Thứ Tư, 15 tháng 6, 2011

Nhập khẩu Than

Đào Tuấn - Trả giá

Năm 2009, khi đòi "quật" Bể than Sông Hồng, Tập
đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam đã tung ra dư luận dự báo
Việt Nam sẽ thiếu than trầm trọng, và sẽ phải nhập than, và
nhập ngay từ năm 2013, và nhập đến cả trăm triệu tấn trong
tương lai không quá 10 năm. Bấy giờ, dư luận sốc nặng. Một
quốc gia mà số lượng mỏ than, thể hiện bằng những chấm
vuông màu đen chi chit trên bản đồ khoáng sản, một quốc gia
"rừng vàng biển bạc" mà trữ lượng than lên tới 220 tỷ
tấn cuối cùng đã "mút đến những ngón tay cuối cùng". Và
bây giờ, khi TKV hân hoan thông báo những tấn than đầu tiên
cập cảng (Vâng, chính xác là TKV đã hân hoan. Còn tại sao lại
hân hoan thì cứ nhìn sang EVN, nhìn vào những số liệu xủng
xoảng bị chi phối bởi "dã tâm thành tích" thì biết), sự
trả giá hoá ra đã đến sớm hơn rất nhiều so với lời đe
doạ của TKV.Nhưng 9,5 ngàn tấn than nhập khẩu, một "thành tích"
đau xót của TKV khi dưới sự "thống trị" của họ, Việt
Nam rất nhanh chóng từ một nước xuất khẩu trở thành một
nước nhập khẩu than. Đã có những năm, việc xúc bán của TKV
còn mang lại cho họ thành thích lọt top những ngành xuất khẩu
có kim ngạch trên 1 tỷ USD. Thành tích của TKV ngày hôm nay rõ
ràng là sự trả giá cho lối khai thác tài nguyên sa đoạ và vô
tội vạ của hôm qua. Chúng ta đã có "một ngày hôm qua" vô
tội vạ. Sự vô tội vạ kéo dài suốt nhiều chục năm với
công nghệ khai thác kiểu cuốc xẻng, theo lối đào đất bán
lấy tiền. Nhiều chục năm xuất than vô tội vạ với giá rẻ
mạt, với hoạch định kiểu bóc ngắn cắn dài. Và nhiều
chục năm những tập đoàn than thổ phỉ cạnh tranh lạnh lùng
với những đoàn tàu nối dài vô tội vạ vượt biên đưa than
về phương Bắc.
Mỗi năm, TKV vẫn xuất khẩu trên dưới hai chục triệu
tấn than, có năm, họ xuất tới gần 32,5 triệu tấn. Và
trước nguy cơ thiếu hụt nguồn than được cảnh báo từ
trước, họ vẫn không thể ngừng xuất khẩu. Chỉ với một
lý do duy nhất là để có tiền, có doanh số, có lợi nhuận
với danh nghĩa "cân đối tài chính" cho việc bán than dưới
giá thành cho nhu cầu trong nước. Nhưng ngay cả khi xuất tới
32,5 triệu tấn than thì giá trị của sự bán thô tài nguyên
mang lại là rất rẻ mạt. Chẳng hạn với 1,08 tỷ USD thu
được từ việc xuất thô hơn 32 triệu tấn than năm 2007, chỉ
đủ mua lại 7,5 tấn than chỉ sau đó 1 năm.
Và giờ là đến lượt nhập. Năm 2012 phải nhập 10 triệu
tấn. Năm 2020 sẽ là 100 triệu tấn "theo kế hoạch", theo
dự báo. Nhưng có lẽ, với việc những vỉa than lộ thiên ở
Quảng Ninh đã cạn kiệt, với việc những tấn than ngoại đã
được nhập sớm 2 năm so với dự kiến và tất nhiên là với
cả công nghệ nhiệt điện ăn than như ăn gỏi, thì có lẽ con
số 100 triệu tấn than nhập khẩu cũng sẽ rất sớm "vượt
kế hoạch".
Một câu hỏi cần được đặt ra: Ai sẽ là người được
hưởng lợi từ việc nhập than. Câu trả lời rất dễ: Chỉ
có thể là TKV dù người kêu gào nhiều nhất, cần nhiều than
nhất là điện, là xi măng. Rất đơn giản là bởi bên cạnh
độc quyền khai thác, họ còn có thêm độc quyền xuất nhập
khẩu mặt hàng này.
Có một điều đáng chú ý: Khi ném ra dư luận những lời đe
doạ về việc thiếu than lần đầu năm 2009, tức là gần 40
năm sau khi khái niện an ninh năng lượng được đưa ra sau cuộc
khủng hoảng năng lượng 1973, TKV hướng tới việc đòi
"quật" bể than Sông Hồng chứ không phải để rút kinh
nghiệm cho việc quản lý, hoạch định và khai thác của mình.
Bởi vậy, dù có trữ lượng dự đoán hơn 200 tỷ tấn, bể
than Sông Hồng vẫn là quá ít cho cung cách quản lý và khai thác
của TKV chừng nào những lời đe doạ và việc nhập khẩu than
chưa được coi là hậu quả nhãn tiền của lối khai thác đào
đất ăn tiền của một ngành độc quyền mà công việc chính
là bán rẻ tài nguyên.
Vẫn phải nhắc lại là nạn than thổ phỉ chưa bao giờ chấm
dứt với "kim ngạch" không dưới 10 triệu tấn mỗi năm.
Liệu an ninh năng lượng có nên phụ thuộc vào thành tích của
chỉ một ngành, một tập đoàn, một cái đầu?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét