GS PHẠM THỊ NHUNG
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có tục lệ tổ chức lễ lạc trọng thể, hội hè tưng bừng và tiệc tùng linh đình vào ngày mồng một tháng giêng mỗi năm mà chúng ta gọi là Tết Nguyên Đán.
Tết do chữ Tiết (tức tiết khí, tính theo hệ mặt trời) mà ra, ở đây có nghĩa là lễ hội hằng năm ; Nguyên là bắt đầu và Đán là buổi sáng mai. Như thế Tết Nguyên Đán chính là ngày lễ hội mở đầu cho một năm mới.
Tuy nhiên thời điểm ăn Tết Nguyên Đán mỗi nơi lại mỗi khác. Một số quốc gia ở Đông Nam Á như Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam chịu ảnh hưởng Trung Hoa, bắt chước họ ăn Tết Nguyên Đán vào ngày mồng một tháng giêng âm dương lịch, loại lịch vừa căn cứ vào sự chuyển vận của mặt trăng vừa tính theo hệ mặt trời (*). Một số quốc gia khác như Lào, Cao Miên, Thái Lan chịu ảnh hưởng Ấn Độ, lại ăn Tết Nguyên Đán theo Phật lịch, dựa vào ngày đản sinh đức Phật Tổ Như Lai, nhằm rằm tháng tư âm dương lịch. (Âm dương lịch sau gọi tắt là âm lịch)
Trong khi đó các dân tộc tây phương ăn Tết Nguyên Đán vào ngày mồng một tháng giêng dương lịch, loại lịch tính theo hệ mặt trời. Từ cuối thế kỷ thứ XIX (1873) thời Minh Trị Thiên Hoàng, dân Nhật đã chính thức bãi bỏ lệ ăn Tết âm lịch mà theo Tết dương lịch.
Riêng tại Việt Nam, tục ăn Tết Nguyên Đán của người Trung Hoa, cùng nhiều tập tục lễ nghi ngày Tết như lễ gia tiên của Khổng giáo, lễ chùa đầu năm của Phật giáo, cúng tế thần linh của Đạo giáo đã được truyền vào nước ta rất sớm, ngay từ thời Bắc thuộc, khoảng đầu kỷ nguyên dương lịch. Bởi chúng không hề đi ngược lại với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc (đạo thờ ông bà, lễ hội xuân), lại còn được Việt hóa để thích nghi với hoàn cảnh, ứng hợp với tâm tình của người Việt. Do đó, Tết Nguyên Đán đã thực sự trở thành hội lớn của dân tộc mà chúng ta gọi nôm na, thân mật là Tết ta, để đối lại với Tết tây, là Tết dương lịch của người phương Tây.
Chúng ta đều biết một năm có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông luân lưu trôi chảy. Đông hết Xuân sang, năm hết Tết đến. Tết Nguyên Đán của ta diễn ra khoảng từ 21 tháng giêng đến 19 tháng hai dương lịch. Căn cứ theo khí hậu miền Bắc, đây thật là khoảng thời gian thuận lợi đủ đường, được cả thiên thời, địa lợi, nhân hoà.
Chẳng thế sao? Này nhé, vạn vật thiên nhiên theo thời tiết bốn mùa mà đổi thay. Những ngày đông xám rét mướt qua đi, xuân về, bầu trời trở lại trong xanh, thời tiết ấm áp, nắng mới xôn xao, cây cỏ đâm chồi nẩy lộc, muôn hoa đua nở thắm xinh, yến oanh líu lo ca hát, ong bướm dập dìu bay lượn, và theo với gió xuân, hương phấn, hoa đồng cỏ nội toả bay thơm ngát không gian.
Trước cảnh vạn vật đang tưng bừng reo vui đổi mới ấy, lòng người cũng thấy rộn ràng, hòa theo mạch sống đang tràn dâng của thiên nhiên mà mừng vui đón mùa Xuân mới.
Đã vậy, Tết Nguyên Đán rất phù hợp với đời sống nông nghiệp ở xứ ta. Xuân về, Tết cũng là lúc mùa màng vừa hoàn tất:
Khéo thay công việc nhà quê
Quanh năm khó nhọc, dám bề khoan thai
Tháng tám lúa trổ đã đành
Tháng mười cắt hái cho nhanh kịp người.
Khó khăn làm mấy tháng trời
Lại còn mưa nắng bất thời chờ trông
Cắt rồi nộp thuế nhà nông
Từ rày mới được yên lòng ấm no.
Dân quê quanh năm làm lụng vất vả chân lấm tay bùn, hai sương một nắng, lại còn thêm bao nỗi lo lắng vì thời tiết bất thường, thuế má, nợ nần phải trang trải. Nay nông vụ tháng năm đã thành công, nông vụ tháng mười cũng đã được hoàn tất tốt đẹp, mọi chuyện đều đâu vào đấy. Vừa lúc được nghỉ ngơi, rảnh rỗi thì đúng dịp Xuân về, Tết đến, bảo sao nhà không hoan hỉ ăn Tết mừng Xuân, vui chơi hội hè đình đám, kéo dài cả tháng cho bõ những lúc đầu tắt mặt tối, ăn nhịn để dành :
- Tháng giêng là tháng ăn chơi.
- Tháng giêng ăn Tết ở nhà
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Thực ra dân Việt ta đã mở hội Tết ngay từ đầu tháng giêng và kết thúc bằng hội Đền Hùng, ngày 10 tháng 3 âm lịch. Không chỉ nhà nông ta mới ăn Tết thưởng Xuân mà mọi giới, mọi ngành nghề trong xã hội: sĩ, nông, công, thương, hết thảy đều nao nức, say sưa nhiệt tình đón Tết, vui Xuân:
Tết chẳng riêng ai, Tết mọi nhà.
Vui Xuân, vui cả một trời.
Quả thật, hiếm một dân tộc nào trên thế giới này lại ăn Tết kỹ và điệu như dân Việt mình.
Ai đã từng sống ở quê hương, hòa mình vào lòng dân tộc mới mong thấy (bằng cả tình cảm lẫn lý trí) được hết cái nao nức, cái trang trọng, cái thi vị, cái thâm thúy của người dân Việt trong diễn trình sửa soạn đón Tết, lễ Tết, ăn Tết và thưởng Xuân. Và đây chính là lúc bản sắc dân tộc biểu lộ rõ nét nhất.
Để sửa soạn đón Tết, các bà nội trợ ngay từ đầu tháng chạp đã lo sắm sửa giày dép, áo quần mới cho gia đình; mua sắm một số thực phẩm khô như nấm hương, măng khô, bóng, miến, mực cùng vài sóc tôm để dành nấu cỗ. Và không bao giờ quên mua trữ một vài tĩn nước mắm ngon vào dịp này như lời các cụ dạy :
Đầu năm mua muối - Cuối năm mua mắm.
Chả vì dân ta kiêng rước nước mắm về nhà đầu năm, sợ xui, gia đình sẽ gặp chuyện tai tiếng như mùi nước mắm lựng lên nồng nặc.
Giữa tháng chạp các bà lo muối vại dưa hành, ngâm hũ củ cải dầm hay lọ dưa món. Những ngày giáp Tết thì ngoài nồi cá kho riềng, nồi thịt bò hầm gừng, gói vài đòn giò thủ các bà còn làm mứt: mứt sen, mứt bí, mứt gừng đủ cả. Cuối cùng là nồi bánh chưng. Nồi bánh chưng vất vả nhất nên mấy cô gái đều phải xúm vào giúp mẹ, mỗi người một tay, kẻ rửa lá đãi đậu, kẻ tước lạt, ướp thịt, cuối cùng thì mấy chục thệp bánh cũng xong.
Đêm 29 Tết, cả nhà quây quần bên nồi luộc bánh, chuyện nổ như pháo ran, quên cả buồn ngủ.
Sáng 30 Tết, vừa vớt và nén bánh xong (cho ráo và rền), các bà đã bắt sang chuyện sửa soạn cỗ bàn cho kịp buổi chiều cúng gia tiên. Các ông bố và đám con trai thì lo đi mua pháo và dọn dẹp, sơn phết nhà cửa cho được khang trang. Gần Tết thì mấy chân nến cùng cái lư hương, cái đỉnh trầm bằng đồng đều được đánh bóng, sáng choang ; bàn thờ ông vải thì được lau chùi cẩn thận. Những bài vị ghi tên tuổi, chức phận và ngày sinh ngày mất của tổ tiên cùng thân quyến quá cố được bày ra, đặt trên ngai (hay gọi là mai).
Bàn thờ còn được trang hoàng lộng lẫy thêm bằng hai bình hoa đặt hai bên góc và một quả bồng ở chính giữa, chưng đầy ngũ quả như cam sành, quít đường, phật thủ và một chùm sung cùng nải chuối cau. Ngũ quả tượng trưng cho ngũ phúc : Phúc - Quí - Thọ - Khang - Ninh. Trong khi đó người miền Nam lại ưa chưng mãng cầu, dừa xiêm, đu đủ, xoài với ngụ ý câu vừa đủ xài và còn thêm cam, quít, vú sữa, mận tùy hỉ.
Xưa dân ta vào dịp Tết còn có tục lệ trang hoàng nhà cửa bằng những câu đối, viết chữ đại tự đen trên nền giấy đỏ thẫm, thường là chính gia chủ sáng tác hoặc xin chữ nơi các vị khoa bảng đã về hưu. Người bình dân mới mua câu đối viết sẵn ở chợ. Ngoài ra, họ còn thích treo thêm tranh dân gian Đông Hồ, vẽ trên giấy điệp với đủ màu sắc, như tranh gà trống, tranh bầy lợn hay tranh tố nữ, tranh cậu bé ôm cá, sau lưng có cành hoa sen tất cả đều ngụ ý cầu chúc hay đem lại điềm lành cho gia đình. Có nhà còn treo tranh hai ông tướng Vũ Đinh, Thiên Ất, tay cầm khí giới ở hai bên cửa ngõ để trấn nhà trừ ma quỉ quấy phá.
Muốn tăng thêm vẻ rực rỡ và ý nghĩa cho ngày Tết, dân ta còn ưa chưng ở bàn khách một bình mai vàng thiệt lớn (ở miền Bắc là cành đào), trên cài những cánh thiệp chúc Tết, và đôi chậu cúc vạn thọ ở hai bên cửa ra vào ; chả vì hoa mai, hoa đào không những màu sắc lộng lẫy mà còn tượng trưng cho sự may mắn, còn hoa vạn thọ thì tiêu biểu cho sự sống lâu.
Các cụ ông thì từ hai, ba tuần lễ trước Tết đã lăng xăng chăm sóc mấy chậu lan đất hay mấy giỏ phong lan, cùng lo tước bỏ hết lá cây mai già ngoài vườn để cho hoa được nở rộ vào đầu năm mới. Các cụ bà thì lo gọt tỉa mấy giò thủy tiên để lễ giao thừa.
Trong nhà đã nhộn nhịp như thế, ngoài đường phố, nhất là chợ Tết còn sầm uất, huyên náo đến đâu, vì gia đình ai mà chả phải sắm Tết. Khu chợ Tết nào cũng kẻ mua người bán tấp nập suốt ngày. Nhưng ồn ào nhất phải kể là khu chợ gà lợn và rực rỡ, thanh lịch nhất phải kể là khu chợ hoa. Thôi thì đủ loại hoa, đủ màu sắc, mặc sức chọn lựa, nào hồng, nào huệ, nài glaieul, thược dược, nào những giò thủy tiên, những chậu cúc, phật thủ, quất. Riêng những cành đào (miền Bắc) hay những cành mai vàng (miền Trung và Nam) tuy được bán rất nhiều nhưng lại rất mắc, vì đây là hai loại hoa Tết truyền thống của dân tộc, gia đình nào cũng muốn mua ít nhất một, hai cành để bày trong nhà vào những ngày đầu năm.
Những người buôn bán còn thích mua về một vài chậu quất màu cam vàng hực, tríu trít những quả. Cây nào có đủ cả quả to, quả nhỡ, quả nhỏ, điểm thêm một ít nụ hoa nữa mới là quí, vì chúng đang mỗi ngày một tăng trưởng, một kết tụ, tượng trưng cho sự buôn bán mỗi ngày một phát tài sai lộc.
Trong Nam còn có tục lệ mở chợ Tết tới khuya, đông nhất vẫn là khu chợ hoa. Giờ này không khí mát mẻ, dưới ánh đèn muôn màu, trai thanh, gái tú, áo quần chưng diện, dập dìu đi lại, nói cười lẫn trong hoa, tạo nên một hoạt cảnh vô cùng thơ mộng, tình tứ. Quả thực lúc này người đi sắm Tết thì ít mà người đi ngắm hoa thiên nhiên, nhất là những bông hoa biết nói thì nhiều.
Hết chuyện mua sắm, đi chợ Tết đến chuyện biếu xén. Người Việt ta cứ đến những ngày giáp Tết thì có tục lệ biếu Tết. Người ta không chỉ biếu Tết những vị trưởng thượng trong gia tộc như ông bà, cha mẹ, cô bác, những người ơn nghĩa như thầy thuốc, thầy giáo, cùng những nơi làm ăn hay những chàng rể tương lai phải sêu Tết nhà vị hôn thê, mà người ta còn biếu Tết cả các bạn bè thân cùng bà con lối xóm. Nhiều người gọi đùa đây là tục trao đổi văn hóa. Cũng vì có sự biếu qua, biếu lại này mà đôi khi vật hoàn cố chủ. Thật là vui !
Thế là cả một dân tộc đang say sưa sửa soạn đón Tết, dẫu có phải bận rộn đến mấy người ta vẫn tươi cười vui vẻ, vì trong lòng ai giờ nay cũng đang xốn xang, nao nức chờ đón năm mới sắp đến.
Thật đúng là:
Vui từ trong cửa vui ra
Vui từ ngã bảy, ngã ba vui về
(Từ buồn trong câu ca dao thứ hai được đổi ra vui cho hợp tình, hợp cảnh)
Tết ta không chỉ bắt đầu từ ngày mồng một thánh giêng năm mới mà thực sự không khí Tết nhất đã ngự trị trên đất Việt ngay từ ngày 23 tháng chạp là ngày Tết Táo quân rồi.
Cứ đến ngày 23 tháng chạp, nhà nào cũng cúng Tết Táo quân tức Vua bếp. Người xưa tin rằng tới ngày này, Vua bếp gồm hai ông một bà sẽ về chầu Ngọc Hoàng Thượng Đế để báo cáo mọi chuyện tốt, xấu trong năm của những người trong gia đình. Để tiễn đưa và lấy lòng các vị này, người ta cúng cỗ và một bộ vàng mã gồm áo, mão cho hai ông một bà cùng ba con cá chép, vì theo người xưa, cá chép sẽ hóa long đưa các vị về trời. Cũng vì đó mới có câu :
Thế gian một vợ một chồng
Chẳng như vua bếp hai ông một bà
Ở nước ta, tờ báo Xuân đầu tiên ra đời là tờ Phụ nữ Tân văn Xuân Canh Ngọ (1930) do bà Nguyễn Đức Nhuận chủ trương tại Sài Gòn. Từ đó các báo mới bắt chước, dần dần trở thành thông lệ. Hễ Xuân sang Tết đến là báo Xuân xuất hiện. Đặc biệt hầu hết các báo đều dựa vào chuyện Táo quân lập bô để đẻ ra mục sớ Táo quân mà tổng kết mọi chuyện trong nước hay trên khắp thế giới; đôi khi nhân đó mà ngụ ý mỉa mai, châm biếm hay hài hước mua vui.
Sau Tết Táo quân, bà con từ Bắc chí Nam đều lo đi tảo mộ. Người Việt không đi tảo mộ vào tiết Thanh minh tháng ba như người Trung Hoa mà đi tảo mộ vào cuối năm. Từ ngày 25 tháng chạp trở đi, ngày nào tối trời, bà con trong mỗi gia tộc lại họp nhau đi tảo mộ, tức đi quét dọn, sửa sang lại mộ phần của tổ tiên cùng các thân nhân quá cố. Xong đâu đấy họ thắp hương, dâng lễ và khấn khứa cung thỉnh vong linh các vị về ăn Tết.
Cũng từ ngày 23 tháng chạp trở đi, muộn lắm là ngày cuối năm, bà con ở thôn quê còn có tục dựng cây nêu ở trước sân nhà. Cây nêu làm bằng thân tre hay bương, chặt gốc rồi còn cao khoảng 5, 6 thước tây. Gần ngọn cây nêu người ta thường treo lủng lẳng một cái vòng lục lạc, có những chiếc chuông, chiếc khánh bằng đất nung và một dải lụa màu làm phướn, có tiếng leng keng của chuông khánh va chạm nhau, ma quỉ biết đất có Phật che chở nên không dám quấy nhiễu, mặc dù thời gian Tết này các vị thần giám sát việc thế gian đã vắng mặt, vì còn phải lên thiên đình chầu Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Cũng vì sự tích trồng nêu có liên quan đến tín ngưỡng Phật giáo nên lễ dựng nêu, người ta không cúng mặn mà chỉ cúng hoa quả, xôi chè. Bởi ca dao mới có câu :
Cú kêu ba tiếng cú kêu
Trông mau tới Tết dựng nêu ăn chè
Nhà nào không trồng cây nêu thì người ta gài cành đa, lá dứa trước cửa nhà hoặc rắc vôi bột ngoài ngõ và vẽ cung tên lên cánh cửa để trấn nhà, không cho ma quỷ xâm nhập gia cư như câu hát xa xưa :
Cành đa, lá dứa treo cao
Vôi bột rắc ngõ, chớ trêu mọi nhà
Quỷ vào thì quỷ lại ra
Cành đa, lá dứa thì ta cứa mồm
Người ta trồng cây nêu còn vì tục lệ đón rước vong linh tổ phụ về ăn Tết.
Ai cũng biết những đêm cuối năm, nhất là đêm ba mươi không trăng sao, trời tối mò, thành ngữ chẳng có câu: Tối như đêm ba mươi Tết đó sao ? Bởi thế trên cây nêu, ngoài bộ lục lạc, người ta còn treo thêm một ngọn đèn dầu, được thắp sáng mỗi đêm để hướng dẫn linh hồn ông bà ông vải biết đường tìm về nhà.
Chiều ba mươi Tết, nhà nào cũng cỗ bàn thịnh soạn, trước là để cúng gia tiên, cung thỉnh vong linh các vị về ăn Tết cùng con cháu; sau để con cháu thừa hưởng lộc trong cảnh vui vầy. Vì tới chiều ba mươi Tết, ai đi buôn bán, làm ăn xa cũng đã trở về đoàn tụ dưới mái nhà tổ phụ.
Mâm cỗ Tết không bao giờ thiếu món bánh chưng, giò thủ cùng món dưa hành theo đúng truyền thống :
Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Nêu cao, pháo nổ, bánh chưng xanh
Sau nữa phải có thêm đĩa cá kho riềng, đĩa thịt bò hầm gừng cùng các món xào, nấu như măng khô hầm gà nhồi bóng, măng tươi xào mực khô, nem rán. Cả gia đình ông bà, cha mẹ, con cái ăn uống, chuyện trò say sưa. Tiệc vừa tàn thì quay ra đánh tam cúc, chơi rút bất chờ đón giao thừa.
(Còn tiếp)
GS PHẠM THỊ NHUNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét