nghệ khác cho toàn tuyến Bắc – Nam thì cũng không hề bị ảnh hưởng. Nếu để thử nghiệm mà thử đoạn Hà Nội – Vinh hoặc TP.HCM – Nha Trang thì dài quá.
Xong nghiên cứu khả thi mới quyết được xây 1 đoạn hay toàn tuyến
Báo cáo sâu lần này có tính đến chuyện đó không, tức là những thay đổi về số vốn, nguồn vốn, hay thời gian thực hiện không?
Vấn đề số vốn thì chắc chắn sẽ thay đổi, vì nguyên tắc là trong nghiên cứu khả thi là 1 thì vốn thực hiện phải là 1,4 đến 1,5. Trừ khi trong nghiên cứu khả thi đã có tính và nhân hệ số bù. Còn về thời gian thực hiện và đưa vào sử dụng, còn tùy thuộc vào việc quyết định xây dựng một đoạn, hai đoạn hay toàn tuyền… Cái này hoàn toàn phụ thuộc vào nghiên cứu khả thi.
Theo kinh nghiệm nghiên cứu, và thực tế của tôi, tôi hoàn toàn có thể đoán được thời gian thực hiện, vốn sẽ có thay đổi. Thậm chí là thay đổi cả công nghệ. Báo cáo trước đây cũng có đề cập đến công nghệ của Đức, Pháp… để so sánh, nhưng so sánh đấy là chưa đủ.
Lần này họ so sánh kỹ lưỡng hơn. Đặc biệt, việc xuất hiện công nghệ Trung Quốc, giá thành thấp hơn cũng là cái hay để người Nhật phải xem xét lại, đây cũng là cái lợi thế cho Việt Nam khi đàm phán với phía Nhật, tránh hiện tượng độc quyền về mặt công nghệ. Tất nhiên, nếu Nhật cấp vốn ODA họ sẽ có thế mạnh nhất định.
Với điều kiện kinh tế Việt Nam hiện nay, xây ĐSCT sẽ rất khó khăn. Còn nếu phụ thuộc hoàn toàn vào ODA Nhật Bản, liệu sẽ có những rủi ro gì?
Trong giai đoạn từ nay đến năm 2025 chúng ta có thể sử dụng ODA cho phần hạ tầng. Sau đấy chúng ta chọn một vài đoạn có hiệu quả khai thác cao nhất, rồi thương mại hóa, kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư mua đầu máy, toa tàu để khai thác. Như vậy ta có thể giảm một phần ODA.
Hoặc chúng ta có thể đầu tư dần dần, hoàn thiện từng đoạn một, với mức phát triển kinh tế là 6 - 7%/năm thì tương lai ta có thể tự làm. Khi ta có đủ tiềm lực, những đoạn còn lại có thể tự bỏ vốn để đầu tư.
Lê Việt
Nguồn: Bee
TS. Khuất Việt Hùng – Viện Trưởng Viện Quy hoạch và Quản lý giao thông, người tham gia phản biện báo cáo đầu tư dự án ĐSCT Bắc - Nam trả lời PV Bee xung quanh dự kiến báo cáo nghiên cứu sâu về đường sắt cao tốc (ĐSCT) năm 2011.
3 năm nữa mới xong nghiên cứu sâu
Báo cáo đầu tư về ĐSCT trình Quốc hội vừa rồi đã nhận được rất nhiều phản biện và góp ý. Vậy bản nghiên cứu sâu lần này tiếp thu những phản biện và góp ý đó như thế nào?
Lần này tôi không tham gia cùng JICA là làm nghiên cứu khả thi nhưng rất hi vọng chúng tôi sẽ được mời để tham gia góp ý kiến khi có dự thảo báo cáo nghiên cứu khả thi. Lần trước khi Chính phủ trình Quốc hội chỉ là báo cáo đầu tư. Vì vậy những số liệu, tính toán của báo cáo trước đây sơ sài hơn rất nhiều báo cáo bây giờ.
Theo đề nghị của nhiều chuyên gia khác nhau, phải nghiên cứu lại, chi tiết hơn. Trong đó phải xem xét đến những yếu tố liên quan đến công nghệ, những đánh giá tác động đến môi trường, biến đổi khí hậu, phân tích mối liên hệ giữa đường sắt cao tốc với phát triển hệ thống đô thị dọc tuyến đường…
Tất nhiên, nghiên cứu này phải vừa cụ thể, lại vừa tổng thể. Tức, nghiên cứu trên cơ sở định hướng phát triển toàn tuyến, nhưng phần nghiên cứu khả thi sẽ nghiên cứu cụ thể đoạn Hà Nội – Vinh và TP. HCM – Nha Trang. Sau khi có kết quả nghiên cứu từ hai tuyến trên, có thẩm định, đánh giá, trong đó có mời thẩm định độc lập. Sau đấy mới tổng hợp, lập báo cáo để Bộ Giao thông Vận tải trình Chính phủ xem xét, cân nhắc để trình Quốc Hội.
Với chừng đó việc phải làm, theo anh, mục tiêu trình Chính phủ nghiên cứu sâu năm 2011 như tuyên bố mới đây của Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam có vẻ như hơi gấp?
Việc trình dự án trong năm 2011 là mong muốn của Bộ Giao thông, hay nói cách khác là chủ đầu tư. Nhưng nghiên cứu có hoàn thành được trong năm 2011 hay không, vẫn chưa thể khẳng định. Vì thực tế, hai tuyến này rất phức tạp, có độ dài lớn, yêu cầu phải nghiên cứu tỉ mỉ.
Vậy để có một bản báo cáo sâu hoàn chỉnh, cần thời gian bao lâu?
Nhanh phải mất 3 năm. Còn nếu đơn giản chỉ là trình thử để xin chỉ đạo tiếp, hoặc để đảm bảo tính thời sự, có thêm số liệu cụ thể, chi tiết hơn trình Quốc hội mới có thể kịp trong năm 2011.
Để VN có đường sắt trong năm 2020 là không thể !
Nhật Bản muốn làm theo lộ trình, Việt Nam muốn làm cả
Anh đánh giá thế nào về thời gian dự kiến vận hành một số đoạn đường sắt cao tốc vào năm 2020?
Không chỉ tôi, mà nhiều chuyên gia đều đánh giá, chúng ta không thể có đường sắt cao tốc vận hành vào năm 2020 được. Nếu chúng ta quyết làm hai đoạn Hà Nội – Vinh, và TP.HCM – Nha Trang thì sớm nhất phải là năm 2025, bình thường thì phải năm 2030 chúng ta mới có thể có. Còn toàn tuyến thì năm 2040 là sớm.
Cũng phải nói thêm rằng, phía Nhật Bản họ cũng đề nghị việc thực hiện phải có lộ trình, chỉ nên làm từng đoạn một. Và làm xong một đoạn để chúng ta đánh giá, tiếp nhận về công nghệ xây dựng, điều hành… rồi sẽ làm những đoạn tiếp theo. Đấy là thành ý của họ, ta không nên hiểu sai. Việt Nam cứ muốn làm cả.
Theo tôi, chúng ta nên làm trước đoạn Hà Nội – Hải Phòng, hoặc TP.HCM – Biên Hòa. Đây là những đoạn ngắn, khi hoàn thành chúng ta có thể đánh giá được. Hơn nữa, nếu có muốn lựa chọn công nghệ khác cho toàn tuyến Bắc – Nam thì cũng không hề bị ảnh hưởng. Nếu để thử nghiệm mà thử đoạn Hà Nội – Vinh hoặc TP.HCM – Nha Trang thì dài quá.
Xong nghiên cứu khả thi mới quyết được xây 1 đoạn hay toàn tuyến
Báo cáo sâu lần này có tính đến chuyện đó không, tức là những thay đổi về số vốn, nguồn vốn, hay thời gian thực hiện không?
Vấn đề số vốn thì chắc chắn sẽ thay đổi, vì nguyên tắc là trong nghiên cứu khả thi là 1 thì vốn thực hiện phải là 1,4 đến 1,5. Trừ khi trong nghiên cứu khả thi đã có tính và nhân hệ số bù. Còn về thời gian thực hiện và đưa vào sử dụng, còn tùy thuộc vào việc quyết định xây dựng một đoạn, hai đoạn hay toàn tuyền… Cái này hoàn toàn phụ thuộc vào nghiên cứu khả thi.
Theo kinh nghiệm nghiên cứu, và thực tế của tôi, tôi hoàn toàn có thể đoán được thời gian thực hiện, vốn sẽ có thay đổi. Thậm chí là thay đổi cả công nghệ. Báo cáo trước đây cũng có đề cập đến công nghệ của Đức, Pháp… để so sánh, nhưng so sánh đấy là chưa đủ.
Lần này họ so sánh kỹ lưỡng hơn. Đặc biệt, việc xuất hiện công nghệ Trung Quốc, giá thành thấp hơn cũng là cái hay để người Nhật phải xem xét lại, đây cũng là cái lợi thế cho Việt Nam khi đàm phán với phía Nhật, tránh hiện tượng độc quyền về mặt công nghệ. Tất nhiên, nếu Nhật cấp vốn ODA họ sẽ có thế mạnh nhất định.
Với điều kiện kinh tế Việt Nam hiện nay, xây ĐSCT sẽ rất khó khăn. Còn nếu phụ thuộc hoàn toàn vào ODA Nhật Bản, liệu sẽ có những rủi ro gì?
Trong giai đoạn từ nay đến năm 2025 chúng ta có thể sử dụng ODA cho phần hạ tầng. Sau đấy chúng ta chọn một vài đoạn có hiệu quả khai thác cao nhất, rồi thương mại hóa, kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư mua đầu máy, toa tàu để khai thác. Như vậy ta có thể giảm một phần ODA.
Hoặc chúng ta có thể đầu tư dần dần, hoàn thiện từng đoạn một, với mức phát triển kinh tế là 6 - 7%/năm thì tương lai ta có thể tự làm. Khi ta có đủ tiềm lực, những đoạn còn lại có thể tự bỏ vốn để đầu tư.
Lê Việt
Nguồn: Bee
Dự án Đường Sắt Cao Tốc và những câu hỏi còn bỏ ngỏ
Nguyễn Trung
Dư luận trong và ngoài nước đang rất quan tâm đến dự án Đường Sắt Cao Tốc (ĐSCT). Vì dự án giá trị cả trăm tỉ đô la này gắn liền với vận mệnh của Đất nước. Sự nguy hiểm của dự án ĐSCT không chỉ đơn thuần như vụ Vinashin hay các dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên. Dự án ĐSCT có thể khiến Việt Nam bị lệ thuộc vào Trung Cộng cả một thế kỷ hoặc hơn. Qua báo chí, và dĩ nhiên là “báo chí lề phải”, chúng tôi thấy có những câu hỏi còn bỏ ngỏ.
Ngày 03 tháng 1 năm 2011, ông Bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng đã trả lời báo Sài Gòn giải phóng như sau:
“Nếu làm ĐSCT, có nối mạng với đường sắt cao tốc trong khu vực không thưa bộ trưởng?
Có chứ. Sẽ nối mạng ASEAN, nối đường sắt Singapore, Côn Minh (Trung Quốc). Mạng ĐSCT của Việt Nam nằm trong dự án ĐSCT ASEAN, Côn Minh. Nói chung là phải làm, còn làm thế nào, thời điểm nào, cân nhắc nguồn lực ra sao thì sẽ tùy điều kiện thực tế để thực hiện. 130 năm trước đây, người Pháp đã làm đường sắt như bây giờ. Chúng ta làm ĐSCT không phải cho 5 - 10 năm mà làm cho 100 - 200 - 300 năm sau. Tôi khẳng định, đây mới là bước nghiên cứu, còn thời điểm làm, làm như thế nào Chính phủ phải tính, nhưng không thể không làm.” (1)
1. Xin được hiểu “Mạng ĐSCT của Việt Nam nằm trong dự án ĐSCT ASEAN, Côn Minh.” theo nghĩa nào???
2. Có phải là dự án ĐSCT của Việt Nam là một phần nhỏ trong dự án ĐSCT ASEAN –Côn Minh hay không?
3. Những quốc gia nào trong ASEAN đã thương thảo với chính phủ Việt Nam và Trung Cộng để đồng ý xây dựng dự án ĐSCT ASEAN và thương thảo vào lúc nào?
4. Chính phủ Việt Nam đã thương thảo với các quốc gia trong ASEAN cũng như với Trung Cộng dự án ĐSCT ASEAN-Côn Minh vào lúc nào?
5. Ai là người đại diện Chính phủ Việt Nam (có thẩm quyền và chịu trách nhiệm) trong các cuộc thương thảo dự án ĐSCT ASEAN-Côn Minh với các quốc gia trong ASEAN và Trung Cộng trong dự án ĐSCT ASEAN-Côn Minh này?
6. Có ai đã hứa “Việt nam sẽ làm dự án ĐSCT” hay không? Người đó là ai? Tổng Bí thư, Chủ Tịch nước, Chủ Tịch Quốc hội, hay là Thủ tướng Chính phủ? Vì chúng tôi dám chắc ngoài bốn người đứng đầu trên đây thì không có ai dám “hứa sẽ làm” một dự án giá trị cả hàng trăm tỉ đô la!!! Nói một cách khác là lãnh đạo từ cấp Phó thủ tướng và Bộ trưởng không có khả năng, hay dám hứa “sẽ làm” dự án quan trọng này.
Theo các báo điện tử của Báo Đường sắt (2) và VnEconomy (3) đưa tin ngày 21 tháng 01 năm 2011 và được báo điện tử Dân trí (4) đưa tin lại ngày 23 tháng 01 năm 2011 thì “Trung Quốc công bố tuyến ĐS tốc độ cao tới Việt Nam”. Các báo điện tử của Báo Đường sắt và VnEconomy đã đăng lại bản tin này từ China Daily. Và câu hỏi được đặt ra ở đây là:
-Chính phủ Việt Nam đã đồng ý cho dự án ĐSCT của Trung Cộng “băng ngang” qua lãnh thổ của Việt Nam lúc nào?
Rất mong được nghe những lời giải đáp từ các bậc trí giả xa gần.
Thân kính.
N. T.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
(1) http://sggp.org.vn/congnghiepkt/2011/1/247526/
(2) http://www.baoduongsat.vn//DuongSatTheGioi-Home&action=viewNews&id=5367
(3) http://vneconomy.vn/2011012102472634P0C99/trung-quoc-sap-xay-tuyen-tau-cao-toc-den-singapore-qua-ha-noi.htm
(4) http://dantri.com.vn/c728/s728-453145/trung-quoc-sap-xay-tuyen-tau-cao-toc-den-singapore-qua-ha-noi.htm
Dư luận trong và ngoài nước đang rất quan tâm đến dự án Đường Sắt Cao Tốc (ĐSCT). Vì dự án giá trị cả trăm tỉ đô la này gắn liền với vận mệnh của Đất nước. Sự nguy hiểm của dự án ĐSCT không chỉ đơn thuần như vụ Vinashin hay các dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên. Dự án ĐSCT có thể khiến Việt Nam bị lệ thuộc vào Trung Cộng cả một thế kỷ hoặc hơn. Qua báo chí, và dĩ nhiên là “báo chí lề phải”, chúng tôi thấy có những câu hỏi còn bỏ ngỏ.
Ngày 03 tháng 1 năm 2011, ông Bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng đã trả lời báo Sài Gòn giải phóng như sau:
“Nếu làm ĐSCT, có nối mạng với đường sắt cao tốc trong khu vực không thưa bộ trưởng?
Có chứ. Sẽ nối mạng ASEAN, nối đường sắt Singapore, Côn Minh (Trung Quốc). Mạng ĐSCT của Việt Nam nằm trong dự án ĐSCT ASEAN, Côn Minh. Nói chung là phải làm, còn làm thế nào, thời điểm nào, cân nhắc nguồn lực ra sao thì sẽ tùy điều kiện thực tế để thực hiện. 130 năm trước đây, người Pháp đã làm đường sắt như bây giờ. Chúng ta làm ĐSCT không phải cho 5 - 10 năm mà làm cho 100 - 200 - 300 năm sau. Tôi khẳng định, đây mới là bước nghiên cứu, còn thời điểm làm, làm như thế nào Chính phủ phải tính, nhưng không thể không làm.” (1)
1. Xin được hiểu “Mạng ĐSCT của Việt Nam nằm trong dự án ĐSCT ASEAN, Côn Minh.” theo nghĩa nào???
2. Có phải là dự án ĐSCT của Việt Nam là một phần nhỏ trong dự án ĐSCT ASEAN –Côn Minh hay không?
3. Những quốc gia nào trong ASEAN đã thương thảo với chính phủ Việt Nam và Trung Cộng để đồng ý xây dựng dự án ĐSCT ASEAN và thương thảo vào lúc nào?
4. Chính phủ Việt Nam đã thương thảo với các quốc gia trong ASEAN cũng như với Trung Cộng dự án ĐSCT ASEAN-Côn Minh vào lúc nào?
5. Ai là người đại diện Chính phủ Việt Nam (có thẩm quyền và chịu trách nhiệm) trong các cuộc thương thảo dự án ĐSCT ASEAN-Côn Minh với các quốc gia trong ASEAN và Trung Cộng trong dự án ĐSCT ASEAN-Côn Minh này?
6. Có ai đã hứa “Việt nam sẽ làm dự án ĐSCT” hay không? Người đó là ai? Tổng Bí thư, Chủ Tịch nước, Chủ Tịch Quốc hội, hay là Thủ tướng Chính phủ? Vì chúng tôi dám chắc ngoài bốn người đứng đầu trên đây thì không có ai dám “hứa sẽ làm” một dự án giá trị cả hàng trăm tỉ đô la!!! Nói một cách khác là lãnh đạo từ cấp Phó thủ tướng và Bộ trưởng không có khả năng, hay dám hứa “sẽ làm” dự án quan trọng này.
Theo các báo điện tử của Báo Đường sắt (2) và VnEconomy (3) đưa tin ngày 21 tháng 01 năm 2011 và được báo điện tử Dân trí (4) đưa tin lại ngày 23 tháng 01 năm 2011 thì “Trung Quốc công bố tuyến ĐS tốc độ cao tới Việt Nam”. Các báo điện tử của Báo Đường sắt và VnEconomy đã đăng lại bản tin này từ China Daily. Và câu hỏi được đặt ra ở đây là:
-Chính phủ Việt Nam đã đồng ý cho dự án ĐSCT của Trung Cộng “băng ngang” qua lãnh thổ của Việt Nam lúc nào?
Rất mong được nghe những lời giải đáp từ các bậc trí giả xa gần.
Thân kính.
N. T.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
(1) http://sggp.org.vn/congnghiepkt/2011/1/247526/
(2) http://www.baoduongsat.vn//DuongSatTheGioi-Home&action=viewNews&id=5367
(3) http://vneconomy.vn/2011012102472634P0C99/trung-quoc-sap-xay-tuyen-tau-cao-toc-den-singapore-qua-ha-noi.htm
(4) http://dantri.com.vn/c728/s728-453145/trung-quoc-sap-xay-tuyen-tau-cao-toc-den-singapore-qua-ha-noi.htm
Hai bài báo về quân sự đáng chú ý
# Trung Quốc đóng hàng chục tàu hải giám mới
Trung Quốc mới đây đã công bố kế hoạch đóng thêm nhiều tàu mới nhằm phục vụ các lợi ích của nước này.
Tân Hoa xã ngày 22/1 đưa tin Cục Hải dương quốc gia Trung Quốc quyết định sẽ đóng mới 36 chiếc tàu hải giám có trọng tải từ 600 tấn trở lên trong năm 2011 để phục vụ các lợi ích trên một số vùng biển.
Người phụ trách Cục Hải dương quốc gia Trung Quốc cho biết đợt đóng mới tàu hải giám lần này sẽ bao gồm bảy chiếc loại 1.500 tấn, 15 chiếc loại 1.100 tấn và 14 chiếc loại 600 tấn.
Theo nhận định của tờ Morning News của Nhật Bản, số tàu hải giám nói trên nhiều khả năng sẽ được Trung Quốc triển khai tại các vùng biển trọng điểm đang có tranh chấp với các nước.
Hồi đầu tháng này, Cục Hải dương Trung Quốc cũng cho hay sẽ chế tạo tàu tuần tra trên biển tổng hợp lớn nhất trong lịch sử, mang tên Hải Tuần 01. Theo đó, tàu này là tàu có lượng giãn nước lớn nhất, tính năng mạnh nhất, công năng kiện toàn nhất và hàm lượng kĩ thuật cao nhất trong hệ thống hải sự của Trung Quốc.
Trà My (tổng hợp)
Nguồn: Bee
# Việt Nam có thể tham gia tập trận với Mỹ
Hãng AP đưa tin Mỹ đã đưa ra đề nghị mời Việt Nam tham gia tập trận hải quân CARAT.
Chỉ huy Hạm đội 7, Đô đốc Patrick M. Walsh ngày 20/1 cho biết nước này sẵn sàng mời Việt Nam tham gia tập trận hải quân CARAT.
Phát biểu với báo giới tại Malaysia, ông Walsh cho biết các nước đang tham gia tập trận hải quân CARAT hy vọng rằng Việt Nam sẽ đồng ý. Tập trận hải quân liên hợp CARAT được tiến hành ở một số điểm trên khu vực Thái Bình Dương.
CARAT là chữ viết tắt của "Cooperation Afloat Readiness and Training". Đây là cuộc tập trận hàng năm giữa Hạm đội 7 của Mỹ với bảy nước Đông Nam Á gồm Malaysia, Phillipines, Indonesia, Thái Lan, Singapore, Brunei và Campuchia.
Cuộc tập trận nhằm duy trì khả năng tác chiến và sự hợp tác hải quân các nước. Ngoài ra, mục tiêu của CARAT là tăng cường hợp tác cấp vùng, xây dựng tình hữu nghị, nâng cao kỹ năng chuyên môn.
Trà My (tổng hợp)
Nguồn: Bee
Trung Quốc mới đây đã công bố kế hoạch đóng thêm nhiều tàu mới nhằm phục vụ các lợi ích của nước này.
Tân Hoa xã ngày 22/1 đưa tin Cục Hải dương quốc gia Trung Quốc quyết định sẽ đóng mới 36 chiếc tàu hải giám có trọng tải từ 600 tấn trở lên trong năm 2011 để phục vụ các lợi ích trên một số vùng biển.
Người phụ trách Cục Hải dương quốc gia Trung Quốc cho biết đợt đóng mới tàu hải giám lần này sẽ bao gồm bảy chiếc loại 1.500 tấn, 15 chiếc loại 1.100 tấn và 14 chiếc loại 600 tấn.
Theo nhận định của tờ Morning News của Nhật Bản, số tàu hải giám nói trên nhiều khả năng sẽ được Trung Quốc triển khai tại các vùng biển trọng điểm đang có tranh chấp với các nước.
Hồi đầu tháng này, Cục Hải dương Trung Quốc cũng cho hay sẽ chế tạo tàu tuần tra trên biển tổng hợp lớn nhất trong lịch sử, mang tên Hải Tuần 01. Theo đó, tàu này là tàu có lượng giãn nước lớn nhất, tính năng mạnh nhất, công năng kiện toàn nhất và hàm lượng kĩ thuật cao nhất trong hệ thống hải sự của Trung Quốc.
Trà My (tổng hợp)
Nguồn: Bee
# Việt Nam có thể tham gia tập trận với Mỹ
Hãng AP đưa tin Mỹ đã đưa ra đề nghị mời Việt Nam tham gia tập trận hải quân CARAT.
Chỉ huy Hạm đội 7, Đô đốc Patrick M. Walsh ngày 20/1 cho biết nước này sẵn sàng mời Việt Nam tham gia tập trận hải quân CARAT.
Phát biểu với báo giới tại Malaysia, ông Walsh cho biết các nước đang tham gia tập trận hải quân CARAT hy vọng rằng Việt Nam sẽ đồng ý. Tập trận hải quân liên hợp CARAT được tiến hành ở một số điểm trên khu vực Thái Bình Dương.
CARAT là chữ viết tắt của "Cooperation Afloat Readiness and Training". Đây là cuộc tập trận hàng năm giữa Hạm đội 7 của Mỹ với bảy nước Đông Nam Á gồm Malaysia, Phillipines, Indonesia, Thái Lan, Singapore, Brunei và Campuchia.
Cuộc tập trận nhằm duy trì khả năng tác chiến và sự hợp tác hải quân các nước. Ngoài ra, mục tiêu của CARAT là tăng cường hợp tác cấp vùng, xây dựng tình hữu nghị, nâng cao kỹ năng chuyên môn.
Trà My (tổng hợp)
Nguồn: Bee
Cân bằng với Trung Quốc thông qua Việt Nam
Richard Weitz
Việc các phương tiện truyền thông vừa phô bày chiến đấu cơ tàng hình mới J-20, rồi dự kiến sẽ sớm xuất hiện tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc và chuyến thăm đầy băn khoăn của Bộ trưởng Gates đến quốc gia này một lần nữa khẳng định tầm quan trọng phải duy trì tốt các mối quan hệ an ninh giữa Hoa Kỳ với các nước láng giềng xung quanh Hoa lục. Các ràng buộc quốc phòng với Hàn Quốc vẫn được thắt chặt, trong khi với Nhật Bản, các quan hệ này đã phục hồi từ suy thoái năm ngoái, một phần nhờ chính sách đối đầu của Trung Quốc liên quan đến các tranh chấp lãnh thổ giữa Bắc Kinh và Tokyo. Thế nhưng quan hệ an ninh Hoa Kỳ - Việt Nam lại tụt hậu một chút do di chứng của sự đối đầu và một số yếu tố khác. Quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã trở nên khắng khít hơn trong những năm gần đây, mặc dù họ vẫn tiếp tục bất đồng về chính sách nhân quyền và các vấn đề trong nước khác của Việt Nam. Hiện nay, sự hợp tác giữa hai nước được mở rộng, vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế và chương trình tìm kiếm hài cốt quân nhân, để giành thế chủ động ngoại giao nhằm chống lại các yêu sách bành trướng trên biển của Bắc Kinh.
Trong năm 2009, Cơ quan Hợp tác An ninh Quốc phòng Hoa Kỳ thông báo sẵn sàng cấp phép xuất khẩu các thiết bị quân sự "không gây chết người" (non-lethal) cho Việt Nam. Đầu tháng 8/2010, Bộ Ngoại giao Việt Nam xác nhận bắt đầu các cuộc đàm phán Việt - Mỹ về một thỏa thuận hợp tác hạt nhân dân sự. Cũng trong tháng đó, Hoa Kỳ và Việt Nam đã tổ chức những cuộc hội đàm quốc phòng chính thức đầu tiên và lực lượng hải quân hai nước đã bố trí các bài tập đầu tiên giữa họ kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc. Tàu khu trục USS John McCain hướng dẫn thực hiện các bài tập với các tàu hải quân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đồng thời, hàng không mẫu hạm USS George Washington đã tổ chức đón một phái đoàn kết hợp dân-quân sự của Việt Nam lên thăm ngay khi đang “dong buồm” trong vùng tranh chấp ở Biển Đông.
Các mối đe dọa
Việt Nam có chung một đường biên giới trên đất liền với Trung Quốc, điều “bất hạnh” này là nguyên nhân dẫn đến không biết bao nhiêu cuộc xâm lược từ phương Bắc và các cuộc xung đột vũ trang giữa hai nước trong hàng thế kỷ, lần gần đây nhất xảy ra vào cuối những năm 1970. “Họa vô đơn chí” cho Việt Nam, căng thẳng Trung-Việt thời gian gần đây lại chủ yếu liên quan đến Biển Đông (hay Biển Nam Trung Hoa). Vùng nước rộng 3,5 triệu cây số vuông này bao gồm các quần đảo, khoáng sản (trữ lượng dầu mỏ, khí đốt) và tuyến đường biển bị tranh chấp bởi các quốc gia trên tất cả các bờ. Việt Nam và Trung Quốc tuyên bố chủ quyền tất cả các quần đảo nhỏ ở Biển Đông, còn Brunei, Malaysia, Philippines và Đài Loan tuyến bố chủ quyền một phần các đảo. Quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là những hòn đảo nổi tiếng nhất khu vực, người ta cho rằng chúng được bao quanh bởi trữ lượng dầu và khí đốt dưới đáy biển.
Hải quân Việt Nam đã chiến đấu với người Trung Quốc trên các quần đảo này suốt những năm giữa thập niên 1970 và cuối những năm 1980. Trung Quốc đã chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974, khi Việt Nam còn đang mải mê với cuộc nội chiến, và từ đó thành lập các đơn vị quân sự đồn trú tại đây. Nhà cầm quyền Trung Quốc cũng đã cấm ngư dân Việt Nam đánh bắt trong vùng Biển Đông và bắt giữ các tàu cá của họ. Toàn bộ các ngư phủ và tàu thuyền chỉ được thả sau khi phải trả những khoản tiền phạt nặng. Người Trung Quốc cũng đã đang cảnh báo các công ty năng lượng phương Tây không được tiến hành đàm phán các hợp đồng khoan dầu ngoài khơi với chính phủ Việt Nam.
Phần lớn trữ lượng dầu của Việt Nam nằm ngoài khơi vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hơn nữa, Việt Nam phải quan tâm theo đuổi việc tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Trường Sa giàu tiềm năng, bởi sự giảm sút sản lượng dầu trong nước cộng với việc tiêu thụ năng lượng ngày càng tăng có thể khiến Việt Nam trở thành nước nhập khẩu dầu. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng giao nhau bởi các tuyến hàng hải thương mại xuất phát từ các cảng ở Việt Nam và nó cũng chính là khu vực đánh cá và nuôi trồng thủy sản mở rộng của Việt Nam. Tinh thần dân tộc cũng đóng một vai trò. Các cuộc biểu tình đã nổ ra trên khắp Việt Nam khi Trung Quốc công khai tuyên bố quần đảo Hoàng Sa nằm dưới quyền kiểm soát của chính quyền tự trị tỉnh đảo Hải Nam vào năm 2008. Thêm một nguy cơ tiềm tàng có thể dẫn tới xung đột với Trung Quốc nữa đó chính là sông Mekong. Việt Nam là điểm cuối cùng mà con sông này đi qua trước khi nó đổ ra biển, thế nên Mekong là nguồn nước tưới cho cả đồng bằng sông Cửu Long thuộc miền Nam Việt Nam. Vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long chiếm một nửa sản lượng vụ mùa của Việt Nam và là yếu tố quyết định giúp Việt Nam trở thành quốc gia đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo - một nguồn thu ngoại tệ quan trọng đối với nhà cầm quyền Hà Nội. Đồng bằng sông Cửu Long đang bị 2 mối đe dọa lớn đó là mực nước biển dâng cao và dòng chảy bị thay đổi do việc xây đập ngày càng nhiều ở khu vực thượng nguồn thuộc Trung Quốc. Những điều này khiến cho các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long dễ gặp nguy hiểm khi độ mặn và xói mòn đất gia tăng.
Phản ứng
Việt Nam tiếp tục nung nấu tinh thần độc lập dân tộc dưới một hình thức mạnh mẽ và quyết chiến, điều đã được “thiết kế” để biến Việt Nam thành một "con tôm tẩm độc" mà một khi đã ngoạm phải, Trung Quốc sẽ không thể tiêu hóa. Theo sau Chiến tranh Lạnh cũng là việc chấm dứt các khoản trợ cấp kinh tế và quốc phòng hậu hĩ từ các thành viên khối Liên Xô khác, Việt Nam đã điều chỉnh lại tư thế quân sự của mình bằng cách rút khỏi Campuchia và giải quyết tranh chấp biên giới đất liền với Trung Quốc.
Tuy nhiên, với gần 500.000 binh sĩ trong tay, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang sở hữu một trong mười đội quân lớn nhất thế giới. Ngoài ra, chính phủ vẫn khăng khăng trong việc tiếp tục mua các hệ thống vũ khí của nước ngoài để bù đắp cho lực lượng quân đội phần lớn được huấn luyện theo cách đánh du kích và các kỹ thuật chiến đấu truyền thống.
Năm 2009, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam đạt 92,4 tỷ USD và ngân sách quốc phòng cùng năm lên đến 4 tỷ USD, tức chiếm khoảng 2% GDP. Dự đoán lạc quan nhất về ngân sách được dành cho Quân đội nhân dân Việt Nam (VPA) vào năm 2018, giả định rằng khoảng 5% GDP quốc gia chi cho quốc phòng, tức chừng 10 tỷ USD, đó chính là con số tương đương với chi tiêu quốc phòng năm 2009 của Đài Loan.
Nhưng nếu như chi tiêu 5% GDP cho quốc phòng là một điển hình của các nước phát triển và thịnh vượng hơn, thì hầu hết các nước thành viên ASEAN dành 3% GDP cho nó. Theo đó, con số tương ứng 3% GDP của Việt Nam, là khoảng 5,5 tỷ USD chi tiêu cho quốc phòng vào năm 2018… Mặc dù vậy, việc mua vũ khí nước ngoài có thể tăng thêm nếu quân đội giảm quân số các cấp.
Tiếp nối Liên Xô, Nga tiếp tục là nhà cung cấp chính các loại vũ khí tinh vi cho Việt Nam, mặc dù mối quan hệ giữa Moscow và Hà Nội hiện nay dựa trên những cân nhắc thương mại và chiến lược hơn là sự tương đồng ý thức hệ (như trước đây). Các công ty Canada và châu Âu cũng đã bán một số vũ khí cho Trung Quốc.
Mặc dù không cung cấp các loại vũ khí chính cho Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ đã nới lỏng các hạn chế chuyển giao từ thời Chiến tranh Lạnh. Ngoài ra, các nhà ngoại giao Mỹ đã tỏ ra quan tâm đến đối tác Việt Nam trong công cuộc chống lại tuyên bố lãnh hải của Trung Quốc ở Biển Đông.
Hiện nay, chính quyền Obama cho biết đã sẵn sàng bán các mặt hàng quân sự “không gây chết người” cho Việt Nam. Tất nhiên, định nghĩa chính xác của từ "không gây chết người" được bỏ ngỏ ai muốn hiểu sao thì hiểu.
Hải quân
Hải quân nhân dân Việt Nam (VPN) dành phần lớn nguồn lực của mình để giám sát các hoạt động của các lực lượng hải quân nước ngoài và các đội tàu đánh bắt cá cũng như chống buôn lậu và cướp biển. Chiến lược chủ chốt của hải quân Việt Nam có thể tóm tắt trong nhiệm vụ xua đuổi, ngăn chặn lực lượng địch từ hoạt động tuần tra trong vùng biển Việt Nam, hơn là chủ ý tìm cách phô bày sức mạnh. Nga là nhà cung cấp chính tàu chiến cho Việt Nam.
Nga đã chuyển giao 2 chiếc hải phòng hạm Gepard, mỗi chiếc trang bị 8 tên lửa chống tàu KH-35U và trọng tải rẽ nước tiêu chuẩn 1.500 tấn, cho hải quân Việt Nam trong năm 2009 và 2010. Đây là những chiến binh trên biển lớn nhất của Việt Nam.
Nga và Việt Nam hiện đang đàm phán việc cung cấp thêm 2 chiếc Gepard nữa và chúng có khả năng sẽ được đóng theo giấy phép tại các xưởng đóng tàu của Việt Nam. Nhiệm vụ hàng đầu của hải phòng hạm Gepard thuộc lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam sẽ là ngăn chặn các hoạt động thương mại hàng hải của kẻ thù và giao chiến với các tàu có hành động tấn công, với tư cách là chủ sở hữu nguyên thủy các quần đảo ở Biển Đông. Trước đây, hải quân Việt Nam còn được trang bị máy bay siêu thanh, tên lửa chống tàu P-270 Moskit và P-800 Oniks từ Nga.
Trong năm 2009, Việt Nam đã ký một hợp đồng trị giá 1,8 tỷ USD để mua 6 tàu ngầm tấn công thuộc lớp Kilo quy chuẩn. Thỏa thuận này cũng bao gồm việc người Nga sẽ hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng các căn cứ tàu ngầm theo cấu trúc Nga. Các tàu ngầm Kilo - tuy bị giới hạn về tốc độ, độ bền và công suất ắc quy, nhưng lại vận hành êm ả và được vũ trang khá tốt với ngư lôi và tên lửa chống tàu.
Chúng có thể lợi dụng điểm yếu cố hữu của hải quân Trung Quốc trong phạm vi chiến tranh chống tàu ngầm nhằm quan sát, theo dõi các bài tập trận của hải quân hoa lục cũng như các nước khác. Chúng cũng có thể giúp Việt Nam thoát ra khỏi bất kỳ sự phong tỏa nào của hải quân nước ngoài. Tàu ngầm đầu tiên của Việt Nam có xuất xứ từ Bắc Triều Tiên, đó là 2 chiếc tàu ngầm mini thuộc lớp Yugo mà Hà Nội đã mua vào năm 1997 với mục đích gián điệp và xâm nhập.
Trong những năm tới, có khả năng hải quân Việt Nam sẽ tập trung tìm mua những tàu chiến nhỏ mới thuộc loại tàu hộ tống hoặc tàu khu trục (với trọng tải rẽ nước từ 1.000 đến 4.000 tấn) nhằm hỗ trợ cho cả hoạt động tuần duyên lẫn thu thập kinh nghiệm khi vận hành chung với các tàu chiến lớn. Việt Nam cũng có thể sử dụng thêm các phương tiện vận chuyển hải quân để liên tục củng cố các đơn vị đồn trú đảo.
Không quân
Canada đã nổi lên như là một nguồn cung cấp chính máy bay quân sự cho Việt Nam. Năm ngoái, Việt Nam đã mua 6 chiếc máy bay đổ bộ DHC-6400 Twin Otter từ Canada với giá 500 triệu USD. DHC-6400 là một loại máy bay phi kích (noncombatant) chủ yếu được thiết kế để tìm kiếm cứu nạn, tuần tra hàng hải và đổ bộ thủy quân. Cảnh sát biển Việt Nam (có chức năng tương tự như Lực lượng Bảo vệ bờ biển Hoa Kỳ - US Coast Guard) đã mua 3 máy bay giám sát C212 và hệ thống radar MSS 6000 vào năm 2008 từ các hãng sản xuất châu Âu. Trong những năm 1990, Việt Nam mua một tá chiến đấu cơ cường kích Su-27 Flankers. Năm 2009, Việt Nam đã nhận 8 máy bay tiêm kích Su-30MMK và đặt thêm một tá chiếc tương tự vào năm sau với số tiền chi ra là 1 triệu USD.
