Tết là những ngày mừng theo thời tiết, theo sự luân chuyển vận hành của trời đất, theo năm tháng, theo nắng mưa… và mừng Mặt Trời, Mặt Trăng là các thiên thể ảnh hưởng trực tiếp, mạnh mẽ đến cuộc sống con người của chúng ta. Trước thềm Năm Mới, Thần Báo xin kính chúc Quý Vị, Quý Bạn Một Năm an khang và thịnh vượng.
Chúc Mừng Năm Mới, Thần Báo khởi đầu với bài viết mới, hành trang mới với hy vọng được độc giả hỗ trợ, cũng như sự khởi đầu một tuần hoàn mới, của thời tiết, của vạn vật… của con người, và trong đó, con người là chính.
Chúc Mừng Năm Mới, ngày mừng sinh nhật chung của mọi người. Mọi người mừng cho nhau thêm một tuổi, thêm sống, thêm nhân đức… thêm kinh nghiệm, thêm hưởng Ơn Trời, thêm hạnh phúc, và được kính trọng thêm… Thần Báo, xin nâng ly chúc mừng.
Tết là những ngày đặc biệt đoàn tụ với Ông Bà Tổ Tiên cùng thân bằng quyến thuộc, người đang sống cũng như đã khuất và con cháu chưa sinh ra (quang tiền dư hậu)… để mỗi người được sống trọn vẹn chính mình, và tận hưởng hạnh phúc làm người. Bởi thế, niềm vui trọn vẹn của người Dân Việt trong Tết, là bộc lộ qua những điều kiêng cữ, nhằm tránh những bận rộn, rắc rối, phiền toái hay buồn lòng.
1. Lễ Tết Dân Tộc
Ở mọi thời và mọi nơi, dân tộc nào cũng có Lễ Tết bộc lộ thuần nhiên tâm hồn con người. Bộc lộ này lại được văn hóa Việt đưa vào đúng vị trí quan trọng và thích đáng nhất trong cuộc sống Dân Việt.
Theo niềm tin của Dân Việt, chúng ta có bốn cái tết, và Tết đầu năm là một Đại Lễ Dân Tộc. Sở dĩ được gọi là đại lễ, vì đó là những ngày đặc biệt để chúng ta thờ kính Tổ Tiên của mỗi người, các vị Tổ của dòng tộc, của dân tộc, các vị Thần Linh trực tiếp làm ơn ích cho con người, và Ông Trời, Đấng Nguồn Sống của toàn thể vũ trụ.
Mặt khác, Niềm Tin Việt, ngừng lại ở dấu hiệu hiển linh, chớ Ông Bà Tổ Tiên không bàn tán, không đi sâu vào cuộc sống hay bản tính của các đối tượng thuộc thế giới siêu linh, như các tôn giáo.
Thờ kính Tổ Tiên là một niềm tin nền tảng, sâu xa và vững chắc nhất của Dân Tộc Việt Nam chúng ta. Dầu còn sống hay đã khuất, Ông Bà Tổ Tiên luôn là những vị chẳng những đã trực tiếp cho chúng ta diễm phúc làm người, mà còn luôn luôn yêu thương, che chở, phù trợ và chia sẻ cuộc sống với từng người, trong chúng ta.
Việc thờ kính Tổ Tiên còn nhắc nhở cho người đang sống phải luôn luôn ý thức về những ơn ích mà mình đang được thừa hưởng, và đồng thời, thúc đẩy người ấy phát huy sự nghiệp ân đức của dòng họ mình, của dân tộc mình. Do đó, Tết là ngày đoàn tụ gia đình, chẳng những giữa người đang sống, mà còn đoàn tụ với Tổ Tiên, hiện diện cách linh thiêng và hướng về con cháu chưa sinh ra. Đạo Sống Việt thật là tuyệt vời, và là một đòn chí tử cho chế độ Cộng sản hiện nay.
Đại lễ kính Tổ Tiên lại còn tăng thêm ý nghĩa và tầm quan trọng của cuộc lễ, khi được kết chung với Tết, Ngày Đầu Xuân. Bởi thế, phong tục của Dân Việt đã dành suốt hai tuần lễ, từ 23 tháng chạp tới mùng 7 tháng giêng, để vừa kính nhớ Tổ Tiên, vừa đoàn tụ gia đình, mà cũng vừa ăn mừng Năm Mới, ăn mừng một Tuổi Mới của từng người, và để mở đầu cho một cuộc sống mới… một thể chế dân chủ tự do cho Dân Việt.
2. Ý Nghĩa Lễ Tết
Từ nghìn xưa, Dân Tộc Việt đã đặt Lễ Tết một địa vị chính yếu trong Nếp Sống Việt. Sinh hoạt xã hội Việt cũng tính theo Lễ Tết. Đại chúng Việt cũng lấy Lễ Tết làm mốc thời gian sắp xếp cho mọi công việc dự liệu trong năm.
Lễ Tết chẳng những là sinh hoạt đoàn tụ cho gia đình, cho làng xã, cho đất nước, mà còn là dịp tổ chức long trọng, và mang ý nghĩa nhất trong đời sống con người. Ngày Lễ Tết là những dịp họp mặt, ăn uống, vui chơi… mà còn để thực hiện một số công tác nhằm nâng cao đời sống Xã Hội Việt.
Bởi đó Lễ Tết thắt chặt thêm tình đồng bào, gắn bó với nhau, giúp nhau cảm thông, hoặc cùng nhau giải quyết những khó khăn trong cuộc sống chung việc làng, việc nước, nhằm tạo cho đời sống cộng đồng thêm hạnh phúc, an vui.
Trong Lễ Tết, mọi người cùng nhau ôn lại công đức, gương sáng của Tổ Tiên. Lễ Tết là dịp nhắc nhở, sống thực những nguyên tắc nền tảng của cuộc sống, và những điểm chính yếu của Nếp Sống Việt. Lễ Tết giúp mỗi người chúng ta nhận định và điều chỉnh cuộc sống, để sống trọn vẹn cuộc sống Làm Người.
Lễ Tết cũng là dịp chúng ta giúp nhau tỏa rộng cuộc sống. Trong Lễ Tết, chúng ta lãnh nhận từ quá khứ, sống cho hiện tại, và lưu lại hậu thế mai sau. Chúng ta cũng thừa hưởng công đức của Tổ Tiên, và đóng góp thêm phần tài trí của mình, nhằm trao lại cho con cháu, chẳng những sản nghiệp, gương sáng, lời dạy dỗ, mà còn phúc đức, sự phù trợ, và nếp sống hạnh phúc toàn vẹn.
Lễ Tết là phương thức trực tiếp nung đúc tinh thần, củng cố niềm tin, sống thực Hồn Việt. Lễ Tết còn là dịp giúp chúng ta tạo thêm công phúc cho chính mình, cho dòng tộc, cho mọi người.
Lễ Tết Dân Tộc là một phần trọng yếu trong cuộc sống của Con Người và Xã Hội Loài Người.
Bởi thế bất cứ loại giặc nào… nội xâm/ ngoại xâm, Cộng sản/ Tư bản… đều đã tìm và đã làm đủ cách để Dân Tộc Việt Nam phải lãnh đạm, mà từ bỏ Lễ Tết Dân Tộc. Việc ngăn cấm Lễ Tết, chẳng những giặc đã thực hiện bằng luật pháp, bằng phương tiện truyền thông, mà còn bằng giáo dục qua sinh hoạt xã hội đặt nền tảng trên thú vật/ máy móc, trên quyền lực/ tôn thờ lãnh tụ (chớ không Tổ Tiên), trên vật chất/ vô thức, vô tình, vô thần.
3. Đối Tượng Lễ Tết
a. Văn hóa Việt nhận diện Con Người qua cuộc sống và Lễ Tết Dân Tộc, tập trung quanh cuộc sống Con Người. Như thế, đối tượng niềm tin dân tộc là tự giới hạn nơi cuộc sống con người.
Trong cuộc sống thường ngày, niền tin Dân Việt bộc lộ qua đạo sống Làm Việc Phúc Đức, với tiêu chuẩn thẩm định giá trị cuộc sống con người là dung độ đức hưởng, tức là tầm độ đem hạnh phúc đến cho người khác.
Trong văn hóa Việt, giá trị cuộc sống của con người không được quy định bằng quyền lực, bằng chức tước, bằng giàu sang uy thế… cũng không bằng tài năng, nghề nghiệp, dòng họ, khoa bảng bằng cấp, hay giai cấp như tập đoàn giặc Cộng rêu rao… hay bất cứ gì ngoài con người, mà trên việc con người thể hiện chính mình một cách trọn vẹn.
Điểm quan trọng nhất là Chính Sách Quyền Chức của ta đã không có Nhóm Đặc Quyền. Từ thời Vua Hùng và qua suốt dòng Lịch Sử Việt, Vua Quan ta đã không dựa vào quyền chức mà chiếm hữu tài sản, như tập đoàn Cộng Sản hiện nay.
Đối với Vua Quan Việt, chức tước không mang lại đặc quyền vật chất. Dù cho quyền chức có cao trọng tột bậc tới đâu chăng nữa, thì cũng không được chia đất phong tước truyền đời.
Tất cả các vị Hoàng Đế đương triều của Dân Việt cũng không có tài sản riêng. Tất cả là của dân nước, đều được điều hành theo quy chế tài sản quốc gia. Vua Quan ta chỉ được quyền xử dụng để làm phương tiện mà chu toàn nhiệm vụ.
Chính Sách Việt đã thể hiện việc tạo hạnh phúc làm người, vừa cho chính mình, vừa cho những người khác, trong cuộc sống cá nhân cũng như xã hội, quê hương dân nước.
Giá trị cuộc sống của một Con Người, chính là ảnh hưởng hạnh phúc của người đó đối với những người xung quanh. Trong cuộc sống, ai càng làm cho nhiều người cùng hưởng hạnh phúc làm người với chính mình, qua chính mình, thì người đó càng được quý trọng hơn. Hồ Chí Minh, người tiền thân của Đảng Cộng Sản VN phạm sai lầm ở điểm này.
Xã hội được biểu trưng bằng Một Bọc Trăm Con, nên cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng là một cái bọc chứa những người anh em khác.
Và tùy theo sức chứa, tức là tùy theo tầm độ hữu ích mà người ấy thể hiện được chính mình, và đáng quý, đáng trọng.
Bất cứ ai, cũng có thể được tôn quý tùy theo sức chứa những người khác trong ảnh hưởng phúc đức của mình, tức tùy thuộc Dung Độ Đức Hưởng.
b. Niềm tin phổ quát và sâu xa nhất của người Dân Việt là niềm tin vào Ông Trời, Đấng Tạo Hóa, Đấng Sáng Tạo vũ trụ, mà cũng là Đấng trực tiếp liên hệ với cuộc sống của Con Người. Bởi đó Thần Báo cảm nhận rằng, Nếp Sống Việt bộc lộ niềm tin này như một hiển nhiên.
Cũng trong niềm tin nền tảng của văn hóa Việt, là niềm tin vào sự trường cửu của Hồn Thiêng con người, đặc biệt vào sự vĩnh tồn linh thiêng, và độ trì gần gũi của Tổ Tiên. Linh thiêng và cao cả hơn hết, là Hai Vị Khởi Tổ (Tộc Tổ: Mẹ Tiên Cha Rồng) vì luôn luôn độ trì cho Tộc Việt, Con Cháu Dân Tộc, Con Cháu Việt.
Niềm tin này, đặc biệt tôn quý những Vị đã có cuộc sống cống hiến và giúp ích cho nhiều người. Tuy với tầm độ khác nhau, nhiều Vị đã được thờ làm Thành Hoàng, được nhiều người thờ kính, và tỏ hiển linh qua việc phù trợ cho dân chúng.
Cùng với Thành Hoàng, và cũng được quan niệm như Thành Hoàng, là một số Thiên Thần hiển linh tại Núi Thiêng Sông Linh.
Tổ Tiên ta cũng phân biệt rõ ràng Vị Thần đang hiển linh và chính cái núi, cái sông, cái biển… Cũng như những giống dân tộc khác, Tộc Việt lấy Mặt Trời làm tâm điểm cho mọi diễn biến của cuộc sống. Thần Báo thiết nghĩ đây cũng là chuyện bình thường.
Nhưng văn hóa Việt không hề có dấu vết phụng tự Trái Đất, hoặc Mặt Trời như những vị thần trong bao văn hóa khác. Bởi vì quý, trọng, mừng… thì khác với phụng tự; không đúng sao?
Có khuynh hướng trong Thiên Chúa giáo cho rằng, niềm tin Việt như trên là tin vơ thờ quấy. Thần Báo xin thưa, trong bộ Tân Ước hay sách Khải Huyền (Apoc.) đã xác quyết là những thành phố có những Thiên Thần đặc trách… Sách Phúc Âm cũng nhấn mạnh là mỗi người có một Thiên Thần Giữ Mình, Thiên Thần Bản Mệnh và có lễ hàng năm vào ngày 2 tháng 10.
Và ngày nay, nhiều thánh đường và giáo xứ khắp nơi trên thế giới đều có Thiên Thần hoặc Thánh (tức là Nhân Thần) làm Quan Thày, Thành Hoàng mà thôi. Niềm tin Việt đã làm cho các nhà truyền giáo phải kinh ngạc, sửng sốt và vui mừng. Vì căn bản của Thiên Chúa giáo, tức là tôn giáo thờ Ông Trời, Chúa (Chủ) Trời, Đức Chúa Trời.
Bởi thế, Thần Báo đề nghị dùng câu, Hồn Thiêng Dân Tộc và Thần Linh Sông Núi. Hồn Dân Tộc là Hồn Thiêng của Ông Bà Tổ Tiên. Các Ngài đã qua đi, nhưng Hồn Thiêng các Ngài vẫn vĩnh tồn ở Thế Giới Bên Kia và có thể phù trợ cho con cháu. Và Hồn Nước là tinh thần dân tộc, là truyền thống dân tộc, hướng dẫn mọi người trong nước hành động hữu hiệu cho lợi ích chung của toàn dân.
4. Diễn Đạt Lễ Tết
a. Văn hóa Việt là kết tinh của nhận diện Cuộc Sống Con Người qua bộc lộ hiện thực trong cuộc sống.
Do đó cách diễn tả sự liên lạc giữa con người với mọi hiện hữu, kể cả với Thế Giới Siêu Linh, Thế Giới Bên Kia, cũng đều căn cứ và khuôn rập theo cách bộc lộ của cuộc sống hiện tại. Người đang sống cứ theo cách tốt đẹp nhất của dương gian này mà kính nhớ Vị Khuất Mặt, Vị Khuất Núi… Dương sao âm vậy!
Niềm tin được bộc lộ qua sinh hoạt thường ngày của người Dân Việt, qua việc mừng Lễ Tết, và đặc biệt qua Nghi Thức Lễ Tế.
Trong ngôn ngữ Việt, chữ thờ và chữ kính được dùng lẫn lộn nhau, và có cùng một nghĩa. Ca dao Việt Nam: “Tu đâu cho bằng tu nhà, Thờ cha kính mẹ cũng là đi tu.” Hay “Một lòng thờ mẹ kính cha”…
Tuy nhiên, ý nghĩa và tầm độ của việc thờ kính lại thay đổi tùy theo đối tượng. Không ai lẫn lộn các tầm độ cao quý, tâm thành và thiết yếu, giữa thờ Trời và thờ Tổ Tiên, thờ cha mẹ… Và không người Việt nào lại coi Tổ Tiên là Đấng Tạo Hóa toàn năng; ngoại trừ tập đoàn Vi xi kiêu ngạo: “Đảng ta thay Trời làm mưa.” Hoặc “Đỉnh cao trí tuệ của loài người”…
b. Như Thần Báo thưa chuyện, thì nền tảng của Lễ Tết là lòng thành, tức là lòng tin tưởng, ngưỡng mộ, và sùng bái của Con Người; bằng không thì là Vô Lễ như Cộng sản!
Nghi Thức Lễ Tế cũng là phương tiện diễn đạt và tăng triển lòng thành. Vì vậy các dạng thức diễn tả bên ngoài của nghi thức cũng là phần thiết yếu để bộc lộ niềm tin.
Nghi thức đã đi vào cuộc sống hằng ngày. Dân Việt chúng ta thường bày tỏ lòng kính quý, yêu mến, úy phục bằng cách cúi đầu, cất nón… và dùng những từ ngữ thanh tao, hay những kiêng cữ đặc biệt.
5. Mùng 5 Tết: Ngày Đại Lễ Kính Trời
a. Thờ Trời, Đấng Sáng Tạo vũ trụ, là niềm tin nền tảng của Dân Việt. Qua mọi thời đại, văn hóa Việt đã lấy Trời, mệnh Trời, ý Trời… làm nguồn gốc, làm mẫu mực cho mọi sinh hoạt con người. Cuộc sống mỗi người, mỗi nhà, mỗi làng, và nước đều lấy Ơn Trời làm gốc.
Sân trước mỗi nhà đều có Bàn Ông Thiên, để thờ Trời. Trong nước, hàng năm đều có cử hành Lễ Tế Trời rất trọng thể, do Vua tế tại thủ đô và Quan tế tại các tỉnh.
Lễ Tế Trời được tổ chức đặc biệt quan trọng vào ngày mùng 5 Tết, để mọi người cùng nhau cử hành một Đại Lễ của Dân Tộc, đúng truyền thống Tổ Tiên, đúng phẩm giá và trọn vẹn Con Người.
b. Vấn đề hiện nay của người Dân Việt chúng ta, chẳng những là loại bỏ những gán ghép thừa thãi… mà cần diễn giải ý nghĩa và giá trị đích thực của Lễ Tết Dân Tộc theo ngôn từ và cách diễn đạt hiện thời.
Cần nhiều sáng kiến thích đáng, và xử dụng những tuyệt kỹ của các bộ môn nghệ thuật, kỹ thuật, và phương tiện truyền thông, để luôn biến đổi dạng thức trình bày sao cho thích hợp, chẳng những với từng lứa tuổi, với từng hạng người, mà còn với cảm nhận, và hoàn cảnh sinh hoạt thời đại.
Trong nếp sống thời trước, ngày Hội thường có các cuộc thi và trò vui như: thi đồ xôi, nấu cơm, làm bánh, dọn tiệc, dệt vải, may quần áo… đốt pháo, rước đuốc, bơi thuyền, sáo diều, treo đèn, kéo chữ… làm thơ, hát chèo, hát đúm, hát quan họ, hát trống quân… ca múa, múa xòe, múa rối… đánh vật, đánh phất, đánh côn, leo giây, lao cầu, leo phao, đu tiên… chọi gà, chọi trâu, chém gà, chém lợn, đánh cá, bắt trạch, thả chim… đánh cờ, đánh bạc, xóc đĩa, tổ tôm, bài chòi…
Ngày nay, chúng ta lại cần nhiều sáng tạo đặc biệt hấp dẫn, ứng hợp với cuộc sống tràn ngập kỹ thuật tốc độ, điện tử, truyền thông… Chúng ta cần luôn sống động hiện thực, vì khi nào trở thành chiếu lệ, lập lại khuôn thức cũ… là thiếu sức sống, lỗi thời và lạc hậu như Vi xi đang làm.
Kết Luận
Hành trang mới, có như thế, Lễ Tết mới trở thành một hệ thống giáo dục hữu hiệu, giúp cho toàn thể mọi người học hỏi và sống thực với tâm hồn, phát triển tâm tuệ, đem tinh hoa văn hóa dân tộc vào cuộc sống thường ngày của từng cá nhân, cũng như của toàn dân và của mọi người. Chúc Mừng Năm Mới.
Phạm Văn Bản
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét