Tác giả: ALAN PHAN
Trong suốt lịch sử thế giới, cái tệ hại của mỗi thời kỳ vàng son là một kết cuộc thảm thương cho mọi người dân. Bong bóng bao giờ cũng vỡ. Nợ quá tải bao giờ cũng đáo hạn sớm hơn dự định. Người giàu thì phá sản vì lối kinh doanh đòn bẩy phiêu lưu không còn thích hợp, người trung lưu thì trắng tay vì giá trị tài sản biến mất, lây lắt bám víu vào một nền kinh tế khập khiễng. Các quan chức chính phủ thì luôn luôn bó tay vì không hiểu chữ sáng tạo hay tiết kiệm là gì?
Đọc lịch sử thế giới, tôi luôn say mê về những góc nhìn tiêu biểu cho thời vàng son của mỗi quốc gia. Từ đế chế La Mã, Hy Lạp ngày xưa đến Anh, Mỹ, Nhật thời cận đại, chúng mang nhiều nét đặc thù, những tựu trưng, vẫn có rất nhiều tương đồng. Xã hội và con người trong những thời kỳ huy hoàng này, nhất là giới cầm quyền thượng lưu, luôn luôn mang đậm những cá tính hồ hởi lạc quan, phô trương quyền lực và sự giàu có, đắm mình trong lễ hội và tiệc tùng, sống không lo âu đến ngày mai vì nghĩ rằng ... những ngày hè nắng đẹp sẽ kéo dài bất tận. Người Mỹ có bài hát mô tả tình huống này, "Let the good times roll" mà người Pháp tán đồng nồng nhiệt " Laisser les bon temps rouler." Thời vàng son ơi, hãy tiếp tục trôi...
Nước Mỹ trong thập kỹ 1920's được biết đến bằng tên "The Roaring Twenties" (Những năm hoan lạc của 1920's). Thế chiến Thứ Nhất vừa chấm dứt và Mỹ hưởng lợi rất nhiều vì đã cho các nước thắng trận (Anh, Pháp) vay những khoản tiền rất lớn cho chiến tranh, cũng như đã cung cấp vũ khí cho cả hai bên với giá tốt. Nước Mỹ đang sửa soạn thay thế đế chế Anh trên khắp thế giới vì sức mạnh tài chính của mình. Những công nghệ mũi nhọn mới đem thế lực kinh tế và văn hóa Mỹ phủ khắp toàn cầu (xe hơi, phim ảnh, radio, kỹ nghệ hóa học, nhạc jazz...) trong khi châu Âu vẫn còn là đống tro hoang tàn vì chiến tranh và châu Á vẫn là các thuộc địa chậm tiến. Thị trường chứng khoán và địa ốc tăng trưởng đột biến, người dân Mỹ ngoài thu nhập cao còn hưởng những khoản lời này nên cảm thấy giàu có nhất thế giới, và tương lai chưa bao giờ có một hứa hẹn rực rỡ như vậy. Dân quê ào ạt đổ về thành phố tìm sự giàu có, "đô thị hóa" ở Mỹ thực sự bộc phát.
Cùng với nhân dân, chính phủ Mỹ nới rộng tín dụng, giữ lãi suất thật thấp và bắt đầu những công trình xây dựng hạ tầng khắp quốc gia. Xa lộ, đường sắt, xe điện ngầm, nhà máy điện nước, cảng biển... mọc lên như nấm sau cơn mưa dài. Giá cả mọi tài sản trở thành... bong bóng, xa rời thực tế. Nợ công ngày càng chồng chất và lạm phát bắt đầu quậy phá.
Ảnh: cafeF
Ngày 29/10/1929 thực tế của thị trường ghé thăm. Wall Street sụp đổ với 13% giảm sút trong chỉ số Dow Jones (lên đến 58% trong nhiều tuần sau đó và 89% vào 1931). Nước Mỹ kéo toàn thế giới vào cuộc Đại Suy Thoái suốt thập niên 1930's cho đến khi Thế Chiến Thứ Hai bắt đầu.
Trong suốt lịch sử thế giới, cái tệ hại của mỗi thời kỳ vàng son là một kết cuộc thảm thương cho mọi người dân. Bong bóng bao giờ cũng vở. Nợ quá tải bao giờ cũng đáo hạn sớm hơn dự định. Người giàu thì phá sản vì lối kinh doanh đòn bẩy phiêu lưu không còn thích hợp, người trung lưu thì trắng tay vì giá trị tài sản biến mất, lây lắt bám víu vào một nền kinh tế khập khiễng. Các quan chức chính phủ thì luôn luôn bó tay vì không hiểu chữ sáng tạo hay tiết kiệm là gì?
Trong những thời vàng son đó, tôi thích tìm hiểu về những nhân vật đầy quyền lực, giàu có của xã hội, đã được hoàn cảnh đưa đẩy lên đỉnh cao của quốc gia, và đời sống họ là những bức tranh trung thực nhất của môi trường chung quanh.
Không ai mà không ấn tượng với những câu chuyện về Du Yue Sheng, thủ lãnh của băng đảng Green Gang, đã đem Thượng Hải thời 30's lên bao nhiêu là phim ảnh của Tàu và Mỹ. Anh chàng xã hội đen này, xuất thân là một nông dân nghèo của Pudong, đã leo lên ngai thị trưởng (không chính thức ) của Thượng Hải, qua những quan hệ làm ăn với Tưởng Giới Thạch và các quan chức địa phương. Thậm chí, ông còn tài trợ cho phần lớn các chiến dịch càn quét của họ Tưởng trong chiến tranh.
70 năm sau, Trung Quốc lại cống hiến cho lịch sử một nhân vật đầy màu sắc, là Lai Chang Xing, cũng là một nông dân nghèo của tỉnh Hạ Môn. Khởi nghiệp bằng con số không, Lai đã thu góp được một tài sản khổng lồ hơn 16 tỷ USD (theo cáo trạng của chánh phủ) trong thời gian ngắn ngủi chưa đầy 5 năm. Lai đã khống chế hoàn toàn các cơ quan công lực của Hạ Môn rồi Trung Ương, từ cảnh sát đến hải quan, để tổ chức được một mạng lưới buôn lậu xe hơi, dầu khí và thuốc lá khắp nước. Sự sụp đổ của Lai là do Tổng Bí Thư Giang Trạch Dân và Thủ Tướng Chu Dung Cơ muốn dùng con bài của Lai để lật đổ thế lực hùng mạnh của nhóm Bắc Kinh. Lai bị án tử hình, trốn được qua Canada; còn ở nhà, Thị Trường Bắc Kinh và 4 nhân vật cao cấp phải tự tử chết. Gần 400 quan chức bị đưa ra Tòa về vụ việc này gồm 2 Bộ Trưởng, 26 tỉnh ủy, 86 huyện ủy và kết quả có 14 án tử hình.
Nhân vật đình đám nhất của The Roaring Twenties bên Mỹ là William Randolph Hearst. Ông tạo lập một gia tài khổng lồ qua sự thiết lập và thu tóm hơn 30 tờ báo chính tại các thành phố lớn (New York, San Francisco, Chicago, Los Angeles..), 8 tạp chí (Cosmopolitan, Good Housekeeping...) vài đài phát thanh và một phim trường ở Hollywood. Ông cũng từng là dân biểu, nghị sĩ, nhưng thất bại trong việc ứng cử vào chức Thị Trưởng New York, bàn đạp cho Tòa Bạch Ốc. Ông là king-maker (kẻ tạo vua chúa) trong rất nhiều cuộc bầu cử vì ảnh hưởng khủng khiếp của mạng truyền thông trong xã hội Mỹ. Ông lại có một cuộc sống xa hoa với tiệc tùng và scandal, gây ra không biết bao nhiêu câu chuyện hấp dẫn cho đám đông luôn thờ phụng những nhân vật nổi tiếng (celebreties). Khu lâu đài của ông ở San Simeon California vẫn là một trung tâm thu hút bao du khách ngày nay. Trên hết, Orson Welles dùng ông như là một cảm hứng để tạo nên cuốn phim Citizen Kane, mà nhiều nhà phê bình cho là phim hay nhất qua mọi thời đại của lịch sử điện ảnh.
Một trong những scandal tiêu biểu trong năm 1924 là chuyện ông bắn chết một người bạn trên du thuyền tại một bữa tiệc sinh nhật vì ghen tuông và vì lầm tưởng anh ta là Charlie Chaplin, danh hề của những phim Charlot. Chaplin đang ái ân vụng trộm với cô đào nổi danh Hollywood, Marion Davies, hiện là nhân tình số một của ông. Nhưng ông không bị điều tra hay kết tội gì về vụ giết người này: dù sao, ông cũng là W.R. Hearst, người vừa giúp Tổng Thống Mỹ Calvin Coolidge đắc cử hai tuần trước đó.
Tôi chắc rằng những nhân vật xã hội của mọi thời vàng son đều có những trải nghiệm và tình huống tương tự. Khi tôi về lại Việt Nam vào 2006, người dân giàu có của xã hội thượng lưu ở đây cũng đầy những mẩu chuyện thú vị hào hứng, pha lẫn giữa sự thực và các tin đồn. Những huyền thoại về Phạm Nhật Vượng, Đoàn Nguyên Đức, Cường Đô La, Đào Hồng Tuyển... chiếm đầy các tít lớn của các tờ báo, tạp chí. Thời vàng son của một chu kỳ mới trong kinh tế vừa nổi của Việt Nam cùng bắt đầu vào thời điểm này.
Trở lại với câu chuyện của Hearst và The Roaring Twenties, lịch sử cho thấy một kết cuộc đáng buồn. Hearst gần như bị phá sản trong cuộc Đại Suy Thoái thập niên 30's và The Roaring Twenties chỉ còn vang vọng trong tiểu thuyết. Một tác giả là bạn thân của Hearst đã viết hồi ký về thời vàng son của Hearst và bạn bè," Chúng tôi đã ăn chơi, nhảy múa không ngừng nghĩ trong những tiệc tùng thâu đêm. Rượu, ma túy, sex và những thị phi làm chúng tôi say sưa không biết mệt. Nhiều người vẫn cảm nhận sự điên cuồng và ngu xuẩn của những vũ điệu Charleston mỗi đêm, nhưng chúng tôi biết rằng, nếu giàn nhạc ngừng chơi, vũ điệu ngừng quay, thì chúng tôi sẽ không có gì... ngoài một trống vắng toàn diện." Thế cho nên, let the good times roll, thời vàng son ơi, hãy tiếp tục trôi.
Hôm nọ, trong đêm giá rét của Hà Nội, tôi ghé vào quán cà phê ở Sheraton Westlake, chợt loáng thoáng nghe lại bài nhạc "Let the good times roll". Nó nhắc tôi về W.R. Hearst và The Roaring Twenties của xứ Mỹ xa xôi. Nó làm tôi tự hỏi chúng ta đã học được gì khi lịch sử tái diễn?
Tìm kiếm Blog này
Thứ Hai, 28 tháng 2, 2011
Lẩm cẩm thiên hạ sự hay là chuyện “bà Ba Sương ở Nông trường Sông Hậu”
Lẩm Cẩm Lão Gia
Năm ngoái (2010), TAND Tối cao đã “ra quyết định hủy 2 bản án đã tuyên với bà Trần Ngọc Sương (cựu giám đốc nông trường Sông Hậu)” bởi vì “việc xét xử mắc thiếu sót, sai lầm nghiêm trọng” (1).
Nếu không có sự phản ứng mạnh mẽ của dư luận khiến VKSND Tối cao vào cuộc thì có lẽ TAND Tối cao đã không có quyết định hủy 2 bản án đã tuyên với bà Ba Sương trên đây.
Bẵng đi một thời gian và hình như dư luận cũng không có thời giờ để quan tâm đến cái bà Ba Sương thân cô thế cô và hay đau yếu này.
Bỗng dưng, ngày 22/2, “Công an TP Cần Thơ đã tổ chức họp báo, công bố kết luận điều tra lại từ đầu vụ án “Lập quỹ trái phép” tại Nông trường Sông Hậu (NTSH). Theo nội dung kết luận của Cơ quan điều tra (CQĐT), số tiền lập quỹ trái phép được xác lập theo điều tra lần này là hơn 10 tỷ đồng, số tiền gây thiệt hại là hơn 5,03 tỷ đồng, cao hơn kết luận điều tra cũ (4,7 tỷ đồng)” (2)!
Cũng theo bài báo trên đây thì “…Sau nhiều tháng điều tra lại, chiều ngày 22/2, đại diện CQĐT công an Cần Thơ thông báo: “Trong quá trình quản lý NTSH, Trần Ngọc Sương và các đồng phạm đã thu các nguồn đưa vào lập quỹ trái phép, để ngoài sổ sách kế toán, không báo cáo tài chính theo quy định… Chi tiêu sử dụng trái nguyên tắc nhiều lần với tổng số tiền lập quỹ 10.135.277.366 đồng; gây thiệt hại 5.053.585.445 đồng…”.
Từ nhận định đó, CQĐT khẳng định: Bà Trần Ngọc Sương chịu trách nhiệm với vai trò đứng đầu, chủ mưu điều hành việc chỉ đạo cấp dưới lập quỹ trái phép và sử dụng gây thiệt hại trên 5 tỷ đồng là “đặc biệt nghiêm trọng”.
Vị đại diện CQĐT còn nhấn mạnh: “Đề nghị khi xét xử, cần phải có bản án thật nghiêm khắc để răn đe,phòng ngừa chung”.”
Hay thật. Lý do chính đã khiến TAND Tối cao đưa ra quyết định hủy 2 bản án đã tuyên với bà Ba là “việc xét xử mắc thiếu sót, sai lầm nghiêm trọng”! Và cũng theo bài báo này thì “...VKSND Tối cao nhận thấy, theo hồ sơ vụ án từ năm 2001 đến 12/2007, bà Sương và một số người đã lấy các nguồn thu của nông trường Sông Hậu để duy trì một số lượng quỹ tiền mặt và chi tiêu để ngoài sổ sách, thu chi tài chính không báo cáo cơ quan chức năng có thẩm quyền là có thật. Tuy nhiên có một số khoản thu chưa đủ cơ sở để xác định là "lập quỹ trái phép".
Một trong số đó là khoản hơn 2,6 tỷ đồng tiền bán 4 lô đất. Theo VKS, về nguồn gốc, các lô đất do giám đốc tiền nhiệm Trần Ngọc Hoằng (bố bà Sương) mua từ năm 1993-1997, tổng cộng gần 250 triệu đồng. Khoản này do ông Hoằng đưa vào quỹ trái phép từ trước khi bà Sương làm giám đốc. Việc tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm quy kết số tiền mua đất này đưa vào quỹ trái phép thuộc trách nhiệm của bà Sương và đồng phạm là không có cơ sở...”
Thế nhưng, theo như cuộc họp báo ngày 22/2 thì “theo nội dung kết luận của Cơ quan điều tra (CQĐT), số tiền lập quỹ trái phép được xác lập theo điều tra lần này là hơn 10 tỷ đồng, số tiền gây thiệt hại là hơn 5,03 tỷ đồng, cao hơn kết luận điều tra cũ (4,7 tỷ đồng)”!
Điều này khẳng định là hai cơ quan VKSND Tối cao và TAND Tối cao đã “mắc sai thiếu sót, sai lầm nghiêm trọng” khi đã “hủy 2 bản án đã tuyên với bà Ba Sương” vào tháng 6 năm 2010!
Quả là bótay.com. Lẩm Cẩm Lão Gia tôi là một lão già dốt đặc cán mai nên không thể nào hiểu được VKSND Tối cao và TAND Tối cao đúng hay là nội dung cuộc họp báo ngày 22/2 của CATP Cần Thơ đúng?!!!
Tuy nhiên, Lẩm Cẩm Lão Gia tôi cũng chả mấy quan tâm chuyện đúng sai ở đây. Bởi vì, ở trong cái xã hội đầy nhiễu nhương hiện nay thì một khi đã vào “tầm ngắm” thì anh chỉ có trách chính anh mà thôi – sinh ra làm chi đúng vào cái xứ “rốn vũ trụ” này!!! Điều mà Lẩm Cẩm Lão Gia tôi quan tâm ở đây là “Vị đại diện CQĐT còn nhấn mạnh: “Đề nghị khi xét xử, cần phải có bản án thật nghiêm khắc để răn đe, phòng ngừa chung”!
Tham nhũng là quốc nạn thì việc nghiêm khắc – thậm chí là tử hình – đối với những tay quan lại tham ô, Lẩm Cẩm Lão Gia tôi tin chắc rằng người dân sẽ “không có nhu cầu phản ứng, hay phản đối” đâu! Thế nhưng, tại sao lại phải “nghiêm khắc” với cái bà Ba Sương trong khi đó những người như ông Tô (hô), ông Huỳnh Ngọc Sĩ, các ông trong vụ PMU, các ông trong vụ tượng đài Điện Biên Phủ thì hình như là bóng dáng của vị thần công lý “nghiêm khắc” chỉ thoáng qua gọi là! Lẩm Cẩm Lão Gia tôi tuy đã lú lẫn nhiều nhưng vẫn còn nhớ như in trong đầu (gối?) những lời vàng ngọc của ông Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng (và cũng xem đó là kim chỉ nam cho phần đời còn lại của mình): -“Cách chức đi, kỷ luật đi”, lấy ai mà làm việc các đồng chí? (3)
Rồi cách đây cũng không lâu, có ông quan to kia bỏ hơn cả triệu đô la để mua mấy cái bảo bối đồ cổ (4). Nhưng rồi cũng chỉ bị “kỷ luật cảnh cáo” mà thôi (5)! Thế thì vì sao mà người ta phải “đuổi tận giết tiệt” với một người đàn bà cả đời đã cống hiến cho Nông trường Sông Hậu? Mà Nông trường Sông Hậu nào đâu phải như con tàu ma Vinashin? Người dân có cơm ăn áo mặc no ấm, cuộc sống no đủ. Có phải vì bà Ba đã cản trở những con cá tra đớp những miếng mồi béo bở của Nông trường Sông Hậu nên kết cục ngày nay của bà Ba là điều có thể thấy trước, biết trước!!!
L. C. L. G.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
(1) Vnexpress.net
(2) Vietnamnet.vn
(3) Tuoitre.vn
(4) Danviet.vn
(5) Tuoitre.vn
Năm ngoái (2010), TAND Tối cao đã “ra quyết định hủy 2 bản án đã tuyên với bà Trần Ngọc Sương (cựu giám đốc nông trường Sông Hậu)” bởi vì “việc xét xử mắc thiếu sót, sai lầm nghiêm trọng” (1).
Nếu không có sự phản ứng mạnh mẽ của dư luận khiến VKSND Tối cao vào cuộc thì có lẽ TAND Tối cao đã không có quyết định hủy 2 bản án đã tuyên với bà Ba Sương trên đây.
Bẵng đi một thời gian và hình như dư luận cũng không có thời giờ để quan tâm đến cái bà Ba Sương thân cô thế cô và hay đau yếu này.
Bỗng dưng, ngày 22/2, “Công an TP Cần Thơ đã tổ chức họp báo, công bố kết luận điều tra lại từ đầu vụ án “Lập quỹ trái phép” tại Nông trường Sông Hậu (NTSH). Theo nội dung kết luận của Cơ quan điều tra (CQĐT), số tiền lập quỹ trái phép được xác lập theo điều tra lần này là hơn 10 tỷ đồng, số tiền gây thiệt hại là hơn 5,03 tỷ đồng, cao hơn kết luận điều tra cũ (4,7 tỷ đồng)” (2)!
Cũng theo bài báo trên đây thì “…Sau nhiều tháng điều tra lại, chiều ngày 22/2, đại diện CQĐT công an Cần Thơ thông báo: “Trong quá trình quản lý NTSH, Trần Ngọc Sương và các đồng phạm đã thu các nguồn đưa vào lập quỹ trái phép, để ngoài sổ sách kế toán, không báo cáo tài chính theo quy định… Chi tiêu sử dụng trái nguyên tắc nhiều lần với tổng số tiền lập quỹ 10.135.277.366 đồng; gây thiệt hại 5.053.585.445 đồng…”.
Từ nhận định đó, CQĐT khẳng định: Bà Trần Ngọc Sương chịu trách nhiệm với vai trò đứng đầu, chủ mưu điều hành việc chỉ đạo cấp dưới lập quỹ trái phép và sử dụng gây thiệt hại trên 5 tỷ đồng là “đặc biệt nghiêm trọng”.
Vị đại diện CQĐT còn nhấn mạnh: “Đề nghị khi xét xử, cần phải có bản án thật nghiêm khắc để răn đe,phòng ngừa chung”.”
Hay thật. Lý do chính đã khiến TAND Tối cao đưa ra quyết định hủy 2 bản án đã tuyên với bà Ba là “việc xét xử mắc thiếu sót, sai lầm nghiêm trọng”! Và cũng theo bài báo này thì “...VKSND Tối cao nhận thấy, theo hồ sơ vụ án từ năm 2001 đến 12/2007, bà Sương và một số người đã lấy các nguồn thu của nông trường Sông Hậu để duy trì một số lượng quỹ tiền mặt và chi tiêu để ngoài sổ sách, thu chi tài chính không báo cáo cơ quan chức năng có thẩm quyền là có thật. Tuy nhiên có một số khoản thu chưa đủ cơ sở để xác định là "lập quỹ trái phép".
Một trong số đó là khoản hơn 2,6 tỷ đồng tiền bán 4 lô đất. Theo VKS, về nguồn gốc, các lô đất do giám đốc tiền nhiệm Trần Ngọc Hoằng (bố bà Sương) mua từ năm 1993-1997, tổng cộng gần 250 triệu đồng. Khoản này do ông Hoằng đưa vào quỹ trái phép từ trước khi bà Sương làm giám đốc. Việc tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm quy kết số tiền mua đất này đưa vào quỹ trái phép thuộc trách nhiệm của bà Sương và đồng phạm là không có cơ sở...”
Thế nhưng, theo như cuộc họp báo ngày 22/2 thì “theo nội dung kết luận của Cơ quan điều tra (CQĐT), số tiền lập quỹ trái phép được xác lập theo điều tra lần này là hơn 10 tỷ đồng, số tiền gây thiệt hại là hơn 5,03 tỷ đồng, cao hơn kết luận điều tra cũ (4,7 tỷ đồng)”!
Điều này khẳng định là hai cơ quan VKSND Tối cao và TAND Tối cao đã “mắc sai thiếu sót, sai lầm nghiêm trọng” khi đã “hủy 2 bản án đã tuyên với bà Ba Sương” vào tháng 6 năm 2010!
Quả là bótay.com. Lẩm Cẩm Lão Gia tôi là một lão già dốt đặc cán mai nên không thể nào hiểu được VKSND Tối cao và TAND Tối cao đúng hay là nội dung cuộc họp báo ngày 22/2 của CATP Cần Thơ đúng?!!!
Tuy nhiên, Lẩm Cẩm Lão Gia tôi cũng chả mấy quan tâm chuyện đúng sai ở đây. Bởi vì, ở trong cái xã hội đầy nhiễu nhương hiện nay thì một khi đã vào “tầm ngắm” thì anh chỉ có trách chính anh mà thôi – sinh ra làm chi đúng vào cái xứ “rốn vũ trụ” này!!! Điều mà Lẩm Cẩm Lão Gia tôi quan tâm ở đây là “Vị đại diện CQĐT còn nhấn mạnh: “Đề nghị khi xét xử, cần phải có bản án thật nghiêm khắc để răn đe, phòng ngừa chung”!
Tham nhũng là quốc nạn thì việc nghiêm khắc – thậm chí là tử hình – đối với những tay quan lại tham ô, Lẩm Cẩm Lão Gia tôi tin chắc rằng người dân sẽ “không có nhu cầu phản ứng, hay phản đối” đâu! Thế nhưng, tại sao lại phải “nghiêm khắc” với cái bà Ba Sương trong khi đó những người như ông Tô (hô), ông Huỳnh Ngọc Sĩ, các ông trong vụ PMU, các ông trong vụ tượng đài Điện Biên Phủ thì hình như là bóng dáng của vị thần công lý “nghiêm khắc” chỉ thoáng qua gọi là! Lẩm Cẩm Lão Gia tôi tuy đã lú lẫn nhiều nhưng vẫn còn nhớ như in trong đầu (gối?) những lời vàng ngọc của ông Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng (và cũng xem đó là kim chỉ nam cho phần đời còn lại của mình): -“Cách chức đi, kỷ luật đi”, lấy ai mà làm việc các đồng chí? (3)
Rồi cách đây cũng không lâu, có ông quan to kia bỏ hơn cả triệu đô la để mua mấy cái bảo bối đồ cổ (4). Nhưng rồi cũng chỉ bị “kỷ luật cảnh cáo” mà thôi (5)! Thế thì vì sao mà người ta phải “đuổi tận giết tiệt” với một người đàn bà cả đời đã cống hiến cho Nông trường Sông Hậu? Mà Nông trường Sông Hậu nào đâu phải như con tàu ma Vinashin? Người dân có cơm ăn áo mặc no ấm, cuộc sống no đủ. Có phải vì bà Ba đã cản trở những con cá tra đớp những miếng mồi béo bở của Nông trường Sông Hậu nên kết cục ngày nay của bà Ba là điều có thể thấy trước, biết trước!!!
L. C. L. G.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
(1) Vnexpress.net
(2) Vietnamnet.vn
(3) Tuoitre.vn
(4) Danviet.vn
(5) Tuoitre.vn
Xăng tăng giá vì dân không có quyền "mặc cả"?
Nguyễn Yến
Xăng tăng giá, người tiêu dùng có thấy công bằng? Ảnh: N.Y
“Đã chấp nhận theo giá thị trường thì chuyện giá tăng, giá giảm là đương nhiên. Nhưng giá thị trường mà không có cạnh tranh, không được mặc cả thì có công bằng với người mua?”.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng, giá xăng, điện tăng theo giá thị trường nhưng lại không có sự cạnh tranh và không có sự thỏa thuận giữa người bán và người mua. Như vậy là "bất bình đẳng" với người tiêu dùng.
Tăng là cần thiết nhưng...
Bình luận về động thái tăng giá xăng lên 19300 đồng/lít vào sáng qua (24/2), các chuyên gia kinh tế đều có chung quan điểm “đây là việc làm cần thiết”.
Ông Võ Trí Thành Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng, lần điều chỉnh giá xăng, điện này thực chất là đưa giá cả quay lại đúng theo cơ chế thị trường, đã được thực hiện từ cuối 2009 đến giữa 2010. Từ cuối năm 2010, do nhiều yếu tố kinh tế - chính trị, Chính phủ đã phải thực hiện các biện pháp kìm giá.
Tuy nhiên, đứng từ góc độ của người tiêu dùng thì quyết định tăng giá xăng lần này, một lần nữa đặt người dân vào thế bị động, lặp lại bản trường ca “Nhà nước tăng giá, dân cứ thế làm theo”.
Người tiêu dùng chấp nhận mua xăng hay điện theo giá thị trường, tức là chấp nhận chuyện tăng và giảm giá. Nhưng tăng, giảm bao nhiêu, người dân có quyền được biết lý do và vì sao lại tăng mức đó. Cụ thể phần giá tăng thêm người dân phải gánh là bao nhiêu? Phần nào tăng thêm là do lỗi của doanh nghiệp?
"Những con số nói "nhà xăng" đang lỗ là do doanh nghiệp và Bộ Tài chính nói"
Ngay sau khi tăng giá xăng, hôm qua, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh cũng đã giải thích trên báo chí, ngành xăng dầu cho đến nay đã lỗ 16,4 nghìn tỷ đồng, nếu điều chỉnh đủ thì giá xăng phải tăng khoảng 34-45%, tức là tăng 6.500 đồng/lít so với mức giá hiện nay.
Tuy nhiên, theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, những con số được đưa ra vẫn chỉ do phía Bộ Tài Chính nói và các doanh nghiệp xăng dầu kêu lỗ. Còn người tiêu dùng, vẫn không biết được mức tăng như vậy có hợp lý không và các doanh nghiệp xăng dầu vẫn đang phải bù lỗ cho mình hay không.
“Các doanh nghiệp cứ kêu lỗ, rồi được Nhà nước chấp nhận mức tăng giá để bù lỗ, và người dân thì mặc nhiên phải mua theo giá mới đó”, bà Lan bày tỏ.
Nhà nước và người dân cùng chia sẻ khó khăn, nhưng phải công khai, minh bạch về thông tin, ví dụ như giá mới đó được hình thành trên cơ sở nào, nhà nước bù lỗ bao nhiêu, dân gánh bao nhiêu.
“Nếu thông tin minh bạch như các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán thì người dân chắc chắn sẽ không bao giờ bị “sốc” vì tăng giá”, bà Lan nhấn mạnh.
Giá thị trường nhưng không được mặc cả
Đó là thực trạng mà người tiêu dùng Việt Nam vẫn đang hàng ngày, hàng giờ phải sống chung. Giá điện, giá xăng theo định hướng là phát triển theo giá thị trường. Nhưng thực tế ở VN, nhiều chuyên gia kinh tế nhận định, điện và xăng về cơ bản vẫn mang tính độc quyền. Điều đó cũng có nghĩa là không có cạnh tranh, người tiêu dùng không có quyền lựa chọn dịch vụ và kéo theo đó là không thể “mặc cả” về giá được.
Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long lấy dẫn chứng, theo quy định thì một doanh nghiệp được xem là độc quyền nếu chiếm trên 50% thị phần. Hiện Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam Petrolimex là đầu mối xăng dầu lớn nhất trên thị trường, lại đang chiếm hơn 60% thị phần bán lẻ xăng dầu trong cả nước, như vậy về “lý” doanh nghiệp này đang độc quyền. 30% thị phần còn lại được chia cho hơn 10 doanh nghiệp khác. Nhưng chỉ cần Petrolimex tăng hoặc giảm giá bán lẻ, các doanh nghiệp khác không thể không theo.
Thị trường là nơi người bán, người mua, có quyền như nhau. Ở VN, mặc dù doanh nghiệp luôn nói “khách hàng là thượng đế”, nhưng thực tế, người tiêu dùng lại đang bị áp đặt giá.
“Muốn có giá thị trường theo đúng nghĩa người dân được hưởng lợi thì phải phá thế độc quyền. Tức là người tiêu dùng được quyền lựa chọn doanh nghiệp bán xăng rẻ nhất cho mình và thỏa thuận về mức giá đó”, bà Lan nói.
Mặt khác, theo bà Lan, việc độc quyền giá xăng, giá điện sẽ gây ức chế lớn cho người tiêu dùng vì không giống như một chén nước chè, nếu không uống ngoài quán, thì có thể về nhà tự đun để uống. Điện và xăng nếu không mua thì người dân cũng không biết lấy ở đâu về dùng. Vì vậy, mặc dù tăng giá nhưng ai cũng vẫn phải dùng.
"Nhà" điện, "nhà" xăng đã bớt chi phí để giảm lỗ chưa?
Bên cạnh đó, đã là giá thị trường thì phải có những cam kết, giải trình kèm theo. Ví dụ như khi giá lên, người dân chấp nhận móc hầu bao nhiều hơn, nhưng bù lại doanh nghiệp cũng phải có trách nhiệm đưa ra phương án làm gì để giảm lỗ, giảm giá thành, chứ không nên chỉ đẩy một chiều vào người tiêu dùng.
Đồng thời, giá tăng phải xác định rõ nguyên nhân, nếu là lỗi do ngành điện như: làm thất thoát điện nhiều, chi phí quản lý và chi phí nhân lực lớn, cách thức đầu tư bất ổn, kéo dài thời gian thi công công trình, chất lượng thì công kém, dẫn đến việc nhiều nhà máy chưa hoàn thành đã hư hỏng, đội giá lên cao so với dự toán ban đầu, thì ngành điện phải chịu, chứ không thể để người dân gánh phần chi phí này.
Còn người tiêu dùng trả rẻ, không thể đầu tư mở rộng sản xuất được, thì việc tăng giá đó là hợp lý, người dân chắc cũng dễ chấp nhận.
Đồng tình với quan điểm trên, ông Võ Trí Thành cũng nhấn mạnh: “Doanh nghiệp không nên chỉ biết tăng giá, mà nên cho người tiêu dùng thấy những nỗ lực cắt giảm chi phí của mình để người dân tin và yên tâm hơn với số tiền mình đã phải bỏ ra”.
N. Y.
Nguồn: bee.net.vn
Xăng tăng giá, người tiêu dùng có thấy công bằng? Ảnh: N.Y
“Đã chấp nhận theo giá thị trường thì chuyện giá tăng, giá giảm là đương nhiên. Nhưng giá thị trường mà không có cạnh tranh, không được mặc cả thì có công bằng với người mua?”.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng, giá xăng, điện tăng theo giá thị trường nhưng lại không có sự cạnh tranh và không có sự thỏa thuận giữa người bán và người mua. Như vậy là "bất bình đẳng" với người tiêu dùng.
Tăng là cần thiết nhưng...
Bình luận về động thái tăng giá xăng lên 19300 đồng/lít vào sáng qua (24/2), các chuyên gia kinh tế đều có chung quan điểm “đây là việc làm cần thiết”.
Ông Võ Trí Thành Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng, lần điều chỉnh giá xăng, điện này thực chất là đưa giá cả quay lại đúng theo cơ chế thị trường, đã được thực hiện từ cuối 2009 đến giữa 2010. Từ cuối năm 2010, do nhiều yếu tố kinh tế - chính trị, Chính phủ đã phải thực hiện các biện pháp kìm giá.
Tuy nhiên, đứng từ góc độ của người tiêu dùng thì quyết định tăng giá xăng lần này, một lần nữa đặt người dân vào thế bị động, lặp lại bản trường ca “Nhà nước tăng giá, dân cứ thế làm theo”.
Người tiêu dùng chấp nhận mua xăng hay điện theo giá thị trường, tức là chấp nhận chuyện tăng và giảm giá. Nhưng tăng, giảm bao nhiêu, người dân có quyền được biết lý do và vì sao lại tăng mức đó. Cụ thể phần giá tăng thêm người dân phải gánh là bao nhiêu? Phần nào tăng thêm là do lỗi của doanh nghiệp?
"Những con số nói "nhà xăng" đang lỗ là do doanh nghiệp và Bộ Tài chính nói"
Ngay sau khi tăng giá xăng, hôm qua, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh cũng đã giải thích trên báo chí, ngành xăng dầu cho đến nay đã lỗ 16,4 nghìn tỷ đồng, nếu điều chỉnh đủ thì giá xăng phải tăng khoảng 34-45%, tức là tăng 6.500 đồng/lít so với mức giá hiện nay.
Tuy nhiên, theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, những con số được đưa ra vẫn chỉ do phía Bộ Tài Chính nói và các doanh nghiệp xăng dầu kêu lỗ. Còn người tiêu dùng, vẫn không biết được mức tăng như vậy có hợp lý không và các doanh nghiệp xăng dầu vẫn đang phải bù lỗ cho mình hay không.
“Các doanh nghiệp cứ kêu lỗ, rồi được Nhà nước chấp nhận mức tăng giá để bù lỗ, và người dân thì mặc nhiên phải mua theo giá mới đó”, bà Lan bày tỏ.
Nhà nước và người dân cùng chia sẻ khó khăn, nhưng phải công khai, minh bạch về thông tin, ví dụ như giá mới đó được hình thành trên cơ sở nào, nhà nước bù lỗ bao nhiêu, dân gánh bao nhiêu.
“Nếu thông tin minh bạch như các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán thì người dân chắc chắn sẽ không bao giờ bị “sốc” vì tăng giá”, bà Lan nhấn mạnh.
Giá thị trường nhưng không được mặc cả
Đó là thực trạng mà người tiêu dùng Việt Nam vẫn đang hàng ngày, hàng giờ phải sống chung. Giá điện, giá xăng theo định hướng là phát triển theo giá thị trường. Nhưng thực tế ở VN, nhiều chuyên gia kinh tế nhận định, điện và xăng về cơ bản vẫn mang tính độc quyền. Điều đó cũng có nghĩa là không có cạnh tranh, người tiêu dùng không có quyền lựa chọn dịch vụ và kéo theo đó là không thể “mặc cả” về giá được.
Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long lấy dẫn chứng, theo quy định thì một doanh nghiệp được xem là độc quyền nếu chiếm trên 50% thị phần. Hiện Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam Petrolimex là đầu mối xăng dầu lớn nhất trên thị trường, lại đang chiếm hơn 60% thị phần bán lẻ xăng dầu trong cả nước, như vậy về “lý” doanh nghiệp này đang độc quyền. 30% thị phần còn lại được chia cho hơn 10 doanh nghiệp khác. Nhưng chỉ cần Petrolimex tăng hoặc giảm giá bán lẻ, các doanh nghiệp khác không thể không theo.
Thị trường là nơi người bán, người mua, có quyền như nhau. Ở VN, mặc dù doanh nghiệp luôn nói “khách hàng là thượng đế”, nhưng thực tế, người tiêu dùng lại đang bị áp đặt giá.
“Muốn có giá thị trường theo đúng nghĩa người dân được hưởng lợi thì phải phá thế độc quyền. Tức là người tiêu dùng được quyền lựa chọn doanh nghiệp bán xăng rẻ nhất cho mình và thỏa thuận về mức giá đó”, bà Lan nói.
Mặt khác, theo bà Lan, việc độc quyền giá xăng, giá điện sẽ gây ức chế lớn cho người tiêu dùng vì không giống như một chén nước chè, nếu không uống ngoài quán, thì có thể về nhà tự đun để uống. Điện và xăng nếu không mua thì người dân cũng không biết lấy ở đâu về dùng. Vì vậy, mặc dù tăng giá nhưng ai cũng vẫn phải dùng.
"Nhà" điện, "nhà" xăng đã bớt chi phí để giảm lỗ chưa?
Bên cạnh đó, đã là giá thị trường thì phải có những cam kết, giải trình kèm theo. Ví dụ như khi giá lên, người dân chấp nhận móc hầu bao nhiều hơn, nhưng bù lại doanh nghiệp cũng phải có trách nhiệm đưa ra phương án làm gì để giảm lỗ, giảm giá thành, chứ không nên chỉ đẩy một chiều vào người tiêu dùng.
Đồng thời, giá tăng phải xác định rõ nguyên nhân, nếu là lỗi do ngành điện như: làm thất thoát điện nhiều, chi phí quản lý và chi phí nhân lực lớn, cách thức đầu tư bất ổn, kéo dài thời gian thi công công trình, chất lượng thì công kém, dẫn đến việc nhiều nhà máy chưa hoàn thành đã hư hỏng, đội giá lên cao so với dự toán ban đầu, thì ngành điện phải chịu, chứ không thể để người dân gánh phần chi phí này.
Còn người tiêu dùng trả rẻ, không thể đầu tư mở rộng sản xuất được, thì việc tăng giá đó là hợp lý, người dân chắc cũng dễ chấp nhận.
Đồng tình với quan điểm trên, ông Võ Trí Thành cũng nhấn mạnh: “Doanh nghiệp không nên chỉ biết tăng giá, mà nên cho người tiêu dùng thấy những nỗ lực cắt giảm chi phí của mình để người dân tin và yên tâm hơn với số tiền mình đã phải bỏ ra”.
N. Y.
Nguồn: bee.net.vn
Bão giá quật vào mọi gia đình
Nam Nguyên, phóng viên RFA
Photo by Tyler Chapman/RFA
Lạm phát tăng vật giá đã trở thành câu chuyện của mọi người mọi nhà, cơn bão giá đã đẩy lùi những thông tin dồn dập về cách mạng hoa lài từ Trung Đông đang mon men sang Châu Á.
Chóng mặt các bà nội trợ
VnExpress ngày 24/2 trích lời Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên nói với bà nhà rằng mọi người phải tính toán cho phù hợp. Ông Kiên đã đáp lời như thế khi nội tướng than phiền bây giờ cầm 100.000 đồng đi chợ chẳng mua được gì. Nhận định của ông Phó chủ tịch Quốc hội rất thẳng thắn:“Bài toán lạm phát giờ đây đã trở thành câu chuyện của mọi gia đình.”
Cũng như phu nhân Phó chủ tịch Quốc hội, một bà nội trợ ở TP.HCM cũng bị bão giá làm cho chóng mặt. Nhận xét của một cư dân bình thường được chúng tôi ghi nhận sau khi giá xăng tăng quá cao so với ước đoán:
“Đang ngồi xem thời sự TV thấy các ông bà ấy nói là tìm đủ mọi biện pháp để kềm giá, nhưng nói là một chuyện còn thực tế xăng mà lên, điện mà lên như thế thì đương nhiên tất cả mọi thứ nó phải lên.
Người dân làm thế nào được bây giờ, không chịu cũng phải chịu. Tâm lý chung ai người ta cũng tặc lưỡi lên thì lên chứ mình làm được cái gì, thay vì ăn năm miếng bây giờ ăn hai, ba miếng thôi. Coi như là cái tâm trạng của sự cam chịu thôi chứ làm thế nào bây giờ.”
Một quầy bán rau ở chợ Gò Vấp, ảnh chụp tháng 2/2011. RFA photo.
Nếu như bão giá ập vào nhà mọi gia đình, thì cũng như Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên, ông Nguyễn Văn Thanh Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Vận tải Ô tô đã làm công tác tư tưởng với bà xã:
“Lạm phát động đến đầu tiên là các bà nội trợ nhậy cảm nhất, bởi vì nó đến tức khắc, bà vợ tôi thì cũng phải điều chỉnh tiết kiệm hơn mua sắm những gì tối cần thiết thôi.”
Dù đã tiên đoán trước nhưng doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, đại lý và cả người tiêu dùng không thể ngờ được mức tăng giá nhiều đến thế. mỗi lít xăng tăng giá gần 3.000đ thành 19.300đ. Với mức tăng giá này ngành vận tải đường bộ sẽ phải nhanh chóng tăng giá cước, từ xe tải, xe đò, xe buýt cho tới taxi và thậm chí cánh xe ôm.
Từ Hà Nội chiều tối 24/2, ông Nguyễn Văn Thanh, Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Vận tải Ô tô Việt Nam phát biểu với chúng tôi là có thể phải tăng giá cước khoảng 10%, nhưng nói chung còn chờ tính toán và làm thủ tục mất vài ngày.
Lạm phát động đến đầu tiên là các bà nội trợ nhậy cảm nhất, bởi vì nó đến tức khắc, bà vợ tôi thì cũng phải điều chỉnh tiết kiệm hơn mua sắm những gì tối cần thiết thôi.
PCT TTHH Vận tải Ô tô Nguyễn Văn Thanh
“Xu thế như vậy thì dù thế nào cũng phải tăng, nhưng xăng tăng tới gần 20% thì cũng là điều bất ngờ. Theo như ông Bộ trưởng Tài chính trả lời phỏng vấn nói là đúng ra xăng dầu phải tăng tới mấy chục phần trăm thì chúng tôi cũng chả hiểu số liệu này ở đâu ra.
Đương nhiên giá cước sẽ phải điều chỉnh vấn đề là sẽ điều chỉnh ở thời điểm nào. Doanh nghiệp không thể vừa tăng giá xăng dầu trong chốc lát là có thể điều chỉnh được giá cước ngay.”
Lạm phát tăng vật giá đã làm chính phủ Việt Nam bối rối, Theo Tuổi Trẻ Online ngày 24/2 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã từ Hà Nội chủ trì hội nghị trực tuyến với 63 địa phương triển khai nghị quyết của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát.
Trong hội nghị, ông Vũ Văn Ninh Bộ trưởng Tài chính biện giải cho quyết định tăng giá xăng dầu và điện trong bối cảnh lạm phát tăng cao. Ông cho biết mức tăng giá xăng dầu vẫn là chưa đi theo giá thị trường thế giới mà chỉ từng bước thực hiện lộ trình.
Theo ông Ninh nếu điều chỉnh theo đúng giá thị trường thì xăng phải tăng giá từ 34%-40% giá hiện hành. Riêng về điện, Bộ trưởng Tài chính ước tính để áp dụng giá theo cơ chế thị trường thì giá điện sẽ phải tăng 62% thay vì 15%. Ngành điện bị lỗ 28.000 tỷ đồng trong năm ngoái và số lỗ này sẽ lên tới 57.000 tỷ đồng nếu tính đến hết năm nay.
Một cây xăng ở Hà Nội hôm 21-7-2008. RFA file photo.
Vẫn theo Tuổi Trẻ Online, phát biểu tại Hội nghị Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định nhiệm vụ trọng tâm hiện nay của cả nước là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì được sản xuất và an sinh xã hội. Thủ tướng chỉ đạo thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ thận trọng, kiểm soát tăng trưởng tín dụng dưới 20%, ưu tiên tín dụng cho sản xuất nông nghiệp công nghiệp phụ trợ. Người đứng đầu chính phủ Việt Nam lần đầu tiên nói tới nguyên tắc điều hành minh bạch cụ thể. Cùng với việc kiềm chế lạm phát, phải giảm dần lãi suất theo hướng hợp lý, coi lãi suất là một trong những công cụ kiềm chế lạm phát.
Một điểm đáng chú ý, để giảm thiểu tình trạng khan hiếm ngoại tệ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo các Tập đoàn Kinh tế, Tổng Công ty Nhà nước dứt khoát phải bán hết số ngoại tệ đang có cho Ngân hàng. Thủ tướng muốn lệnh của ông phải được thi hành ngay sau khi Hội nghị trực tuyến kết thúc. Người đứng đầu chính phủ xác định phải thực hiện được mục tiêu tăng thu từ 7-8%, tiết kiệm chi tiêu 10%, dứt khoát phải giảm bội chi xuống dưới 5%, xem giảm bội chi là giảm cầu giảm lạm phát.
Thắt lưng buộc bụng
Bên cạnh đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận định, mức giá nông sản tăng cao, đây là thời điểm tốt để thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp, góp phần cải thiện đời sống nhân dân.
Trong cuộc phỏng vấn của chúng tôi, ông Nguyễn Trí Ngọc Cục trưởng Cục trồng trọt Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn nhìn nhận là giá vật tư nông nghiệp đầu vào đang tăng theo tỷ giá tiền đồng và đô la Mỹ, cũng như mặt bằng giá hàng hóa trên thế giới. Tuy vậy Ông Nguyễn Trí Ngọc nhận định là chính phủ chỉ đạo bảo đảm lợi nhuận cho nông dân trồng lúa.
...tôi nói với vợ con phải ráng thắt lưng buộc bụng tiết kiệm được phần nào thì nên tiết kiệm chứ bây giờ không phải như hồi xưa muốn mua gì mua, ...
Một nông dân ĐBSCL
“Hiện nay lúa của đồng bằng sông Cửu Long chúng tôi đang thu hoạch. Giá lúa 5.500đ tới 6.000đ/kg với giá đầu vào hiện nay thì người nông dân cũng có lợi nhuận 30% so với giá thành sản xuất.”
Chúng tôi hỏi chuyện một nông dân đồng bằng sông Cửu Long về sự kiện giá lúa cao, giá cá tra cũng tăng, tương ứng giá thành sản xuất, như vậy có thể xem là nước lên thuyền lên hay không. Người nông dân lập tức biểu lộ thái độ bất bình:
“Nhà nước mình nói thì hay lắm, mấy ổng chưa đi xuống tới vùng sâu vùng xa, thực tế dân bây giờ khổ lắm. Lúa bây giờ bán 5.700đ-5,800đ/ kg thì đâu có lời bao nhiêu so với giá phân lên quá trời.
Đối với nông dân tất cả mọi mặt hàng đều lên giá hết, tôi nói với vợ con phải ráng thắt lưng buộc bụng tiết kiệm được phần nào thì nên tiết kiệm chứ bây giờ không phải như hồi xưa muốn mua gì mua, đi chợ lấy 500 ngàn hết tiền mà chưa đầy giỏ.”
Nông dân Việt Nam thu hoạch lúa mùa. AFP photo/Hoang Dinh Nam.
Trên các báo mạng mà chúng tôi xem được, trong hội nghị trực tuyến 24/2 không thấy Thủ tướng Việt Nam kêu gọi nhân dân tiết kiệm thắt lưng buộc bụng để tồn tại với lạm phát tăng vật giá. Có lẽ ông Nguyễn Tấn Dũng là người đứng đầu chính phủ đầy may mắn vì nhân dân của ông, đều đã tự thắt lưng buộc bụng với sức chịu đựng phi thường.
Việt Nam là một quốc gia với những bối cảnh đầy mâu thuẫn, được đánh giá cao về bảo đảm an ninh lương thực, sớm vượt qua khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nhưng các chuyên gia thì lại nhíu mày vì như phát biểu của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên trên VnExpress: “Chính phủ để chỉ số vật giá, lạm phát tăng gần gấp đôi tăng trưởng kinh tế là một thách thức trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ mục tiêu của năm 2011.”
]N. N.
Nguồn: rfa.org
Photo by Tyler Chapman/RFA
Lạm phát tăng vật giá đã trở thành câu chuyện của mọi người mọi nhà, cơn bão giá đã đẩy lùi những thông tin dồn dập về cách mạng hoa lài từ Trung Đông đang mon men sang Châu Á.
Chóng mặt các bà nội trợ
VnExpress ngày 24/2 trích lời Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên nói với bà nhà rằng mọi người phải tính toán cho phù hợp. Ông Kiên đã đáp lời như thế khi nội tướng than phiền bây giờ cầm 100.000 đồng đi chợ chẳng mua được gì. Nhận định của ông Phó chủ tịch Quốc hội rất thẳng thắn:“Bài toán lạm phát giờ đây đã trở thành câu chuyện của mọi gia đình.”
Cũng như phu nhân Phó chủ tịch Quốc hội, một bà nội trợ ở TP.HCM cũng bị bão giá làm cho chóng mặt. Nhận xét của một cư dân bình thường được chúng tôi ghi nhận sau khi giá xăng tăng quá cao so với ước đoán:
“Đang ngồi xem thời sự TV thấy các ông bà ấy nói là tìm đủ mọi biện pháp để kềm giá, nhưng nói là một chuyện còn thực tế xăng mà lên, điện mà lên như thế thì đương nhiên tất cả mọi thứ nó phải lên.
Người dân làm thế nào được bây giờ, không chịu cũng phải chịu. Tâm lý chung ai người ta cũng tặc lưỡi lên thì lên chứ mình làm được cái gì, thay vì ăn năm miếng bây giờ ăn hai, ba miếng thôi. Coi như là cái tâm trạng của sự cam chịu thôi chứ làm thế nào bây giờ.”
Một quầy bán rau ở chợ Gò Vấp, ảnh chụp tháng 2/2011. RFA photo.
Nếu như bão giá ập vào nhà mọi gia đình, thì cũng như Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên, ông Nguyễn Văn Thanh Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Vận tải Ô tô đã làm công tác tư tưởng với bà xã:
“Lạm phát động đến đầu tiên là các bà nội trợ nhậy cảm nhất, bởi vì nó đến tức khắc, bà vợ tôi thì cũng phải điều chỉnh tiết kiệm hơn mua sắm những gì tối cần thiết thôi.”
Dù đã tiên đoán trước nhưng doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, đại lý và cả người tiêu dùng không thể ngờ được mức tăng giá nhiều đến thế. mỗi lít xăng tăng giá gần 3.000đ thành 19.300đ. Với mức tăng giá này ngành vận tải đường bộ sẽ phải nhanh chóng tăng giá cước, từ xe tải, xe đò, xe buýt cho tới taxi và thậm chí cánh xe ôm.
Từ Hà Nội chiều tối 24/2, ông Nguyễn Văn Thanh, Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Vận tải Ô tô Việt Nam phát biểu với chúng tôi là có thể phải tăng giá cước khoảng 10%, nhưng nói chung còn chờ tính toán và làm thủ tục mất vài ngày.
Lạm phát động đến đầu tiên là các bà nội trợ nhậy cảm nhất, bởi vì nó đến tức khắc, bà vợ tôi thì cũng phải điều chỉnh tiết kiệm hơn mua sắm những gì tối cần thiết thôi.
PCT TTHH Vận tải Ô tô Nguyễn Văn Thanh
“Xu thế như vậy thì dù thế nào cũng phải tăng, nhưng xăng tăng tới gần 20% thì cũng là điều bất ngờ. Theo như ông Bộ trưởng Tài chính trả lời phỏng vấn nói là đúng ra xăng dầu phải tăng tới mấy chục phần trăm thì chúng tôi cũng chả hiểu số liệu này ở đâu ra.
Đương nhiên giá cước sẽ phải điều chỉnh vấn đề là sẽ điều chỉnh ở thời điểm nào. Doanh nghiệp không thể vừa tăng giá xăng dầu trong chốc lát là có thể điều chỉnh được giá cước ngay.”
Lạm phát tăng vật giá đã làm chính phủ Việt Nam bối rối, Theo Tuổi Trẻ Online ngày 24/2 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã từ Hà Nội chủ trì hội nghị trực tuyến với 63 địa phương triển khai nghị quyết của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát.
Trong hội nghị, ông Vũ Văn Ninh Bộ trưởng Tài chính biện giải cho quyết định tăng giá xăng dầu và điện trong bối cảnh lạm phát tăng cao. Ông cho biết mức tăng giá xăng dầu vẫn là chưa đi theo giá thị trường thế giới mà chỉ từng bước thực hiện lộ trình.
Theo ông Ninh nếu điều chỉnh theo đúng giá thị trường thì xăng phải tăng giá từ 34%-40% giá hiện hành. Riêng về điện, Bộ trưởng Tài chính ước tính để áp dụng giá theo cơ chế thị trường thì giá điện sẽ phải tăng 62% thay vì 15%. Ngành điện bị lỗ 28.000 tỷ đồng trong năm ngoái và số lỗ này sẽ lên tới 57.000 tỷ đồng nếu tính đến hết năm nay.
Một cây xăng ở Hà Nội hôm 21-7-2008. RFA file photo.
Vẫn theo Tuổi Trẻ Online, phát biểu tại Hội nghị Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định nhiệm vụ trọng tâm hiện nay của cả nước là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì được sản xuất và an sinh xã hội. Thủ tướng chỉ đạo thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ thận trọng, kiểm soát tăng trưởng tín dụng dưới 20%, ưu tiên tín dụng cho sản xuất nông nghiệp công nghiệp phụ trợ. Người đứng đầu chính phủ Việt Nam lần đầu tiên nói tới nguyên tắc điều hành minh bạch cụ thể. Cùng với việc kiềm chế lạm phát, phải giảm dần lãi suất theo hướng hợp lý, coi lãi suất là một trong những công cụ kiềm chế lạm phát.
Một điểm đáng chú ý, để giảm thiểu tình trạng khan hiếm ngoại tệ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo các Tập đoàn Kinh tế, Tổng Công ty Nhà nước dứt khoát phải bán hết số ngoại tệ đang có cho Ngân hàng. Thủ tướng muốn lệnh của ông phải được thi hành ngay sau khi Hội nghị trực tuyến kết thúc. Người đứng đầu chính phủ xác định phải thực hiện được mục tiêu tăng thu từ 7-8%, tiết kiệm chi tiêu 10%, dứt khoát phải giảm bội chi xuống dưới 5%, xem giảm bội chi là giảm cầu giảm lạm phát.
Thắt lưng buộc bụng
Bên cạnh đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận định, mức giá nông sản tăng cao, đây là thời điểm tốt để thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp, góp phần cải thiện đời sống nhân dân.
Trong cuộc phỏng vấn của chúng tôi, ông Nguyễn Trí Ngọc Cục trưởng Cục trồng trọt Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn nhìn nhận là giá vật tư nông nghiệp đầu vào đang tăng theo tỷ giá tiền đồng và đô la Mỹ, cũng như mặt bằng giá hàng hóa trên thế giới. Tuy vậy Ông Nguyễn Trí Ngọc nhận định là chính phủ chỉ đạo bảo đảm lợi nhuận cho nông dân trồng lúa.
...tôi nói với vợ con phải ráng thắt lưng buộc bụng tiết kiệm được phần nào thì nên tiết kiệm chứ bây giờ không phải như hồi xưa muốn mua gì mua, ...
Một nông dân ĐBSCL
“Hiện nay lúa của đồng bằng sông Cửu Long chúng tôi đang thu hoạch. Giá lúa 5.500đ tới 6.000đ/kg với giá đầu vào hiện nay thì người nông dân cũng có lợi nhuận 30% so với giá thành sản xuất.”
Chúng tôi hỏi chuyện một nông dân đồng bằng sông Cửu Long về sự kiện giá lúa cao, giá cá tra cũng tăng, tương ứng giá thành sản xuất, như vậy có thể xem là nước lên thuyền lên hay không. Người nông dân lập tức biểu lộ thái độ bất bình:
“Nhà nước mình nói thì hay lắm, mấy ổng chưa đi xuống tới vùng sâu vùng xa, thực tế dân bây giờ khổ lắm. Lúa bây giờ bán 5.700đ-5,800đ/ kg thì đâu có lời bao nhiêu so với giá phân lên quá trời.
Đối với nông dân tất cả mọi mặt hàng đều lên giá hết, tôi nói với vợ con phải ráng thắt lưng buộc bụng tiết kiệm được phần nào thì nên tiết kiệm chứ bây giờ không phải như hồi xưa muốn mua gì mua, đi chợ lấy 500 ngàn hết tiền mà chưa đầy giỏ.”
Nông dân Việt Nam thu hoạch lúa mùa. AFP photo/Hoang Dinh Nam.
Trên các báo mạng mà chúng tôi xem được, trong hội nghị trực tuyến 24/2 không thấy Thủ tướng Việt Nam kêu gọi nhân dân tiết kiệm thắt lưng buộc bụng để tồn tại với lạm phát tăng vật giá. Có lẽ ông Nguyễn Tấn Dũng là người đứng đầu chính phủ đầy may mắn vì nhân dân của ông, đều đã tự thắt lưng buộc bụng với sức chịu đựng phi thường.
Việt Nam là một quốc gia với những bối cảnh đầy mâu thuẫn, được đánh giá cao về bảo đảm an ninh lương thực, sớm vượt qua khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nhưng các chuyên gia thì lại nhíu mày vì như phát biểu của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên trên VnExpress: “Chính phủ để chỉ số vật giá, lạm phát tăng gần gấp đôi tăng trưởng kinh tế là một thách thức trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ mục tiêu của năm 2011.”
]N. N.
Nguồn: rfa.org
Phát biểu của GS Tương Lai tại Hội nghị Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam
Bài phát biểu sau đây của giáo sư Tương Lai được đọc trong một hội nghị của Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam cách đây hơn hai năm nhưng vẫn còn nguyên giá trị thời sự. Vì thế chúng tôi trân trọng đăng lại để chúng ta cùng ngẫm nghĩ về hiện tình đất nước.
Bauxite Việt Nam
Cũng như mọi năm, tại Hội nghị Ủy ban trung ương MTTQVN lần này, tôi xin được phát biểu ý kiến, và lần này tôi xin nêu ý kiến về hai vấn đề.
Vấn đề thứ nhất: Diễn đàn của Mặt trận là một diễn đàn rộng rãi nhất, cởi mở nhất của nước ta hiện nay. Tại đây, làm sao qui tụ được trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân, thiết tha với vận mệnh dân tộc, không phân biệt quá khứ, tôn giáo tín ngưỡng, ý thức hệ, là đòi hỏi của đất nước trong giai đoạn lịch sử mới. Những ý kiến đó có thể trái tai với những cá nhân nào đó, cho dù đang ở cương vị nào, nhưng miễn là ý kiến ấy xuất phát từ một động cơ trong sáng vì nước, vì dân thì rất cần khuyến khích phát biểu. Có như vậy thì Mặt trận mới thực hiện chức năng cao cả của nó là một tổ chức chính trị rộng lớn nhất, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước, chứ không chỉ là một tổ chức hoạt động từ thiện, xóa đói giảm nghèo, mặc dầu hoạt động này trong thời gian qua đã có đóng góp rất lớn và thiết thực, cần được tiếp tục phát huy.
Văn kiện Đại hội X của Đảng cộng sản Việt Nam đã ghi rõ: "Ở đâu có dân chủ, ở đó có đoàn kết, đồng thuận và phát triển" ( tr.344). Tạo điều kiện, tạo môi trường để phát huy dân chủ thực sự phải là một chức năng chủ yếu của Mặt trận, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi mà tiến trình phát triển đất nước và hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, đòi hỏi phải quy tụ được sức mạnh của toàn dân tộc, trước hết là sức mạnh trí tuệ của người Việt nam, tạo nên được một sự đồng thuận mới, là một nhu cầu của chính sự phát triển và hội nhập ấy. Muốn quy tụ được hiền tài để cùng nhau gánh vác sự nghiệp của đất nước thì phải thật lòng đoàn kết. Có thật lòng đoàn kết mới có dân chủ thực sự. Chất lượng của khối đại đoàn kết dân tộc được nâng cao đến đâu thì việc thực hành dân chủ tiến triển được đến đó. Sức nam châm có lực hút hiền tài là thái độ chân thành thật lòng đoàn kết được thể hiện rõ ràng gắn liền với độ rộng mở của dân chủ thực sự trong việc tạo ra môi trường thuận lợi để cho những tài năng thật sự có thể phát huy. Đúng là "phải thật sự công tâm, khách quan và đặc biệt là phải thực sự dân chủ; vì không dân chủ, hay chỉ dân chủ hình thức thì không chọn được người tài" như sự khẳng định của người đứng đầu Chính phủ trong cuộc đối thoại trực tuyến đầu năm ngoái.
Khi vị thế của Việt Nam đang được nâng cao, thì năng lực và kinh nghiệm để đảm trách những hoạt động quốc tế, trên thương trường cũng như trên chính trường, là những đòi hỏi bức xúc. Để đáp ứng đòi hỏi đó thì việc thật lòng đoàn kết và thực sự dân chủ là điều kiện tiên quyết để mời gọi những hiền tài, những chuyên gia giỏi trong và ngoài nước, tự nguyện tham gia cùng gánh vác công việc khó khăn đó. Người làm công tác Mặt trận phải thấu triệt vai trò lớn lao quy tụ hiền tài của tổ chức chính trị lớn nhất trong hệ thống chính trị của cả nước. Để làm được điều đó, người làm công tác Mặt trận phải có chính tâm và có hiểu biết.
Về chính tâm, xin dẫn lời người xưa. Sách Luận ngữ, thiên Nhan Uyên có chép chuyện Quý Khang tử hỏi Khổng Tử về chính trị. Khổng Tử đáp: "Chính trị là chính đính. Ông cai trị dân một cách chính đính thì ai dám không chính đính". Trả lời Ai Công về cách cai trị để dân nghe theo, Khổng Tử chỉ nói một điều: "Đề cử người ngay thẳng lên trên người cong queo thì dân phục tùng, đề cử người cong queo lên trên người ngay thẳng thì dân bất phục". Mà để làm được điều đó thì ngoài sự chính tâm, cần phải có hiếu biết.
Câu nói nổi tiếng của Khổng Tử về sự hiểu biết và cách học để có sự hiểu biết đó là một đúc kết có giá trị vĩnh cữu. Giá trị vĩnh cửu ấy càng tăng thêm trong điều kiện của thời đại kinh tế tri thức và nền văn minh trí tuệ của thế kỷ XXI: "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã". Biết điều gì thì nhận là biết, không biết thì nhận không biết, như vậy chính là biết.
Trong nhận thức của tôi, qua mấy nhiệm kỳ tham gia vào UBTƯMTTQ từ năm 1983 đến nay, tôi nghiệm ra rằng, làm công tác Mặt trận vừa rất dễ, vừa rất khó. Dễ thì như loại tôi, mỗi năm cố gắng suy nghĩ để có được một bài phát biểu và rồi xuân thu nhị kỳ có đôi lần họp Hội đồng tư vấn. Hoặc như một số cán bộ chuyên trách làm nhiệm vụ như các cán bộ, viên chức của bất cứ cơ quan Nhà nước nào. Nhưng khó, cực khó là làm sao để cho công tác Mặt trận thực sự là công tác vận động tri thức, nhân sĩ và các tầng lớp nhân dân kết thành khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết thật lòng để cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất nước. Người cán bộ Mặt trận phải có sức thu hút và thuyết phục mọi người, trước hết là những người tiêu biểu cho khối đại đoàn kết dân tộc. Và đấy cũng là kỳ vọng của chúng tôi đối với Mặt trận.
Vấn đề thứ hai: Mặt trận phải là nơi khơi động và phát huy tinh thần yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định đó là một truyền thống quý báu của nhân dân ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Cụ Hồ chỉ rõ: "Tinh thần yêu nước, cũng như các thứ của quý, có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày…"
"Chúng ta" đây là ai? Là Đảng, là Mặt trận. Đặc biệt là Mặt trận. Chính vì thế, tôi rất băn khoăn thắc mắc và hôm nay, trên diễn đàn rộng lớn và hợp pháp này, muốn nói to lên thắc mắc băn khoăn đó để mong được giải đáp.
Ở thành phố Hồ Chí Minh, chỉ theo dõi được qua báo chí và mạng internet, tôi hết sức lạ là tại sao Mặt trận Tổ quốc Việt nam chúng ta không có bất cứ một tiếng nói, một động thái nào trong vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa." Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng", như lời cụ Hồ vừa dẫn ra ở trên, đáng lý Mặt trận Tổ quốc, kế tục truyền thống của Hội nghị Diên Hồng đời Trần, truyền thống của Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng,…, phải làm sống lại tinh thần bất khuất, quật cường khắc trên cánh tay hai chữ "sát thát", làm cho tinh thần yêu nước kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn. Đằng này Mặt trận tuyệt đối im lặng. Thật là lạ. Một chuyện xảy ra tận Cuba bên kia bán cầu, Mặt trận đã có ngay lời tuyên bố đanh thép. Thế mà, Hoàng Sa, Trường Sa máu thịt của Tổ quốc bị người ta mưu toan lấn chiếm, biến thành quận huyện của của họ, thì Mặt trận lại im thin thít. Vì sao? Mặt trận Tổ quốc có còn kế thừa truyền thống của Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng nữa không?
Trong một bài báo viết nhân dịp này, tôi dẫn ra chỉ dụ của vua Lê Thánh Tông nhắn nhủ "bọn thái bảo Kiến Dương bá Lê Cảnh Huy": "Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại có thể vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc, thì phải tội tru di", chép rõ ràng trong Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ thực lục, Kỷ Nhà Lê, bị tòa soạn cắt mất. Thậm chí cắt cả câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh tôi dẫn ra ở trên. Tôi hỏi, Tòa soạn trả lời là có sự chỉ đạo buộc họ phải làm như vậy mặc dầu họ không muốn.
Ai mà chỉ đạo lạ vậy. Họ có còn là con cháu của Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung. Hồ Chí Minh nữa không? Sao lại ngăn chặn tinh thần yêu nước của nhân dân, của thanh niên, sinh viên? Liệu Mặt trận có tham gia vào sự chỉ đạo này không? Người của tòa báo nọ giải thích với tôi, đây là sự tế nhị ngoại giao. Có thể có chuyện đó. Hoạt động ngoại giao đòi hỏi sự tế nhị, chuyện đó tôi không dám bàn. Nhưng để cho nhà ngoại giao tế nhị, thì nhân dân lại phải biểu tỏ ý chí của mình để làm hậu thuẫn cho nhà ngoại giao.
Từng tấc đất của Tổ quốc thẫm đẫm máu Việt nam không thể nào để bị cướp mất, trong đó có những tấc đất Hoàng Sa, Trường Sa. Một bà bán rau ngoài chợ hỏi một cách hồn nhiên khiến người đang cầm mớ rau ngỡ ngàng đến sững sờ: "Làm cách nào để biểu tỏ lòng yêu nước đây hở ông, con tôi nó hỏi tôi thế, liệu yêu nước có bị nhắc nhở không". Bác lái taxi hỏi một câu bâng quơ mà khiến người ngồi trên xe hiểu rằng ông ta hỏi mình, cổ cứ tắc nghẹn, lúng túng không nói được ra lời, cho dù là một lời tạ lỗi "thế là mình đành để mất hở ông, làm sao có chuyện đó được, phải dấn mạnh lên thì chúng nó mới chịu lùi chứ". Một ông già dừng xe cạnh tấm biển chỉ tên đường Lê Duẩn, con đường chạy thẳng vào dinh Thống Nhất, nói nhỏ nhẹ với những người đứng cạnh, "thế mới biết ông cha mình giỏi thật, bao nhiêu năm kiên cường giữ nước trong cái thế cái lực kém xa bây giờ". Ông già am hiểu lịch sử ấy nhắc đến việc ông vừa đọc được trên một tờ báo tuần trước câu chuyện một người nước ngoài miêu tả rất thú vị về nước Việt Nam mình: trên bản đồ thế giới hình thể đất nước trông giống như một người nông dân đội nón ở trên đầu, oằn mình dưới sức nặng của cả khối lục địa Trung Hoa từ trên nén xuống khiến cái lưng của Việt nam phải uốn cong để đủ sức chịu đựng lâu dài, và cũng nhằm dồn lực để bật dậy khi cần thiết. Đó là dáng uốn cong của cánh cung để tạo ra sức bật. Và trước khi đạp xe đi tiếp, ông buông một câu: ý dân là ý trời!
Để có Hiệp định Genève 1954, phải có 09 năm kháng chiến và chiến thắng Điện Biên Phủ 7.5.1954. Để có Hiệp định Paris 1973, lại phải có "Điện Biên Phủ trên không" từ ngày 18 đến ngày 29.12.1972. Trước đó 5 năm, cũng vào tháng 12 năm 1967, sau khi nghe báo cáo của Tư lệnh Phòng không-Không quân, Bác nói: "Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh Hà nội, rồi có thua mới chịu thua… Nó chỉ chịu thua sau khi thua trên vùng trời Hà nội. Vì vậy nhiệm vụ của các chú rất nặng nề". Và rồi hiện thực lịch sử đã minh chứng cho lời "tiên tri" Bác Hồ. Trong lời "tiên tri" đó, ẩn chứa một nhận định mang tính qui luật: "Chỉ có thể đàm phán khi có thực lực được hậu thuẫn bởi ý chí và sức mạnh được khởi động từ nhân dân”. Và điều này đâu phải là sự khám phá của thế kỷ XX.
Lần mở lịch sử, thấy có sự trùng hợp rất thú vị về "Hội thề Đông Quan" cũng diễn ra vào tháng 12, ngày 10.12.1427, cách nay đúng 580 năm. Hội thề Đông Quan bên bờ sông Nhị đó đã mở đường cho Vương Thông rút quân. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép lời Lê Lợi: "Không thích giết người là bản tâm của bậc nhân đức. Vả lại, người ta đã hàng mà mình giết thì là điềm xấu không gì lớn bằng…chi bằng tha mạng sống cho ức vạn, để dập tắt mối chiến tranh cho đời sau, sử xanh ghi chép, tiếng thơm muôn đời, há chẳng lớn lao sao". Những lời tâm huyết đó chỉ có thể trên cái nền của những chiến công chói lọi mà Nguyễn Trãi đã viết trong "Cáo bình Ngô": "Lấy đại nghĩa thắng hung tàn, Lấy chí nhân thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay…Voi uống cạn sông, gươm mài vẹt núi. Đánh một trận sạch không kình ngạc, Đánh hai trận tan tác chim muông…Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường, Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước".
"Là bản tâm của bậc nhân đức", đồng thời cũng là những ứng xử phù hợp với thực tế lịch sử, xuất phát từ vị thế địa-chính trị của đất nước mà cách diễn tả của người bạn nước ngoài về hình dáng của đất nước này trên bản đồ thế giới nêu trên đã giải thích điều ấy. Trong vị thế địa-chính trị ấy, bản lĩnh để tồn tại và phát triển đòi hỏi phải biết học bài học của ông cha, cùng với cái đó, phải biết khai thác những nhân tố mới, rất mới mà thời ông cha ta chưa có.
Lịch sử tồn tại và phát triển của một Việt Nam đất không rộng, người không đông, song với ý chí quật cường, dân tộc này vẫn kiên cường tồn tại. Mà vào buổi ấy, Việt Nam đơn thương, độc mã. Còn ngày nay, Việt Nam là một bộ phận của thế giới, là thành viên của khối ASEAN năng động và ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong đời sống quốc tế, là thành viên của WTO, là ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ, Việt Nam không hề đơn độc. Chúng ta hiểu mình cần làm gì và phải làm như thế nào để thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng bảo vệ độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, góp phần tích cực gìn giữ hòa bình ở khu vực và thế giới. Trong bối cảnh đó, thực lực của ta không đơn thuần chỉ là sức mạnh kinh tế, quân sự, mà là cái thế chiến lược ta phải khéo vận dụng. Từ thế kỷ XIII, rồi thế kỷ XV, thế kỷ XVII, đơn thương độc mã, ông cha ta đã đánh tan tác thế lực ngoại xâm, không để mất một thước núi, một tấc sông, để lại giang sơn gấm vóc cho chúng ta hôm nay. Lẽ nào, trong thế giới của thế kỷ XXI này, chúng ta lại không biết tận dụng sức mạnh của thời đại để giữ gìn sự toàn vẹn lãnh thổ mà mỗi tấc đất đều thấm đẫm máu ông cha. Máu Việt nam cũng đã đổ ở Hoàng Sa, Trường Sa, mỗi người Việt nam hôm nay không quên điều đó.
May mắn thay, báo Thanh Niên, báo Người đại biểu Nhân dân, tiếng nói đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân đăng, tạp chí Tia Sáng đăng. Và rồi gần đây, đọc báo Thanh Niên, báo Tuổi Trẻ, tạp chí Xưa và Nay, báo Đại đoàn kết, tôi thấy đã có rất nhiều bài nói về Hoàng Sa, Trường Sa. Chắc là đã có sự chỉ đạo mới. Tuy vậy, là người của Mặt trận, tôi vẫn nghĩ là tờ báo của Mặt trận ta chưa có tiếng nói đúng tầm về chủ đề quan trọng và nhạy cảm này. Liệu có phải vì điều mà tôi tạm diễn đạt là "hội chứng kiểm điểm để kỷ luật" TBT báo do đăng bức thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi các nhà lãnh đạo về quyết định đập bỏ Hội trường Ba Đình lịch sử, nơi ghi đậm dấu ấn những sự kiện lịch sử liên quan đến Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo khác, nơi thể hiện ý chí và sức mạnh của quân và dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước không?
Kể cũng lạ, tiếng nói tâm huyết của một vị "khai quốc công thần" mà tên tuổi của ông đã đi vào lịch sử, không chỉ của Việt Nam còn là của thế giới, mà còn bị bưng bít đến như thế thì liệu làm sao để kêu gọi, động viên nhân dân phát huy tinh thần làm chủ, tham gia đóng góp ý kiến với đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước mà nghị quyết của Đại hội Đảng cộng sản Việt lần thứ X ghi rõ "không những là quyền mà còn là trách nhiệm" của mỗi công dân yêu nước.
Tờ báo của Mặt trận, vì đạo lý dân tộc, vì sứ mệnh của người làm báo mà đến xin phép Đại tướng để đăng bức thư đó lại được chỉ đạo, phải kiểm điểm và kỷ luật. Rất may là Đảng đoàn Mặt trận đã xử lý việc này một cách đúng đắn. Tại diễn đàn này, với tư cách là một ủy viên UBTƯMTTQVN, tôi xin chân thành bày tỏ lời hoan nghênh Báo Đại Đoàn Kết, điều tôi đã có dịp viết trong bài "Một việc đáng trân trọng" đăng trên tờ báo Pháp luật TP HCM ngày 6.12.2007. Xin chân thành cám ơn và hoan nghênh đồng chí Chủ tịch Phạm Thế Duyệt và các vị lãnh đạo khác của Mặt trận đã có sự xử lý thỏa đáng việc này.
Xin chân thành cám ơn đã cho tôi phát biểu ý kiến thẳng thắn mà không bị cắt giữa chừng, xin cám ơn các cụ và các vị đã chịu khó nghe.
T. L.
Bauxite Việt Nam
Cũng như mọi năm, tại Hội nghị Ủy ban trung ương MTTQVN lần này, tôi xin được phát biểu ý kiến, và lần này tôi xin nêu ý kiến về hai vấn đề.
Vấn đề thứ nhất: Diễn đàn của Mặt trận là một diễn đàn rộng rãi nhất, cởi mở nhất của nước ta hiện nay. Tại đây, làm sao qui tụ được trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân, thiết tha với vận mệnh dân tộc, không phân biệt quá khứ, tôn giáo tín ngưỡng, ý thức hệ, là đòi hỏi của đất nước trong giai đoạn lịch sử mới. Những ý kiến đó có thể trái tai với những cá nhân nào đó, cho dù đang ở cương vị nào, nhưng miễn là ý kiến ấy xuất phát từ một động cơ trong sáng vì nước, vì dân thì rất cần khuyến khích phát biểu. Có như vậy thì Mặt trận mới thực hiện chức năng cao cả của nó là một tổ chức chính trị rộng lớn nhất, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước, chứ không chỉ là một tổ chức hoạt động từ thiện, xóa đói giảm nghèo, mặc dầu hoạt động này trong thời gian qua đã có đóng góp rất lớn và thiết thực, cần được tiếp tục phát huy.
Văn kiện Đại hội X của Đảng cộng sản Việt Nam đã ghi rõ: "Ở đâu có dân chủ, ở đó có đoàn kết, đồng thuận và phát triển" ( tr.344). Tạo điều kiện, tạo môi trường để phát huy dân chủ thực sự phải là một chức năng chủ yếu của Mặt trận, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi mà tiến trình phát triển đất nước và hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, đòi hỏi phải quy tụ được sức mạnh của toàn dân tộc, trước hết là sức mạnh trí tuệ của người Việt nam, tạo nên được một sự đồng thuận mới, là một nhu cầu của chính sự phát triển và hội nhập ấy. Muốn quy tụ được hiền tài để cùng nhau gánh vác sự nghiệp của đất nước thì phải thật lòng đoàn kết. Có thật lòng đoàn kết mới có dân chủ thực sự. Chất lượng của khối đại đoàn kết dân tộc được nâng cao đến đâu thì việc thực hành dân chủ tiến triển được đến đó. Sức nam châm có lực hút hiền tài là thái độ chân thành thật lòng đoàn kết được thể hiện rõ ràng gắn liền với độ rộng mở của dân chủ thực sự trong việc tạo ra môi trường thuận lợi để cho những tài năng thật sự có thể phát huy. Đúng là "phải thật sự công tâm, khách quan và đặc biệt là phải thực sự dân chủ; vì không dân chủ, hay chỉ dân chủ hình thức thì không chọn được người tài" như sự khẳng định của người đứng đầu Chính phủ trong cuộc đối thoại trực tuyến đầu năm ngoái.
Khi vị thế của Việt Nam đang được nâng cao, thì năng lực và kinh nghiệm để đảm trách những hoạt động quốc tế, trên thương trường cũng như trên chính trường, là những đòi hỏi bức xúc. Để đáp ứng đòi hỏi đó thì việc thật lòng đoàn kết và thực sự dân chủ là điều kiện tiên quyết để mời gọi những hiền tài, những chuyên gia giỏi trong và ngoài nước, tự nguyện tham gia cùng gánh vác công việc khó khăn đó. Người làm công tác Mặt trận phải thấu triệt vai trò lớn lao quy tụ hiền tài của tổ chức chính trị lớn nhất trong hệ thống chính trị của cả nước. Để làm được điều đó, người làm công tác Mặt trận phải có chính tâm và có hiểu biết.
Về chính tâm, xin dẫn lời người xưa. Sách Luận ngữ, thiên Nhan Uyên có chép chuyện Quý Khang tử hỏi Khổng Tử về chính trị. Khổng Tử đáp: "Chính trị là chính đính. Ông cai trị dân một cách chính đính thì ai dám không chính đính". Trả lời Ai Công về cách cai trị để dân nghe theo, Khổng Tử chỉ nói một điều: "Đề cử người ngay thẳng lên trên người cong queo thì dân phục tùng, đề cử người cong queo lên trên người ngay thẳng thì dân bất phục". Mà để làm được điều đó thì ngoài sự chính tâm, cần phải có hiếu biết.
Câu nói nổi tiếng của Khổng Tử về sự hiểu biết và cách học để có sự hiểu biết đó là một đúc kết có giá trị vĩnh cữu. Giá trị vĩnh cửu ấy càng tăng thêm trong điều kiện của thời đại kinh tế tri thức và nền văn minh trí tuệ của thế kỷ XXI: "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã". Biết điều gì thì nhận là biết, không biết thì nhận không biết, như vậy chính là biết.
Trong nhận thức của tôi, qua mấy nhiệm kỳ tham gia vào UBTƯMTTQ từ năm 1983 đến nay, tôi nghiệm ra rằng, làm công tác Mặt trận vừa rất dễ, vừa rất khó. Dễ thì như loại tôi, mỗi năm cố gắng suy nghĩ để có được một bài phát biểu và rồi xuân thu nhị kỳ có đôi lần họp Hội đồng tư vấn. Hoặc như một số cán bộ chuyên trách làm nhiệm vụ như các cán bộ, viên chức của bất cứ cơ quan Nhà nước nào. Nhưng khó, cực khó là làm sao để cho công tác Mặt trận thực sự là công tác vận động tri thức, nhân sĩ và các tầng lớp nhân dân kết thành khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết thật lòng để cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất nước. Người cán bộ Mặt trận phải có sức thu hút và thuyết phục mọi người, trước hết là những người tiêu biểu cho khối đại đoàn kết dân tộc. Và đấy cũng là kỳ vọng của chúng tôi đối với Mặt trận.
Vấn đề thứ hai: Mặt trận phải là nơi khơi động và phát huy tinh thần yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định đó là một truyền thống quý báu của nhân dân ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Cụ Hồ chỉ rõ: "Tinh thần yêu nước, cũng như các thứ của quý, có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày…"
"Chúng ta" đây là ai? Là Đảng, là Mặt trận. Đặc biệt là Mặt trận. Chính vì thế, tôi rất băn khoăn thắc mắc và hôm nay, trên diễn đàn rộng lớn và hợp pháp này, muốn nói to lên thắc mắc băn khoăn đó để mong được giải đáp.
Ở thành phố Hồ Chí Minh, chỉ theo dõi được qua báo chí và mạng internet, tôi hết sức lạ là tại sao Mặt trận Tổ quốc Việt nam chúng ta không có bất cứ một tiếng nói, một động thái nào trong vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa." Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng", như lời cụ Hồ vừa dẫn ra ở trên, đáng lý Mặt trận Tổ quốc, kế tục truyền thống của Hội nghị Diên Hồng đời Trần, truyền thống của Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng,…, phải làm sống lại tinh thần bất khuất, quật cường khắc trên cánh tay hai chữ "sát thát", làm cho tinh thần yêu nước kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn. Đằng này Mặt trận tuyệt đối im lặng. Thật là lạ. Một chuyện xảy ra tận Cuba bên kia bán cầu, Mặt trận đã có ngay lời tuyên bố đanh thép. Thế mà, Hoàng Sa, Trường Sa máu thịt của Tổ quốc bị người ta mưu toan lấn chiếm, biến thành quận huyện của của họ, thì Mặt trận lại im thin thít. Vì sao? Mặt trận Tổ quốc có còn kế thừa truyền thống của Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng nữa không?
Trong một bài báo viết nhân dịp này, tôi dẫn ra chỉ dụ của vua Lê Thánh Tông nhắn nhủ "bọn thái bảo Kiến Dương bá Lê Cảnh Huy": "Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại có thể vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc, thì phải tội tru di", chép rõ ràng trong Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ thực lục, Kỷ Nhà Lê, bị tòa soạn cắt mất. Thậm chí cắt cả câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh tôi dẫn ra ở trên. Tôi hỏi, Tòa soạn trả lời là có sự chỉ đạo buộc họ phải làm như vậy mặc dầu họ không muốn.
Ai mà chỉ đạo lạ vậy. Họ có còn là con cháu của Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung. Hồ Chí Minh nữa không? Sao lại ngăn chặn tinh thần yêu nước của nhân dân, của thanh niên, sinh viên? Liệu Mặt trận có tham gia vào sự chỉ đạo này không? Người của tòa báo nọ giải thích với tôi, đây là sự tế nhị ngoại giao. Có thể có chuyện đó. Hoạt động ngoại giao đòi hỏi sự tế nhị, chuyện đó tôi không dám bàn. Nhưng để cho nhà ngoại giao tế nhị, thì nhân dân lại phải biểu tỏ ý chí của mình để làm hậu thuẫn cho nhà ngoại giao.
Từng tấc đất của Tổ quốc thẫm đẫm máu Việt nam không thể nào để bị cướp mất, trong đó có những tấc đất Hoàng Sa, Trường Sa. Một bà bán rau ngoài chợ hỏi một cách hồn nhiên khiến người đang cầm mớ rau ngỡ ngàng đến sững sờ: "Làm cách nào để biểu tỏ lòng yêu nước đây hở ông, con tôi nó hỏi tôi thế, liệu yêu nước có bị nhắc nhở không". Bác lái taxi hỏi một câu bâng quơ mà khiến người ngồi trên xe hiểu rằng ông ta hỏi mình, cổ cứ tắc nghẹn, lúng túng không nói được ra lời, cho dù là một lời tạ lỗi "thế là mình đành để mất hở ông, làm sao có chuyện đó được, phải dấn mạnh lên thì chúng nó mới chịu lùi chứ". Một ông già dừng xe cạnh tấm biển chỉ tên đường Lê Duẩn, con đường chạy thẳng vào dinh Thống Nhất, nói nhỏ nhẹ với những người đứng cạnh, "thế mới biết ông cha mình giỏi thật, bao nhiêu năm kiên cường giữ nước trong cái thế cái lực kém xa bây giờ". Ông già am hiểu lịch sử ấy nhắc đến việc ông vừa đọc được trên một tờ báo tuần trước câu chuyện một người nước ngoài miêu tả rất thú vị về nước Việt Nam mình: trên bản đồ thế giới hình thể đất nước trông giống như một người nông dân đội nón ở trên đầu, oằn mình dưới sức nặng của cả khối lục địa Trung Hoa từ trên nén xuống khiến cái lưng của Việt nam phải uốn cong để đủ sức chịu đựng lâu dài, và cũng nhằm dồn lực để bật dậy khi cần thiết. Đó là dáng uốn cong của cánh cung để tạo ra sức bật. Và trước khi đạp xe đi tiếp, ông buông một câu: ý dân là ý trời!
Để có Hiệp định Genève 1954, phải có 09 năm kháng chiến và chiến thắng Điện Biên Phủ 7.5.1954. Để có Hiệp định Paris 1973, lại phải có "Điện Biên Phủ trên không" từ ngày 18 đến ngày 29.12.1972. Trước đó 5 năm, cũng vào tháng 12 năm 1967, sau khi nghe báo cáo của Tư lệnh Phòng không-Không quân, Bác nói: "Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh Hà nội, rồi có thua mới chịu thua… Nó chỉ chịu thua sau khi thua trên vùng trời Hà nội. Vì vậy nhiệm vụ của các chú rất nặng nề". Và rồi hiện thực lịch sử đã minh chứng cho lời "tiên tri" Bác Hồ. Trong lời "tiên tri" đó, ẩn chứa một nhận định mang tính qui luật: "Chỉ có thể đàm phán khi có thực lực được hậu thuẫn bởi ý chí và sức mạnh được khởi động từ nhân dân”. Và điều này đâu phải là sự khám phá của thế kỷ XX.
Lần mở lịch sử, thấy có sự trùng hợp rất thú vị về "Hội thề Đông Quan" cũng diễn ra vào tháng 12, ngày 10.12.1427, cách nay đúng 580 năm. Hội thề Đông Quan bên bờ sông Nhị đó đã mở đường cho Vương Thông rút quân. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép lời Lê Lợi: "Không thích giết người là bản tâm của bậc nhân đức. Vả lại, người ta đã hàng mà mình giết thì là điềm xấu không gì lớn bằng…chi bằng tha mạng sống cho ức vạn, để dập tắt mối chiến tranh cho đời sau, sử xanh ghi chép, tiếng thơm muôn đời, há chẳng lớn lao sao". Những lời tâm huyết đó chỉ có thể trên cái nền của những chiến công chói lọi mà Nguyễn Trãi đã viết trong "Cáo bình Ngô": "Lấy đại nghĩa thắng hung tàn, Lấy chí nhân thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay…Voi uống cạn sông, gươm mài vẹt núi. Đánh một trận sạch không kình ngạc, Đánh hai trận tan tác chim muông…Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường, Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước".
"Là bản tâm của bậc nhân đức", đồng thời cũng là những ứng xử phù hợp với thực tế lịch sử, xuất phát từ vị thế địa-chính trị của đất nước mà cách diễn tả của người bạn nước ngoài về hình dáng của đất nước này trên bản đồ thế giới nêu trên đã giải thích điều ấy. Trong vị thế địa-chính trị ấy, bản lĩnh để tồn tại và phát triển đòi hỏi phải biết học bài học của ông cha, cùng với cái đó, phải biết khai thác những nhân tố mới, rất mới mà thời ông cha ta chưa có.
Lịch sử tồn tại và phát triển của một Việt Nam đất không rộng, người không đông, song với ý chí quật cường, dân tộc này vẫn kiên cường tồn tại. Mà vào buổi ấy, Việt Nam đơn thương, độc mã. Còn ngày nay, Việt Nam là một bộ phận của thế giới, là thành viên của khối ASEAN năng động và ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong đời sống quốc tế, là thành viên của WTO, là ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ, Việt Nam không hề đơn độc. Chúng ta hiểu mình cần làm gì và phải làm như thế nào để thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng bảo vệ độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, góp phần tích cực gìn giữ hòa bình ở khu vực và thế giới. Trong bối cảnh đó, thực lực của ta không đơn thuần chỉ là sức mạnh kinh tế, quân sự, mà là cái thế chiến lược ta phải khéo vận dụng. Từ thế kỷ XIII, rồi thế kỷ XV, thế kỷ XVII, đơn thương độc mã, ông cha ta đã đánh tan tác thế lực ngoại xâm, không để mất một thước núi, một tấc sông, để lại giang sơn gấm vóc cho chúng ta hôm nay. Lẽ nào, trong thế giới của thế kỷ XXI này, chúng ta lại không biết tận dụng sức mạnh của thời đại để giữ gìn sự toàn vẹn lãnh thổ mà mỗi tấc đất đều thấm đẫm máu ông cha. Máu Việt nam cũng đã đổ ở Hoàng Sa, Trường Sa, mỗi người Việt nam hôm nay không quên điều đó.
May mắn thay, báo Thanh Niên, báo Người đại biểu Nhân dân, tiếng nói đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân đăng, tạp chí Tia Sáng đăng. Và rồi gần đây, đọc báo Thanh Niên, báo Tuổi Trẻ, tạp chí Xưa và Nay, báo Đại đoàn kết, tôi thấy đã có rất nhiều bài nói về Hoàng Sa, Trường Sa. Chắc là đã có sự chỉ đạo mới. Tuy vậy, là người của Mặt trận, tôi vẫn nghĩ là tờ báo của Mặt trận ta chưa có tiếng nói đúng tầm về chủ đề quan trọng và nhạy cảm này. Liệu có phải vì điều mà tôi tạm diễn đạt là "hội chứng kiểm điểm để kỷ luật" TBT báo do đăng bức thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi các nhà lãnh đạo về quyết định đập bỏ Hội trường Ba Đình lịch sử, nơi ghi đậm dấu ấn những sự kiện lịch sử liên quan đến Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo khác, nơi thể hiện ý chí và sức mạnh của quân và dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước không?
Kể cũng lạ, tiếng nói tâm huyết của một vị "khai quốc công thần" mà tên tuổi của ông đã đi vào lịch sử, không chỉ của Việt Nam còn là của thế giới, mà còn bị bưng bít đến như thế thì liệu làm sao để kêu gọi, động viên nhân dân phát huy tinh thần làm chủ, tham gia đóng góp ý kiến với đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước mà nghị quyết của Đại hội Đảng cộng sản Việt lần thứ X ghi rõ "không những là quyền mà còn là trách nhiệm" của mỗi công dân yêu nước.
Tờ báo của Mặt trận, vì đạo lý dân tộc, vì sứ mệnh của người làm báo mà đến xin phép Đại tướng để đăng bức thư đó lại được chỉ đạo, phải kiểm điểm và kỷ luật. Rất may là Đảng đoàn Mặt trận đã xử lý việc này một cách đúng đắn. Tại diễn đàn này, với tư cách là một ủy viên UBTƯMTTQVN, tôi xin chân thành bày tỏ lời hoan nghênh Báo Đại Đoàn Kết, điều tôi đã có dịp viết trong bài "Một việc đáng trân trọng" đăng trên tờ báo Pháp luật TP HCM ngày 6.12.2007. Xin chân thành cám ơn và hoan nghênh đồng chí Chủ tịch Phạm Thế Duyệt và các vị lãnh đạo khác của Mặt trận đã có sự xử lý thỏa đáng việc này.
Xin chân thành cám ơn đã cho tôi phát biểu ý kiến thẳng thắn mà không bị cắt giữa chừng, xin cám ơn các cụ và các vị đã chịu khó nghe.
T. L.
Làm Sao Dân Sống Nổi
Posted by truongthondlb1
Vi Anh - Vật giá cái gì cũng tăng, tăng nhanh như hoả tiễn. Dân lao động, dân nghèo, việc làm khó kiếm, tiền kiếm không ra, trời ơi, làm sao sống nổi.
Đảng Nhà Nước CS Hà nội ơi, các Ông “làm kinh tế” cái quái quỉ gì mà kinh thế vậy. Mấy Ông nói hàng hoá tăng 11%, thực phẩm 15%. Ác thiệt, thực phẩm là thứ không có không được, có thứ trên thực tế tăng 50%. Điện và xăng tăng là mọi thứ, các cái, cái gì cũng tăng. Thế mà mấy Ông cho điện tăng 15,28% – cao nhứt từ hồi đó tới giờ. Còn xăng dù mấy Ông tăng giá 2.900 đồng/lít từ ngày 24/2. Dân chết dở, sống dở vì mấy Ông tăng giá rồi; thế mà các Ông có buông tha đâu. Bộ Tài chính của mấy Ông còn cho rằng mức tăng như vậy chưa phải là cao, lẽ ra xăng phải tăng thêm 6.493 đồng/lít trong đợt điều chỉnh ngày 24/2. Và còn hăm xăng, điện ‘còn tăng giá’ trong năm 2011.
Tin Đài RFA, cái ông gọi là “đại biểu nhân dân” Nguyễn Đức Kiên là Phó Chủ Tịch của cái gọi là Quốc Hội mà người dân Việt gọi là “đảng cử dân bầu”. Ông Kiên hai chức “đại biểu nhân dân” và Phó Chủ Tịch còn kiêm hai ba chức bên đảng và nhà nước nữa, lãnh hai ba đầu lương và bổng mà còn nói với báo VnExpress ngày 24/2, rằng ông nói với bà nhà phải tính toán cho phù hợp sau khi bà Kiên than phiền đi chợ với 100.000 đồng chẳng mua được gì.
100.000 đi chợ mua đồ ăn một ngày không đủ cho gia đình Ông Phó Chủ Tịch. Nhưng đó là 1 phần 10 lương tháng của một thầy cô giáo, cả gia đình phải mấm muối, cháo rau trong 10 ngày.
Cũng như phu nhân Phó chủ tịch Quốc hội ở Hà nội, một bà nội trợ ở TP.HCM cũng bị bão giá làm cho chóng mặt.
Việc tăng giá xăng một lèo lên như thế ngay những người chuyên buôn bán xăng cũng không dè mấy Ông CS Hà nội làm quá lố như vậy. Tăng gần 3000 một lít làm cho xăng lên 19.300đ. Tăng gần 20%, quá cao, quá bất ngờ. Giá xăng ở VN cao hơn ở Mỹ. Xăng lên giá thì mọi thứ đều lên. Giá cước mọi phương tiện giao thông vận tải đều sẽ phải tăng theo.
Vật giá tăng, lạm phát tăng, hết kiểm soát được, làm Đảng Nhà Nước CS Hà nội bối rối. Báo Tuổi Trẻ Online ngày 24/2 cho biết Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từ Hà Nội đã “chủ trì hội nghị trực tuyến với 63 địa phương triển khai nghị quyết của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát”.
Hỡi ơi, đừng nói Ông Dũng và các bộ trưởng cùng các chủ tịch ủy ban đô tỉnh thị “trực tuyến trao đổi, duy ý chí” ổn định giá cả, ngăn chận lạm phát. Chấp 10 Ông Dũng, đem hết Đảng Nhà Nước CS ra kể cả 15 ông hội tề ngồi trong bộ chánh trị của Đảng CS cũng không thể ngăn cản vật giá gia tăng, kềm chế lạm phát đựơc vì đó là định luật tất yếu của thị trường.
Nông dân sẽ chết đứng. Một người ở Đồng Bằng Sông Cửu Long nói với RFA, “Nhà nước mình nói thì hay lắm, mấy ổng chưa đi xuống tới vùng sâu vùng xa, thực tế dân bây giờ khổ lắm. Lúa bây giờ bán 5.700đ-5,800đ/ kg thì đâu có lời bao nhiêu so với giá phân lên quá trời. Đối với nông dân tất cả mọi mặt hàng đều lên giá hết, tôi nói với vợ con phải ráng thắt lưng buộc bụng tiết kiệm được phần nào thì nên tiết kiệm chứ bây giờ không phải như hồi xưa muốn mua gì mua, đi chợ lấy 500 ngàn hết tiền mà chưa đầy giỏ.”
Từ lâu nông dân VN càng làm càng nghèo vì các quốc doanh “nhập khẩu vật tư nông nghiệp “vô tư” tăng giá, còn các quốc doanh xuất khẩu gạo” thoải mái dìm giá lúa gạo để kiếm lời, bóc lột dân còn xuơng với da. Bây giờ xăng, điện lên giá, người nông dân nếu thắt lưng buộc bụng thì sẽ đoạn trường, tức đứt ruột mà chết.
Còn công nhân lâu nay liên tục biểu tình, lãng công đòi tăng lương, cải thiện điều kiện làm việc mà chủ nhân ông ngoại quốc cấu kết với tư bản đỏ là CS luôn kềm mức lương, hạ giá thành, đề lợi nhuận cho nhiều. Điện tăng, xăng dầu tăng, các công ty sản xuất kinh doanh lại càng kềm công xá để bù chi phí năng lượng lên cao hầu giữ mức lợi nhuận. Công nhân là nạn nhân sau cùng và chịu nặng nhứt.
Trong khi đó tư bản đỏ ở thành thị và cường hào ác bá đỏ ở nông thôn sẽ hưởng lợi trên sự tăng giá này. Cán bộ đảng viên là thành phần nắm cáng lẫn lưỡi các cơ quan “nhập, xuất, phân phối” những phương tiện sản xuất chiến lược, nhu cầu tiêu thụ thiết yếu này của người dân. Dân khổ bao nhiêu, thiệt hại bao nhiêu thì cán bộ đảng viên cầm quyến sướng bấy nhiều, làm giàu lên bấy nhiêu.
Có đảng viên cán bộ CS còn “hồ hởi, phấn khởi” coi Đảng Nhà Nước tăng giá điện và xăng trong thời buổi này là việc làm đầy “đĩnh cao chánh trị”. Cái thứ chánh trị trị dân bằng bao tử của CS đã từng làm khiến dân VN từng xuất cảng gạo nhứt thế giới ngay thời Thực dân Pháp mà phải ăn độn bo bo, khoai mì trong thời CS Hà nội. Cho xăng dầu, điện lực lên giá dân sẽ thiếu thốn, đói kém, nỗi lo chạy miếng ăn đã hết hơi rồi, còn thì giờ đâu nữa mà nghĩ tới phong trào cách mạng dân chủ ở Tunisie và Ai cập lan tràn sang VN.
Nhưng ở đời mưu thâm thì họa diệt thâm. Biết đâu việc tăng giá điện, xăng trong thời kỳ kinh tế VN bị lạm phát, vật giá gia tăng, dân quá khổ, hết chịu nỗi nữa, là châm ngòi cho cuộc cách mạng lật đổ nhà cầm quyền độc tài, tham nhũng, hại nước hại dân về chánh trị cũng như kinh tế
http://www.vietbao.com/D_1-2_2-66_4-170838/
Vi Anh - Vật giá cái gì cũng tăng, tăng nhanh như hoả tiễn. Dân lao động, dân nghèo, việc làm khó kiếm, tiền kiếm không ra, trời ơi, làm sao sống nổi.
Đảng Nhà Nước CS Hà nội ơi, các Ông “làm kinh tế” cái quái quỉ gì mà kinh thế vậy. Mấy Ông nói hàng hoá tăng 11%, thực phẩm 15%. Ác thiệt, thực phẩm là thứ không có không được, có thứ trên thực tế tăng 50%. Điện và xăng tăng là mọi thứ, các cái, cái gì cũng tăng. Thế mà mấy Ông cho điện tăng 15,28% – cao nhứt từ hồi đó tới giờ. Còn xăng dù mấy Ông tăng giá 2.900 đồng/lít từ ngày 24/2. Dân chết dở, sống dở vì mấy Ông tăng giá rồi; thế mà các Ông có buông tha đâu. Bộ Tài chính của mấy Ông còn cho rằng mức tăng như vậy chưa phải là cao, lẽ ra xăng phải tăng thêm 6.493 đồng/lít trong đợt điều chỉnh ngày 24/2. Và còn hăm xăng, điện ‘còn tăng giá’ trong năm 2011.
Tin Đài RFA, cái ông gọi là “đại biểu nhân dân” Nguyễn Đức Kiên là Phó Chủ Tịch của cái gọi là Quốc Hội mà người dân Việt gọi là “đảng cử dân bầu”. Ông Kiên hai chức “đại biểu nhân dân” và Phó Chủ Tịch còn kiêm hai ba chức bên đảng và nhà nước nữa, lãnh hai ba đầu lương và bổng mà còn nói với báo VnExpress ngày 24/2, rằng ông nói với bà nhà phải tính toán cho phù hợp sau khi bà Kiên than phiền đi chợ với 100.000 đồng chẳng mua được gì.
100.000 đi chợ mua đồ ăn một ngày không đủ cho gia đình Ông Phó Chủ Tịch. Nhưng đó là 1 phần 10 lương tháng của một thầy cô giáo, cả gia đình phải mấm muối, cháo rau trong 10 ngày.
Cũng như phu nhân Phó chủ tịch Quốc hội ở Hà nội, một bà nội trợ ở TP.HCM cũng bị bão giá làm cho chóng mặt.
Việc tăng giá xăng một lèo lên như thế ngay những người chuyên buôn bán xăng cũng không dè mấy Ông CS Hà nội làm quá lố như vậy. Tăng gần 3000 một lít làm cho xăng lên 19.300đ. Tăng gần 20%, quá cao, quá bất ngờ. Giá xăng ở VN cao hơn ở Mỹ. Xăng lên giá thì mọi thứ đều lên. Giá cước mọi phương tiện giao thông vận tải đều sẽ phải tăng theo.
Vật giá tăng, lạm phát tăng, hết kiểm soát được, làm Đảng Nhà Nước CS Hà nội bối rối. Báo Tuổi Trẻ Online ngày 24/2 cho biết Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từ Hà Nội đã “chủ trì hội nghị trực tuyến với 63 địa phương triển khai nghị quyết của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát”.
Hỡi ơi, đừng nói Ông Dũng và các bộ trưởng cùng các chủ tịch ủy ban đô tỉnh thị “trực tuyến trao đổi, duy ý chí” ổn định giá cả, ngăn chận lạm phát. Chấp 10 Ông Dũng, đem hết Đảng Nhà Nước CS ra kể cả 15 ông hội tề ngồi trong bộ chánh trị của Đảng CS cũng không thể ngăn cản vật giá gia tăng, kềm chế lạm phát đựơc vì đó là định luật tất yếu của thị trường.
Nông dân sẽ chết đứng. Một người ở Đồng Bằng Sông Cửu Long nói với RFA, “Nhà nước mình nói thì hay lắm, mấy ổng chưa đi xuống tới vùng sâu vùng xa, thực tế dân bây giờ khổ lắm. Lúa bây giờ bán 5.700đ-5,800đ/ kg thì đâu có lời bao nhiêu so với giá phân lên quá trời. Đối với nông dân tất cả mọi mặt hàng đều lên giá hết, tôi nói với vợ con phải ráng thắt lưng buộc bụng tiết kiệm được phần nào thì nên tiết kiệm chứ bây giờ không phải như hồi xưa muốn mua gì mua, đi chợ lấy 500 ngàn hết tiền mà chưa đầy giỏ.”
Từ lâu nông dân VN càng làm càng nghèo vì các quốc doanh “nhập khẩu vật tư nông nghiệp “vô tư” tăng giá, còn các quốc doanh xuất khẩu gạo” thoải mái dìm giá lúa gạo để kiếm lời, bóc lột dân còn xuơng với da. Bây giờ xăng, điện lên giá, người nông dân nếu thắt lưng buộc bụng thì sẽ đoạn trường, tức đứt ruột mà chết.
Còn công nhân lâu nay liên tục biểu tình, lãng công đòi tăng lương, cải thiện điều kiện làm việc mà chủ nhân ông ngoại quốc cấu kết với tư bản đỏ là CS luôn kềm mức lương, hạ giá thành, đề lợi nhuận cho nhiều. Điện tăng, xăng dầu tăng, các công ty sản xuất kinh doanh lại càng kềm công xá để bù chi phí năng lượng lên cao hầu giữ mức lợi nhuận. Công nhân là nạn nhân sau cùng và chịu nặng nhứt.
Trong khi đó tư bản đỏ ở thành thị và cường hào ác bá đỏ ở nông thôn sẽ hưởng lợi trên sự tăng giá này. Cán bộ đảng viên là thành phần nắm cáng lẫn lưỡi các cơ quan “nhập, xuất, phân phối” những phương tiện sản xuất chiến lược, nhu cầu tiêu thụ thiết yếu này của người dân. Dân khổ bao nhiêu, thiệt hại bao nhiêu thì cán bộ đảng viên cầm quyến sướng bấy nhiều, làm giàu lên bấy nhiêu.
Có đảng viên cán bộ CS còn “hồ hởi, phấn khởi” coi Đảng Nhà Nước tăng giá điện và xăng trong thời buổi này là việc làm đầy “đĩnh cao chánh trị”. Cái thứ chánh trị trị dân bằng bao tử của CS đã từng làm khiến dân VN từng xuất cảng gạo nhứt thế giới ngay thời Thực dân Pháp mà phải ăn độn bo bo, khoai mì trong thời CS Hà nội. Cho xăng dầu, điện lực lên giá dân sẽ thiếu thốn, đói kém, nỗi lo chạy miếng ăn đã hết hơi rồi, còn thì giờ đâu nữa mà nghĩ tới phong trào cách mạng dân chủ ở Tunisie và Ai cập lan tràn sang VN.
Nhưng ở đời mưu thâm thì họa diệt thâm. Biết đâu việc tăng giá điện, xăng trong thời kỳ kinh tế VN bị lạm phát, vật giá gia tăng, dân quá khổ, hết chịu nỗi nữa, là châm ngòi cho cuộc cách mạng lật đổ nhà cầm quyền độc tài, tham nhũng, hại nước hại dân về chánh trị cũng như kinh tế
http://www.vietbao.com/D_1-2_2-66_4-170838/
Trận đánh vì Al-Bayda: Cuộc chiến đấu vì Tự do chống lại xe tăng, lính đánh thuê và bom
Posted by truongthondlb1
Matthias Gebauer in Al-Bayda, Libya, SPIEGEL (Hiếu Tân dịch) – Abdallah đang cầm tấm ảnh con trai ông khi những người khách đầu tiên đến cái garage nhỏ của gia đình sau những buổi cầu nguyện ngày thứ Sáu. “Nó còn trẻ,” ông nói về con mình, “nhưng nó đã chết cho sự nghiệp chính nghĩa. Nó là một người hy sinh vì tự do.”
*
Nó đã trở thành một biểu tượng của cuộc chiến đấu chống nhà độc tài Libya Moammar Gadhafi: những người biểu tình ở thành phố miền bắc Al-Bayda đương đầu với bọn lính đánh thuê, xe tăng và bom, nhưng không chịu khuất phục. Hàng chục người chết, nhưng những người bị thương nói họ sẽ trở lại mặt trận nếu cần thiết.
Vào lúc 9 giờ 30 sáng thứ Sáu Abdel Aziz Abdallah biết rằng con trai ông đã chết. Người đàn ông 55 tuổi này nhận được một cú điện thoại từ một người quen có những một liên hệ với chế độ đang lung lay của nhà độc tài Moammar Gadhfi. Người quen đó cho biết con trai Abdallah là Farj, mới 23 tuổi, chết trong bệnh viện ở Tripoli. Thi thể anh sẽ sớm được đưa về thành phố quê hương Al-Bayda để chôn cất.
Abdallah đang cầm tấm ảnh con trai ông khi những người khách đầu tiên đến cái garage nhỏ của gia đình sau những buổi cầu nguyện ngày thứ Sáu. “Nó còn trẻ,” ông nói về con mình, “nhưng nó đã chết cho sự nghiệp chính nghĩa. Nó là một người hy sinh vì tự do.”
Bayda là một thành phố nhỏ trên bờ biển Địa trung Hải, trong một khu vực của đất nước mà những người dân bắt đầu gọi là “phần tự do của Libya.” Chế độ Gadhafi đã mất toàn bộ kiểm soát phần đông-bắc đất nước và những người nổi loạn đã thắng thế.
Said, bạn thân nhất của Farj đang nằm bệnh viện ở Bayda, chân anh bị thương nặng do đạn từ một khẩu súng máy. Bác sĩ ngồi cạnh giường anh, một người Palestin, không có tin tốt nói ông không chắc có giữ được chân cho anh ấy không. Khi Said biết tin bạn anh đã chết, anh giận điên lên. “Chế độ này đã giết bạn tôi,” anh gào lên. “Chúng nó đã giết anh ấy trong bệnh viện.”
Farj và Said đã chiến đấu trên tuyến đầu chống chế độ Gadhafi khi họ bị bắn gục. Vào hôm thứ Sáu cách đây một tuần, hai anh đang tham gia vào một cuộc biểu tình ở Bayda với 23 người bạn khác thì họ nghe thấy một tin đồn gây lo âu. Một chiếc máy bay vận tải khổng lồ Ilyushin đã hạ cánh ở sân bay mang đến 400 lính đánh thuê người Phi. Những người biểu tình hiểu ngay nhiệm vụ của bọn lính đánh thuê này là gì. Như chúng đã làm ở nhiều thành phố khác, đơn vị lính đánh thuê được trả lương cao này đàn áp dã man những người biểu tình, nếu cần chúng bắn bừa vào đám đông. Farj và Said lao ngay ra sân bay.
“Chắc chắn chúng tôi sẽ chiếm được Tripoli”
Ba ngày sau khi chiếc Ilyushin hạ cánh, là ba ngày đẫm máu ở Bayda; nó là một trận đánh đã trở thành biểu tượng cho cuộc nổi dậy của Lybia. Mặc dầu rõ ràng phải chọi với đối thủ mạnh hơn là bọn lính đánh thuê được trang bị nặng, sau đó được yểm trợ bằng xe tăng, những người biểu tình đã đánh hạ bọn chúng và chiếm lại sân bay có tầm quan trọng chiến lược vào hôm thứ Hai. Từ đó, trận chiến đấu giành Bayda đã trở thành chứng cớ cho nhiều người thấy rằng trên thực tế có thể đạt được các mục tiêu của các đối thủ của chế độ. “Nếu chúng tôi có thể bảo vệ được Bayda chống lại bọn tay sai của chế độ,” Said nói trên giường bệnh của anh, “thì chắc chắn chúng tôi có thể chiếm được Tripoli, cho dù có phải hy sinh nhiều sinh mạng.”
Những dấu vết của cuộc chiến đấu ác liệt ngổn ngang trên ga đi của sân bay địa phương. Trên sân ga đầy những vỏ đạn, những vỏ thùng vũ khí, và những bộ quân phục đẫm máu của bọn lính đánh thuê người Phi. Giữa hàng trăm vé lên máy bay và va li, người ta có thể thấy những vệt máu từ những người chết và bị thương. Áo vét tông, nón mũ và giầy từ bọn lính của Gadhafi nằm la liệt giữa những cuộc băng sơ cứu bị xé toang. Các bức tường lỗ chỗ những vết đạn – bên dưới cửa sổ là những thùng đạn rỗng, nhiều thùng chứa đạn pháo, mang những hàng chữ Nga.
Thế giới cám ơn Abdul Kadr vì đã phổ biến tin tức về trận đánh trên sân bay. Người sinh viên trẻ này sống trong một thị trấn nhỏ không xa sân bay – và anh đã quay phim trận đánh suốt ba ngày đêm. Từ những nóc nhà và trên những đường phố, anh quay những đoạn phim về chiếc máy bay Ilyushin đậu xuống sân bay để đưa bọn lính đánh thuê đến mặt trận. Mặc dầu bị rung, một đoạn phim ngày thứ Bẩy vừa qua thể hiện một máy bay phản lực chiến đấu Libya gầm rú trên bầu trời Bayda – và một đoạn khác cho thấy rõ chiếc phản lực thả một quả bom xuống gần sân bay. Một đoạn video khác quay một chiếc trực thăng bắn vào đám đông biểu tình.
Bằng chứng đáng tin cậy
Kadr không ngủ suốt ba ngày đêm của trận đánh. Ngồi trong phòng khách của cha mẹ anh, Kadr mô tả những chiếc xe tăng lao vào bắn phá các tòa nhà bên ngoài sân bay. Nhiều ngôi nhà trong làng anh bị bắn và bốn người bị giết. Kadr biết đoạn video của anh có tầm quan trọng thế nào. Khi phóng viên đầu tiên của đài BBC đến làm phim ở Bayda trong những ngày sau trận đánh, Kadr đã đưa những hình ảnh của anh và yêu cầu công bố chúng. Chỉ mấy giờ sau, đã có thể xem chúng từ các màn hình máy tính trên toàn thế giới. Nó là bằng chứng đáng tin cậy đầu tiên về sự dã man của Gadhafi giáng xuống nhân dân của hắn. Nó là bằng chứng đáng tin cậy đầu tiên rằng chế độ độc tài đã bỏ bom xuống đầu chính nhân dân của nó.
Said là người duy nhất trong số các bạn bè đã sống sót qua trận đánh trên sân bay. Khi họ là những người đầu tiên đến sân bay với hàng trăm những người nổi dậy khác, chỉ vũ trang bằng gậy gỗ và roi sắt, bọn lính đánh thuê xả súng máy bắn vào họ. Said ngã ngay còn những người khác thì cố gắng đột chiếm các cửa. Bị thương và bị sốc, Said trông thấy bạn mình là Farj bị bắt tại cổng sân bay. “Chúng bắn vào chân anh và kéo lê anh đến nhà ga,” anh nói. Từ lúc đó, Farj và những người bạn còn lại của Said đã mất tích. Said cho rằng họ bị đưa đến Tripoli bằng máy bay.
Ngày hôm sau, Said theo dõi sát cuộc chiến đấu trên sân bay qua điện thoại. Hết lần này đến lần khác, anh gọi những người quen hỏi về tin tức cuộc chiến đấu, có thể nghe thấy dễ dàng trong thành phố cách đó năm kilômet. Said nói rằng những tên lính đánh thuê tiếp tục bắn vào những người biểu tình từ tòa nhà của sân bay, thậm chí dùng vũ khí hạng nặng để chống lại những người nổi dậy vũ trang sơ sài. Hai lần chúng cố tiến đến thành phố bằng xe tăng. Nhưng những người biểu tình chặn chúng lại và chiếm những chiếc xe. Bây giờ họ đốt những chiếc xe nặng nề đó trên con đường giữa sân bay và Bayda, lá cờ của những người nổi dậy đang bay trên những tòa nhà có tháp nhọn của chính phủ, từng là biểu tượng sức mạnh của chế độ cũ.
“Tôi không chết”
Hàng chục người chết trong trận đánh vì Bayda và hàng trăm người bị thương. Thậm chí các bác sĩ trong bệnh viện đa khoa không biết chắc số người chết là bao nhiêu, nhưng họ ước lượng có đến 70 người đã thiệt mạng. Said ở chung phòng bệnh với nhiều người bị thương nặng khác. Một người mất một con mắt sau khi bị một viên đạn sạt qua, một người khác bị bắn vào bụng.
Nasr Awad quấn băng dầy và đẫm máu ở tay và chân. Các bác sĩ muốn mổ lại vào buổi tối và chuẩn bị cắt bỏ những ngón tay một người khác 37 tuổi. Tuy nhiên Awad nói anh sẽ trở lại trận chiến đấu nếu cần thiết. “Nếu cuộc cách mạng này không thắng lợi,” anh nói, “chúng tôi chỉ có thể dấn tới và giết lẫn nhau.”
Cuộc điện thoại từ Tripoli gọi tới cuối cùng đã cung cấp cho Said tin tức chắc chắn về số phận của Farj bạn anh. Nhưng anh nung nấu một nghi ngờ mới. Các bác sĩ từ bệnh viện đa khoa ở thủ đô đã gọi những người nổi dậy ở Bayda những tin tức đáng lo ngại. Said nói, các bác sĩ cho biết những đơn vị trung thành với Gadhafi đang dồn những người chống Gadhafi bị thương lại một chỗ, để họ không thể báo cáo về hành động hung ác của chế độ. Said chắc chắn một trong những đơn vị đó đã giết bạn anh.
“Người ta không chết vì một viên đạn bắn vào chân,” anh nói, “rốt cuộc, tôi không chết.”.
© Hiếu Tân
http://www.danchimviet.info/archives/28812
Matthias Gebauer in Al-Bayda, Libya, SPIEGEL (Hiếu Tân dịch) – Abdallah đang cầm tấm ảnh con trai ông khi những người khách đầu tiên đến cái garage nhỏ của gia đình sau những buổi cầu nguyện ngày thứ Sáu. “Nó còn trẻ,” ông nói về con mình, “nhưng nó đã chết cho sự nghiệp chính nghĩa. Nó là một người hy sinh vì tự do.”
*
Nó đã trở thành một biểu tượng của cuộc chiến đấu chống nhà độc tài Libya Moammar Gadhafi: những người biểu tình ở thành phố miền bắc Al-Bayda đương đầu với bọn lính đánh thuê, xe tăng và bom, nhưng không chịu khuất phục. Hàng chục người chết, nhưng những người bị thương nói họ sẽ trở lại mặt trận nếu cần thiết.
Vào lúc 9 giờ 30 sáng thứ Sáu Abdel Aziz Abdallah biết rằng con trai ông đã chết. Người đàn ông 55 tuổi này nhận được một cú điện thoại từ một người quen có những một liên hệ với chế độ đang lung lay của nhà độc tài Moammar Gadhfi. Người quen đó cho biết con trai Abdallah là Farj, mới 23 tuổi, chết trong bệnh viện ở Tripoli. Thi thể anh sẽ sớm được đưa về thành phố quê hương Al-Bayda để chôn cất.
Abdallah đang cầm tấm ảnh con trai ông khi những người khách đầu tiên đến cái garage nhỏ của gia đình sau những buổi cầu nguyện ngày thứ Sáu. “Nó còn trẻ,” ông nói về con mình, “nhưng nó đã chết cho sự nghiệp chính nghĩa. Nó là một người hy sinh vì tự do.”
Bayda là một thành phố nhỏ trên bờ biển Địa trung Hải, trong một khu vực của đất nước mà những người dân bắt đầu gọi là “phần tự do của Libya.” Chế độ Gadhafi đã mất toàn bộ kiểm soát phần đông-bắc đất nước và những người nổi loạn đã thắng thế.
Said, bạn thân nhất của Farj đang nằm bệnh viện ở Bayda, chân anh bị thương nặng do đạn từ một khẩu súng máy. Bác sĩ ngồi cạnh giường anh, một người Palestin, không có tin tốt nói ông không chắc có giữ được chân cho anh ấy không. Khi Said biết tin bạn anh đã chết, anh giận điên lên. “Chế độ này đã giết bạn tôi,” anh gào lên. “Chúng nó đã giết anh ấy trong bệnh viện.”
Farj và Said đã chiến đấu trên tuyến đầu chống chế độ Gadhafi khi họ bị bắn gục. Vào hôm thứ Sáu cách đây một tuần, hai anh đang tham gia vào một cuộc biểu tình ở Bayda với 23 người bạn khác thì họ nghe thấy một tin đồn gây lo âu. Một chiếc máy bay vận tải khổng lồ Ilyushin đã hạ cánh ở sân bay mang đến 400 lính đánh thuê người Phi. Những người biểu tình hiểu ngay nhiệm vụ của bọn lính đánh thuê này là gì. Như chúng đã làm ở nhiều thành phố khác, đơn vị lính đánh thuê được trả lương cao này đàn áp dã man những người biểu tình, nếu cần chúng bắn bừa vào đám đông. Farj và Said lao ngay ra sân bay.
“Chắc chắn chúng tôi sẽ chiếm được Tripoli”
Ba ngày sau khi chiếc Ilyushin hạ cánh, là ba ngày đẫm máu ở Bayda; nó là một trận đánh đã trở thành biểu tượng cho cuộc nổi dậy của Lybia. Mặc dầu rõ ràng phải chọi với đối thủ mạnh hơn là bọn lính đánh thuê được trang bị nặng, sau đó được yểm trợ bằng xe tăng, những người biểu tình đã đánh hạ bọn chúng và chiếm lại sân bay có tầm quan trọng chiến lược vào hôm thứ Hai. Từ đó, trận chiến đấu giành Bayda đã trở thành chứng cớ cho nhiều người thấy rằng trên thực tế có thể đạt được các mục tiêu của các đối thủ của chế độ. “Nếu chúng tôi có thể bảo vệ được Bayda chống lại bọn tay sai của chế độ,” Said nói trên giường bệnh của anh, “thì chắc chắn chúng tôi có thể chiếm được Tripoli, cho dù có phải hy sinh nhiều sinh mạng.”
Những dấu vết của cuộc chiến đấu ác liệt ngổn ngang trên ga đi của sân bay địa phương. Trên sân ga đầy những vỏ đạn, những vỏ thùng vũ khí, và những bộ quân phục đẫm máu của bọn lính đánh thuê người Phi. Giữa hàng trăm vé lên máy bay và va li, người ta có thể thấy những vệt máu từ những người chết và bị thương. Áo vét tông, nón mũ và giầy từ bọn lính của Gadhafi nằm la liệt giữa những cuộc băng sơ cứu bị xé toang. Các bức tường lỗ chỗ những vết đạn – bên dưới cửa sổ là những thùng đạn rỗng, nhiều thùng chứa đạn pháo, mang những hàng chữ Nga.
Thế giới cám ơn Abdul Kadr vì đã phổ biến tin tức về trận đánh trên sân bay. Người sinh viên trẻ này sống trong một thị trấn nhỏ không xa sân bay – và anh đã quay phim trận đánh suốt ba ngày đêm. Từ những nóc nhà và trên những đường phố, anh quay những đoạn phim về chiếc máy bay Ilyushin đậu xuống sân bay để đưa bọn lính đánh thuê đến mặt trận. Mặc dầu bị rung, một đoạn phim ngày thứ Bẩy vừa qua thể hiện một máy bay phản lực chiến đấu Libya gầm rú trên bầu trời Bayda – và một đoạn khác cho thấy rõ chiếc phản lực thả một quả bom xuống gần sân bay. Một đoạn video khác quay một chiếc trực thăng bắn vào đám đông biểu tình.
Bằng chứng đáng tin cậy
Kadr không ngủ suốt ba ngày đêm của trận đánh. Ngồi trong phòng khách của cha mẹ anh, Kadr mô tả những chiếc xe tăng lao vào bắn phá các tòa nhà bên ngoài sân bay. Nhiều ngôi nhà trong làng anh bị bắn và bốn người bị giết. Kadr biết đoạn video của anh có tầm quan trọng thế nào. Khi phóng viên đầu tiên của đài BBC đến làm phim ở Bayda trong những ngày sau trận đánh, Kadr đã đưa những hình ảnh của anh và yêu cầu công bố chúng. Chỉ mấy giờ sau, đã có thể xem chúng từ các màn hình máy tính trên toàn thế giới. Nó là bằng chứng đáng tin cậy đầu tiên về sự dã man của Gadhafi giáng xuống nhân dân của hắn. Nó là bằng chứng đáng tin cậy đầu tiên rằng chế độ độc tài đã bỏ bom xuống đầu chính nhân dân của nó.
Said là người duy nhất trong số các bạn bè đã sống sót qua trận đánh trên sân bay. Khi họ là những người đầu tiên đến sân bay với hàng trăm những người nổi dậy khác, chỉ vũ trang bằng gậy gỗ và roi sắt, bọn lính đánh thuê xả súng máy bắn vào họ. Said ngã ngay còn những người khác thì cố gắng đột chiếm các cửa. Bị thương và bị sốc, Said trông thấy bạn mình là Farj bị bắt tại cổng sân bay. “Chúng bắn vào chân anh và kéo lê anh đến nhà ga,” anh nói. Từ lúc đó, Farj và những người bạn còn lại của Said đã mất tích. Said cho rằng họ bị đưa đến Tripoli bằng máy bay.
Ngày hôm sau, Said theo dõi sát cuộc chiến đấu trên sân bay qua điện thoại. Hết lần này đến lần khác, anh gọi những người quen hỏi về tin tức cuộc chiến đấu, có thể nghe thấy dễ dàng trong thành phố cách đó năm kilômet. Said nói rằng những tên lính đánh thuê tiếp tục bắn vào những người biểu tình từ tòa nhà của sân bay, thậm chí dùng vũ khí hạng nặng để chống lại những người nổi dậy vũ trang sơ sài. Hai lần chúng cố tiến đến thành phố bằng xe tăng. Nhưng những người biểu tình chặn chúng lại và chiếm những chiếc xe. Bây giờ họ đốt những chiếc xe nặng nề đó trên con đường giữa sân bay và Bayda, lá cờ của những người nổi dậy đang bay trên những tòa nhà có tháp nhọn của chính phủ, từng là biểu tượng sức mạnh của chế độ cũ.
“Tôi không chết”
Hàng chục người chết trong trận đánh vì Bayda và hàng trăm người bị thương. Thậm chí các bác sĩ trong bệnh viện đa khoa không biết chắc số người chết là bao nhiêu, nhưng họ ước lượng có đến 70 người đã thiệt mạng. Said ở chung phòng bệnh với nhiều người bị thương nặng khác. Một người mất một con mắt sau khi bị một viên đạn sạt qua, một người khác bị bắn vào bụng.
Nasr Awad quấn băng dầy và đẫm máu ở tay và chân. Các bác sĩ muốn mổ lại vào buổi tối và chuẩn bị cắt bỏ những ngón tay một người khác 37 tuổi. Tuy nhiên Awad nói anh sẽ trở lại trận chiến đấu nếu cần thiết. “Nếu cuộc cách mạng này không thắng lợi,” anh nói, “chúng tôi chỉ có thể dấn tới và giết lẫn nhau.”
Cuộc điện thoại từ Tripoli gọi tới cuối cùng đã cung cấp cho Said tin tức chắc chắn về số phận của Farj bạn anh. Nhưng anh nung nấu một nghi ngờ mới. Các bác sĩ từ bệnh viện đa khoa ở thủ đô đã gọi những người nổi dậy ở Bayda những tin tức đáng lo ngại. Said nói, các bác sĩ cho biết những đơn vị trung thành với Gadhafi đang dồn những người chống Gadhafi bị thương lại một chỗ, để họ không thể báo cáo về hành động hung ác của chế độ. Said chắc chắn một trong những đơn vị đó đã giết bạn anh.
“Người ta không chết vì một viên đạn bắn vào chân,” anh nói, “rốt cuộc, tôi không chết.”.
© Hiếu Tân
http://www.danchimviet.info/archives/28812
Đưa vàng vào tập thể
Posted by truongthondlb1
Đào Tuấn – Có lẽ, khi chém gió về việc cấm kinh doanh vàng miếng, Thủ tướng Dũng, Bộ trưởng Ninh, hay thống đốc Giàu đều không thực sự biết số vàng thực sự trong dân là bao nhiêu. Chưa bao giờ trả lời câu hỏi vì sao dân lại chăm chăm mua vàng tích trữ.
Câu hỏi vì sao cấm, đã được lần lượt các quan chức trả lời. Phó Thống đốc Bình nhấn mạnh NHNN sẽ “ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động đầu cơ, găm giữ, thao túng thị trường”. Một quan chức khác còn nói toẹt luôn rằng: Làm sao đưa toàn bộ lượng vàng vật chất có trong dân chúng vào kho quản lý tập chung do nhà nước quản lý. Và, trên cơ sở vàng của mình nằm trong “ống bơ nhà nước” này người dân có vàng “có thể mở tài khoản tại công ty kinh doanh vàng và yêu cầu các công ty này thực hiện việc lưu ký vàng…”. Hình như từ sau những “ngày thứ tư đen tối”, liên tiếp trong hai năm vừa rồi, với các cơn điên loạn của giá vàng, các nhà quản lý mới chợt phát hiện rằng sàn vàng, bản chất đúng là một thứ sòng bài, càng để càng bất ổn. Còn nhận ra thêm rằng với cả trăm, ngàn tấn vàng “còn tồn” trong dân, Nhà nước đang chỉ nắm trong tay nguồn dự trữ lớn trên sổ sách. Rằng vàng nằm trong ống bơ, chôn đầu giường, chỉ là thứ vàng chết – khi không được đưa vào lưu thông.
Khá khen cho sáng kiến “đưa vàng của dân cho Nhà nước quản lý” bởi ở giác độ quản lý, ai cũng biết việc đưa vàng vào tập thể- nhà nước vừa huy động được nguồn lực, vừa tiện bề quản lý. Làm sao có chuyện mua đi bán lại ngoài thị trường tự do, làm sao có những cơn điên loạn của giá vàng khi vàng đã vào tập thể! Nhưng vấn đề là bao nhiêu phần trăm dân chúng sẽ đồng ý giao vàng cho nhà nước? Bao nhiêu phần trăm, trong số hàng chục triệu người tích vàng trong ống bơ từ thế hệ này qua thế hệ khác, đủ trình độ để “mở tài khoản”, thực hiện lưu ký?
Nói không quá lời rằng trong mỗi gia đình người Việt, không nhiều thì ít, đều có vàng tích trữ phòng lúc sa cơ. Một sự phòng xa đã được kiểm chứng bằng những cơn “binh biến” của một thời ký “giá – lương – tiền” nhiễu loạn, khi lạm phát lên tới gần 400%. Chính vì sự tích trữ sinh ra từ tâm lý, từ sự mất lòng tin, thì chỉ có thể xoá bỏ tích trữ bằng niềm tin. Bởi nếu chỉ buộc người dân “đưa vàng vào tập thể” bằng biện pháp hành chính trong nỗi nơm nớp lo sợ sẽ rất khó để có thể thực hiện. Ai dám cam kết vàng miếng – một cách rất đơn giản – sẽ không ngay ngày mai biến thành vàng trang sức để vẫn có thể tích trữ, mua bán khi dân chưa tin.
Mặc dù chế độ Kim bản vị (đảm bảo bằng vàng) đã được xoá bỏ từ năm 1972 nhưng các đồng tiền giấy trên thế giới – có mức độ chuyển đổi cao – được đảm bảo bằng sự ổn định kinh tế, sức mạnh tài chính và mức độ tự do của thị trường. Khi tiền VND hầu như chưa được bất kỳ một quốc gia nào khác chấp nhận thì người dân tích trữ tài sản bằng vàng là chuyện rất đỗi giản dị, dễ hiểu. Với việc cấm kinh doanh vàng miếng, có vẻ người dân đang bị tước đoạt quyền sở hữu đối với thứ kim loại quý, đồng thời là tài sản của mình – khi việc kinh doanh – bao hàm cả nghĩa mua bán, bị coi là bất hợp pháp.
Trên các tờ USD, từ năm 1957 đã in rành rành dòng chữ “In God we trust”- Chúng tôi tin vào chúa.
Nhưng giờ thì những người dân Việt biết tin vào điều gì đây? Vàng hợp tác? Tiền đồng mất giá mỗi năm ít nhất hai con số? Hay là những lời hứa?
Đào Tuấn
http://vn.360plus.yahoo.com/tuanddk/article?mid=5156
Đào Tuấn – Có lẽ, khi chém gió về việc cấm kinh doanh vàng miếng, Thủ tướng Dũng, Bộ trưởng Ninh, hay thống đốc Giàu đều không thực sự biết số vàng thực sự trong dân là bao nhiêu. Chưa bao giờ trả lời câu hỏi vì sao dân lại chăm chăm mua vàng tích trữ.
Câu hỏi vì sao cấm, đã được lần lượt các quan chức trả lời. Phó Thống đốc Bình nhấn mạnh NHNN sẽ “ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động đầu cơ, găm giữ, thao túng thị trường”. Một quan chức khác còn nói toẹt luôn rằng: Làm sao đưa toàn bộ lượng vàng vật chất có trong dân chúng vào kho quản lý tập chung do nhà nước quản lý. Và, trên cơ sở vàng của mình nằm trong “ống bơ nhà nước” này người dân có vàng “có thể mở tài khoản tại công ty kinh doanh vàng và yêu cầu các công ty này thực hiện việc lưu ký vàng…”. Hình như từ sau những “ngày thứ tư đen tối”, liên tiếp trong hai năm vừa rồi, với các cơn điên loạn của giá vàng, các nhà quản lý mới chợt phát hiện rằng sàn vàng, bản chất đúng là một thứ sòng bài, càng để càng bất ổn. Còn nhận ra thêm rằng với cả trăm, ngàn tấn vàng “còn tồn” trong dân, Nhà nước đang chỉ nắm trong tay nguồn dự trữ lớn trên sổ sách. Rằng vàng nằm trong ống bơ, chôn đầu giường, chỉ là thứ vàng chết – khi không được đưa vào lưu thông.
Khá khen cho sáng kiến “đưa vàng của dân cho Nhà nước quản lý” bởi ở giác độ quản lý, ai cũng biết việc đưa vàng vào tập thể- nhà nước vừa huy động được nguồn lực, vừa tiện bề quản lý. Làm sao có chuyện mua đi bán lại ngoài thị trường tự do, làm sao có những cơn điên loạn của giá vàng khi vàng đã vào tập thể! Nhưng vấn đề là bao nhiêu phần trăm dân chúng sẽ đồng ý giao vàng cho nhà nước? Bao nhiêu phần trăm, trong số hàng chục triệu người tích vàng trong ống bơ từ thế hệ này qua thế hệ khác, đủ trình độ để “mở tài khoản”, thực hiện lưu ký?
Nói không quá lời rằng trong mỗi gia đình người Việt, không nhiều thì ít, đều có vàng tích trữ phòng lúc sa cơ. Một sự phòng xa đã được kiểm chứng bằng những cơn “binh biến” của một thời ký “giá – lương – tiền” nhiễu loạn, khi lạm phát lên tới gần 400%. Chính vì sự tích trữ sinh ra từ tâm lý, từ sự mất lòng tin, thì chỉ có thể xoá bỏ tích trữ bằng niềm tin. Bởi nếu chỉ buộc người dân “đưa vàng vào tập thể” bằng biện pháp hành chính trong nỗi nơm nớp lo sợ sẽ rất khó để có thể thực hiện. Ai dám cam kết vàng miếng – một cách rất đơn giản – sẽ không ngay ngày mai biến thành vàng trang sức để vẫn có thể tích trữ, mua bán khi dân chưa tin.
Mặc dù chế độ Kim bản vị (đảm bảo bằng vàng) đã được xoá bỏ từ năm 1972 nhưng các đồng tiền giấy trên thế giới – có mức độ chuyển đổi cao – được đảm bảo bằng sự ổn định kinh tế, sức mạnh tài chính và mức độ tự do của thị trường. Khi tiền VND hầu như chưa được bất kỳ một quốc gia nào khác chấp nhận thì người dân tích trữ tài sản bằng vàng là chuyện rất đỗi giản dị, dễ hiểu. Với việc cấm kinh doanh vàng miếng, có vẻ người dân đang bị tước đoạt quyền sở hữu đối với thứ kim loại quý, đồng thời là tài sản của mình – khi việc kinh doanh – bao hàm cả nghĩa mua bán, bị coi là bất hợp pháp.
Trên các tờ USD, từ năm 1957 đã in rành rành dòng chữ “In God we trust”- Chúng tôi tin vào chúa.
Nhưng giờ thì những người dân Việt biết tin vào điều gì đây? Vàng hợp tác? Tiền đồng mất giá mỗi năm ít nhất hai con số? Hay là những lời hứa?
Đào Tuấn
http://vn.360plus.yahoo.com/tuanddk/article?mid=5156
Chủ Nhật, 27 tháng 2, 2011
Đỗ Kim Thêm - Tìm hiểu về khái niệm Rule of Law của nước Anh
Từ sự suy sụp kinh tế mà Liên Xô đã quyết định táo bạo
đi theo con đường cải cách và những thành tựu của Perestroika
đã gây nhiều ấn tượng sâu xa và cũng là mô hình cho Việt
Nam tiến hành công cuộc Đổi Mới. Một trong những thay đổi
quan trọng của Perestroika là du nhập khái niệm nhà nước pháp
quyền (Rechtsstaatsbegriff) của Đức. Khái niệm này là
một học thuyết thuộc luật hiến pháp nhằm đề cao tính cách
tối thượng của luật pháp và hiến pháp mà chính nhà nước
cũng phải tuân thủ. Liên Xô đã vận dụng khái niệm này và
dịch thành Pravovoe gosudarstvo nhưng không cải biên.
Vì nhiều lý do khác nhau Việt Nam đã không trực tiếp học
tập kinh nghiệm của Đức, mà lại từ Liên Xô. Việt Nam hiện
nay vẫn kiên định tiếp tục theo đuổi con đường Xã Hội
Chủ Nghĩa (XHCN), mà trên lý thuyết là xây dựng nhà nước
chuyên chính vô sản do giai cấp công nhân lãnh đạo. Để đạt
mục tiêu này Việt Nam sẽ tiếp tục đập tan mọi thế lực
thù địch, bảo vệ thành quả cách mạng và phát huy nền dân
chủ nhân dân nhằm tổ chức, quản lý và phát triển nền kinh
tế thị trường theo định hướng XHCN. Do đó, pháp chế XHCN
vẫn còn là một công cụ để Đảng xây dựng nhà nước
chuyên chính vô sản. Trong chiều hướng vận dụng khái niệm
nhà nước pháp quyền, Việt Nam lại cải biên nó thành nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghiã (NNPQXHCN), điều mà
Đức và Liên xô đều không có trong tư duy của họ. Đáng chú
ý hơn, khi giới thiệu khái niệm NNPQXHCN, Việt Nam đã mượn
thuật ngữ Rule of Law của Anh để diễn đạt, một khái
niệm được hình thành trong một bối cảnh văn hoá, lịch sử
và truyền thống luật pháp khác hẳn với Việt Nam hiện tại.
Tìm hiểu khái niệm Rule of Law và kinh nghiệm của Anh có thể
giúp gì cho Việt Nam trong nỗ lực cải cách luật pháp, đặc
biệt là luật hiến pháp, đó là chủ đề của bài viết này.
Khó khăn đầu tiên là việc dịch khái niệm Rule of Law cho chính
xác trong tiếng Việt. Thật ra, các học giả ngoại quốc đều
không chú trọng vấn đề dịch thuật ngữ. Bằng chứng là các
sách giáo khoa Anh và Pháp ngữ đều giữ khái niệm Rechtsstaat
của Đức mà không dịch, cũng như sách của Đức không tìm
khái niệm tương đương cho Rule of Law của Anh hay État legal của
Pháp mà chỉ diễn giải để giúp người đọc nắm bắt vấn
đề. Vì thấm nhuần văn hoá Á Đông, người Việt rất quen
thuộc với khái niệm nhân trị, pháp trị và đức trị trong
xã hội quân chủ, mà lối diễn đạt này lại còn không thích
hợp trong một xã hội dân chủ, vì chữ 'trị' phải được
hiểu hoàn toàn khác biệt trong hoàn cảnh hiện nay. Về nguồn
gốc thì Rule of Law là một học thuyết trong luật học (legal
doctrine), không phải là một quy định pháp luật (legal
rule). Do đó, chúng ta có thể tạm dịch Rule of Law là
tinh thần thượng tôn pháp luật, vì luật pháp phải
được tất cả tôn trọng, dù là Đảng, nhà nuớc hay dân
chúng. Bài viết này, theo kinh nghiệm học giới phương Tây,
đề nghị giữ nguyên khái niệm Rule of Law để thảo luận nội
dung hơn là đi vào chi tiết của vấn đề thuật ngữ.
Albert Venn Dicey, nhà luật học Anh là người đầu tiên đã
giới thiệu và triển khai khái niệm Rule of Law trong tác phẩm
Introduction to the Study of the Law of Constitution of 1885. Trong
tác phẩm này ông đã mô tả hệ thống hiến pháp nước Anh và
đề ra những nguyên tắc chung của luật hiến pháp. Cho đến
nay học giới đã xem đây là tác phẩm kinh điển cho việc
nghiên cứu luật hiến pháp nói chung và học thuyết Rule of Law
nói riêng. Nói như thế không có nghĩa là xác định rằng Rule
of Law được hình thành vào thế kỷ XIX mà thật ra nó đã có
một lịch sử lâu đời. Do đó cần phải tìm xem khái niệm
này hình thành từ lúc nào.
Ý kiến thứ nhất của nhiều
học giả đều đồng ý rằng lịch sử về chủ thuyết hiến
định tại Anh (English constitutionalism) là khởi điểm cho
khái niệm Rule of Law. Dù là một khái niệm bất thành văn nhưng
nó đã được thể hiện qua các văn kiện luật pháp làm nền
tảng cho luật hiến pháp tại Anh. Các văn kiện này là Magna
Charta, Petition of Rights, Bill of Rights và
Habeas Corpus mà ở đây không thể đi vào chi tiết.
Nhìn lại lịch sử Anh thời xưa ai cũng công nhận Anh một xã
hội phân chia giai cấp rõ rệt và xung đột giai cấp là chuyện
hiển nhiên mà hoàng gia, quý tộc, tu sĩ và địa chủ là những
tầng lớp có nhiều ưu quyển. Đặc điểm chính này đã có
ngay từ thế kỷ XIII. Dù sống trong thể chế quân chủ các
học giả nhận ra đưọc vai trò của pháp luật làm nền tảng:
tự do và bình đẳng của người dân trước pháp luật và toà
án, tất cả đều bị ràng buộc bởi luật pháp, kể cả nhà
vua. Câu nói của Henry de Bracton là một bằng chứng luôn được
trưng dẫn: "Nhà vua không bị ràng buộc bởi dân chúng, mà
bởi thượng đế và luật pháp, chính vì luật pháp tạo ra nhà
vua". Một ý tuởng khác của William Edward Hearn cũng có
nội dung tương tự. Ông nói: "Gió mưa có thể vào được mái
tranh của người dân nghèo, nhưng không hề vào đuợc thâm cung
của hoàng gia, nhưng bất kỳ ngưòi dân Anh nào, dù thường dân
hay quý tộc vẫn bị ràng buộc bởi pháp luật và bình đẳng
trước toà án". Niềm tin vào luật pháp cũng được Sir Edward
Coke minh chứng. Ông nói: "Luật pháp là một thâm cung kín
đáo nhất và cũng là một phòng thủ mạnh nhất để bảo vệ
nguời cô thế". Đây là những ý niệm chính mà sau này
Ducey triển khai.
Nhưng sự biến đổi xã hội từ thế kỷ XVII đã làm thay
đổi nhiều mối quan hệ trước đây, đặc biệt khi giai cấp
thương nhân ra đời, họ trở nên giàu có và bắt đầu muốn
có thế lực. Những cải cách pháp lý đã giúp cho giới này có
tiếng nói mạnh hơn chống lại địa chủ và các giai cấp
khác, mà quyền tư hữu, quyền chuyển nhượng tài sản, quyền
thừa kế và tự do kết ước là những thành tựu lớn nhất
trong thời kỳ này. Những pháp luật bảo vệ người dân
trước tòa án được hình thành rõ rệt. Người dân Anh dù
bất kỳ thành phần giai cấp nào cũng được luật pháp bảo
vệ. Các sử gia hãnh diện cho rằng nước Anh là một vương
quốc của luật pháp và công bình. Từ đó khái niệm Rule of Law
ra đời trong khuôn khổ của một nền tự do kiểu nước Anh
(the liberty of the English). Sự hãnh diện này có lý do
của nó. Các học giả đã chứng minh rằng từ thế kỷ XVII
nước Anh hầu như không còn có việc tra tấn trong các cuộc
điều tra hình sự và hệ thống tòa án hoàn toàn độc lập
với cơ quan hành pháp. Nguyên tắc phân quyền này đã giới
hạn sự chuyên quyền của cơ quan hành pháp. Đáng kể nhất là
niềm tin của dân chúng vào các hoạt động của tòa án,
người dân Anh tự hào được sinh ra trong môi trường tự do,
mà hai quyền cơ bản lúc bây giờ là tự do lập hội và tự do
báo chí. Còn tự do tôn giáo thực ra chỉ có mức độ giới
hạn.
Đến thế kỷ XVIII thì khái niệm Rule of Law đã phổ biến khi
hệ thống luật pháp của Anh đã đi vào nề nếp, nhất là khi
hệ thống chính quyền dựa vào chủ thuyết hiến định làm cơ
sở nhắm vào việc bảo vệ quyền lợi người dân, một khởi
điểm cho sự phát triển dân chủ theo mô hình của phương Tây.
Những người tranh đấu chống lại bất công giai cấp trong xã
hội, những người bất đồng quan điểm về tôn giáo hay chính
trị đều có quyền sử dụng những quyền tranh đấu của
mình, quyền này được bảo đảm trong khuôn khổ luật hiến
pháp.
Ý kiến thứ hai của các nhiều
học giả cho rằng chính yếu tố văn hoá vào thế kỷ XVIII là
thành tố quan trọng giúp cho khái niệm Rule of Law được phát
triển và ý thức về vai trò luật pháp làm nền tảng cho việc
tổ chức xã hội. Từ đó, luật pháp trở thành một giá trị
có một sức mạnh vô hình đặc biệt, dĩ nhiên nó không phải
là sức mạnh như quân đội, không cần dựa vào huyền thoại
của tôn giáo, không nhờ sự cưỡng chế về kinh tế, mà chính
tinh thần tìm hiểu về công lý và yêu chuộng hoà bình làm căn
bản cho tinh thần thượng tôn pháp luật. Một hãnh diện khác
mà luật giới Anh luôn đề cập khi bàn về Rule of Law là vai
trò của bộ hình luật. Hình luật Anh rất hữu hiệu nên giúp
cho xã hội Anh ổn định mà không cần đến cảnh sát hay quân
đội để lo chuyện trị an. So với các quốc gia khác tại châu
Âu trong cùng thời kỳ, thì bộ hình luật của Anh là một mẫu
mực, đặc biệt là về phần luật thủ tục tố tụng. Thí
dụ như nước Pháp lúc bấy giờ vẫn có chế độ mật chỉ
(lettre de cachet), có nghĩa là bắt người không theo thủ
tục và giam người vô thời hạn mà không cần quy kết một
tội danh nào. Nói như thế không có nghĩa là hình luật tại Anh
rất khoan dung, mà phải hiểu là những tiêu chuẩn quy định
về thủ tục cũng như kết án khá rõ rệt ngăn ngừa được
mọi sự chuyên đoán của cơ quan hành pháp hay những quyết
định quá nghiêm khắc của tòa án. Nó đem đến một niềm tin
cho người dân một cảm tưởng về sự an toàn pháp lý.
Lịch sử cho thấy nước Anh không phải là đất nước luôn có
sự đồng thuận đầy lý tưởng mà sự tranh chấp quyền lợi
theo giai cấp đã gây ra bao xung đột thường xuyên trong xã
hội. Hoàng gia, quốc hội hay địa chủ luôn tìm cách bảo vệ
quyền lợi của giai cấp mình thông qua việc áp dụng luật
pháp. Trong khi nghiên cứu cách giải quyết tranh chấp trong xã
hội các học giả đều cho rằng luật pháp chưa hề bị bẻ
gẫy để phục vụ cho bất kỳ một giai cấp nào trong suốt
thời kỳ từ thế kỷ XVI đến XVIII. Chính luật pháp đã bảo
vệ tài sản của người dân tránh được sự lạm quyền của
hoàng gia và sự kiêu căng của giới quý tộc.
Dĩ nhiên, không phải bất cứ lúc nào luật pháp cũng đem lại
công bình tuyệt đối, nhưng ít nhất sự công bình trong mọi
thủ tục pháp lý cũng đem đến cảm tưởng là người dân
không bị coi là nạn nhân của bạo quyền. Giai cấp thống trị
và đặc quyền đặc lợi trong xã hội thường tìm cách hợp
pháp hoá các quyền lợi của mình và tìm cách ngăn ngừa những
thế lực khác phân chia việc sử dụng những ưu quyền này.
Nhưng luật pháp đem lại một giá trị mới cho mọi ngưòi dân
Anh là họ có thể hãnh diện nói rằng mình có quyền hưởng
tự do từ thuở lọt lòng (right of free borm Englishman).
Edward P. Thompson đã nhắc lại ý niệm này khi cho rằng nhà cầm
quyền, dù muốn hay không, khi tham gia vào trò chơi quyền lực,
cho dù họ cố giữ sao cho luật pháp phù hợp với quyền lợi
của giai cấp của họ, nhưng điều quan trọng là họ không
thể bẻ gẫy luật pháp hay hủy bỏ luật chơi. Sir Edward Coke
cũng diễn đạt tương tự khi ông nói rằng không phải chỉ có
gia cấp thống trị sử dụng luật pháp nhằm ngăn chống mọi
thứ hành sử bạo lực, (thí dụ như giam ngưòi vô cớ, sử
dụng quân đội để trấn áp đám đông, tra tấn và các
phương tiện bất công khác), mà chính luật pháp tự nó, trong
chừng mực nào đó, là phương cách để giải quyết các vấn
đề xung đột giai cấp.
Thực tế cho thấy luật pháp của Anh qua hệ thống common law
được hình thành là do cả một quá trình dài của lịch sử.
Với hệ thống án lệ chặt chẽ và những luận giải phân
minh, khó mà bất cứ ai, nhân danh bất kỳ lý do gì, để có
thể phá huỷ luật pháp một cách dễ dàng. Tranh chấp về
luật đất đai hay luật bảo vệ tài sản là một thí dụ.
Trước đây luật bảo vệ tài sản không quy định chặt chẻ,
định nghĩa không rõ ràng, sau này đã được sửa đổi phù
hợp và đưa vào áp dụng. Các tranh chấp luật pháp đều dựa
trên những luật pháp thành văn do quốc hội thông qua và luật
phong tục được chuẩn nhận. Do đó, mọi tranh chấp luật pháp
trước tòa án đều được thủ tục hoá rất cao độ, dĩ
nhiên phí tổn cho thủ tục toà án trở nên quá đắt và vấn
đề thủ tục hợp pháp trước toà án chính là điều khó khăn
chủ yếu. Tranh tụng về quyền sở hữu đất đai đôi khi lại
trở thành vấn đề tranh chấp thuần về luật thủ tục
trước tòa án.
Ý kiến thứ ba giải thích rằng chính Rule of Law đã đóng một
vai trò quan trọng trong việc hoà nhập các giai cấp trong xã
hội Anh và giúp dân Anh thoát ra các cuộc khủng hoảng sau khi
cách mạng Pháp thành công. Điển hình là sư xung đột xã hội
vào đầu thế kỷ XIX. Bất công xã hội lan rộng, giai cấp
thống trị đã có ý định hủy bỏ khái niệm Rule of Law và
thay đổi hiến pháp nhắm áp đặt một cơ chế cai trị chuyên
quyền bằng bạo lực. Họ đã bắt đầu đi theo chiều hướng
này. Nhưng cuối cùng họ đành phải từ bỏ ý định mà trở
về con đưòng hợp pháp vì thấy rằng không thể làm tiêu tan
uy tín của chính quyền và làm lu mờ hình ảnh chính danh của
luật pháp đã hình thành trong quá khứ. Cải cách về bầu cử
và mở rộng việc thăm dò dư luận vào năm 1832 đã làm cho
thanh danh của pháp luật và uy tín của nhà nước được hồi
sinh. Chính luật cải cách năm 1832 đã đem lại giá trị cho
luật pháp vì đó là một phương tiện nhằm giới hạn mọi
xung đột chính trị và xã hội, và đặc biệt hệ thống tư
pháp được củng cố.
Tóm lại, Rule of Law la một thành tựu về văn hoá và lich sử
trong cả một quá trình dài trên 300 năm mà kết quả là tất
cả moị tranh chấp quyền lợi của mọi tầng lớp hoàng gia,
quý tộc, địa chủ, tá điền, công đoàn và thương giới
đều được giải quyết bằng phương tiện luật pháp. Luật
pháp là một sân chơi bình đẳng mà chính ngưòi cô thế trong
xã hội cũng chấp nhận (fair play in the Rule of Law).
Dù Rule of Law là một khái niệm được hình thành và chấp
nhận trong xã hội Anh qua chiều dài của lịch sử nhưng mãi
đến cuối thế kỷ XIX vẫn chưa có một học giả nào đưa ra
một ý nghĩa chính xác về Rule of Law. Thực tế thì cũng chưa
có ai xác định tầm quan trọng của chủ thuyết hiến định
tại Anh và đặt vấn đề tìm hiểu tại sao hệ thống luật
tại Anh có khả năng duy trì được trật tự công cộng và
quyền tự do cá nhân trong xã hội. Dicey chính là người đầu
tiên làm công việc này trong tác phẩm Introduction to the Study
of the Law of the Constitution of 1885. Đây là một công trình mà
giá trị của nó cho mãi đến nay không nhà nghiên cứu nào có
thể vượt qua và vẫn luôn là một đề tài được học giới
đem ra để thảo luận.
Những luận điểm của Dicey đề ra đã chịu nhiều ảnh
hưởng tư tưởng của John Austin. John Austin cho rằng để nhà
nước được tiếp tục duy trì, nhà nước cần có một cơ quan
tối thượng mà quyền lực khó có thể định nghĩa trước
một cách chính xác và không thể nào giới hạn được. Khái
niệm này được chấp nhận dễ dàng trong công luận, bởi vì
nội dung khái niệm quyền tối thượng này chỉ hầu như lập
lại những nguyên tắc hợp hiến đã có trước đây. Một trong
những thành tựu xuất sắc của Dicey là tổng hợp và diễn
đạt lại những ý tưởng của John Austin và luận cương chính
trị của đảng Tự Do (Whig). Dicey cho rằng chính Rule of Law và
quyền tối thượng của quốc hội làm nguyên tắc nền tảng
của hiến pháp Anh. Tổng hợp hai luận điểm này, Dicey cho là
khái niệm Rule of Law không có khả năng giới hạn quyền lực
của toàn bộ guồng máy nhà nước mà chỉ giới hạn quyền
lực của chính phủ. Lập luận này cho thấy khái niệm Rule of
Law của Dicey rất gần với khái niệm Rechtsstaat của Đức,
cũng được hình thành trong cùng thời kỳ. Rule of Law được coi
như là một mô hình tốt đẹp nhất nhằm bảo vệ người dân
chống lại những hành vi chuyên đoán của nhà nước. Nội dung
của Rule of Law mà Dicey đề ra có thể được tóm lược qua
những nguyên tắc cơ bản như sau:
Nguyên tắc thứ nhất là quyền tối thượng của
quốc hội được ông trình bày trong phần đầu
trong tác phẩm. Quốc hội có thể làm luật hay hủy bỏ luật,
không một cơ quan hay một cá nhân nào có quyền bỏ thẩm
quyền này của quốc hội. Thẩm quyền của quốc hội là
tuyệt đối, vì mọi thay đổi thì chỉ gây hậu quả là làm
cho quyền này trở nên tương đối mà thôi. Chính tòa án cũng
phải tôn trọng nguyên tắc này. Ý tưởng này rất gần gũi
với luận thuyết của John Austin. Trong khi đó, tại các quốc
gia khác ở châu Âu lại có khuynh hướng chia luật ra làm hai
loại: luật hiến pháp làm nền tảng và các loại luật khác.
Ông cho rằng sự phân biệt này chỉ dựa trên tiêu chuẩn hình
thức hoặc thủ tục lập pháp. Luật hiến pháp tại Anh không
hề đi sâu vào việc phân biệt quyền này. Nhưng ông lại phân
biệt quyền tối thượng của quốc hội là thuộc về luật
pháp chứ không liên hệ tới quyền tối thượng về chính
trị, vì quyền chính trị thuộc về lãnh vực bầu cử mà nhà
lập pháp hoàn toàn lệ thuộc vào việc kiểm soát chính trị
qua các cuộc bầu cử.
Nguyên tắc thứ hai là quyền tự do của cá nhân
phải là một quyền hiến định, một quyền mà ông
cho là nội dung chính của khái niệm Rule of Law. Thật ra trước
đây tự do cá nhân cũng đã được quy định trong các văn bản
khác thí dụ như Habeas Corpus Writs. Nhưng trong tác phẩm
này, ông thảo luận khá chi tiết trong phần tự do hội họp,
tư do ngôn luận và xác nhận tính cách tối thượng của Rule
of Law làm nền tảng cho trật tự hiến định của Anh. Theo ông,
quyền tự do cá nhân có ba khía cạnh chủ yếu:
Khía cạnh thứ nhất là tinh cách
hợp pháp của mọi hành vi, nghĩa là không ai có thể bị trừng
phạt nếu không phạm pháp. Việc phạm pháp phải được tòa
án điều tra và kết án theo đúng thủ tục. Nguyên tắc này
nhằm tránh mọi sự lạm quyền và chuyên đoán không dựa trên
cơ sở pháp luật của cơ quan chấp pháp. Chính sự công nhận
chủ thuyết tự do và đưa chủ thuyết này vào làm nội dung
của hiến pháp là một đóng góp quan trọng của ông. Rule of Law
trở thành một nguyên tắc lập pháp, mà ý chính là mọi hành
vi của chính phủ nhằm giới hạn vào quyền tự do cá nhân và
tài sản đều phải dựa trên luật hiến pháp.
Khía cạnh thứ hai đề cao nguyên
tắc bình đẳng trước tòa án. Luật pháp được áp dụng cho
tất cả mọi người không phân biệt thành phần, giai cấp hay
trình độ. Đây là nguyên tắc đồng nhất dành cho mọi chủ
thể pháp luật. Ông chú ý đến vai trò của tòa án trong xét
xử. Khi đề cao Rule of Law như là một đặc điểm của Anh, thì
không phải chỉ có ý là không một ai có quyền đứng trên
luật pháp mà phải hiểu rằng bất kỳ người dân nào, bất
kể là thành phần nào trong xã hội, đều bị ràng buộc bởi
pháp luật và chịu sự xét xử của tòa án trong thẩm quyền
luật định. Thật ra, qua đề xuất này ông đã gián tiếp chỉ
trích về sự lạm quyền của các công chức trong việc áp
dụng luật hành chánh. Chính nguyên tắc bình đẳng trước pháp
luật tạo khả năng loại trừ mọi tham quyền cố vị, không
tôn trọng luật pháp, đặc biệt là những ngoại lệ trong
luật hành chánh. Ông lấy luật hành chánh của Pháp làm thí
dụ. Luật này đã tạo quá nhiều ngoại lệ khiến cho các công
chức dễ lạm quyền, khi có vấn đề thì họ chỉ chịu trách
nhiệm trước toà án hành chánh và thoát ra khỏi được sự
kiểm soát của hệ thống pháp luật chung. Ông cho rằng không
nên cho các công chức quá nhiều ưu quyền được miễn truy
cứu trách nhiệm khi so với người dân khác. Dĩ nhiên, đây là
một đề tài tranh luận về sự khác biệt nội dung luật hành
chánh tại Pháp và Anh. Nhưng với nguyên tắc bình đẳng trước
pháp luật theo khái niệm Rule of Law của Anh thì người dân Anh,
theo ông, sẽ được hưởng nhiều an toàn về mặt pháp lý hơn
người dân Pháp. Ông cho rằng câu nói toà án là cơ quan tối
thượng cho cả nước không thể áp dụng cho trường hợp của
Pháp.
Khía cạnh thứ ba là nguyên tắc
quyền tự do người dân phải được toà án bảo vệ. Sự bảo
vệ này không phải bắt nguồn từ hiến pháp mà còn qua các án
lệ tòa án. Đây là một sư kiện lịch sử, nó biểu hiện
một truyền thống đặc thù về commom law và hiến pháp Anh.
Một câu nói khá quen thuộc và luôn luôn được lập lại để
mô tả đặc tính hiến pháp của Anh: "Hiến pháp không được
làm sẵn mà hình thành do sự phát triển". Ông đả phá quan
điểm cho rằng chính phủ nước Anh là một sự phát sinh đột
biến trong xã hội đầy xung đột mà thật ra là sự phát
triển tiệm tiến qua ý chí và năng lực của con nguời. Pháp
luật là một sản phẩm của ý chí của con người, không
giống như cây cỏ chỉ vun trồng và tự nó lớn lên. Ý ông
muốn nói giá trị của luật hiến pháp không thể phát triển
tự nhiên, mơ hồ và không định hướng mà chính vai trò án
lệ giúp cho tự do của người dân Anh được bảo vệ. Thành
quả này phải kể đến sự góp sức của tòa án. Nếu quan
điểm bảo vệ tự do này được hiến pháp các quốc gia châu
Âu đề ra như một nguyên tắc, thì tại Anh, theo ông, ngược
lại, chính là một phương thức thực hành, một hệ quả của
quyền tự do cá nhân được tòa án minh thị và áp dụng.
Phương cách áp dụng này cho thấy rằng không nên xem hiến pháp
Anh là một sự đột biến đầy sáng tạo mà là kết quả của
một hoạt động bình thường trong toà án thông qua án lệ.
Dicey lạc quan cho rằng các án lệ đều hoàn hảo và hiến pháp
Anh sẽ diễn biến tốt đẹp trong chiều hướng này. Để minh
chứng, ông nêu lên sự khác biệt về nguồn gốc của hiến
pháp Anh và các quốc gia châu Âu. Khác hẳn với châu Âu, toà
án tại Anh đã một thành tố quan trọng trong tiến trình lập
pháp, chính toà án là nơi chuẩn nhận những quyền căn bản
của người dân trong trong hệ thống common law. Dĩ nhiên, quốc
hội và tòa án, với chức năng khác nhau, đều có đóng góp
của riêng mình trong sự phát triển này. Học giới châu Âu
thường chỉ trích điểm yếu của hiến pháp Anh là không thành
văn bản, nên về mặt hình thức thì những quyền tự do cá
nhân không được coi là do hiến pháp quy định. Dicey lập luận
rằng sự chì trích này thiếu cơ sở. Thật ra, sự bảo vệ
quyền căn bản của người dân, dù không minh thị qua một văn
kiện cao nhất là hiện pháp, đã được tổng quát hoá qua
những quyết định của toà án. Sự khác biệt này, theo ông,
chỉ là về mặt nguồn gốc lập pháp và hình thức mà thôi,
nhưng trên thực tế cho thấy thì sự hữu hiệu về bảo vệ
quyền của người dân, dù ở Anh hay ở các nước khác tại
châu Âu, đều giống nhau. Giá trị của những nguyên tắc hiến
định, theo ông, không phải chỉ là những tuyên bố long trọng,
mà là kết quả từ sự thực hành trong toà án. Không có hiến
pháp thành văn không có nghĩa là người dân Anh sẽ gặp khó
khăn hơn trong việc bảo vệ quyền của mình.
Mối quan hệ giữa việc bảo vệ quyền cá nhân và hiến pháp
tại Anh hoàn toàn khác biệt với các quốc gia châu Au, vì tại
Anh, quy định quyền tự do bởi nhiều văn kiện khác nhau, thí
dụ như Habeas Corpus và hệ thống án lệ. Hầu hết hiến pháp
các quốc gia châu Âu chú trọng việc định nghĩa quyền cá
nhân và quan tâm nhu cầu bảo vệ quyền này, trong khi toà án Anh
đề ra một khuôn khổ để áp dụng các quyền này theo hệ
thống hiến định. Hiến pháp các nước trong châu Âu quy định
quyền cá nhân trong hiến pháp, nhưng sự thực ra chỉ là một
sự diễn dịch từ nguyên tắc chung trong hiến pháp, mà khi cần
thiết phải thay đổi hiến pháp thì lại rất khó khăn, vì còn
có vai trò của quốc hội trong việc tu chỉnh. Lịch sử chứng
minh rằng tại Anh quyền tự do cá nhân được đảm bảo tốt
hơn nếu so với các quốc gia châu Âu vì lẽ toà án Anh với
hệ thống án lệ nghiêm minh đã bảo vệ chặt chẽ các quyền
này. Do đó, tất cả vấn đề bảo vệ quyền căn bản hiến
định đều giống nhau. Ở Anh quyền tự do cá nhân đưọc công
luận và học giới cảm nhận là một phần trong luật thông
thường hơn là luật hiến pháp. Dicey xác nhận hiến pháp
được quy định trên nền tảng của Rule of Law và quyền tối
thượng của quốc hội. Do đó, việc tạo thành hay hủy bỏ
luật hiến pháp không phải là kết quả của một thành quả
cách mạng.
Học thuyết của Dicey đã gây được tiếng vang trong học
giới, nhưng không có nghĩa là đã được sự đồng thuận, mà
ngược lại, gây ra nhiều tranh luận.
Một trong những người phản bác đầu tiên phải kể đến là
August Friedrick von Hyek. Ông cho rằng không hề có sự phù hợp
giữa hai khái niệm Rule of Law và quyền tối thượng của quốc
hội như Dicey giải thích vì lịch sử của chủ thuyết hiến
định cũng như lịch sử về chủ thuyết tự do là cả một
cuộc đấu tranh chống quyền tối thượng và nhà nước toàn
năng. Do đó, nên đặt ra một giới hạn thẩm quyền của quốc
hội, nếu không, thì quyền hạn và tự do của ngưòi dân dù
thông qua hệ thống common law cũng có thể bị quốc hội hủy
diệt trong một sớm một chiều.
Georffrey De Q. Walker cho rằng quyền tối thượng của quốc hội
cũng không phải là một trong những nguyên tắc chính của hiến
pháp Anh. Dicey đem lại nhiều mơ hồ trong học thuyết hơn là
khai sáng vấn đề vì không thể giảm bớt nội dung của Rule of
Law vào việc luật pháp chỉ là chuyện chấp nhận luật (rule of
recognition). Khi giải thích Rule of Law, Dicey đề cao vai trò của
quốc hội và coi quốc hội như là nguồn gốc tối hậu của
mọi quyền hành và thoát khỏi những cưỡng chế về mặt
luật pháp. Nếu theo chiều hướng giải thích này, mọi luật
lệ khác đều mất đi ít nhiều giá trị. Khi cho rằng mọi
hành vi của quốc hội hầu như luôn luôn được tòa án chuẩn
nhận là đúng, điều này nên nghi ngờ. Dicey không hề cứu xét
đến những hậu quả pháp lý hay những uớc vọng chính đáng
của cá nhân. Theo luận điểm này, Dicey đã đề cao quá mức
quyền tối thượng của quốc hội, đồng thời làm suy yếu
việc bảo vệ quyền cá nhân.
Có học giả khác lại phê bình việc kết hợp hai nguyên tắc
Rule of Law và quyền tối thượng của quốc hội là một sai
lầm vì lẽ không những gây sự tương phản trong áp dụng, gây
tác hại cho toàn bộ mô hình hiến pháp, mà còn làm cho luật
hiến pháp Anh không còn là nền tảng chắc chắn. Ý kiến phản
biện quy vào điểm chủ yếu là việc Dicey chỉ dựa vào luận
thuyết của Austin để triển khai. Một mặt, Dicey cổ vũ cho
quốc hội được quyền tối thượng trong sinh hoạt lập pháp,
mặt khác, Dicey lại muốn đấu tranh cho tự do cá nhân thoát
bỏ mọi chuyên chế theo mô hình của Hobbes. Tác phẩm của Dicey
nên được coi như là một khởi thảo cho một mô hình của
luật hiến pháp và Rule of Law chỉ là một khuôn mẫu chỉ có
giá trị nội tại giá trị được định hình và phát triển
trong hệ thống của common law. Do đó, Rule of Law, tự nó, chỉ
là một khâu hiệu vô nghĩa, và nội dung của nó cũng chỉ là
một trong những đặc điểm của luật hiến pháp.
Ý kiến khác lại cho rằng luận thuyết của Diecey chỉ là một
sản phẩm phản ánh những suy nghĩ trong bối cảnh văn hoá và
chính trị lúc bây giờ. Lý do thứ nhất để giải thích là
vào cuối thế kỷ XIX những xung đột trong hệ thống common law
và luận thuyết Austin đang ở thời kỳ cao điểm, mà Austin
chỉ chú trọng vào những hoạt động lập pháp. Lý do thứ hai
là một phần thuyết này lại bắt nguồn từ luận cương của
Đảng Whig đang thắng cử từ năm 1866 cho đến 1884, hiển nhiên
việc thắng cử làm vai trò của quốc hội được nâng cao. Tác
phẩm của Dicey, xuất phát từ trong bối cảnh đó, đã trở
thành một tiêu chuẩn để giải thích cho mô hình hiến pháp cho
mãi đến sau khi đệ nhị thế chiến.
Hiển nhiên, Dicey rất hãnh diện truyền thống luật pháp Anh
trên hai bình diện lý thuyết và lịch sử, điều này có thể
hiểu được khi ông đánh giá về sự phát triển luật hiến
pháp Anh. Để trả lời những phản biện, Dicey cho rằng mối
quan hệ giữa Rule of Law và quyền tối thượng của quốc hội
không phải là mối quan hệ tự động mà chỉ hình thành và
phát triển được ở Anh mà thôi. Ông lấy mô hình hiến pháp
của Pháp để so sánh. Quốc hội Pháp và quốc hội Anh, về cơ
bản thì giống nhau về quyền lực, nhưng khi hành sử thì quốc
hội Pháp đã biểu thị một tinh thần hoàn toàn khác biệt.
Quốc hội Pháp, nói chung, có khuynh hướng can thiệp quá nhiều
vào các vào các hoạt động hành chánh và không tin về sự
độc lập của tư pháp. Mặt khác, quốc hội Pháp cũng nới tay
để cho hành pháp trong việc cai trị. Ngoài ra, còn có sự khác
biệt về thái độ của quốc hội Anh và Pháp trong mối quan
hệ với công chức hành chánh. Công chức Anh mang tinh thần
phục vụ hoàng gia nhiều hơn, cho dù quyền lực của quốc hội
có tăng lên trong thực tế. Tinh thần phục vụ hoàng gia cũng
một phần là do là một truyền thống lịch sử và một phần
vì giới công chức Anh cũng luôn có nghi ngờ đối với quốc
hội. Dù ở cương vị quyền tối thượng, quốc hội Anh không
can thiệp trực tiếp vào việc áp dụng luật pháp và không
chủ trương cho các công chức hành chánh có quá nhiều quyền
bãi miễn truy cứu khi ra toà án. Điều này thì Anh trái hẳn
với Pháp.
Mối quan hệ giữa hoàng gia, quốc hội, chính quyền và tư pháp
tại Anh không luôn luôn tốt đẹp mà là các xung đột và các
thỏa hiệp, mà việc toà án và quốc hội liên minh để chống
lại hoàng gia là một chứng minh. Việc này thường xảy ra, mà
căng thẳng nhất là vào thế kỷ XVII và cao điểm nhất từ
thế kỷ XVIII trở đi, liên hiệp quốc hội và tòa án đã
thắng thế và có nhiều thuận lợi hơn trong việc định hình
cho luật pháp. Dicey cho rằng chính những biến cố này cho thấy
quốc hội có khuynh hướng bảo vệ sự độc lập của toà án,
trong khi đó hoàng gia lại nỗ lực bảo đảm phương tiện cho
hành pháp thi hành nhiệm vụ của họ. Diễn biến của tình
hình này khiến cho quốc hội, dù có vai trò tối thượng, nhưng
chỉ có thể hành sử được quyền này khi liên minh được
với tòa án. Mối quan hệ này trở thành lịch sử và định
hình cho khái niệm của Rule of Law như ông đã đề cập.
Một điểm khác gây tranh luận là sự so sánh giữa Rule of Law
và nguyên tắc hợp pháp. Dicey trả lời rằng Rule of Law không
thể bảo đảm tuyệt đối các quyền cơ bản của ngưòi dân
mà chỉ tìm cách nhằm chống lại sự lạm quyền của chính
quyền. Khi so sánh các quốc gia châu Âu trong thế kỷ XVII, Dicey
cho rằng nhìn chung các nước không hề có đàn áp một cách
thô bạo, nhưng thực tế cho thấy không có nước nào có thể
bảo vệ người dân một cách hoàn hảo trước bạo quyền.
Nhưng ở nước Anh thì việc cai trị không xuất phát từ sự
thành tâm cố hữu của chính quyền mà là từ nguyên tắc hợp
pháp của luật pháp. Rule of Law không trực tiếp đem lại một
định nghĩa chính xác nào cho quyền tự do của người dân mà
chỉ nhằm giới hạn vào mục tiêu bảo đảm về những an toàn
của luật pháp và những tiên đoán về hành vi của chính
quyền. Tự do được bảo đảm trong khuôn khổ của Rule of Law
chỉ là một loại tự do còn sót lại trong hệ thống: tự do
làm những gì mà luật pháp không cấm. Rule of Law không dựa vào
các tuyên bố long trọng nhằm bảo vệ quyền cơ bản cho
người dân mà căn cứ vào nguyên tắc hợp pháp. Trong khi quốc
hội có thể hủy bỏ các quyền cơ bản của người dân
được quy định trong hiến pháp khi cần, thì chính Rule of Law
với nguyên tắc hợp pháp sẽ chống lại sự lạm quyền của
hành pháp, cho dù Rule of Law không thể bảo đảm tự do tuyệt
đối cho người dân trong việc hành xử các tự do của họ.
Theo ông, đấy chính là một nguyên tắc mà mọi can thiệp vào
đời sống, tự do và tài sản phải được cho phép bởi luật
pháp.
Dicey cho rằng quốc hội làm luật chỉ là việc để đưa ra
các ý chí chung của nhà lập pháp, nhưng khi giải quyết vấn
đề tranh chấp thì chủ yếu phải là việc nâng cao vai trò
của tư pháp. Việc hiến pháp có nên giới hạn quyền của
quốc hội hay không, ông không coi đó là điều quá quan trọng,
mà theo ông, mỗi khi luật được ban hành đều phải được cơ
quan hành chánh áp dụng đúng đắn và được cơ quan tư pháp
theo dõi. Những nguyên tắc cơ bản của hiến pháp Anh không
chỉ là quyền tối thượng của quốc hội mà chính là làm sao
mà khi luật ban hành được toà án áp dụng theo đúng như quy
định. Rule of Law và quyền tối thượng của quốc hội không
có khả năng loại trừ nhau mà có ảnh hưởng cộng sinh.Trong
tinh thần này, pháp luật sẽ được duy trì và phát triển.
Dicey còn đề cao vai trò của tòa án trong việc điển chế hoá
hệ thống án lệ, chính toà án là một thành lũy bảo vệ tự
do cá nhân. Toà án không thể hủy diệt luật của quốc hội,
mà trong thực tế toà sẽ áp dụng nghiêm nhặt hay thông thoáng
hơn khi cần thiết. Chính tòa án là nơi bảo vệ quyền căn
bản của người dân được hữu hiệu nhất. Đó là ý chính
của Dicey để minh chứng rằng hai nguyên tăc quyền tối
thượng của quốc hội và vai trò tòa án bổ sung cho nhau trong
việc bảo vệ người dân.
Sự thành công của Dicey trong tác phẩm này là một sư tổng
hợp giữa hai khuynh hướng về hệ thống common law và truyền
thống của chủ nghĩa tự do, làm hồi sinh lại huyền thoại
về common law, những giá trị luật pháp cổ truyền khác và các
căn bản giá trị của chủ thuyết tự do. Trong khuôn khổ giải
thích này, Dicey khẳng định rằng sự vi phạm những quyền
hiến định có thể xảy tại nước Anh, nhưng không thể xáo
trộn đến mức độ đưa tới một cuộc cách mạng triệt để
làm thay đổi toàn bộ hệ thống luật pháp.
Dicey đã lấy việc áp dụng luật Habeas Corpus luận giải vấn
đề này. Luật Habeas Corpus được ban hành lần đầu tiên vào
thời của Charles II, nhằm bảo vệ những ngưòi bị bắt giam
vô cớ. Luật này đưọc tu chỉnh dưới thời George III và nới
rộng hơn việc bảo vệ liên quan đến thủ tục tố tụng hình
sự. Tòa án có quyền yêu cầu cơ quan chấp pháp làm rõ việc
giam người và làm nhanh thủ tục xét xử. Dicey cho rằng việc
áp dụng luật Hebeas Corpus của toà án đã tăng giá trị cho
luật hiến pháp hơn là quốc hội. Nhưng thực tế cho thấy
đây là điều không dễ dàng. Trong thời kỳ hỗn loạn chánh
trị, việc bắt người nghi ngờ phạm pháp của cơ quan chấp
pháp tăng nhanh. Việc sốt sắng này gây cho toà án nhiều ngờ
vực nên đã áp dụng luật chặt chẽ hơn. Tranh chấp đã xảy
ra đến mức quốc hội phải can thiệp bằng cách ra luật đình
chỉ việc thi hành luật Habeas Corpus để giúp cho chính quyền
làm tốt hơn việc trị an, nhất là liên hệ tới các vụ việc
vi phạm an ninh, phản quốc ở mức trầm trọng. Vấn đề là
tìm cách giải thích thế nào là tính cách khẩn cấp và gây
nguy hại cho an ninh quốc gia, trong chừng mực nào thì quyền an
toàn của người dân phải được bảo vệ. Đây cũng là một
đề tài tranh luận quen thuộc trong học giới mà ở bất cứ
nuớc nào cũng có. Việc đình chỉ thi hành luật không được
phép hiểu là hợp pháp hoá mọi hành vi bắt người trái phép,
nhưng giới hạn việc can thiệp của toà án trong thời kỳ
biến động và đem lại niềm tin cho các cơ quan chấp pháp trong
khi thi hành công vụ, nhưng lại cho thấy đây chính là sự
biểu hiện quyền tối thượng của quốc hội.
Theo Dicey, quốc hội có quyền theo dõi các hoạt động của tòa
án, nếu không, thì quyền tối thượng của quốc hội sẽ
không còn ý nghĩa. Khi quốc hội ra các đạo luật đình chỉ
thi hành luật Habeas Corp thì cũng phải theo đúng thủ tục pháp
định. Việc đình chỉ không phải là những bảo vệ hiến
định về quyền công dân trong các thủ tục về tố tục hình
sự hoàn toàn vô giá trị, mà thực tế toà án vẫn tiếp tục
bảo vệ an toàn cho ngưòi dân trong các thủ tục xét xử và
chỉ làm giảm đi những hậu quả về mặt bảo vệ nhất thời
trong tình hình an ninh nguy kịch. Dicey cho rằng tòa án không thể
áp dụng luật quá cứng nhắc mà không chú trọng đến khía
cạnh an nguy của đất nước và xem đây là những ngoại lệ.
Dicey kết luận rằng quyền tối thượng của quốc hội và
khái niệm Rule of Law bổ sung cho nhau. Quyền tối thượng giúp
cho Rule of Law định hình và phát triển và ngược lại chính
Rule of Law đòi hỏi quốc hội cũng phải theo đúng nguyên tắc
hợp pháp. Điểm chủ yếu mà ông luôn theo đuổi là đã phá
vai trò của toà án hành chánh và các quyền bãi miễn truy cứu
cho công chức. Theo ông, đây là một một mối nguy cơ trong hệ
thống pháp luật, nằm ngoài phạm vi bảo đảm của common law
cũng như ý chí của nhà lập pháp.
Khái niệm Rechtsstaat là một kết quả mà các học giả Đức
đã tiếp thu từ các học thuyết của Locke, Rousseau và
Montesquieu rồi vận dụng vào hoàn cảnh của Đức sau thời kỳ
khai sáng. Quan tâm chủ yếu của học giới Đức vào cuối thế
kỷ XVIII là cho dù ý chí của nhà lập pháp trong việc bảo vệ
quyền tự do của người dân có mạnh đến đâu, thì nó cũng
không đủ để việc áp dụng được hữu hiệu hơn. Một lý do
khác là một trật tự nhằm bảo đảm tự do không thể chỉ
dựa trên quyền tối thượng của quốc hội, chính vì lẽ
quốc hội có khả năng và ý chí hủy diệt quyền này khi
cần.Từ giữa thế kỷ XIX các học giả Đức như Lorenz von
Stein và Otto Bähr đã tổng hợp các khái niệm của Hobbes và
Montesqiueu để định hình cho vai trò của nhà nước mà quan
trọng nhất là họ đã vận dụng thành công nguyên tắc tam
quyền phân lập. Thành quả này làm cho các vai trò bộ máy nhà
nước được xác minh.
Từ cuối thế kỷ XIX khái niệm Rechtsstaat thể hiện rõ hơn
trước vì nguyên tắc hợp pháp không những áp dụng cho cơ quan
tư pháp trong việc xét xử, mà còn cho các cơ quan hành chánh.
Về sau, Rodolf von Jhreing với học thuyết nhà nước tự giới
hạn và Georg Jellinik với học thuyết về tố quyền của
người dân như là một chủ thể pháp luật đã bổ sung làm cho
giá trị Rechtsstaat được gia tăng. Dĩ nhiên, ý thức tôn trọng
luật pháp của dân chúng và những yếu tố văn hoá và lịch
sử đã làm thuyết này được áp dụng thành công.
Về cơ bản, Rule of Law không quá cách biệt với Rechtsstaat trong
việc xác định quyền của tự do cùa người dân là một
quyền hiến định. Trong một nhà nước hiện đại thì các
khái niệm luật pháp đều mang tính phổ quát, hình thức, hợp
lý và hợp pháp trong sư kết hợp với chủ thuyết tự do cá
nhân được quy định trong hiến pháp. Nhưng làm sao dung hoà
được sự bảo vệ quyền tự do với quyền lực của nhà
nước và vai trò quốc hội, đó là ở điểm khác biệt.
Việc áp dụng Rule of Law có phần khác với Rechtsstaat. Dicey
không công nhận luận thuyết của Montesqiueu về tam quyền phân
lập và sự tùy thuộc của quốc hội vào hiến pháp là phù
hợp với Anh, nhưng theo ông, Rule of Law phải dựa vào nguyên
tắc hợp pháp và có trách nhiệm theo dõi sự lạm quyền của
hành pháp. Đây là điểm tương đồng của cả hai. Nhưng điểm
dị biệt là Rule of Law và quyền tối thượng quốc hội bổ
sung cho nhau trong việc bảo vệ tự do và Rule of Law được hữu
hiệu hay không nhờ vai trò toà án. Đó là sự khác biệt giữa
Dicey, Montesquieu và Rousseau. Theo Dicey, luận thuyết của
Montesquieu và Rousseau không thuyết phục vì quan điểm về một
nền tư pháp độc lập là một điều trái ngược truyền
thống Anh. Ông không tin vào vai trò trung dung của toà án mà toà
án chỉ là một phương cách thực hành ý chí của nhà lập
pháp.
Kinh nghiệm cho thấy việc áp dụng luật pháp không thể coi là
máy móc, nhưng nhờ có một hệ thông án lệ hoàn chỉnh của
common law giúp cho việc bảo vệ ngưòi dân được tốt hơn.
Nguyên tắc của Rule of Law chỉ là một khởi đầu trong tiến
trình dài để phát huy dân chủ. Nhưng đâu là sự chính thống
của luật pháp? Sự chính thống này không phải là hiển nhiên
mà có, cũng không phải vì quốc hội Anh có tính chất dân chủ
mà có. Theo Dicey, vấn đề tùy thuộc vào mức độ áp dụng
luật pháp tại toà án. Chính tòa án xét nguyên tắc hợp pháp
của luật pháp, lúc đó mới xác định được là luật pháp
có dân chủ và chính thống hay không. Đặc điểm này chỉ có
được trong truyền thống của common law.
Rechtsstaat mang tham vọng sâu xa hơn khi đề cao tố quyền của
người dân trong trường hợp chính quyền vi phạm vào các
quyền tự do cơ bản và chú trọng về luật nội dung hơn là
luật thủ tục. Sau chiến tranh kết thúc, nhiều học giả Đức
lại càng lý tưởng hoá vấn đề hơn, khi có ý định mở
rộng phạm vi áp dụng tố quyền của người dân trong các vấn
đề an sinh xã hội.
Không ai có thể phủ nhận công lao của Dicey khi đem lại một
nội dung cho Rule of Law, mặc dù công trình không hoàn hảo, vì
thiếu luận cứ triết học vững chắc và không phân biệt rõ
giữa lý thuyết về hiến pháp và những khía cạnh thuộc về
định chế. Dicey lập luận rằng toà án phải áp dụng nguyên
tắc hiến định khi xét xử, nhưng ông không chú tâm đúng mức
tới vấn đề giới hạn quyền lực của chính phủ và quốc
hội. Thật ra, ông đã có ý đề cao hệ thống pháp luật của
Anh khi so sánh với các quốc gia dân chủ phương Tây khác cùng
thời kỳ. Tuy nhiên, để đánh giá sự thành tựu khái niệm
Rule of Law đúng đắn hơn, vai trò của văn hóa và giáo dục
trong việc nâng cao trình độ ý thức của ngưòi dân là những
đóng góp đang kể làm cho khái niệm Rule of Law có được như
ngày nay.
Việt Nam có thể học kinh nghiệm nào của Anh? Vì trình độ
phát triển, hoàn cảnh lịch sử và xã hội và nhất là truyền
thống pháp luật giữa Anh và Việt hoàn toàn khác biệt, nên
mọi đối chiếu đều không có cơ sở. Tuy nhiên, có thể nêu
lên một vài nhận xét tổng quát để làm tiền đề cho các
công trình nghiên cứu toàn diện hơn sau này.
Hoàng gia trong chế độ quân chủ lập hiến Anh là một định
chế lịch sử, không do bầu cử, mà do thừa kế nhưng sự trị
vì được người dân luôn tôn kính. Xung đột của hoàng gia
với các giai cấp khác thường xảy ra và đều được giải
quyết tốt đẹp bằng luật pháp, bởi vì hoàng gia vẫn luôn
tự đặt mình trong khuôn khổ của luật pháp. Lịch sử của
nước Anh cho thấy luật pháp chưa hề bị bẻ gãy để phục
vụ cho một giai cấp nào, kể cả hoàng gia. Đây là điểm son
của Anh mà Việt Nam cần so sánh với vai trò của Đảng Cộng
Sản Việt Nam hiện nay.
Đảng cũng là một định chế lịch sử vì đã đem lại độc
lập cho dân tộc và đang độc quyền lãnh đạo đất nước
nhưng không do dân chúng bầu cử trực tiếp. Vai trò Đảng đang
và sẽ ở đâu trong hệ thống luật pháp, vấn đề còn tranh
luận mà ở đây không thể đi vào chi tiết. Nhưng Đảng có
nên theo gương hoàng gia Anh hay không, đây là vấn đề cũng
cần thảo luận.
Quốc hội Anh và Việt giống nhau ở điễm cả hai đều có
quyền tối thượng nhưng kỹ năng của các dân biểu và nghị
sĩ Anh làm cho công tác lập pháp hữu hiệu. Họ là luật gia
chuyên nghiệp, làm việc toàn thời gian. Thêm vào đó, cơ quan
truyền thông, đoàn thể áp lực và công luận theo dõi hoạt
động nên quốc hội có màu sắc dân chủ hơn dù là thể chế
quân chủ.
Ngược lại, quốc hội Việt Nam hình thành qua cơ chế Đảng
cử dân bầu nên mang tính hình thức. Hoạt động lập pháp
không hữu hiệu mà nguyên nhân chính là do vấn đề đại biểu
kiêm nhiệm, đây là một đặc thù của Việt Nam cần cải tổ.
Đại biểu có những lý do chính đáng để không hoàn thành
nhiệm vụ của mình: không đủ thì giờ và không đủ năng
lực trưóc các vấn đề quá chuyên môn (luật ngân sách, luật
biển, luật quốc tế, luật WTO v.v.) Họ trở nên thụ động
vì còn phải lo tập huấn nghiêp vụ hoặc chờ văn bản chỉ
đạo của Đảng. Gần đây vấn đề quyền chất vấn của
quốc hội có gây nhiêu tiếng vang tích cực, nhưng đây chỉ là
những bức xúc trước những vấn đề nhạy cảm của đất
nước, tạo ra những phản biện cần thiết trong xã hội, nhưng
không vì thế mà kỷ năng lập pháp sẽ được nâng cao.
Nếu toà án Anh đem lại niềm tin cho người cô thế, thì một
hệ thống toà án độc lập và hữu hiệu tại Việt Nam vẫn
còn là một điều mơ ước, vì bản án bỏ túi trước khi xét
xử là một thông lệ ngay trong những vụ kiện quan trọng. Thí
dụ gần đây cho thấy thời gian nghị án cho tội tuyên truyền
chống lại nhà nước XHCN chỉ mất có 27 phút, trong khi thời
gian tuyên đọc bản án hơn 50 phút. Toà án công nhiên sai phạm
luật thủ tục tố tụng hình sự và điều ngạc nhiên là
không ai phản ứng.
Cơ quan hành pháp Anh gặp khó khăn trong việc thi hành pháp
luật, vì có nhiều sức ép từ nhiều phiá: đảng đối lập,
báo chí, nghiệp đoàn, dân chúng và doanh giới. Họ luôn theo
dõi các hoạt động công quyền và nhạy bén trước những
biến chuyển chính trị, nhất là khi quyền lợi của giới mình
bị đe doạ thay đổi. Mọi nghi ngờ về vi phạm pháp luật
đều được phát hiện nhanh, nên việc từ chức của các bộ
trưởng xảy ra thưòng xuyên.
Ngược lại, hành pháp Việt Nam nhiều thuận lợi hơn vì không
có các khó khăn tương tự, sức mạnh của doanh giới chưa
thành hình mà chỉ có tư bản thân tộc vây quanh; mọi sai phạm
cũng khó phát hiện vì hệ thống bao che hữu hiệu, báo chí
luôn im lặng và dân chúng thì lại quá thờ ơ vì muốn yên
thân. Một thí dụ cho thấy Chủ tịch nước có công văn chỉ
đạo cho ngành tòa án về việc nâng cao chất lượng xét xử
và Thủ tướng yêu cầu luật sư đoàn phải quản lý và giám
sát các hoạt động của luật sư đoàn địa phương. Ở Việt
Nam không ai coi đây là sự vi phạm tam quyền phân lập mà là
sự nhắc nhở trong tinh thần phân công nội bộ do Đảng giao
phó.
Dân chúng Anh hãnh diện về truyền thống lịch sử và văn hóa
của đất nước và đặc biệt là được sống trong tự do, có
niềm tin vào sự an toàn của luật pháp. Việt Nam cũng có
truyền thống anh hùng, hãnh diện về độc lập dân tộc nhưng
ngưòi dân hiện nay không có được hưởng sự an toàn trong hệ
thống giao thông nên chưa thể mơ ước như nguòi dân Anh (right
of free borm Englishman).
Việc hình thành học thuyết, dù bất kỳ ở nước nào, phải
kể đến công lao của học giới. Những công trình nghiên cứu
về nhà nước pháp quyền tại Pháp, Đức hay Anh được hình
thành trong một môi trường học thuật tự do và khai phá. Học
giới là thành phần ưu tú của xã hội, có viễn kiến, dám
đột phá tư duy, có tinh thần độc lập dám đề xuất cũng
như bảo vệ những luận điểm của mình và không lo sợ áp
lực nào. Châu Âu đã tạo nên điều kiện cho học giới phát
huy tài năng và đóng góp những công trình đáng trân trọng.
Học giới Việt Nam, trong hoàn cảnh hiện nay, chưa được
những thuận lợi này. Trong thực tế đã có nỗ lực trong âm
thầm, nhưng họ không thể phát triển kỹ năng như mơ ước vì
thiếu đãi ngộ tương xưng. Thậm chí những buổi tọa đàm
khoa học, một sinh hoạt bình thường trong học giới, còn bị
ngăn trở vì các đề tài nhạy cảm cho chính giới, họ cũng
không có cơ hội phát biểu tại diễn đàn nước ngoài vì
không phải là đảng viên. Có lập luận lại bi quan hơn cho là
Việt Nam đang thiếu trầm trọng những nhà văn hóa và tư
tưởng tầm vóc có khả năng theo kịp bước đi của thời
đại và đóng góp cho công cuộc xây dựng đất nước. Do đó,
luật giới cũng không thoát ra được quy luật này.
Nhưng có lập luận lại lạc quan hơn cho luật giới là Việt
Nam đang có cơ hội tiếp thu những thành tựu khoa học mới
nhờ làm việc với các luật gia nước ngoài qua các chương
trình cải cách luật pháp do các định chế quốc tế tài
trợ, nhưng họ bị áp lực nặng nề về ngân sách, thời gian
và mục tiêu, nên họ có thể làm một số vấn đề thuần túy
chuyên môn trong các lãnh vực về luật kinh tế thị trường,
nhưng không thể giúp được về việc triển khai học thuyêt
NNPQXHCN, một lãnh vực mà chính họ không có kinh nghiệm và nhà
tài trợ cũng không cho phép. Học giới Liên Xô, một bạn
đuờng trong công tác tư tưởng của Việt Nam, cũng đã không
khai triển khái niệm này, nên vì thế Việt Nam cũng không nên
trông đợi gì từ di sản lý thuyết này. Như vậy chỉ còn
lại Việt Nam trong nỗ lực này. Kinh nghiệm Anh cho thây đây là
công việc lâu dài phải do do học giả người Việt đảm
nhận, vì yếu tố văn hóa, lịch sử, ngôn ngữ và phong tục
Việt Nam cũng quan trọng không kém.
Khái niệm về NHPQXHCH chỉ ở vào giai đoạn khởi thảo, nên
không thể nhận xét là nó sẽ hình thành ra sao và sẽ đóng
góp gì cho tương lai của đất nước. Trong điều kiện này,
chúng ta tiếp tục kiên nhẫn chờ đợi và hy vọng rằng những
công trình tầm vóc của học giới nguời Việt sẽ ra đời mà
chúng ta sẽ tự hào có thể so sánh vơi Albert Venn Dicey của Anh,
Raymond Carré de Malberg của Pháp và Robert von Mohl của Đức. Sự
lạc quan này có cơ sở của nó, vì theo một thăm dò dư luận
đầu năm 2011 của cơ quan BVA Pháp và Gallup Poll quốc tế có
trụ sở tại Washington D. C. Việt Nam là dân tộc lạc quan nhất
thế giới. Đây có lẽ là món quà chung cho những ai đang tự
sung sướng với chính mình nhưng lại là một hy vọng mơ hồ
cho những ngưòi còn ưu tư thời cuộc.
Đỗ Kim Thêm
đi theo con đường cải cách và những thành tựu của Perestroika
đã gây nhiều ấn tượng sâu xa và cũng là mô hình cho Việt
Nam tiến hành công cuộc Đổi Mới. Một trong những thay đổi
quan trọng của Perestroika là du nhập khái niệm nhà nước pháp
quyền (Rechtsstaatsbegriff) của Đức. Khái niệm này là
một học thuyết thuộc luật hiến pháp nhằm đề cao tính cách
tối thượng của luật pháp và hiến pháp mà chính nhà nước
cũng phải tuân thủ. Liên Xô đã vận dụng khái niệm này và
dịch thành Pravovoe gosudarstvo nhưng không cải biên.
Vì nhiều lý do khác nhau Việt Nam đã không trực tiếp học
tập kinh nghiệm của Đức, mà lại từ Liên Xô. Việt Nam hiện
nay vẫn kiên định tiếp tục theo đuổi con đường Xã Hội
Chủ Nghĩa (XHCN), mà trên lý thuyết là xây dựng nhà nước
chuyên chính vô sản do giai cấp công nhân lãnh đạo. Để đạt
mục tiêu này Việt Nam sẽ tiếp tục đập tan mọi thế lực
thù địch, bảo vệ thành quả cách mạng và phát huy nền dân
chủ nhân dân nhằm tổ chức, quản lý và phát triển nền kinh
tế thị trường theo định hướng XHCN. Do đó, pháp chế XHCN
vẫn còn là một công cụ để Đảng xây dựng nhà nước
chuyên chính vô sản. Trong chiều hướng vận dụng khái niệm
nhà nước pháp quyền, Việt Nam lại cải biên nó thành nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghiã (NNPQXHCN), điều mà
Đức và Liên xô đều không có trong tư duy của họ. Đáng chú
ý hơn, khi giới thiệu khái niệm NNPQXHCN, Việt Nam đã mượn
thuật ngữ Rule of Law của Anh để diễn đạt, một khái
niệm được hình thành trong một bối cảnh văn hoá, lịch sử
và truyền thống luật pháp khác hẳn với Việt Nam hiện tại.
Tìm hiểu khái niệm Rule of Law và kinh nghiệm của Anh có thể
giúp gì cho Việt Nam trong nỗ lực cải cách luật pháp, đặc
biệt là luật hiến pháp, đó là chủ đề của bài viết này.
2. Thuật ngữ
Khó khăn đầu tiên là việc dịch khái niệm Rule of Law cho chính
xác trong tiếng Việt. Thật ra, các học giả ngoại quốc đều
không chú trọng vấn đề dịch thuật ngữ. Bằng chứng là các
sách giáo khoa Anh và Pháp ngữ đều giữ khái niệm Rechtsstaat
của Đức mà không dịch, cũng như sách của Đức không tìm
khái niệm tương đương cho Rule of Law của Anh hay État legal của
Pháp mà chỉ diễn giải để giúp người đọc nắm bắt vấn
đề. Vì thấm nhuần văn hoá Á Đông, người Việt rất quen
thuộc với khái niệm nhân trị, pháp trị và đức trị trong
xã hội quân chủ, mà lối diễn đạt này lại còn không thích
hợp trong một xã hội dân chủ, vì chữ 'trị' phải được
hiểu hoàn toàn khác biệt trong hoàn cảnh hiện nay. Về nguồn
gốc thì Rule of Law là một học thuyết trong luật học (legal
doctrine), không phải là một quy định pháp luật (legal
rule). Do đó, chúng ta có thể tạm dịch Rule of Law là
tinh thần thượng tôn pháp luật, vì luật pháp phải
được tất cả tôn trọng, dù là Đảng, nhà nuớc hay dân
chúng. Bài viết này, theo kinh nghiệm học giới phương Tây,
đề nghị giữ nguyên khái niệm Rule of Law để thảo luận nội
dung hơn là đi vào chi tiết của vấn đề thuật ngữ.
3. Truyền thống tôn trọng luật pháp
Albert Venn Dicey, nhà luật học Anh là người đầu tiên đã
giới thiệu và triển khai khái niệm Rule of Law trong tác phẩm
Introduction to the Study of the Law of Constitution of 1885. Trong
tác phẩm này ông đã mô tả hệ thống hiến pháp nước Anh và
đề ra những nguyên tắc chung của luật hiến pháp. Cho đến
nay học giới đã xem đây là tác phẩm kinh điển cho việc
nghiên cứu luật hiến pháp nói chung và học thuyết Rule of Law
nói riêng. Nói như thế không có nghĩa là xác định rằng Rule
of Law được hình thành vào thế kỷ XIX mà thật ra nó đã có
một lịch sử lâu đời. Do đó cần phải tìm xem khái niệm
này hình thành từ lúc nào.
Ý kiến thứ nhất của nhiều
học giả đều đồng ý rằng lịch sử về chủ thuyết hiến
định tại Anh (English constitutionalism) là khởi điểm cho
khái niệm Rule of Law. Dù là một khái niệm bất thành văn nhưng
nó đã được thể hiện qua các văn kiện luật pháp làm nền
tảng cho luật hiến pháp tại Anh. Các văn kiện này là Magna
Charta, Petition of Rights, Bill of Rights và
Habeas Corpus mà ở đây không thể đi vào chi tiết.
Nhìn lại lịch sử Anh thời xưa ai cũng công nhận Anh một xã
hội phân chia giai cấp rõ rệt và xung đột giai cấp là chuyện
hiển nhiên mà hoàng gia, quý tộc, tu sĩ và địa chủ là những
tầng lớp có nhiều ưu quyển. Đặc điểm chính này đã có
ngay từ thế kỷ XIII. Dù sống trong thể chế quân chủ các
học giả nhận ra đưọc vai trò của pháp luật làm nền tảng:
tự do và bình đẳng của người dân trước pháp luật và toà
án, tất cả đều bị ràng buộc bởi luật pháp, kể cả nhà
vua. Câu nói của Henry de Bracton là một bằng chứng luôn được
trưng dẫn: "Nhà vua không bị ràng buộc bởi dân chúng, mà
bởi thượng đế và luật pháp, chính vì luật pháp tạo ra nhà
vua". Một ý tuởng khác của William Edward Hearn cũng có
nội dung tương tự. Ông nói: "Gió mưa có thể vào được mái
tranh của người dân nghèo, nhưng không hề vào đuợc thâm cung
của hoàng gia, nhưng bất kỳ ngưòi dân Anh nào, dù thường dân
hay quý tộc vẫn bị ràng buộc bởi pháp luật và bình đẳng
trước toà án". Niềm tin vào luật pháp cũng được Sir Edward
Coke minh chứng. Ông nói: "Luật pháp là một thâm cung kín
đáo nhất và cũng là một phòng thủ mạnh nhất để bảo vệ
nguời cô thế". Đây là những ý niệm chính mà sau này
Ducey triển khai.
Nhưng sự biến đổi xã hội từ thế kỷ XVII đã làm thay
đổi nhiều mối quan hệ trước đây, đặc biệt khi giai cấp
thương nhân ra đời, họ trở nên giàu có và bắt đầu muốn
có thế lực. Những cải cách pháp lý đã giúp cho giới này có
tiếng nói mạnh hơn chống lại địa chủ và các giai cấp
khác, mà quyền tư hữu, quyền chuyển nhượng tài sản, quyền
thừa kế và tự do kết ước là những thành tựu lớn nhất
trong thời kỳ này. Những pháp luật bảo vệ người dân
trước tòa án được hình thành rõ rệt. Người dân Anh dù
bất kỳ thành phần giai cấp nào cũng được luật pháp bảo
vệ. Các sử gia hãnh diện cho rằng nước Anh là một vương
quốc của luật pháp và công bình. Từ đó khái niệm Rule of Law
ra đời trong khuôn khổ của một nền tự do kiểu nước Anh
(the liberty of the English). Sự hãnh diện này có lý do
của nó. Các học giả đã chứng minh rằng từ thế kỷ XVII
nước Anh hầu như không còn có việc tra tấn trong các cuộc
điều tra hình sự và hệ thống tòa án hoàn toàn độc lập
với cơ quan hành pháp. Nguyên tắc phân quyền này đã giới
hạn sự chuyên quyền của cơ quan hành pháp. Đáng kể nhất là
niềm tin của dân chúng vào các hoạt động của tòa án,
người dân Anh tự hào được sinh ra trong môi trường tự do,
mà hai quyền cơ bản lúc bây giờ là tự do lập hội và tự do
báo chí. Còn tự do tôn giáo thực ra chỉ có mức độ giới
hạn.
Đến thế kỷ XVIII thì khái niệm Rule of Law đã phổ biến khi
hệ thống luật pháp của Anh đã đi vào nề nếp, nhất là khi
hệ thống chính quyền dựa vào chủ thuyết hiến định làm cơ
sở nhắm vào việc bảo vệ quyền lợi người dân, một khởi
điểm cho sự phát triển dân chủ theo mô hình của phương Tây.
Những người tranh đấu chống lại bất công giai cấp trong xã
hội, những người bất đồng quan điểm về tôn giáo hay chính
trị đều có quyền sử dụng những quyền tranh đấu của
mình, quyền này được bảo đảm trong khuôn khổ luật hiến
pháp.
Ý kiến thứ hai của các nhiều
học giả cho rằng chính yếu tố văn hoá vào thế kỷ XVIII là
thành tố quan trọng giúp cho khái niệm Rule of Law được phát
triển và ý thức về vai trò luật pháp làm nền tảng cho việc
tổ chức xã hội. Từ đó, luật pháp trở thành một giá trị
có một sức mạnh vô hình đặc biệt, dĩ nhiên nó không phải
là sức mạnh như quân đội, không cần dựa vào huyền thoại
của tôn giáo, không nhờ sự cưỡng chế về kinh tế, mà chính
tinh thần tìm hiểu về công lý và yêu chuộng hoà bình làm căn
bản cho tinh thần thượng tôn pháp luật. Một hãnh diện khác
mà luật giới Anh luôn đề cập khi bàn về Rule of Law là vai
trò của bộ hình luật. Hình luật Anh rất hữu hiệu nên giúp
cho xã hội Anh ổn định mà không cần đến cảnh sát hay quân
đội để lo chuyện trị an. So với các quốc gia khác tại châu
Âu trong cùng thời kỳ, thì bộ hình luật của Anh là một mẫu
mực, đặc biệt là về phần luật thủ tục tố tụng. Thí
dụ như nước Pháp lúc bấy giờ vẫn có chế độ mật chỉ
(lettre de cachet), có nghĩa là bắt người không theo thủ
tục và giam người vô thời hạn mà không cần quy kết một
tội danh nào. Nói như thế không có nghĩa là hình luật tại Anh
rất khoan dung, mà phải hiểu là những tiêu chuẩn quy định
về thủ tục cũng như kết án khá rõ rệt ngăn ngừa được
mọi sự chuyên đoán của cơ quan hành pháp hay những quyết
định quá nghiêm khắc của tòa án. Nó đem đến một niềm tin
cho người dân một cảm tưởng về sự an toàn pháp lý.
Lịch sử cho thấy nước Anh không phải là đất nước luôn có
sự đồng thuận đầy lý tưởng mà sự tranh chấp quyền lợi
theo giai cấp đã gây ra bao xung đột thường xuyên trong xã
hội. Hoàng gia, quốc hội hay địa chủ luôn tìm cách bảo vệ
quyền lợi của giai cấp mình thông qua việc áp dụng luật
pháp. Trong khi nghiên cứu cách giải quyết tranh chấp trong xã
hội các học giả đều cho rằng luật pháp chưa hề bị bẻ
gẫy để phục vụ cho bất kỳ một giai cấp nào trong suốt
thời kỳ từ thế kỷ XVI đến XVIII. Chính luật pháp đã bảo
vệ tài sản của người dân tránh được sự lạm quyền của
hoàng gia và sự kiêu căng của giới quý tộc.
Dĩ nhiên, không phải bất cứ lúc nào luật pháp cũng đem lại
công bình tuyệt đối, nhưng ít nhất sự công bình trong mọi
thủ tục pháp lý cũng đem đến cảm tưởng là người dân
không bị coi là nạn nhân của bạo quyền. Giai cấp thống trị
và đặc quyền đặc lợi trong xã hội thường tìm cách hợp
pháp hoá các quyền lợi của mình và tìm cách ngăn ngừa những
thế lực khác phân chia việc sử dụng những ưu quyền này.
Nhưng luật pháp đem lại một giá trị mới cho mọi ngưòi dân
Anh là họ có thể hãnh diện nói rằng mình có quyền hưởng
tự do từ thuở lọt lòng (right of free borm Englishman).
Edward P. Thompson đã nhắc lại ý niệm này khi cho rằng nhà cầm
quyền, dù muốn hay không, khi tham gia vào trò chơi quyền lực,
cho dù họ cố giữ sao cho luật pháp phù hợp với quyền lợi
của giai cấp của họ, nhưng điều quan trọng là họ không
thể bẻ gẫy luật pháp hay hủy bỏ luật chơi. Sir Edward Coke
cũng diễn đạt tương tự khi ông nói rằng không phải chỉ có
gia cấp thống trị sử dụng luật pháp nhằm ngăn chống mọi
thứ hành sử bạo lực, (thí dụ như giam ngưòi vô cớ, sử
dụng quân đội để trấn áp đám đông, tra tấn và các
phương tiện bất công khác), mà chính luật pháp tự nó, trong
chừng mực nào đó, là phương cách để giải quyết các vấn
đề xung đột giai cấp.
Thực tế cho thấy luật pháp của Anh qua hệ thống common law
được hình thành là do cả một quá trình dài của lịch sử.
Với hệ thống án lệ chặt chẽ và những luận giải phân
minh, khó mà bất cứ ai, nhân danh bất kỳ lý do gì, để có
thể phá huỷ luật pháp một cách dễ dàng. Tranh chấp về
luật đất đai hay luật bảo vệ tài sản là một thí dụ.
Trước đây luật bảo vệ tài sản không quy định chặt chẻ,
định nghĩa không rõ ràng, sau này đã được sửa đổi phù
hợp và đưa vào áp dụng. Các tranh chấp luật pháp đều dựa
trên những luật pháp thành văn do quốc hội thông qua và luật
phong tục được chuẩn nhận. Do đó, mọi tranh chấp luật pháp
trước tòa án đều được thủ tục hoá rất cao độ, dĩ
nhiên phí tổn cho thủ tục toà án trở nên quá đắt và vấn
đề thủ tục hợp pháp trước toà án chính là điều khó khăn
chủ yếu. Tranh tụng về quyền sở hữu đất đai đôi khi lại
trở thành vấn đề tranh chấp thuần về luật thủ tục
trước tòa án.
Ý kiến thứ ba giải thích rằng chính Rule of Law đã đóng một
vai trò quan trọng trong việc hoà nhập các giai cấp trong xã
hội Anh và giúp dân Anh thoát ra các cuộc khủng hoảng sau khi
cách mạng Pháp thành công. Điển hình là sư xung đột xã hội
vào đầu thế kỷ XIX. Bất công xã hội lan rộng, giai cấp
thống trị đã có ý định hủy bỏ khái niệm Rule of Law và
thay đổi hiến pháp nhắm áp đặt một cơ chế cai trị chuyên
quyền bằng bạo lực. Họ đã bắt đầu đi theo chiều hướng
này. Nhưng cuối cùng họ đành phải từ bỏ ý định mà trở
về con đưòng hợp pháp vì thấy rằng không thể làm tiêu tan
uy tín của chính quyền và làm lu mờ hình ảnh chính danh của
luật pháp đã hình thành trong quá khứ. Cải cách về bầu cử
và mở rộng việc thăm dò dư luận vào năm 1832 đã làm cho
thanh danh của pháp luật và uy tín của nhà nước được hồi
sinh. Chính luật cải cách năm 1832 đã đem lại giá trị cho
luật pháp vì đó là một phương tiện nhằm giới hạn mọi
xung đột chính trị và xã hội, và đặc biệt hệ thống tư
pháp được củng cố.
Tóm lại, Rule of Law la một thành tựu về văn hoá và lich sử
trong cả một quá trình dài trên 300 năm mà kết quả là tất
cả moị tranh chấp quyền lợi của mọi tầng lớp hoàng gia,
quý tộc, địa chủ, tá điền, công đoàn và thương giới
đều được giải quyết bằng phương tiện luật pháp. Luật
pháp là một sân chơi bình đẳng mà chính ngưòi cô thế trong
xã hội cũng chấp nhận (fair play in the Rule of Law).
4. Nội dung học thuyết Rule of Law của Dicey
Dù Rule of Law là một khái niệm được hình thành và chấp
nhận trong xã hội Anh qua chiều dài của lịch sử nhưng mãi
đến cuối thế kỷ XIX vẫn chưa có một học giả nào đưa ra
một ý nghĩa chính xác về Rule of Law. Thực tế thì cũng chưa
có ai xác định tầm quan trọng của chủ thuyết hiến định
tại Anh và đặt vấn đề tìm hiểu tại sao hệ thống luật
tại Anh có khả năng duy trì được trật tự công cộng và
quyền tự do cá nhân trong xã hội. Dicey chính là người đầu
tiên làm công việc này trong tác phẩm Introduction to the Study
of the Law of the Constitution of 1885. Đây là một công trình mà
giá trị của nó cho mãi đến nay không nhà nghiên cứu nào có
thể vượt qua và vẫn luôn là một đề tài được học giới
đem ra để thảo luận.
Những luận điểm của Dicey đề ra đã chịu nhiều ảnh
hưởng tư tưởng của John Austin. John Austin cho rằng để nhà
nước được tiếp tục duy trì, nhà nước cần có một cơ quan
tối thượng mà quyền lực khó có thể định nghĩa trước
một cách chính xác và không thể nào giới hạn được. Khái
niệm này được chấp nhận dễ dàng trong công luận, bởi vì
nội dung khái niệm quyền tối thượng này chỉ hầu như lập
lại những nguyên tắc hợp hiến đã có trước đây. Một trong
những thành tựu xuất sắc của Dicey là tổng hợp và diễn
đạt lại những ý tưởng của John Austin và luận cương chính
trị của đảng Tự Do (Whig). Dicey cho rằng chính Rule of Law và
quyền tối thượng của quốc hội làm nguyên tắc nền tảng
của hiến pháp Anh. Tổng hợp hai luận điểm này, Dicey cho là
khái niệm Rule of Law không có khả năng giới hạn quyền lực
của toàn bộ guồng máy nhà nước mà chỉ giới hạn quyền
lực của chính phủ. Lập luận này cho thấy khái niệm Rule of
Law của Dicey rất gần với khái niệm Rechtsstaat của Đức,
cũng được hình thành trong cùng thời kỳ. Rule of Law được coi
như là một mô hình tốt đẹp nhất nhằm bảo vệ người dân
chống lại những hành vi chuyên đoán của nhà nước. Nội dung
của Rule of Law mà Dicey đề ra có thể được tóm lược qua
những nguyên tắc cơ bản như sau:
Nguyên tắc thứ nhất là quyền tối thượng của
quốc hội được ông trình bày trong phần đầu
trong tác phẩm. Quốc hội có thể làm luật hay hủy bỏ luật,
không một cơ quan hay một cá nhân nào có quyền bỏ thẩm
quyền này của quốc hội. Thẩm quyền của quốc hội là
tuyệt đối, vì mọi thay đổi thì chỉ gây hậu quả là làm
cho quyền này trở nên tương đối mà thôi. Chính tòa án cũng
phải tôn trọng nguyên tắc này. Ý tưởng này rất gần gũi
với luận thuyết của John Austin. Trong khi đó, tại các quốc
gia khác ở châu Âu lại có khuynh hướng chia luật ra làm hai
loại: luật hiến pháp làm nền tảng và các loại luật khác.
Ông cho rằng sự phân biệt này chỉ dựa trên tiêu chuẩn hình
thức hoặc thủ tục lập pháp. Luật hiến pháp tại Anh không
hề đi sâu vào việc phân biệt quyền này. Nhưng ông lại phân
biệt quyền tối thượng của quốc hội là thuộc về luật
pháp chứ không liên hệ tới quyền tối thượng về chính
trị, vì quyền chính trị thuộc về lãnh vực bầu cử mà nhà
lập pháp hoàn toàn lệ thuộc vào việc kiểm soát chính trị
qua các cuộc bầu cử.
Nguyên tắc thứ hai là quyền tự do của cá nhân
phải là một quyền hiến định, một quyền mà ông
cho là nội dung chính của khái niệm Rule of Law. Thật ra trước
đây tự do cá nhân cũng đã được quy định trong các văn bản
khác thí dụ như Habeas Corpus Writs. Nhưng trong tác phẩm
này, ông thảo luận khá chi tiết trong phần tự do hội họp,
tư do ngôn luận và xác nhận tính cách tối thượng của Rule
of Law làm nền tảng cho trật tự hiến định của Anh. Theo ông,
quyền tự do cá nhân có ba khía cạnh chủ yếu:
Khía cạnh thứ nhất là tinh cách
hợp pháp của mọi hành vi, nghĩa là không ai có thể bị trừng
phạt nếu không phạm pháp. Việc phạm pháp phải được tòa
án điều tra và kết án theo đúng thủ tục. Nguyên tắc này
nhằm tránh mọi sự lạm quyền và chuyên đoán không dựa trên
cơ sở pháp luật của cơ quan chấp pháp. Chính sự công nhận
chủ thuyết tự do và đưa chủ thuyết này vào làm nội dung
của hiến pháp là một đóng góp quan trọng của ông. Rule of Law
trở thành một nguyên tắc lập pháp, mà ý chính là mọi hành
vi của chính phủ nhằm giới hạn vào quyền tự do cá nhân và
tài sản đều phải dựa trên luật hiến pháp.
Khía cạnh thứ hai đề cao nguyên
tắc bình đẳng trước tòa án. Luật pháp được áp dụng cho
tất cả mọi người không phân biệt thành phần, giai cấp hay
trình độ. Đây là nguyên tắc đồng nhất dành cho mọi chủ
thể pháp luật. Ông chú ý đến vai trò của tòa án trong xét
xử. Khi đề cao Rule of Law như là một đặc điểm của Anh, thì
không phải chỉ có ý là không một ai có quyền đứng trên
luật pháp mà phải hiểu rằng bất kỳ người dân nào, bất
kể là thành phần nào trong xã hội, đều bị ràng buộc bởi
pháp luật và chịu sự xét xử của tòa án trong thẩm quyền
luật định. Thật ra, qua đề xuất này ông đã gián tiếp chỉ
trích về sự lạm quyền của các công chức trong việc áp
dụng luật hành chánh. Chính nguyên tắc bình đẳng trước pháp
luật tạo khả năng loại trừ mọi tham quyền cố vị, không
tôn trọng luật pháp, đặc biệt là những ngoại lệ trong
luật hành chánh. Ông lấy luật hành chánh của Pháp làm thí
dụ. Luật này đã tạo quá nhiều ngoại lệ khiến cho các công
chức dễ lạm quyền, khi có vấn đề thì họ chỉ chịu trách
nhiệm trước toà án hành chánh và thoát ra khỏi được sự
kiểm soát của hệ thống pháp luật chung. Ông cho rằng không
nên cho các công chức quá nhiều ưu quyền được miễn truy
cứu trách nhiệm khi so với người dân khác. Dĩ nhiên, đây là
một đề tài tranh luận về sự khác biệt nội dung luật hành
chánh tại Pháp và Anh. Nhưng với nguyên tắc bình đẳng trước
pháp luật theo khái niệm Rule of Law của Anh thì người dân Anh,
theo ông, sẽ được hưởng nhiều an toàn về mặt pháp lý hơn
người dân Pháp. Ông cho rằng câu nói toà án là cơ quan tối
thượng cho cả nước không thể áp dụng cho trường hợp của
Pháp.
Khía cạnh thứ ba là nguyên tắc
quyền tự do người dân phải được toà án bảo vệ. Sự bảo
vệ này không phải bắt nguồn từ hiến pháp mà còn qua các án
lệ tòa án. Đây là một sư kiện lịch sử, nó biểu hiện
một truyền thống đặc thù về commom law và hiến pháp Anh.
Một câu nói khá quen thuộc và luôn luôn được lập lại để
mô tả đặc tính hiến pháp của Anh: "Hiến pháp không được
làm sẵn mà hình thành do sự phát triển". Ông đả phá quan
điểm cho rằng chính phủ nước Anh là một sự phát sinh đột
biến trong xã hội đầy xung đột mà thật ra là sự phát
triển tiệm tiến qua ý chí và năng lực của con nguời. Pháp
luật là một sản phẩm của ý chí của con người, không
giống như cây cỏ chỉ vun trồng và tự nó lớn lên. Ý ông
muốn nói giá trị của luật hiến pháp không thể phát triển
tự nhiên, mơ hồ và không định hướng mà chính vai trò án
lệ giúp cho tự do của người dân Anh được bảo vệ. Thành
quả này phải kể đến sự góp sức của tòa án. Nếu quan
điểm bảo vệ tự do này được hiến pháp các quốc gia châu
Âu đề ra như một nguyên tắc, thì tại Anh, theo ông, ngược
lại, chính là một phương thức thực hành, một hệ quả của
quyền tự do cá nhân được tòa án minh thị và áp dụng.
Phương cách áp dụng này cho thấy rằng không nên xem hiến pháp
Anh là một sự đột biến đầy sáng tạo mà là kết quả của
một hoạt động bình thường trong toà án thông qua án lệ.
Dicey lạc quan cho rằng các án lệ đều hoàn hảo và hiến pháp
Anh sẽ diễn biến tốt đẹp trong chiều hướng này. Để minh
chứng, ông nêu lên sự khác biệt về nguồn gốc của hiến
pháp Anh và các quốc gia châu Âu. Khác hẳn với châu Âu, toà
án tại Anh đã một thành tố quan trọng trong tiến trình lập
pháp, chính toà án là nơi chuẩn nhận những quyền căn bản
của người dân trong trong hệ thống common law. Dĩ nhiên, quốc
hội và tòa án, với chức năng khác nhau, đều có đóng góp
của riêng mình trong sự phát triển này. Học giới châu Âu
thường chỉ trích điểm yếu của hiến pháp Anh là không thành
văn bản, nên về mặt hình thức thì những quyền tự do cá
nhân không được coi là do hiến pháp quy định. Dicey lập luận
rằng sự chì trích này thiếu cơ sở. Thật ra, sự bảo vệ
quyền căn bản của người dân, dù không minh thị qua một văn
kiện cao nhất là hiện pháp, đã được tổng quát hoá qua
những quyết định của toà án. Sự khác biệt này, theo ông,
chỉ là về mặt nguồn gốc lập pháp và hình thức mà thôi,
nhưng trên thực tế cho thấy thì sự hữu hiệu về bảo vệ
quyền của người dân, dù ở Anh hay ở các nước khác tại
châu Âu, đều giống nhau. Giá trị của những nguyên tắc hiến
định, theo ông, không phải chỉ là những tuyên bố long trọng,
mà là kết quả từ sự thực hành trong toà án. Không có hiến
pháp thành văn không có nghĩa là người dân Anh sẽ gặp khó
khăn hơn trong việc bảo vệ quyền của mình.
Mối quan hệ giữa việc bảo vệ quyền cá nhân và hiến pháp
tại Anh hoàn toàn khác biệt với các quốc gia châu Au, vì tại
Anh, quy định quyền tự do bởi nhiều văn kiện khác nhau, thí
dụ như Habeas Corpus và hệ thống án lệ. Hầu hết hiến pháp
các quốc gia châu Âu chú trọng việc định nghĩa quyền cá
nhân và quan tâm nhu cầu bảo vệ quyền này, trong khi toà án Anh
đề ra một khuôn khổ để áp dụng các quyền này theo hệ
thống hiến định. Hiến pháp các nước trong châu Âu quy định
quyền cá nhân trong hiến pháp, nhưng sự thực ra chỉ là một
sự diễn dịch từ nguyên tắc chung trong hiến pháp, mà khi cần
thiết phải thay đổi hiến pháp thì lại rất khó khăn, vì còn
có vai trò của quốc hội trong việc tu chỉnh. Lịch sử chứng
minh rằng tại Anh quyền tự do cá nhân được đảm bảo tốt
hơn nếu so với các quốc gia châu Âu vì lẽ toà án Anh với
hệ thống án lệ nghiêm minh đã bảo vệ chặt chẽ các quyền
này. Do đó, tất cả vấn đề bảo vệ quyền căn bản hiến
định đều giống nhau. Ở Anh quyền tự do cá nhân đưọc công
luận và học giới cảm nhận là một phần trong luật thông
thường hơn là luật hiến pháp. Dicey xác nhận hiến pháp
được quy định trên nền tảng của Rule of Law và quyền tối
thượng của quốc hội. Do đó, việc tạo thành hay hủy bỏ
luật hiến pháp không phải là kết quả của một thành quả
cách mạng.
5. Những phản biện về học thuyết của Dicey
Học thuyết của Dicey đã gây được tiếng vang trong học
giới, nhưng không có nghĩa là đã được sự đồng thuận, mà
ngược lại, gây ra nhiều tranh luận.
Một trong những người phản bác đầu tiên phải kể đến là
August Friedrick von Hyek. Ông cho rằng không hề có sự phù hợp
giữa hai khái niệm Rule of Law và quyền tối thượng của quốc
hội như Dicey giải thích vì lịch sử của chủ thuyết hiến
định cũng như lịch sử về chủ thuyết tự do là cả một
cuộc đấu tranh chống quyền tối thượng và nhà nước toàn
năng. Do đó, nên đặt ra một giới hạn thẩm quyền của quốc
hội, nếu không, thì quyền hạn và tự do của ngưòi dân dù
thông qua hệ thống common law cũng có thể bị quốc hội hủy
diệt trong một sớm một chiều.
Georffrey De Q. Walker cho rằng quyền tối thượng của quốc hội
cũng không phải là một trong những nguyên tắc chính của hiến
pháp Anh. Dicey đem lại nhiều mơ hồ trong học thuyết hơn là
khai sáng vấn đề vì không thể giảm bớt nội dung của Rule of
Law vào việc luật pháp chỉ là chuyện chấp nhận luật (rule of
recognition). Khi giải thích Rule of Law, Dicey đề cao vai trò của
quốc hội và coi quốc hội như là nguồn gốc tối hậu của
mọi quyền hành và thoát khỏi những cưỡng chế về mặt
luật pháp. Nếu theo chiều hướng giải thích này, mọi luật
lệ khác đều mất đi ít nhiều giá trị. Khi cho rằng mọi
hành vi của quốc hội hầu như luôn luôn được tòa án chuẩn
nhận là đúng, điều này nên nghi ngờ. Dicey không hề cứu xét
đến những hậu quả pháp lý hay những uớc vọng chính đáng
của cá nhân. Theo luận điểm này, Dicey đã đề cao quá mức
quyền tối thượng của quốc hội, đồng thời làm suy yếu
việc bảo vệ quyền cá nhân.
Có học giả khác lại phê bình việc kết hợp hai nguyên tắc
Rule of Law và quyền tối thượng của quốc hội là một sai
lầm vì lẽ không những gây sự tương phản trong áp dụng, gây
tác hại cho toàn bộ mô hình hiến pháp, mà còn làm cho luật
hiến pháp Anh không còn là nền tảng chắc chắn. Ý kiến phản
biện quy vào điểm chủ yếu là việc Dicey chỉ dựa vào luận
thuyết của Austin để triển khai. Một mặt, Dicey cổ vũ cho
quốc hội được quyền tối thượng trong sinh hoạt lập pháp,
mặt khác, Dicey lại muốn đấu tranh cho tự do cá nhân thoát
bỏ mọi chuyên chế theo mô hình của Hobbes. Tác phẩm của Dicey
nên được coi như là một khởi thảo cho một mô hình của
luật hiến pháp và Rule of Law chỉ là một khuôn mẫu chỉ có
giá trị nội tại giá trị được định hình và phát triển
trong hệ thống của common law. Do đó, Rule of Law, tự nó, chỉ
là một khâu hiệu vô nghĩa, và nội dung của nó cũng chỉ là
một trong những đặc điểm của luật hiến pháp.
Ý kiến khác lại cho rằng luận thuyết của Diecey chỉ là một
sản phẩm phản ánh những suy nghĩ trong bối cảnh văn hoá và
chính trị lúc bây giờ. Lý do thứ nhất để giải thích là
vào cuối thế kỷ XIX những xung đột trong hệ thống common law
và luận thuyết Austin đang ở thời kỳ cao điểm, mà Austin
chỉ chú trọng vào những hoạt động lập pháp. Lý do thứ hai
là một phần thuyết này lại bắt nguồn từ luận cương của
Đảng Whig đang thắng cử từ năm 1866 cho đến 1884, hiển nhiên
việc thắng cử làm vai trò của quốc hội được nâng cao. Tác
phẩm của Dicey, xuất phát từ trong bối cảnh đó, đã trở
thành một tiêu chuẩn để giải thích cho mô hình hiến pháp cho
mãi đến sau khi đệ nhị thế chiến.
6. Những biện luận bảo vệ của Dicey
Hiển nhiên, Dicey rất hãnh diện truyền thống luật pháp Anh
trên hai bình diện lý thuyết và lịch sử, điều này có thể
hiểu được khi ông đánh giá về sự phát triển luật hiến
pháp Anh. Để trả lời những phản biện, Dicey cho rằng mối
quan hệ giữa Rule of Law và quyền tối thượng của quốc hội
không phải là mối quan hệ tự động mà chỉ hình thành và
phát triển được ở Anh mà thôi. Ông lấy mô hình hiến pháp
của Pháp để so sánh. Quốc hội Pháp và quốc hội Anh, về cơ
bản thì giống nhau về quyền lực, nhưng khi hành sử thì quốc
hội Pháp đã biểu thị một tinh thần hoàn toàn khác biệt.
Quốc hội Pháp, nói chung, có khuynh hướng can thiệp quá nhiều
vào các vào các hoạt động hành chánh và không tin về sự
độc lập của tư pháp. Mặt khác, quốc hội Pháp cũng nới tay
để cho hành pháp trong việc cai trị. Ngoài ra, còn có sự khác
biệt về thái độ của quốc hội Anh và Pháp trong mối quan
hệ với công chức hành chánh. Công chức Anh mang tinh thần
phục vụ hoàng gia nhiều hơn, cho dù quyền lực của quốc hội
có tăng lên trong thực tế. Tinh thần phục vụ hoàng gia cũng
một phần là do là một truyền thống lịch sử và một phần
vì giới công chức Anh cũng luôn có nghi ngờ đối với quốc
hội. Dù ở cương vị quyền tối thượng, quốc hội Anh không
can thiệp trực tiếp vào việc áp dụng luật pháp và không
chủ trương cho các công chức hành chánh có quá nhiều quyền
bãi miễn truy cứu khi ra toà án. Điều này thì Anh trái hẳn
với Pháp.
Mối quan hệ giữa hoàng gia, quốc hội, chính quyền và tư pháp
tại Anh không luôn luôn tốt đẹp mà là các xung đột và các
thỏa hiệp, mà việc toà án và quốc hội liên minh để chống
lại hoàng gia là một chứng minh. Việc này thường xảy ra, mà
căng thẳng nhất là vào thế kỷ XVII và cao điểm nhất từ
thế kỷ XVIII trở đi, liên hiệp quốc hội và tòa án đã
thắng thế và có nhiều thuận lợi hơn trong việc định hình
cho luật pháp. Dicey cho rằng chính những biến cố này cho thấy
quốc hội có khuynh hướng bảo vệ sự độc lập của toà án,
trong khi đó hoàng gia lại nỗ lực bảo đảm phương tiện cho
hành pháp thi hành nhiệm vụ của họ. Diễn biến của tình
hình này khiến cho quốc hội, dù có vai trò tối thượng, nhưng
chỉ có thể hành sử được quyền này khi liên minh được
với tòa án. Mối quan hệ này trở thành lịch sử và định
hình cho khái niệm của Rule of Law như ông đã đề cập.
Một điểm khác gây tranh luận là sự so sánh giữa Rule of Law
và nguyên tắc hợp pháp. Dicey trả lời rằng Rule of Law không
thể bảo đảm tuyệt đối các quyền cơ bản của ngưòi dân
mà chỉ tìm cách nhằm chống lại sự lạm quyền của chính
quyền. Khi so sánh các quốc gia châu Âu trong thế kỷ XVII, Dicey
cho rằng nhìn chung các nước không hề có đàn áp một cách
thô bạo, nhưng thực tế cho thấy không có nước nào có thể
bảo vệ người dân một cách hoàn hảo trước bạo quyền.
Nhưng ở nước Anh thì việc cai trị không xuất phát từ sự
thành tâm cố hữu của chính quyền mà là từ nguyên tắc hợp
pháp của luật pháp. Rule of Law không trực tiếp đem lại một
định nghĩa chính xác nào cho quyền tự do của người dân mà
chỉ nhằm giới hạn vào mục tiêu bảo đảm về những an toàn
của luật pháp và những tiên đoán về hành vi của chính
quyền. Tự do được bảo đảm trong khuôn khổ của Rule of Law
chỉ là một loại tự do còn sót lại trong hệ thống: tự do
làm những gì mà luật pháp không cấm. Rule of Law không dựa vào
các tuyên bố long trọng nhằm bảo vệ quyền cơ bản cho
người dân mà căn cứ vào nguyên tắc hợp pháp. Trong khi quốc
hội có thể hủy bỏ các quyền cơ bản của người dân
được quy định trong hiến pháp khi cần, thì chính Rule of Law
với nguyên tắc hợp pháp sẽ chống lại sự lạm quyền của
hành pháp, cho dù Rule of Law không thể bảo đảm tự do tuyệt
đối cho người dân trong việc hành xử các tự do của họ.
Theo ông, đấy chính là một nguyên tắc mà mọi can thiệp vào
đời sống, tự do và tài sản phải được cho phép bởi luật
pháp.
Dicey cho rằng quốc hội làm luật chỉ là việc để đưa ra
các ý chí chung của nhà lập pháp, nhưng khi giải quyết vấn
đề tranh chấp thì chủ yếu phải là việc nâng cao vai trò
của tư pháp. Việc hiến pháp có nên giới hạn quyền của
quốc hội hay không, ông không coi đó là điều quá quan trọng,
mà theo ông, mỗi khi luật được ban hành đều phải được cơ
quan hành chánh áp dụng đúng đắn và được cơ quan tư pháp
theo dõi. Những nguyên tắc cơ bản của hiến pháp Anh không
chỉ là quyền tối thượng của quốc hội mà chính là làm sao
mà khi luật ban hành được toà án áp dụng theo đúng như quy
định. Rule of Law và quyền tối thượng của quốc hội không
có khả năng loại trừ nhau mà có ảnh hưởng cộng sinh.Trong
tinh thần này, pháp luật sẽ được duy trì và phát triển.
Dicey còn đề cao vai trò của tòa án trong việc điển chế hoá
hệ thống án lệ, chính toà án là một thành lũy bảo vệ tự
do cá nhân. Toà án không thể hủy diệt luật của quốc hội,
mà trong thực tế toà sẽ áp dụng nghiêm nhặt hay thông thoáng
hơn khi cần thiết. Chính tòa án là nơi bảo vệ quyền căn
bản của người dân được hữu hiệu nhất. Đó là ý chính
của Dicey để minh chứng rằng hai nguyên tăc quyền tối
thượng của quốc hội và vai trò tòa án bổ sung cho nhau trong
việc bảo vệ người dân.
Sự thành công của Dicey trong tác phẩm này là một sư tổng
hợp giữa hai khuynh hướng về hệ thống common law và truyền
thống của chủ nghĩa tự do, làm hồi sinh lại huyền thoại
về common law, những giá trị luật pháp cổ truyền khác và các
căn bản giá trị của chủ thuyết tự do. Trong khuôn khổ giải
thích này, Dicey khẳng định rằng sự vi phạm những quyền
hiến định có thể xảy tại nước Anh, nhưng không thể xáo
trộn đến mức độ đưa tới một cuộc cách mạng triệt để
làm thay đổi toàn bộ hệ thống luật pháp.
Dicey đã lấy việc áp dụng luật Habeas Corpus luận giải vấn
đề này. Luật Habeas Corpus được ban hành lần đầu tiên vào
thời của Charles II, nhằm bảo vệ những ngưòi bị bắt giam
vô cớ. Luật này đưọc tu chỉnh dưới thời George III và nới
rộng hơn việc bảo vệ liên quan đến thủ tục tố tụng hình
sự. Tòa án có quyền yêu cầu cơ quan chấp pháp làm rõ việc
giam người và làm nhanh thủ tục xét xử. Dicey cho rằng việc
áp dụng luật Hebeas Corpus của toà án đã tăng giá trị cho
luật hiến pháp hơn là quốc hội. Nhưng thực tế cho thấy
đây là điều không dễ dàng. Trong thời kỳ hỗn loạn chánh
trị, việc bắt người nghi ngờ phạm pháp của cơ quan chấp
pháp tăng nhanh. Việc sốt sắng này gây cho toà án nhiều ngờ
vực nên đã áp dụng luật chặt chẽ hơn. Tranh chấp đã xảy
ra đến mức quốc hội phải can thiệp bằng cách ra luật đình
chỉ việc thi hành luật Habeas Corpus để giúp cho chính quyền
làm tốt hơn việc trị an, nhất là liên hệ tới các vụ việc
vi phạm an ninh, phản quốc ở mức trầm trọng. Vấn đề là
tìm cách giải thích thế nào là tính cách khẩn cấp và gây
nguy hại cho an ninh quốc gia, trong chừng mực nào thì quyền an
toàn của người dân phải được bảo vệ. Đây cũng là một
đề tài tranh luận quen thuộc trong học giới mà ở bất cứ
nuớc nào cũng có. Việc đình chỉ thi hành luật không được
phép hiểu là hợp pháp hoá mọi hành vi bắt người trái phép,
nhưng giới hạn việc can thiệp của toà án trong thời kỳ
biến động và đem lại niềm tin cho các cơ quan chấp pháp trong
khi thi hành công vụ, nhưng lại cho thấy đây chính là sự
biểu hiện quyền tối thượng của quốc hội.
Theo Dicey, quốc hội có quyền theo dõi các hoạt động của tòa
án, nếu không, thì quyền tối thượng của quốc hội sẽ
không còn ý nghĩa. Khi quốc hội ra các đạo luật đình chỉ
thi hành luật Habeas Corp thì cũng phải theo đúng thủ tục pháp
định. Việc đình chỉ không phải là những bảo vệ hiến
định về quyền công dân trong các thủ tục về tố tục hình
sự hoàn toàn vô giá trị, mà thực tế toà án vẫn tiếp tục
bảo vệ an toàn cho ngưòi dân trong các thủ tục xét xử và
chỉ làm giảm đi những hậu quả về mặt bảo vệ nhất thời
trong tình hình an ninh nguy kịch. Dicey cho rằng tòa án không thể
áp dụng luật quá cứng nhắc mà không chú trọng đến khía
cạnh an nguy của đất nước và xem đây là những ngoại lệ.
Dicey kết luận rằng quyền tối thượng của quốc hội và
khái niệm Rule of Law bổ sung cho nhau. Quyền tối thượng giúp
cho Rule of Law định hình và phát triển và ngược lại chính
Rule of Law đòi hỏi quốc hội cũng phải theo đúng nguyên tắc
hợp pháp. Điểm chủ yếu mà ông luôn theo đuổi là đã phá
vai trò của toà án hành chánh và các quyền bãi miễn truy cứu
cho công chức. Theo ông, đây là một một mối nguy cơ trong hệ
thống pháp luật, nằm ngoài phạm vi bảo đảm của common law
cũng như ý chí của nhà lập pháp.
7. So sánh giữa hai khái niệm Rule of Law và Rechtsstaat
Khái niệm Rechtsstaat là một kết quả mà các học giả Đức
đã tiếp thu từ các học thuyết của Locke, Rousseau và
Montesquieu rồi vận dụng vào hoàn cảnh của Đức sau thời kỳ
khai sáng. Quan tâm chủ yếu của học giới Đức vào cuối thế
kỷ XVIII là cho dù ý chí của nhà lập pháp trong việc bảo vệ
quyền tự do của người dân có mạnh đến đâu, thì nó cũng
không đủ để việc áp dụng được hữu hiệu hơn. Một lý do
khác là một trật tự nhằm bảo đảm tự do không thể chỉ
dựa trên quyền tối thượng của quốc hội, chính vì lẽ
quốc hội có khả năng và ý chí hủy diệt quyền này khi
cần.Từ giữa thế kỷ XIX các học giả Đức như Lorenz von
Stein và Otto Bähr đã tổng hợp các khái niệm của Hobbes và
Montesqiueu để định hình cho vai trò của nhà nước mà quan
trọng nhất là họ đã vận dụng thành công nguyên tắc tam
quyền phân lập. Thành quả này làm cho các vai trò bộ máy nhà
nước được xác minh.
Từ cuối thế kỷ XIX khái niệm Rechtsstaat thể hiện rõ hơn
trước vì nguyên tắc hợp pháp không những áp dụng cho cơ quan
tư pháp trong việc xét xử, mà còn cho các cơ quan hành chánh.
Về sau, Rodolf von Jhreing với học thuyết nhà nước tự giới
hạn và Georg Jellinik với học thuyết về tố quyền của
người dân như là một chủ thể pháp luật đã bổ sung làm cho
giá trị Rechtsstaat được gia tăng. Dĩ nhiên, ý thức tôn trọng
luật pháp của dân chúng và những yếu tố văn hoá và lịch
sử đã làm thuyết này được áp dụng thành công.
Về cơ bản, Rule of Law không quá cách biệt với Rechtsstaat trong
việc xác định quyền của tự do cùa người dân là một
quyền hiến định. Trong một nhà nước hiện đại thì các
khái niệm luật pháp đều mang tính phổ quát, hình thức, hợp
lý và hợp pháp trong sư kết hợp với chủ thuyết tự do cá
nhân được quy định trong hiến pháp. Nhưng làm sao dung hoà
được sự bảo vệ quyền tự do với quyền lực của nhà
nước và vai trò quốc hội, đó là ở điểm khác biệt.
Việc áp dụng Rule of Law có phần khác với Rechtsstaat. Dicey
không công nhận luận thuyết của Montesqiueu về tam quyền phân
lập và sự tùy thuộc của quốc hội vào hiến pháp là phù
hợp với Anh, nhưng theo ông, Rule of Law phải dựa vào nguyên
tắc hợp pháp và có trách nhiệm theo dõi sự lạm quyền của
hành pháp. Đây là điểm tương đồng của cả hai. Nhưng điểm
dị biệt là Rule of Law và quyền tối thượng quốc hội bổ
sung cho nhau trong việc bảo vệ tự do và Rule of Law được hữu
hiệu hay không nhờ vai trò toà án. Đó là sự khác biệt giữa
Dicey, Montesquieu và Rousseau. Theo Dicey, luận thuyết của
Montesquieu và Rousseau không thuyết phục vì quan điểm về một
nền tư pháp độc lập là một điều trái ngược truyền
thống Anh. Ông không tin vào vai trò trung dung của toà án mà toà
án chỉ là một phương cách thực hành ý chí của nhà lập
pháp.
Kinh nghiệm cho thấy việc áp dụng luật pháp không thể coi là
máy móc, nhưng nhờ có một hệ thông án lệ hoàn chỉnh của
common law giúp cho việc bảo vệ ngưòi dân được tốt hơn.
Nguyên tắc của Rule of Law chỉ là một khởi đầu trong tiến
trình dài để phát huy dân chủ. Nhưng đâu là sự chính thống
của luật pháp? Sự chính thống này không phải là hiển nhiên
mà có, cũng không phải vì quốc hội Anh có tính chất dân chủ
mà có. Theo Dicey, vấn đề tùy thuộc vào mức độ áp dụng
luật pháp tại toà án. Chính tòa án xét nguyên tắc hợp pháp
của luật pháp, lúc đó mới xác định được là luật pháp
có dân chủ và chính thống hay không. Đặc điểm này chỉ có
được trong truyền thống của common law.
Rechtsstaat mang tham vọng sâu xa hơn khi đề cao tố quyền của
người dân trong trường hợp chính quyền vi phạm vào các
quyền tự do cơ bản và chú trọng về luật nội dung hơn là
luật thủ tục. Sau chiến tranh kết thúc, nhiều học giả Đức
lại càng lý tưởng hoá vấn đề hơn, khi có ý định mở
rộng phạm vi áp dụng tố quyền của người dân trong các vấn
đề an sinh xã hội.
8. Kinh nghiệm cho Việt Nam?
Không ai có thể phủ nhận công lao của Dicey khi đem lại một
nội dung cho Rule of Law, mặc dù công trình không hoàn hảo, vì
thiếu luận cứ triết học vững chắc và không phân biệt rõ
giữa lý thuyết về hiến pháp và những khía cạnh thuộc về
định chế. Dicey lập luận rằng toà án phải áp dụng nguyên
tắc hiến định khi xét xử, nhưng ông không chú tâm đúng mức
tới vấn đề giới hạn quyền lực của chính phủ và quốc
hội. Thật ra, ông đã có ý đề cao hệ thống pháp luật của
Anh khi so sánh với các quốc gia dân chủ phương Tây khác cùng
thời kỳ. Tuy nhiên, để đánh giá sự thành tựu khái niệm
Rule of Law đúng đắn hơn, vai trò của văn hóa và giáo dục
trong việc nâng cao trình độ ý thức của ngưòi dân là những
đóng góp đang kể làm cho khái niệm Rule of Law có được như
ngày nay.
Việt Nam có thể học kinh nghiệm nào của Anh? Vì trình độ
phát triển, hoàn cảnh lịch sử và xã hội và nhất là truyền
thống pháp luật giữa Anh và Việt hoàn toàn khác biệt, nên
mọi đối chiếu đều không có cơ sở. Tuy nhiên, có thể nêu
lên một vài nhận xét tổng quát để làm tiền đề cho các
công trình nghiên cứu toàn diện hơn sau này.
Hoàng gia trong chế độ quân chủ lập hiến Anh là một định
chế lịch sử, không do bầu cử, mà do thừa kế nhưng sự trị
vì được người dân luôn tôn kính. Xung đột của hoàng gia
với các giai cấp khác thường xảy ra và đều được giải
quyết tốt đẹp bằng luật pháp, bởi vì hoàng gia vẫn luôn
tự đặt mình trong khuôn khổ của luật pháp. Lịch sử của
nước Anh cho thấy luật pháp chưa hề bị bẻ gãy để phục
vụ cho một giai cấp nào, kể cả hoàng gia. Đây là điểm son
của Anh mà Việt Nam cần so sánh với vai trò của Đảng Cộng
Sản Việt Nam hiện nay.
Đảng cũng là một định chế lịch sử vì đã đem lại độc
lập cho dân tộc và đang độc quyền lãnh đạo đất nước
nhưng không do dân chúng bầu cử trực tiếp. Vai trò Đảng đang
và sẽ ở đâu trong hệ thống luật pháp, vấn đề còn tranh
luận mà ở đây không thể đi vào chi tiết. Nhưng Đảng có
nên theo gương hoàng gia Anh hay không, đây là vấn đề cũng
cần thảo luận.
Quốc hội Anh và Việt giống nhau ở điễm cả hai đều có
quyền tối thượng nhưng kỹ năng của các dân biểu và nghị
sĩ Anh làm cho công tác lập pháp hữu hiệu. Họ là luật gia
chuyên nghiệp, làm việc toàn thời gian. Thêm vào đó, cơ quan
truyền thông, đoàn thể áp lực và công luận theo dõi hoạt
động nên quốc hội có màu sắc dân chủ hơn dù là thể chế
quân chủ.
Ngược lại, quốc hội Việt Nam hình thành qua cơ chế Đảng
cử dân bầu nên mang tính hình thức. Hoạt động lập pháp
không hữu hiệu mà nguyên nhân chính là do vấn đề đại biểu
kiêm nhiệm, đây là một đặc thù của Việt Nam cần cải tổ.
Đại biểu có những lý do chính đáng để không hoàn thành
nhiệm vụ của mình: không đủ thì giờ và không đủ năng
lực trưóc các vấn đề quá chuyên môn (luật ngân sách, luật
biển, luật quốc tế, luật WTO v.v.) Họ trở nên thụ động
vì còn phải lo tập huấn nghiêp vụ hoặc chờ văn bản chỉ
đạo của Đảng. Gần đây vấn đề quyền chất vấn của
quốc hội có gây nhiêu tiếng vang tích cực, nhưng đây chỉ là
những bức xúc trước những vấn đề nhạy cảm của đất
nước, tạo ra những phản biện cần thiết trong xã hội, nhưng
không vì thế mà kỷ năng lập pháp sẽ được nâng cao.
Nếu toà án Anh đem lại niềm tin cho người cô thế, thì một
hệ thống toà án độc lập và hữu hiệu tại Việt Nam vẫn
còn là một điều mơ ước, vì bản án bỏ túi trước khi xét
xử là một thông lệ ngay trong những vụ kiện quan trọng. Thí
dụ gần đây cho thấy thời gian nghị án cho tội tuyên truyền
chống lại nhà nước XHCN chỉ mất có 27 phút, trong khi thời
gian tuyên đọc bản án hơn 50 phút. Toà án công nhiên sai phạm
luật thủ tục tố tụng hình sự và điều ngạc nhiên là
không ai phản ứng.
Cơ quan hành pháp Anh gặp khó khăn trong việc thi hành pháp
luật, vì có nhiều sức ép từ nhiều phiá: đảng đối lập,
báo chí, nghiệp đoàn, dân chúng và doanh giới. Họ luôn theo
dõi các hoạt động công quyền và nhạy bén trước những
biến chuyển chính trị, nhất là khi quyền lợi của giới mình
bị đe doạ thay đổi. Mọi nghi ngờ về vi phạm pháp luật
đều được phát hiện nhanh, nên việc từ chức của các bộ
trưởng xảy ra thưòng xuyên.
Ngược lại, hành pháp Việt Nam nhiều thuận lợi hơn vì không
có các khó khăn tương tự, sức mạnh của doanh giới chưa
thành hình mà chỉ có tư bản thân tộc vây quanh; mọi sai phạm
cũng khó phát hiện vì hệ thống bao che hữu hiệu, báo chí
luôn im lặng và dân chúng thì lại quá thờ ơ vì muốn yên
thân. Một thí dụ cho thấy Chủ tịch nước có công văn chỉ
đạo cho ngành tòa án về việc nâng cao chất lượng xét xử
và Thủ tướng yêu cầu luật sư đoàn phải quản lý và giám
sát các hoạt động của luật sư đoàn địa phương. Ở Việt
Nam không ai coi đây là sự vi phạm tam quyền phân lập mà là
sự nhắc nhở trong tinh thần phân công nội bộ do Đảng giao
phó.
Dân chúng Anh hãnh diện về truyền thống lịch sử và văn hóa
của đất nước và đặc biệt là được sống trong tự do, có
niềm tin vào sự an toàn của luật pháp. Việt Nam cũng có
truyền thống anh hùng, hãnh diện về độc lập dân tộc nhưng
ngưòi dân hiện nay không có được hưởng sự an toàn trong hệ
thống giao thông nên chưa thể mơ ước như nguòi dân Anh (right
of free borm Englishman).
Việc hình thành học thuyết, dù bất kỳ ở nước nào, phải
kể đến công lao của học giới. Những công trình nghiên cứu
về nhà nước pháp quyền tại Pháp, Đức hay Anh được hình
thành trong một môi trường học thuật tự do và khai phá. Học
giới là thành phần ưu tú của xã hội, có viễn kiến, dám
đột phá tư duy, có tinh thần độc lập dám đề xuất cũng
như bảo vệ những luận điểm của mình và không lo sợ áp
lực nào. Châu Âu đã tạo nên điều kiện cho học giới phát
huy tài năng và đóng góp những công trình đáng trân trọng.
Học giới Việt Nam, trong hoàn cảnh hiện nay, chưa được
những thuận lợi này. Trong thực tế đã có nỗ lực trong âm
thầm, nhưng họ không thể phát triển kỹ năng như mơ ước vì
thiếu đãi ngộ tương xưng. Thậm chí những buổi tọa đàm
khoa học, một sinh hoạt bình thường trong học giới, còn bị
ngăn trở vì các đề tài nhạy cảm cho chính giới, họ cũng
không có cơ hội phát biểu tại diễn đàn nước ngoài vì
không phải là đảng viên. Có lập luận lại bi quan hơn cho là
Việt Nam đang thiếu trầm trọng những nhà văn hóa và tư
tưởng tầm vóc có khả năng theo kịp bước đi của thời
đại và đóng góp cho công cuộc xây dựng đất nước. Do đó,
luật giới cũng không thoát ra được quy luật này.
Nhưng có lập luận lại lạc quan hơn cho luật giới là Việt
Nam đang có cơ hội tiếp thu những thành tựu khoa học mới
nhờ làm việc với các luật gia nước ngoài qua các chương
trình cải cách luật pháp do các định chế quốc tế tài
trợ, nhưng họ bị áp lực nặng nề về ngân sách, thời gian
và mục tiêu, nên họ có thể làm một số vấn đề thuần túy
chuyên môn trong các lãnh vực về luật kinh tế thị trường,
nhưng không thể giúp được về việc triển khai học thuyêt
NNPQXHCN, một lãnh vực mà chính họ không có kinh nghiệm và nhà
tài trợ cũng không cho phép. Học giới Liên Xô, một bạn
đuờng trong công tác tư tưởng của Việt Nam, cũng đã không
khai triển khái niệm này, nên vì thế Việt Nam cũng không nên
trông đợi gì từ di sản lý thuyết này. Như vậy chỉ còn
lại Việt Nam trong nỗ lực này. Kinh nghiệm Anh cho thây đây là
công việc lâu dài phải do do học giả người Việt đảm
nhận, vì yếu tố văn hóa, lịch sử, ngôn ngữ và phong tục
Việt Nam cũng quan trọng không kém.
Khái niệm về NHPQXHCH chỉ ở vào giai đoạn khởi thảo, nên
không thể nhận xét là nó sẽ hình thành ra sao và sẽ đóng
góp gì cho tương lai của đất nước. Trong điều kiện này,
chúng ta tiếp tục kiên nhẫn chờ đợi và hy vọng rằng những
công trình tầm vóc của học giới nguời Việt sẽ ra đời mà
chúng ta sẽ tự hào có thể so sánh vơi Albert Venn Dicey của Anh,
Raymond Carré de Malberg của Pháp và Robert von Mohl của Đức. Sự
lạc quan này có cơ sở của nó, vì theo một thăm dò dư luận
đầu năm 2011 của cơ quan BVA Pháp và Gallup Poll quốc tế có
trụ sở tại Washington D. C. Việt Nam là dân tộc lạc quan nhất
thế giới. Đây có lẽ là món quà chung cho những ai đang tự
sung sướng với chính mình nhưng lại là một hy vọng mơ hồ
cho những ngưòi còn ưu tư thời cuộc.
Đỗ Kim Thêm
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)