Hầu hết các chiến đấu cơ mạnh nhất trong kho vũ khí của Lực lượng Không quân nhân dân Việt Nam đều thuộc dòng Sukhoi Flanker, duy nhất Việt Nam có thế hệ thứ tư của dòng máy bay này. Chúng tỏ ra rất cơ động và có thể bay xa. Được trang bị tên lửa không chiến tầm xa R-77 và tên lửa R-27 tầm ngắn, trên lý thuyết, đạo quân này là đối thủ xứng hợp với bất cứ thứ gì mà Trung Quốc có thể đưa ra. Năm 2005, Việt Nam cũng mua 40 chiếc Su-22M second-hand, loại vừa tiêm kích vừa oanh tạc (fighter-bombers).
Su-22 có thể được sử dụng để hỗ trợ cho Su-30MKK trong nhiệm vụ tấn công trên biển cũng như có thể là một đài yểm trợ cận chiến. Trong báo cáo gửi Ủy ban đăng ký vũ khí thông thường Liên Hiệp Quốc (UNROCA), Cộng hòa Séc và Ukraine cũng cho biết họ đã lần lượt bán 5 và 3 chiếc Su-22M3s cho Việt Nam.
Trong tương lai, Không quân nhân dân Việt Nam có thể sẽ rất cần loại máy bay tiêm kích một động cơ hiện đại thay thế cho 200 chiếc MiG-21 đã lỗi thời. Việc thay thế MiG-21 rất có thể sẽ cần đến những loại máy bay đa nhiệm mang được các tên lửa tầm xa không-đối-không và các loại vũ khí tấn công chính xác được hướng dẫn từ mặt đất. Các ứng viên cho nhu cầu này với chi phí thấp có thể sẽ là loại LCA của Ấn Độ, MiG 29, Saab Gripen của Thụy Điển, Mirage 2000 hoặc những chiếc F-16 bán cải tiến (MLU). Trớ trêu thay, cuộc họp giữa Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Huy Hiệu và Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Công nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng Trung Quốc hồi tháng 01/2008 đã đưa ra khả năng Không quân Việt Nam có thể chọn mua chiến đấu cơ JF-17 giá rẻ của Trung Quốc (đồng sản xuất với Pakistan). Không quân nhân dân Việt Nam có thể cũng đang xem xét để có được máy bay tiếp liệu trên không cho loại máy bay Flanker của mình, nhằm tăng tầm hoạt động và thời gian bay của loại chiến đấu cơ này.
Lục quân
Nga đã thiết kế và xây dựng hệ thống phòng không hiện đại cho Việt Nam. Hai khẩu đội pháo, gồm tổng cộng mười hai bệ phóng cho loại tên lửa tầm xa đất đối không khét tiếng S-300PMU1 của Nga, đã được mua vào năm 2003. Chúng có tầm bắn 125 km. Mỗi khẩu đội, sáu bệ phóng, lần lượt được triển khai tại thủ đô Hà Nội và trung tâm kinh tế TPHCM. Việt Nam còn có một số lượng lớn súng phòng không rải đều khắp đất nước.
Quân đội nhân dân Việt Nam không có các loại trọng pháo tự hành hoặc xe tăng chiến đấu chủ lực hiện đại, đó là một bất lợi trong cuộc chiến trên bộ với Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa. Israel đã nâng cấp loại tăng T-55 của Việt Nam với ngòi nổ thụ động và giáp phản lực được cải thiện, một khẩu pháo 125mm lớn hơn và hệ thống điều khiển khai hỏa của Ba Lan, nhưng đây là một biện pháp tạm thời cho đến lúc Việt Nam sẽ sớm cần những chiếc tăng mới thay thế những chiếc T-55 nhỏ bé với những hạn chế cố hữu về động cơ, đạn dược và phòng thủ.
Với địa hình của hầu hết đường biên giới là đầm lầy hoặc núi, Quân đội nhân dân Việt Nam không thể tìm mua các loại xe tăng chiến đấu chủ lực có trọng lượng trên 60 tấn, điều này có nghĩa hầu hết các loại tăng của phương Tây như Leopard II và M1 Abrams đều không phù hợp. Rất có thể cái họ cần sẽ là loại T-90, với trọng lượng khoảng từ 45 đến 50 tấn. T-90 cũng ít đòi hỏi tiếp vận hơn hầu hết các loại xe tăng của NATO nhưng vẫn mang hỏa lực đáng kể.
Việt Nam đã bản địa hóa nhiều xe bọc thép M113 thu được từ quân Mỹ và Quân lực miền Nam Việt Nam, nhưng những cố gắng hiện đại hóa này chứng minh sự khó khăn do chính sách trừng phạt vũ khí của Mỹ đối với Việt Nam. Quân đội nhân dân Việt Nam còn mong muốn cải tiến các loại xe bọc thép khác mà mình có, như thay thế các khẩu pháo, các ụ súng từ xa thứ cấp, thiết bị hình ảnh trực quan, tua bin khí đốt hay các động cơ diesel tốt hơn. Giàn phóng tên lửa BM-21 Grad của Việt Nam, được triển khai lần đầu tiên năm 1963, có thể sẽ được thay thế bằng một loại vũ khí đánh chặn mới.
Người Mỹ có thể bán “hàng”
Trong quá khứ, những quan ngại chính trị ở quốc nội đã cản trở Hoa Kỳ bán vũ khí cho Việt Nam. Điều này bao gồm những ký ức đau đớn về chiến tranh Việt Nam, chính phủ Việt Nam ngược đãi người Hmong, các nhóm dân tộc thiểu số Degar, đàn áp những người bất đồng chính kiến và sự chống đối mạnh mẽ của cộng đồng người Mỹ gốc Việt đối với sự cai trị của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Khi cân nhắc chính sách đối ngoại, lại có thêm những trở ngại khác. Bao gồm những âu lo gây tổn hại đến quan hệ giữa Hoa Kỳ với nhiều đồng minh truyền thống ở Đông Nam Á, đặc biệt là Singapore và Thái Lan. Cả hai đều đã được xác định là những đồng minh chiến lược ngoài NATO và Thái Lan đã từng đụng độ với Việt Nam ở biên giới Campuchia trong những năm 1980. Các quan chức Trung Quốc có lẽ cũng sẽ phản đối việc chuyển giao nhiều hệ thống vũ khí sát thương của Hoa Kỳ cho Việt Nam và có thể trả đũa bằng cách gửi nhiều vũ khí hơn đến các chế độ thù địch với Hoa Kỳ.
Việt Nam sở hữu một số lượng khá lớn các loại vũ khí có nguồn gốc từ Mỹ sau cuộc nội chiến. Bao gồm các chiến đấu cơ F-5 Tiger, máy bay không kích OV-10 Bronco, máy bay vận tải C-130 Hercules, trực thăng UH-1 Huey, thiết vận xa M-113 và xe tăng M-48. Hầu hết các loại vũ khí này đã được “nghỉ hưu do tuổi tác” hoặc thiếu bảo trì và phụ tùng thay thế, nhưng các máy bay vận tải, trực thăng và xe bọc thép do Mỹ chế tạo vẫn được sử dụng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và có thể đã được người Mỹ nâng cấp để tăng cường độ an toàn, phạm vi hoạt động, tải trọng, các hệ thống điện tử và các động cơ tiết kiệm nhiên liệu.
Quân đội nhân dân Việt Nam đã đặt ưu tiên cao cho việc củng cố các đơn vị đồn trú đảo, cho thấy Việt Nam có thể bị động với những tàu chiến trống trơn, không vũ khí và đã ngừng hoạt động của quân đội Mỹ. Hoa Kỳ đã bán nhiều chiếc dương vận hạm (chứa tăng) lớp Newport cho Úc, Chile, Mexico, Ma Rốc, Tây Ban Nha và Đài Loan. Loại tàu này được thiết kế thân thon thoải giúp giảm tải ở vùng nước nông, chẳng hạn như ở vùng duyên hải quần đảo Trường Sa. Các loại tàu đổ bộ có boong đỗ máy bay như Ex-USN và Austin đã lần lượt được bán cho Đài Loan và Ấn Độ. So với dương vận hạm, các loại tàu này được tăng cường khả năng hỗ trợ các hoạt động của trực thăng và sẽ nâng cao khả năng tìm kiếm, cứu hộ trên biển của Việt Nam.
Có thể Việt Nam cũng muốn có các loại trực thăng vận tải của Hoa Kỳ. Những chiếc S-70 Seahawks và UH-60 Blackhawks khá hấp dẫn đặc trưng kiểu Mỹ, ngoài việc mang tải vượt hơn 4 tấn, chúng có thể được tối ưu hóa để tác chiến trên biển, ở tầm cao và các phi vụ ban đêm. Thú vị không kém là CH-47 Chinook, loại trực thăng vận tải hạng nặng, có thể được sử dụng cho cả các hoạt động không vận và tiếp tế cho các tiền đồn xa trên núi, gần biên giới Trung Quốc. Các vận tải cơ C-130J Super Hercules và C-27A Spartan là những chọn lựa lý tưởng cho nhu cầu không vận của Việt Nam. Hai loại này có thể mang trọng tải lần lượt là 20 và 11 tấn, có khả năng cất cánh trên đường băng ngắn, địa hình gồ ghề, do đó nó còn có thể rất hữu ích trong việc phân phối cứu trợ nhân đạo khi có các thiên tai xảy ra.
Trước đây, người Việt Nam đã nỗ lực tự sản xuất các phương tiện không người lái trên không với sự giúp đỡ của Israel nhưng không thành công. Các máy bay không người lái MQ-1 Predator và RQ-7 Shadow (tấn công tầm ngắn) sẽ là các vũ khí có độ bền lâu dài, khó phát hiện (bởi radar) và chi phí thấp giúp giám sát hiệu quả đường biên giới trải dài trên bộ và trên biển của Việt Nam.
Các máy bay không người lái cũng sẽ giúp cho việc phối hợp hành quân giữa lục quân và hải quân. Có thể cũng rất có lợi cho Việt Nam nếu tậu được loại máy bay chỉ huy và cảnh báo sớm trên không (AEW&C), như E-2T Hawkeye, đây là loại máy bay được tăng cường khả năng xử lý dữ liệu từ chiến trường, xử lý radar và truyền tin. “Nước cờ” AEW&C sẽ giúp Việt Nam có khả năng đương đầu với các máy bay KJ-2000 và KJ-200 của Trung Quốc, Phalcon Gulfstream của Singapore và Erieye Saab 340 của Thái Lan.
Hiện đại hóa quân đội cũng đòi hỏi sự đổi mới các hệ thống điều khiển và truyền tin của Quân đội nhân dân Việt Nam. Nếu quan hệ Mỹ-Việt được cải thiện đáng kể, Việt Nam có thể có cơ hội để mua những máy vô tuyến tương đương Link 11 và 16, hoặc các hệ thống truyền tin đa chức năng như MIDS/LVT-1 nhằm tăng lưu lượng thông tin và an toàn cả hai mức chiến lược và chiến thuật. Sự gia tăng các khả năng xử lý tình huống và tốc độ ra quyết định từ các hệ thống lệnh số hóa sẽ cho phép Việt Nam phối hợp tác chiến trên không, trên bộ và trên biển tốt hơn…
Cuối cùng, cuộc chiến Việt Nam còn để lại hàng chục ngàn tấn bom, mìn, đạn pháo, bẫy mìn và các loại chất nổ chưa sử dụng khác khắp đất nước này, ở cả các khu đô thị đông dân cư và nông thôn. Các loại xe bọc thép chống mìn và thiết bị nổ (MRAP) và xe dọn mìn M60 Panther do Mỹ chế tạo sẽ giúp nâng cao hiệu quả, tốc độ và tính an toàn cho nỗ lực gỡ mìn của người Việt Nam, mà phần nhiều trong số đó hiện đang được thực hiện bằng tay.
Quốc Ngọc dịch từ http://www.sldinfo.com/?p=14664
Người dịch gửi trực tiếp cho BVN
Việc các phương tiện truyền thông vừa phô bày chiến đấu cơ tàng hình mới J-20, rồi dự kiến sẽ sớm xuất hiện tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc và chuyến thăm đầy băn khoăn của Bộ trưởng Gates đến quốc gia này một lần nữa khẳng định tầm quan trọng phải duy trì tốt các mối quan hệ an ninh giữa Hoa Kỳ với các nước láng giềng xung quanh Hoa lục. Các ràng buộc quốc phòng với Hàn Quốc vẫn được thắt chặt, trong khi với Nhật Bản, các quan hệ này đã phục hồi từ suy thoái năm ngoái, một phần nhờ chính sách đối đầu của Trung Quốc liên quan đến các tranh chấp lãnh thổ giữa Bắc Kinh và Tokyo. Thế nhưng quan hệ an ninh Hoa Kỳ - Việt Nam lại tụt hậu một chút do di chứng của sự đối đầu và một số yếu tố khác. Quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã trở nên khắng khít hơn trong những năm gần đây, mặc dù họ vẫn tiếp tục bất đồng về chính sách nhân quyền và các vấn đề trong nước khác của Việt Nam. Hiện nay, sự hợp tác giữa hai nước được mở rộng, vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế và chương trình tìm kiếm hài cốt quân nhân, để giành thế chủ động ngoại giao nhằm chống lại các yêu sách bành trướng trên biển của Bắc Kinh.
Trong năm 2009, Cơ quan Hợp tác An ninh Quốc phòng Hoa Kỳ thông báo sẵn sàng cấp phép xuất khẩu các thiết bị quân sự "không gây chết người" (non-lethal) cho Việt Nam. Đầu tháng 8/2010, Bộ Ngoại giao Việt Nam xác nhận bắt đầu các cuộc đàm phán Việt - Mỹ về một thỏa thuận hợp tác hạt nhân dân sự. Cũng trong tháng đó, Hoa Kỳ và Việt Nam đã tổ chức những cuộc hội đàm quốc phòng chính thức đầu tiên và lực lượng hải quân hai nước đã bố trí các bài tập đầu tiên giữa họ kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc. Tàu khu trục USS John McCain hướng dẫn thực hiện các bài tập với các tàu hải quân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đồng thời, hàng không mẫu hạm USS George Washington đã tổ chức đón một phái đoàn kết hợp dân-quân sự của Việt Nam lên thăm ngay khi đang “dong buồm” trong vùng tranh chấp ở Biển Đông.
Các mối đe dọa
Việt Nam có chung một đường biên giới trên đất liền với Trung Quốc, điều “bất hạnh” này là nguyên nhân dẫn đến không biết bao nhiêu cuộc xâm lược từ phương Bắc và các cuộc xung đột vũ trang giữa hai nước trong hàng thế kỷ, lần gần đây nhất xảy ra vào cuối những năm 1970. “Họa vô đơn chí” cho Việt Nam, căng thẳng Trung-Việt thời gian gần đây lại chủ yếu liên quan đến Biển Đông (hay Biển Nam Trung Hoa). Vùng nước rộng 3,5 triệu cây số vuông này bao gồm các quần đảo, khoáng sản (trữ lượng dầu mỏ, khí đốt) và tuyến đường biển bị tranh chấp bởi các quốc gia trên tất cả các bờ. Việt Nam và Trung Quốc tuyên bố chủ quyền tất cả các quần đảo nhỏ ở Biển Đông, còn Brunei, Malaysia, Philippines và Đài Loan tuyến bố chủ quyền một phần các đảo. Quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là những hòn đảo nổi tiếng nhất khu vực, người ta cho rằng chúng được bao quanh bởi trữ lượng dầu và khí đốt dưới đáy biển.
Hải quân Việt Nam đã chiến đấu với người Trung Quốc trên các quần đảo này suốt những năm giữa thập niên 1970 và cuối những năm 1980. Trung Quốc đã chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974, khi Việt Nam còn đang mải mê với cuộc nội chiến, và từ đó thành lập các đơn vị quân sự đồn trú tại đây. Nhà cầm quyền Trung Quốc cũng đã cấm ngư dân Việt Nam đánh bắt trong vùng Biển Đông và bắt giữ các tàu cá của họ. Toàn bộ các ngư phủ và tàu thuyền chỉ được thả sau khi phải trả những khoản tiền phạt nặng. Người Trung Quốc cũng đã đang cảnh báo các công ty năng lượng phương Tây không được tiến hành đàm phán các hợp đồng khoan dầu ngoài khơi với chính phủ Việt Nam.
Phần lớn trữ lượng dầu của Việt Nam nằm ngoài khơi vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hơn nữa, Việt Nam phải quan tâm theo đuổi việc tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Trường Sa giàu tiềm năng, bởi sự giảm sút sản lượng dầu trong nước cộng với việc tiêu thụ năng lượng ngày càng tăng có thể khiến Việt Nam trở thành nước nhập khẩu dầu. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng giao nhau bởi các tuyến hàng hải thương mại xuất phát từ các cảng ở Việt Nam và nó cũng chính là khu vực đánh cá và nuôi trồng thủy sản mở rộng của Việt Nam. Tinh thần dân tộc cũng đóng một vai trò. Các cuộc biểu tình đã nổ ra trên khắp Việt Nam khi Trung Quốc công khai tuyên bố quần đảo Hoàng Sa nằm dưới quyền kiểm soát của chính quyền tự trị tỉnh đảo Hải Nam vào năm 2008. Thêm một nguy cơ tiềm tàng có thể dẫn tới xung đột với Trung Quốc nữa đó chính là sông Mekong. Việt Nam là điểm cuối cùng mà con sông này đi qua trước khi nó đổ ra biển, thế nên Mekong là nguồn nước tưới cho cả đồng bằng sông Cửu Long thuộc miền Nam Việt Nam. Vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long chiếm một nửa sản lượng vụ mùa của Việt Nam và là yếu tố quyết định giúp Việt Nam trở thành quốc gia đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo - một nguồn thu ngoại tệ quan trọng đối với nhà cầm quyền Hà Nội. Đồng bằng sông Cửu Long đang bị 2 mối đe dọa lớn đó là mực nước biển dâng cao và dòng chảy bị thay đổi do việc xây đập ngày càng nhiều ở khu vực thượng nguồn thuộc Trung Quốc. Những điều này khiến cho các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long dễ gặp nguy hiểm khi độ mặn và xói mòn đất gia tăng.
Phản ứng
Việt Nam tiếp tục nung nấu tinh thần độc lập dân tộc dưới một hình thức mạnh mẽ và quyết chiến, điều đã được “thiết kế” để biến Việt Nam thành một "con tôm tẩm độc" mà một khi đã ngoạm phải, Trung Quốc sẽ không thể tiêu hóa. Theo sau Chiến tranh Lạnh cũng là việc chấm dứt các khoản trợ cấp kinh tế và quốc phòng hậu hĩ từ các thành viên khối Liên Xô khác, Việt Nam đã điều chỉnh lại tư thế quân sự của mình bằng cách rút khỏi Campuchia và giải quyết tranh chấp biên giới đất liền với Trung Quốc.
Tuy nhiên, với gần 500.000 binh sĩ trong tay, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang sở hữu một trong mười đội quân lớn nhất thế giới. Ngoài ra, chính phủ vẫn khăng khăng trong việc tiếp tục mua các hệ thống vũ khí của nước ngoài để bù đắp cho lực lượng quân đội phần lớn được huấn luyện theo cách đánh du kích và các kỹ thuật chiến đấu truyền thống.
Năm 2009, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam đạt 92,4 tỷ USD và ngân sách quốc phòng cùng năm lên đến 4 tỷ USD, tức chiếm khoảng 2% GDP. Dự đoán lạc quan nhất về ngân sách được dành cho Quân đội nhân dân Việt Nam (VPA) vào năm 2018, giả định rằng khoảng 5% GDP quốc gia chi cho quốc phòng, tức chừng 10 tỷ USD, đó chính là con số tương đương với chi tiêu quốc phòng năm 2009 của Đài Loan.
Nhưng nếu như chi tiêu 5% GDP cho quốc phòng là một điển hình của các nước phát triển và thịnh vượng hơn, thì hầu hết các nước thành viên ASEAN dành 3% GDP cho nó. Theo đó, con số tương ứng 3% GDP của Việt Nam, là khoảng 5,5 tỷ USD chi tiêu cho quốc phòng vào năm 2018… Mặc dù vậy, việc mua vũ khí nước ngoài có thể tăng thêm nếu quân đội giảm quân số các cấp.
Tiếp nối Liên Xô, Nga tiếp tục là nhà cung cấp chính các loại vũ khí tinh vi cho Việt Nam, mặc dù mối quan hệ giữa Moscow và Hà Nội hiện nay dựa trên những cân nhắc thương mại và chiến lược hơn là sự tương đồng ý thức hệ (như trước đây). Các công ty Canada và châu Âu cũng đã bán một số vũ khí cho Trung Quốc.
Mặc dù không cung cấp các loại vũ khí chính cho Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ đã nới lỏng các hạn chế chuyển giao từ thời Chiến tranh Lạnh. Ngoài ra, các nhà ngoại giao Mỹ đã tỏ ra quan tâm đến đối tác Việt Nam trong công cuộc chống lại tuyên bố lãnh hải của Trung Quốc ở Biển Đông.
Hiện nay, chính quyền Obama cho biết đã sẵn sàng bán các mặt hàng quân sự “không gây chết người” cho Việt Nam. Tất nhiên, định nghĩa chính xác của từ "không gây chết người" được bỏ ngỏ ai muốn hiểu sao thì hiểu.
Hải quân
Hải quân nhân dân Việt Nam (VPN) dành phần lớn nguồn lực của mình để giám sát các hoạt động của các lực lượng hải quân nước ngoài và các đội tàu đánh bắt cá cũng như chống buôn lậu và cướp biển. Chiến lược chủ chốt của hải quân Việt Nam có thể tóm tắt trong nhiệm vụ xua đuổi, ngăn chặn lực lượng địch từ hoạt động tuần tra trong vùng biển Việt Nam, hơn là chủ ý tìm cách phô bày sức mạnh. Nga là nhà cung cấp chính tàu chiến cho Việt Nam.
Nga đã chuyển giao 2 chiếc hải phòng hạm Gepard, mỗi chiếc trang bị 8 tên lửa chống tàu KH-35U và trọng tải rẽ nước tiêu chuẩn 1.500 tấn, cho hải quân Việt Nam trong năm 2009 và 2010. Đây là những chiến binh trên biển lớn nhất của Việt Nam.
Nga và Việt Nam hiện đang đàm phán việc cung cấp thêm 2 chiếc Gepard nữa và chúng có khả năng sẽ được đóng theo giấy phép tại các xưởng đóng tàu của Việt Nam. Nhiệm vụ hàng đầu của hải phòng hạm Gepard thuộc lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam sẽ là ngăn chặn các hoạt động thương mại hàng hải của kẻ thù và giao chiến với các tàu có hành động tấn công, với tư cách là chủ sở hữu nguyên thủy các quần đảo ở Biển Đông. Trước đây, hải quân Việt Nam còn được trang bị máy bay siêu thanh, tên lửa chống tàu P-270 Moskit và P-800 Oniks từ Nga.
Trong năm 2009, Việt Nam đã ký một hợp đồng trị giá 1,8 tỷ USD để mua 6 tàu ngầm tấn công thuộc lớp Kilo quy chuẩn. Thỏa thuận này cũng bao gồm việc người Nga sẽ hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng các căn cứ tàu ngầm theo cấu trúc Nga. Các tàu ngầm Kilo - tuy bị giới hạn về tốc độ, độ bền và công suất ắc quy, nhưng lại vận hành êm ả và được vũ trang khá tốt với ngư lôi và tên lửa chống tàu.
Chúng có thể lợi dụng điểm yếu cố hữu của hải quân Trung Quốc trong phạm vi chiến tranh chống tàu ngầm nhằm quan sát, theo dõi các bài tập trận của hải quân hoa lục cũng như các nước khác. Chúng cũng có thể giúp Việt Nam thoát ra khỏi bất kỳ sự phong tỏa nào của hải quân nước ngoài. Tàu ngầm đầu tiên của Việt Nam có xuất xứ từ Bắc Triều Tiên, đó là 2 chiếc tàu ngầm mini thuộc lớp Yugo mà Hà Nội đã mua vào năm 1997 với mục đích gián điệp và xâm nhập.
Trong những năm tới, có khả năng hải quân Việt Nam sẽ tập trung tìm mua những tàu chiến nhỏ mới thuộc loại tàu hộ tống hoặc tàu khu trục (với trọng tải rẽ nước từ 1.000 đến 4.000 tấn) nhằm hỗ trợ cho cả hoạt động tuần duyên lẫn thu thập kinh nghiệm khi vận hành chung với các tàu chiến lớn. Việt Nam cũng có thể sử dụng thêm các phương tiện vận chuyển hải quân để liên tục củng cố các đơn vị đồn trú đảo.
Không quân
Canada đã nổi lên như là một nguồn cung cấp chính máy bay quân sự cho Việt Nam. Năm ngoái, Việt Nam đã mua 6 chiếc máy bay đổ bộ DHC-6400 Twin Otter từ Canada với giá 500 triệu USD. DHC-6400 là một loại máy bay phi kích (noncombatant) chủ yếu được thiết kế để tìm kiếm cứu nạn, tuần tra hàng hải và đổ bộ thủy quân. Cảnh sát biển Việt Nam (có chức năng tương tự như Lực lượng Bảo vệ bờ biển Hoa Kỳ - US Coast Guard) đã mua 3 máy bay giám sát C212 và hệ thống radar MSS 6000 vào năm 2008 từ các hãng sản xuất châu Âu. Trong những năm 1990, Việt Nam mua một tá chiến đấu cơ cường kích Su-27 Flankers. Năm 2009, Việt Nam đã nhận 8 máy bay tiêm kích Su-30MMK và đặt thêm một tá chiếc tương tự vào năm sau với số tiền chi ra là 1 triệu USD.
Hầu hết các chiến đấu cơ mạnh nhất trong kho vũ khí của Lực lượng Không quân nhân dân Việt Nam đều thuộc dòng Sukhoi Flanker, duy nhất Việt Nam có thế hệ thứ tư của dòng máy bay này. Chúng tỏ ra rất cơ động và có thể bay xa. Được trang bị tên lửa không chiến tầm xa R-77 và tên lửa R-27 tầm ngắn, trên lý thuyết, đạo quân này là đối thủ xứng hợp với bất cứ thứ gì mà Trung Quốc có thể đưa ra. Năm 2005, Việt Nam cũng mua 40 chiếc Su-22M second-hand, loại vừa tiêm kích vừa oanh tạc (fighter-bombers).
Su-22 có thể được sử dụng để hỗ trợ cho Su-30MKK trong nhiệm vụ tấn công trên biển cũng như có thể là một đài yểm trợ cận chiến. Trong báo cáo gửi Ủy ban đăng ký vũ khí thông thường Liên Hiệp Quốc (UNROCA), Cộng hòa Séc và Ukraine cũng cho biết họ đã lần lượt bán 5 và 3 chiếc Su-22M3s cho Việt Nam.
Trong tương lai, Không quân nhân dân Việt Nam có thể sẽ rất cần loại máy bay tiêm kích một động cơ hiện đại thay thế cho 200 chiếc MiG-21 đã lỗi thời. Việc thay thế MiG-21 rất có thể sẽ cần đến những loại máy bay đa nhiệm mang được các tên lửa tầm xa không-đối-không và các loại vũ khí tấn công chính xác được hướng dẫn từ mặt đất. Các ứng viên cho nhu cầu này với chi phí thấp có thể sẽ là loại LCA của Ấn Độ, MiG 29, Saab Gripen của Thụy Điển, Mirage 2000 hoặc những chiếc F-16 bán cải tiến (MLU). Trớ trêu thay, cuộc họp giữa Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Huy Hiệu và Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Công nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng Trung Quốc hồi tháng 01/2008 đã đưa ra khả năng Không quân Việt Nam có thể chọn mua chiến đấu cơ JF-17 giá rẻ của Trung Quốc (đồng sản xuất với Pakistan). Không quân nhân dân Việt Nam có thể cũng đang xem xét để có được máy bay tiếp liệu trên không cho loại máy bay Flanker của mình, nhằm tăng tầm hoạt động và thời gian bay của loại chiến đấu cơ này.
Lục quân
Nga đã thiết kế và xây dựng hệ thống phòng không hiện đại cho Việt Nam. Hai khẩu đội pháo, gồm tổng cộng mười hai bệ phóng cho loại tên lửa tầm xa đất đối không khét tiếng S-300PMU1 của Nga, đã được mua vào năm 2003. Chúng có tầm bắn 125 km. Mỗi khẩu đội, sáu bệ phóng, lần lượt được triển khai tại thủ đô Hà Nội và trung tâm kinh tế TPHCM. Việt Nam còn có một số lượng lớn súng phòng không rải đều khắp đất nước.
Quân đội nhân dân Việt Nam không có các loại trọng pháo tự hành hoặc xe tăng chiến đấu chủ lực hiện đại, đó là một bất lợi trong cuộc chiến trên bộ với Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa. Israel đã nâng cấp loại tăng T-55 của Việt Nam với ngòi nổ thụ động và giáp phản lực được cải thiện, một khẩu pháo 125mm lớn hơn và hệ thống điều khiển khai hỏa của Ba Lan, nhưng đây là một biện pháp tạm thời cho đến lúc Việt Nam sẽ sớm cần những chiếc tăng mới thay thế những chiếc T-55 nhỏ bé với những hạn chế cố hữu về động cơ, đạn dược và phòng thủ.
Với địa hình của hầu hết đường biên giới là đầm lầy hoặc núi, Quân đội nhân dân Việt Nam không thể tìm mua các loại xe tăng chiến đấu chủ lực có trọng lượng trên 60 tấn, điều này có nghĩa hầu hết các loại tăng của phương Tây như Leopard II và M1 Abrams đều không phù hợp. Rất có thể cái họ cần sẽ là loại T-90, với trọng lượng khoảng từ 45 đến 50 tấn. T-90 cũng ít đòi hỏi tiếp vận hơn hầu hết các loại xe tăng của NATO nhưng vẫn mang hỏa lực đáng kể.
Việt Nam đã bản địa hóa nhiều xe bọc thép M113 thu được từ quân Mỹ và Quân lực miền Nam Việt Nam, nhưng những cố gắng hiện đại hóa này chứng minh sự khó khăn do chính sách trừng phạt vũ khí của Mỹ đối với Việt Nam. Quân đội nhân dân Việt Nam còn mong muốn cải tiến các loại xe bọc thép khác mà mình có, như thay thế các khẩu pháo, các ụ súng từ xa thứ cấp, thiết bị hình ảnh trực quan, tua bin khí đốt hay các động cơ diesel tốt hơn. Giàn phóng tên lửa BM-21 Grad của Việt Nam, được triển khai lần đầu tiên năm 1963, có thể sẽ được thay thế bằng một loại vũ khí đánh chặn mới.
Người Mỹ có thể bán “hàng”
Trong quá khứ, những quan ngại chính trị ở quốc nội đã cản trở Hoa Kỳ bán vũ khí cho Việt Nam. Điều này bao gồm những ký ức đau đớn về chiến tranh Việt Nam, chính phủ Việt Nam ngược đãi người Hmong, các nhóm dân tộc thiểu số Degar, đàn áp những người bất đồng chính kiến và sự chống đối mạnh mẽ của cộng đồng người Mỹ gốc Việt đối với sự cai trị của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Khi cân nhắc chính sách đối ngoại, lại có thêm những trở ngại khác. Bao gồm những âu lo gây tổn hại đến quan hệ giữa Hoa Kỳ với nhiều đồng minh truyền thống ở Đông Nam Á, đặc biệt là Singapore và Thái Lan. Cả hai đều đã được xác định là những đồng minh chiến lược ngoài NATO và Thái Lan đã từng đụng độ với Việt Nam ở biên giới Campuchia trong những năm 1980. Các quan chức Trung Quốc có lẽ cũng sẽ phản đối việc chuyển giao nhiều hệ thống vũ khí sát thương của Hoa Kỳ cho Việt Nam và có thể trả đũa bằng cách gửi nhiều vũ khí hơn đến các chế độ thù địch với Hoa Kỳ.
Việt Nam sở hữu một số lượng khá lớn các loại vũ khí có nguồn gốc từ Mỹ sau cuộc nội chiến. Bao gồm các chiến đấu cơ F-5 Tiger, máy bay không kích OV-10 Bronco, máy bay vận tải C-130 Hercules, trực thăng UH-1 Huey, thiết vận xa M-113 và xe tăng M-48. Hầu hết các loại vũ khí này đã được “nghỉ hưu do tuổi tác” hoặc thiếu bảo trì và phụ tùng thay thế, nhưng các máy bay vận tải, trực thăng và xe bọc thép do Mỹ chế tạo vẫn được sử dụng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và có thể đã được người Mỹ nâng cấp để tăng cường độ an toàn, phạm vi hoạt động, tải trọng, các hệ thống điện tử và các động cơ tiết kiệm nhiên liệu.
Quân đội nhân dân Việt Nam đã đặt ưu tiên cao cho việc củng cố các đơn vị đồn trú đảo, cho thấy Việt Nam có thể bị động với những tàu chiến trống trơn, không vũ khí và đã ngừng hoạt động của quân đội Mỹ. Hoa Kỳ đã bán nhiều chiếc dương vận hạm (chứa tăng) lớp Newport cho Úc, Chile, Mexico, Ma Rốc, Tây Ban Nha và Đài Loan. Loại tàu này được thiết kế thân thon thoải giúp giảm tải ở vùng nước nông, chẳng hạn như ở vùng duyên hải quần đảo Trường Sa. Các loại tàu đổ bộ có boong đỗ máy bay như Ex-USN và Austin đã lần lượt được bán cho Đài Loan và Ấn Độ. So với dương vận hạm, các loại tàu này được tăng cường khả năng hỗ trợ các hoạt động của trực thăng và sẽ nâng cao khả năng tìm kiếm, cứu hộ trên biển của Việt Nam.
Có thể Việt Nam cũng muốn có các loại trực thăng vận tải của Hoa Kỳ. Những chiếc S-70 Seahawks và UH-60 Blackhawks khá hấp dẫn đặc trưng kiểu Mỹ, ngoài việc mang tải vượt hơn 4 tấn, chúng có thể được tối ưu hóa để tác chiến trên biển, ở tầm cao và các phi vụ ban đêm. Thú vị không kém là CH-47 Chinook, loại trực thăng vận tải hạng nặng, có thể được sử dụng cho cả các hoạt động không vận và tiếp tế cho các tiền đồn xa trên núi, gần biên giới Trung Quốc. Các vận tải cơ C-130J Super Hercules và C-27A Spartan là những chọn lựa lý tưởng cho nhu cầu không vận của Việt Nam. Hai loại này có thể mang trọng tải lần lượt là 20 và 11 tấn, có khả năng cất cánh trên đường băng ngắn, địa hình gồ ghề, do đó nó còn có thể rất hữu ích trong việc phân phối cứu trợ nhân đạo khi có các thiên tai xảy ra.
Trước đây, người Việt Nam đã nỗ lực tự sản xuất các phương tiện không người lái trên không với sự giúp đỡ của Israel nhưng không thành công. Các máy bay không người lái MQ-1 Predator và RQ-7 Shadow (tấn công tầm ngắn) sẽ là các vũ khí có độ bền lâu dài, khó phát hiện (bởi radar) và chi phí thấp giúp giám sát hiệu quả đường biên giới trải dài trên bộ và trên biển của Việt Nam.
Các máy bay không người lái cũng sẽ giúp cho việc phối hợp hành quân giữa lục quân và hải quân. Có thể cũng rất có lợi cho Việt Nam nếu tậu được loại máy bay chỉ huy và cảnh báo sớm trên không (AEW&C), như E-2T Hawkeye, đây là loại máy bay được tăng cường khả năng xử lý dữ liệu từ chiến trường, xử lý radar và truyền tin. “Nước cờ” AEW&C sẽ giúp Việt Nam có khả năng đương đầu với các máy bay KJ-2000 và KJ-200 của Trung Quốc, Phalcon Gulfstream của Singapore và Erieye Saab 340 của Thái Lan.
Hiện đại hóa quân đội cũng đòi hỏi sự đổi mới các hệ thống điều khiển và truyền tin của Quân đội nhân dân Việt Nam. Nếu quan hệ Mỹ-Việt được cải thiện đáng kể, Việt Nam có thể có cơ hội để mua những máy vô tuyến tương đương Link 11 và 16, hoặc các hệ thống truyền tin đa chức năng như MIDS/LVT-1 nhằm tăng lưu lượng thông tin và an toàn cả hai mức chiến lược và chiến thuật. Sự gia tăng các khả năng xử lý tình huống và tốc độ ra quyết định từ các hệ thống lệnh số hóa sẽ cho phép Việt Nam phối hợp tác chiến trên không, trên bộ và trên biển tốt hơn…
Cuối cùng, cuộc chiến Việt Nam còn để lại hàng chục ngàn tấn bom, mìn, đạn pháo, bẫy mìn và các loại chất nổ chưa sử dụng khác khắp đất nước này, ở cả các khu đô thị đông dân cư và nông thôn. Các loại xe bọc thép chống mìn và thiết bị nổ (MRAP) và xe dọn mìn M60 Panther do Mỹ chế tạo sẽ giúp nâng cao hiệu quả, tốc độ và tính an toàn cho nỗ lực gỡ mìn của người Việt Nam, mà phần nhiều trong số đó hiện đang được thực hiện bằng tay.
Quốc Ngọc dịch từ http://www.sldinfo.com/?p=14664
Người dịch gửi trực tiếp cho BVN
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)